Thực trạng & Giải pháp trong hoạt động đầu tư tại Công ty TNHH xây dựng công trình Hoàng Hà

Lời Nói đầu Hệ thống cơ sở hạ tầng có tác động to lớn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước bởi vì đó là nền tảng, là tiền đề khi thực hiện bất cứ một hoạt động đầu tư nào đông thời cơ sở hạ tầng phát triển sẽ góp phần vào thu hút đầu tư nước ngoài... Vì vậy ngành Xây dựng có vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước và trong nhiệm vụ đóng góp sức lực thì phải huy động sự tham gia của toàn xã hội bao gồm cả doanh nghiệp của Nhà nước và doanh ngh

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp trong hoạt động đầu tư tại Công ty TNHH xây dựng công trình Hoàng Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp ngoài quốc doanh. Công ty TNHH Xây dựng công trình Hoàng Hà là Công ty chuyên thi công xây dựng các công trình như nhà chung cư, trạm cấp nước, đường điện, trường học phục vụ nhu cầu cho sinh hoạt và sản xuất .... Từ khi thành lập đến nay Công ty đã đạt được những thành tựu nhất định, từng bước Công ty đã tự khẳng định mình và chiếm được lòng tin trong ngành xây dựng nhưng bên cạnh đó Công ty cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn cả do bên ngoài và ngay trong nội bộ Công ty. Để tiến hành sản xuất kinh doanh Công ty phải thực hiện đầu tư tạo ra năng lực sản xuất nhưng việc đầu tư và phân bổ vốn đầu tư cho các nguồn lực như thế nào cho phù hợp để đồng vốn đầu tư và công sức bỏ ra phát huy vai trò của nó một cách hiệu quả nhất là một bài toán khó cần có sự nỗ lực của toàn Công ty, có sự so sánh và học hỏi từ các đơn vị khác tuy nhiên hoạt động đầu tư tại Công ty còn nhiều bất cập. Vì vậy qua thời gian thực tập tại Công ty tôi đã chọn đề tài cho chuyên đề thực tập của tôi là: “Hoạt động đầu tư tại Công ty TNHH xây dựng công trình Hoàng Hà, thực trạng và giải pháp” Đề tài được chia làm ba phần: - Chương I: Những lý luận chung - Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư tại Công ty TNHH xây dựng công trình Hoàng Hà - Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Công ty Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo GVC Phạm Thị Thêu và Công ty TNHH xây dựng công trình Hoàng Hà đã giúp đỡ tôi rất nhiều để tôi hoàn thành chuyên đề thực tập của mình. Do trình độ và thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên chuyên đề của tôi khó tránh khỏi sai sót rất mong thầy cô và Công ty đóng góp và sửa chữa để chuyên đề này hoàn thiện hơn. CHương I: Những lý luận chung I. Đầu tư và đầu tư phát triển 1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển - Đầu tư được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau nhưng đầu tư theo nghĩa chung nhất và đơn giản nhất đó là việc bỏ vốn hay chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động đầu tư nào đó nhằm đạt được những kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong tương lai. - Vốn và các nguồn lực cho hoạt động đầu tư là tài lực (tiền), vật lực (tài nguyên thiên nhiên, sức lao động...), trí lực (trí tuệ, quyền sở hữu...). Các nguồn lực này được chủ đầu tư sử dụng phối kết hợp để tạo ra tài sản mới hoặc nâng cấp chất lượng của tài sản hiện có. - Trong phạm vi quốc gia, xuất phát từ bản chất của đầu tư (tính sinh lời, thời gian kéo dài, rủi ro cao) và những lợi ích do đầu tư mang lại, đầu tư được chia làm ba loại: + Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. + Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và giá khi bán. + Đầu tư phát triển: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ta tài sản mới cho nến kinh tế quốc dân, tăng năng lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động đời sống xã hội cũng được đảm bảo và nâng cao, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao mức sống cho mọi thành viên trong xã hội. Trong ba loại đầu tư trên chỉ có đầu tư phát triển là quan trọng nhất, tạo ra tài sản mới cho nến kinh tế còn đầu tư tài chính và đầu tư thương mại không tạo ra tài sản mới tuy nhiên ba loại đầu tư hỗ trợ cho nhau trong một chu kỳ phát triển. Đầu tư tài chính tạo tiền đề cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư còn đầu tư thương mại thúc đẩy quá trình lưu thông nhanh hơn, tăng vòng quay của vốn... Mục đích cuối cùng của mọi hoạt động đầu tư, mị hình thức đầu tư là thu được những kết quả nhất định lớn hơn so với nguồn lực đã bỏ ra. Kết quả này được biểu hiện: với chủ đầu tư là lợi nhuận, với nền kinh tế đó là sự thoả mãn nhu cầu cho sinh hoạt và sản xuất, đóng góp cho Ngân sách Nhà nước, giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện và nâng cao mức sống cho nhân dân. 2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư - Tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho một công cuộc đàu tư thường là rất lớn do vậy cần phải có sự tích luỹ lâu dài, tranh thủ mọi nguồn lực, hạn chế thấp nhất thời gian rỗi của vốn, huy động tư nhiều nhuồn qua các tổ chức tín dụng, các đối tác cung cấp vật tư thiết bị... để nắm bắt cơ hội và đáp ứng nhu cầu đầu tư của chủ đầu tư. - Thời gian kể tư khi bắt đầu tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của công cuộc đầu tư phát huy tác dụng đem lại lợi ích kinh tế xã hội thường kéo dài. - Thời gian vân hành và giá trị sử dụng khai thác các kết quả đầu tư cũng thường kéo dài và nhiều khi là vĩnh viễn. Thời gian cần thiết để thu hồi vốn là tương đối dài bời vì một lượng vốn bỏ ra không phải chỉ trong một thời gian ngắn là có thể thu hồi mà cần phải có thời gian vận hành khai thác dài. - Thời gian thực hiện đầu tư dài, vốn lớn, lao động nhiêu, thời gian vận hành các kết quả đầu tư dài với nhiều biến động do thiên nhiên cũng có thể do chủ quan từ phía con người như sự thay đổi của chính sách... gây trở ngại cho công cuộc đầu tư do đó gặp nhiều rủi ro và rủi ro cao. Vì vậy cần có biện pháp hữu hiệu nhằm quản lý để hạn chế thấp nhất rủi ro, với đặc điểm này thì trong hoạt động đầu tư nhà đầu tư phải có lòng dũng cảm chấp nhận rủi ro. - Các thành quả của hoạt động đầu tư nếu là các công trình xây dựng, vật kiến trúc như nhà máy, hầm mở, các công trình thuỷ lợi hay đường xá... thì sẽ vận động ngay tại nơi nó được tạo dựng nên các điều kiện về địa lý địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như quá trình khai thác kết quả đầu tư sau này. 3. Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển Đầu tư có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mọi quốc gia cũng như của bất kỳ một cơ sở sản xuất kinh doanh nào, kể cả nước phát triển và nước đang phát triển, đặc biệt đối với các nước nghèo thì đầu tư là nhân tố chính, là biện pháp hữu hiệu để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn về sự nghèo đói, là chìa khoá cho sự tăng trưởng của mỗi quốc gia. Đối với các doanh nghiệp đầu tư tạo ra tài sản mới nhằm nâng cao năng lực, duy trì sự tồn tại và thúc đẩy sự phát triển. 3. 1. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân - Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu Trước hết về mặt cầu, khi nhu cầu đầu tư tăng thì cầu các yếu tố đầu vào như vật liệu xây dựng, nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất tăng (tăng cầu chỉ trong ngắn hạn) làm cho giá các yếu tố đầu vào tăng. Khi các yếu tố đầu vào phát huy tác dụng, quá trình thực hiện dự án hoàn thành chuyển sang giai đoạn vận hnah thì cầu yếu tố đầu vào giảm do đó giá nguyên vật liệu đầu vào giảm. Về mặt cung khi các yếu tố đầu vào phát huy tác dụng, năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung (trong dài hạn) tăng làm tăng sản phẩm trên thị trường do đó giá sản phẩm trên thị trường giảm. Sản lượng tăng, giá giảm cho phép tăng tiêu dùng, tăng tiêu dùng đến lượt mình tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển chính là nguồn gốc để tích luỹ phát triển kinh tế xã hội. - Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nề kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù tăng hay giảm đầu cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nề kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của các hàng hoá có liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, vật tư, lao động) đến một mức nào đó sẽ dẫn đến tình trạng lạm phạt. Đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác tăng đầu tư làm cho cầu các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. - Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế Trong lịch sử các học thuyết kinh tế, đầu tư và tích luỹ vốn cho đầu tư ngày càng được xem là một nhân tố quan trọng cho sản xuất, cho việc tăng năng lực sản xuất và cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế và cho sự tăng trưởng. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỉ lệ đầu tư phải đạt từ 15-25% so với GDP tuỳ thuộc vào chỉ số ICOR của mỗi nước ICOR = Vốn đầu tư/ Mức tăng GDP Mức tăng GDP = Vốn đầu tư/ ICOR Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Thực tế nhiều nước đầu tư đóng vai trò như một cái hích ban đầu tạo đà cho sự cất cánh nền kinh tế. - Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để tăng trưởng nhanh (9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở các khu vực công nhgiệp và dịch vụ. Đối với ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt tốc độ tăng trưởng 5-6% là rất lhó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác phát triển. - Đầu tư tác động đến tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng khoa học công nghệ của nước ta hiện nay, trong giai đoạn khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão. Có hai con đường để có công nghệ là tự nghiên cứu phát mình ta công nghệ và nghập công nghệ từ nước ngoài. Dù bằng các này hay cách khác thì đều cần phải có tiền, phải có vốn đầu tư, mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là không khả thi. Đầu tư và tăng cường khả năng công nghệ có tác động lẫn nhau. Đầu tư là sự phối hợo các nguồn lực để sự phối hợp đó thực sự có hiệu quả đòi hỏi phải có sự tác động của khoa học công nghệ. Sự gia tăng khoa học công nghệ vào quá trình đầu tư sẽ làm tăng năng suất, giảm chi phí, giảm giá thành và chất lượng sản phẩm được nâng cao, nhu cầu cơ bản được giải quyết, nhu càu mới phát sinh điều này làm cho cơ cấu nhu cầu thay đổi thúc đẩy đầu tư để đáp ứng nhu cầu đó. 3. 2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở vì để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ta đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc thiết bị trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất, kỹ thuật vừa tạo ra như chi phí cho yếu tố đầu vào (nguyên vật liệu, lao động...) của quá trình sản xuất kinh doanh. Sau một thời gian hoạt động, cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này bị hao mòn, hư hỏng. Để duy trì sự hoạt động bình thường cần tiến hành định kỳ sửa chữa hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật, như mua sắm máy móc trang thiết bị để đảm bảo đáp ứng yêu cầu sản xuất của doanh nghiệp. Để mở rộng quy mô sản xuất thì phải xây dựng thêm nhà xưởng, mua sắm thêm máy móc thiết bị và làm được điều này chỉ có hoạt động đầu tư chuyển tiền thành hiện vật. Như vậy đầu tư tạo ra sự phát triển của các cơ sở sản xuất kinh doanh, sự phát triển của các ngành. Sự phát triển này dẫn đến sự phát triển toàn diện nền kinh tế. Do vậy có thể nói đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. 4 Đầu tư xây dựng cơ bản 4.1 Khái niệm đầu tư xây dựng cơ bản. Đầu tư xây dựng cơ bản là những hoạt động đầu tư có chức năng tạo ra tài sản cố định cho các ngành của nền kinh tế thông qua việc tiến hành xây dựng mới, mở rộng hoặc khôi phục các tài sản cố định hiện có. Thực chất của quá trình xây dựng cơ bản là quá trình hoạt động chuyển vốn đầu tư tiền tệ thành tài sản phục vụ mục đích đầu tư. Kết quả của việc đầu tư xây dựng cơ bản(khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt) là tạo ra tài sản cố định có một năng lực sản xuất phục vụ nhất định. Cũng có thể nói XDCB là một quá trình đổi mới và tái sản xuất có kế hoạch các TSCĐ của nền kinh tế quốc dân trong ngành sản xuất vật chất cũng như không sản xuất vật chất. Nó là quá trình sây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện xây dựng mới, xây dựng lại, khôi phục và mở rộng TSCĐ. TSCĐ có hai loại đó là TSCĐ có tính chất sản xuất và TSCĐ không có tính chất sản xuất *TSCĐ có tính chất sản xuất là những tài sản trực tiếp tạo ra lợi nhuận như nhà xưởng, vật kiến trúc, phương tiện, thiết bị dùng cho sản xuất, xây lắp. * TSCĐ không có tính chất sản xuất như: văn phòng, quản lý hành chính, sinh hoạt y tế, những tài sản này không trực tiếp tạo ta lợi nhuận cho nền kinh tế. 4.2. Vai trò của đầu tư XDCB Hoạt động đầu tư XDCB có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo ta những tiền đề cơ bản của bất cứ một hoạt động đầu tư phục vụ mục tiêu phát triển đất nước: - Là ngành duy nhất tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu cần thiết trong nền kinh tế, hình thành công trình xây dựng, dự án xây dựng góp phần tạo tài sản mới cho nền kinh tế. - Tạo ta hệ thống cơ sở hạ tầng, làm tiền đề cho các hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước, làm tiền đề cơ bản để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Góp phần tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành, các vùng địa phương trong cả nước, đồng thời tạo ra tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân khi dự án hoàn thành đi vào sử dụng. - Làm thay đổi bộ mặt của địa phương, đất nước, là nhân tố quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư cà trong và ngoài nước... II. Đầu tư trong dn và nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp 1. Khái niệm đầu tư trong doanh nghiệp Đầu tư trong doanh nghiệp là bộ phận cơ bản của đầu tư, là hoạt động chỉ dùng vốn và các nguồn lực khác trong hiện tại nhằm làm tăng thêm những tài sản cố định của doanh nghiệp, tăng thêm công ăn viêc làm, nâng cao đời sống thành viên trong đơn vị. 2. Nội dung đầu tư trong doanh nghiệp Đối với bất kỳ một đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh nào, dù hoạt động ở các ngành nghề, các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế với những đặc thù kinh tế kỹ thuật khác nhau cũng đều phải tiến hành các hoạng động đầu tư để duy trì sự tồn tại và phát triển của cơ sở mình. Nội dung đầu tư bao gồm: 2.1. Đầu tư vào mấy móc thiết bị, dây chuyên công nghệ, cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị là tiền đề để thực hiện một hoạt động sản xuất kinh doanh vì vậy đầu tư vào việc tái tạo tài sản cố định đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động đầu tư, nó quyết định đối với phần lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được. Các doanh nghiệp thường tăng cường thêm tài sản cố định khi họ thấy trước được những cơ hội có lợi để mở rộng sản xuất hoặc họ có thể giảm bớt chi phí bằng cách chuyển sang những phương pháp sản xuất dùng nhiều vốn hơn. - Trước hết là xem xét đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nhà xưởng: đây là hoạt động đươc thực hiện đầu tiên của mỗi công cuộc đầu tư (trừ đầu tư chiều sâu). Xây dựng trụ sở làm nơi giao dịch của Công ty. Xây dựng nhà xưởng để để lắp đặt dây chuyền công nghệ, tạo điều kiện đảm bảo cho dây chuyền thiết bị sản xuất, công nghệ hoạt động được thuận lợi và an toàn, đồng thời là nơi để bảo quản, bảo dưỡng và sửa chữa máy móc thiết bị .Do đó để thực hiện tốt đầu tư này phải xem xét thuận lợi, khó khăn của vị trí địa lý, địa chất... đồng thời phải phù hợp với ngành nghề kinh doanh, đặc tính kỹ thuật của máy móc thiết bị, tổ chức sản xuất điều hành, nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu, số lượng công nhân. Từ đó cân nhắc và quyết định về diện tích xây dựng, đặc điểm kiến trúc, kích thước tối ưu nhất phù hợp với nguồn lực tài chính của đơn vị. - Cùng với đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các doanh nghiệp cũng phải chú ý đầu tư máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ và các tài sản cố định khác. Đây là bộ phận chiếm tỷ trọng vốn lớn trong vốn đầu tư của doanh nghiệp đặc biệt đối với doanh nghiệp chuyên thi công xây lắp. Trong điều kiện hiện nay khoa học kỹ thuật công nghệ phát triển mạnh mẽ và có nhiều tầng công nghệ thì việc đầu tư máy móc thiết bị có ý nghĩa vô cùng quan trọng, doanh nghiệp có nhiều cơ hội để lựa chọn công nghệ, máy móc thiết bị phù hợp. Việc đầu tư cho máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ phải sản xuất ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao, khai thác và sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh của doanh nghiệp của vùng như lao động, nguyên vật liệu... nhưng giá cả và trình độ công nghệ phải phù hợp xu thế phát triển và năng lực của doanh nghiệp. Máy móc thiết bị thường được liệt kê, sắp xếp thành các nhóm như : máy móc thiết bị chính trực tiếp sản xuất, thiết bị phụ trợ, thiết bị vận chuyển bốc xếp, máy móc thiết bị đo lường, kiểm tra chất lượng, máy móc thiết bị cho khối văn phòng... để thuận tiện cho việc quản lý sử dụng và bảo dưỡng sửa chữa. Trong qui trình hoạt động: máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ lạc hậu doanh nghiệp phải tiến hành đầu tư đổi mới... có vai trò quan trọng quyết định sự phát triển của doanh nghiệp. Đây là hình thức đầu tư nhưng đi sâu vào mặt chất của đầu tư. Mục tiêu của đổi mới công nghệ là tạo ra các yếu tố mới của công nghệ nhằm nâng cao chất lương sản phẩm, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh. Đầu tư đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp được thực hiện theo cách như cải tiến, hiện đại hoá công nghệ truyền thống hiện có, tự nghiên cứu, phát triển ứng dựng công nghệ mới, nhập công nghệ từ nước ngoài thông quá mua sắm chuyển giao công nghệ. Vốn đầu tư cho máy móc thiết bị nếu rất lớn, do vậy khi mua sắm đòi hỏi phải có sự am hiểu nhất định để có thể mua được thiết bị đáp ứng yêu cầu, với giá hợp lý. 2.1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực - Ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, vậy vai trò của con người trong quá trình hoạt động sản xuất còn quan trong không? Đó là câu hỏi được đạt ra và cần có câu trả lời. Như chúng ta đã biết con người không chỉ là người sáng tạo ra công nghệ, máy móc thiết bị mà còn là người điều khiển chúng để chúng phát huy tác dụng. Nếu chúng ta có nhà xưởng, có máy móc thiết bị có nguyên vật liệu nhưng thiếu bàn tay con người thì những các nguồn lực đó không được phối hợp, không phát huy tác dụng và cũng không thể có sản phẩm cung cấp cho xã hội. Như vậy nguồn nhân lực là tài sản quý giá của doanh nghiệp, là bộ phận quyết định sự vận hành qui trình sản xuất kinh doanh. Trong quá trình phát triển, mỗi doanh nghiệp phải phát huy hiệu quả của nguồn nhân lực của mình đồng thời ngày càng nâng cao số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực đó là một nội dụng của đầu tư của doanh nghiệp. - Trong công tác lao động doanh nghiệp bao gồm; tuyển dụng, đào tạo và sử dụng lao động, các doạt động này có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Công tác tuyển dụng mà tỉ mỷ kỹ lưỡng sẽ lựa chọn được người lao động phù hợp với yêu cầu công việc từ đó hiệu quả sử dụng nâng cao... Trong các doạt động thì công tác đào tạo (đào tạo lại, đào tạo nâng cao tay nghề...) là nội dung quan trọng nhất của đầu tư nguồn nhân lực. Về đối tuợng đào tạo doanh nghiệp có thể đào tạo cho ba đối tượng là: lực lượng cán bộ quản lý, đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học công nghệ và đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân. Về phương thức đào tạo doanh nghiệp có thể lựa chọn hai hình thức là đào tạo bên ngoài thông qua việc kết hợp với các trường đại học, trường dạy nghề, do các tổ chức chuyên về đào tạo đảm nhiệm hay tổ chức các khoá đào tạo nội bộ. Trong công tác sử dụng lao động đòi hỏi phải có cán bộ lãnh đạo quản lý nắm bắt sâu, sát năng lực của nhân viên để có thể phân công nhiệm vụ cho phù hợp, tạo môi trường thuận lợi giúp họ phát huy tốt khả năng của mình góp phần vào sự phát triển của doanh nghiệp. Lực lượng cán bộ lãnh đạo trong doanh nghiệp không đông về số lượng nhưng lại có tính quyết định đối với sự thành bại của doanh nghiệp bởi vì quản lý lao động là một công việc không phải bất cứ ai cũng làm được, quản lý vừa là một nghề vừa là một nghệ thuật do đó nếu như người lãnh đạo, quản lý không học tập không nâng cao nhận thức trình độ và không có chính sách mềm dẻo trong quản lý thì khó có thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường, hiểu được tâm lý người lao động từ đó tác động đúng hướng để đạt được hiệu quả quản lý cao nhất. Trình độ tri thức và tay nghề của người lao động có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp vì những người có trình độ tri thức, có tay nghề cao, kỹ năng thành tạo, lao động lành nghề sẽ sử dụng tốt các loại thiết bị công nghệ có trình độ cao, phức tạp, tiếp thu áp dụng tốt các thiết bị công nghệ tiên tiến, họ sẽ nhanh chóng tiếp thu được kinh nghiệm của lớp người đi trước đồng thời có thể tự học hỏi tự thực hành để nâng cao trình độ của chính mình để đạt được điều này đòi hỏi quá trình đào tạo (đào tạo lại, đào tạo nâng coa tay nghề của công nhân) là một tất yếu khách quan. 2.3.Đầu tư vào tài sản vô hình - Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái cụ thể tuy nhiên nó đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp và nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Các tài sản vô hình không trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng nó gián tiếp tác động làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra nhanh hơn và có hiệu quả hơn. Đầu tư hợp lý vào tài sản vô hình đồng nghĩa với việc thúc đẩy vị thế, danh tiếng của doanh nghiệp tăng lên và có thể làm. - Các TSVH có thể là bằng phát minh sáng chế, bí quyết kỹ thuật, tên hiệu thương mại, uy tín của doanh nghiệp, bầu không khí làm việc, đầu tư cho nguồn nhân lực, hoạt động xúc tiến đầu tư... Đầu tư vào TSVH rất đa dạng nhưng tựu trung lại cái mà doanh nghiệp nào cũng cần đó là uy tín, vị thế của mình trên thị trường, có thể hiểu đó là danh tiếng về tên gọi của doanh nghiệp, của sản phẩm của doanh nghiệp, lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Hiệu quả mà hoạt động đầu tư này đem lại rất khó lượng hóa một cách chính xác nhưng nó góp vai trò quan trọng trong việc thành công của doanh nghiệp. - Chi phí cho hoạt động này bao gồm cho nghiên cứu thị trường, tiếp thị quảng cáo, giao dịch với khách hàng, chi phí cho công tác đối ngoại... đặc biệt là chi phí cho hoạt động quảng cáo thường chiếm một tỷ lệ vốn lớn trong vốn đầu tư của doanh nghiệp. - Quảng cáo là cách thức tốt nhất để mọi người biết đến doanh nghiệp và phương tiện để thực hiện quảng cáo rất đa dạng có thể qua đài, báo chí, truyền hình... Do đó cần có một nguồn vốn để đầu tư, để trang trải chi phí cho hoạt động này. trong chi phí ngiên cứu thị trường phải kể đến hoat động Marketing với 3 chiến lược: khách hàng, cạnh tranh, thích nghi thông qua tiến bộ khoa học kỹ thuật giúp doanh nghiệp rất nhiều trong việc nắm bắt nhu cầu thị trường, tình hình biến động của thị trường và tình hình của đối thủ cạnh tranh, để có chiến lược phát triển phù hợp. - Hoạt động đối ngoại của doanh nghiệp: trong nền kinh tế thị trường với nhiều mối quan hệ phức tạp, công tác đối ngoại ngày càng tỏ rõ vai trò của nó. Đó là mối quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp vật tư, thiết bị, dịch vụ cho doanh nghiệp, là mối quan hệ với các cơ quan chính phủ, các tổ chức chính quyền... Đây không phải là công tác quan hệ hành chính đơn thuần, công tác này giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng đề xuất những vướng mắc về cơ chế chính sách với các cơ quan có thẩm quyền, phối hợp chặt chẽ với bạn hàng vì lợi ích chung, duy trì được mối quan hệ lâu dài tạo điều hiện thuận lợi và ổn định cho qui trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Ngày nay các doanh nghiệp có xu hướng khuyếch trương TSVH, và đâu tư mạnh mẽ vào TSVH, đây là một xu thế đúng đắn bởi tăng đâu tư cho TSVH sẽ làm tăng đáng kể doanh thu của doanh nghiệp, sản xuất luôn được mở rộng. Uy tín và vị thế của doanh nghiệp đước xác định, doanh nghiệp phát triển một cách vững chắc. Tuy nhiên việc đầu tư vào TSVH rất đa dạng, do đó doanh nghiệp phải có sự lựa chọn để đầu tư một cách hợp lý nhất tránh lãng phí vốn đầu tư. 3. Vốn và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp 3.1. Vốn đầu tư Vốn đầu tư là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu và trong quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo của doanh nghiệp nhằm đem lại lợi nhuận chodh. Một cơ sở muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, thì cần phải có những nguồn lực ban đầu như đất đai, nhà xưởng, trang thiết bị, máy móc... Để có được những nguồn lực này thì sản xuất kinh doanh cần phải có lượng vốn ban đầu để tạo dựng, mua sắm, tiếp theo đó để tiến hành sản xuất kinh doanh trên nền tảng đó cần phải có nguyên vật liệu, con người... do đó cũng cần phải có vốn. Như vậy nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh là rất lớn và ở giai đoạn sản xuất nào cũng cần, tuy nhiên mức độ nhu cầu còn phụ thuộc vào từng giai đoạn. 3.2. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đều phải tự lực trong kinh doanh để tồn tại và phát triển, đồng thời cũng tự lực về tại chính. Có vốn có nghĩa là có công nghệ, máy móc thiết bị cũng có nghĩa là có thể cạnh tranh trên thương trường. Vì vậy trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để huy động được nhiều nguồn vốn và đa dạng hóa nguồn vốn. Về cơ bản, các nguồn vốn trong doanh nghiệp bao gồm: 3.2.1. Nguồn vốn chủ đầu tư - Đây là nguồn vốn đầu tiên cơ bản và được quan tâm nhất trong DN tuỳ thuộc vào loại hình sản xuất kinh doanh mà nguồn vốn này gồm các thành phần cấu tạo khác nhau. *. Đối với DNNN nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm: Vốn do Nhà nước cấp, nguồn vốn phát hành cổ phiếu, nguồn vốn khấu hao và nguồn lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. *. Đối với DN ngoài quốc doanh thông thường nguồn vốn này là đóng góp của các thành viên sáng lập DN, phát hành cổ phiếu, (đối với công ty cổ phần), nguồn vốn khấu hao và nguồn lợi nhuận sau thuế. + Nguồn vốn nhà nước cấp: Đây là vốn do Nhà nước cấp cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng trên cơ sở bảo toàn và phát triển vốn. + Nguồn vốn phát hành cổ phiếu: Cổ phiếu là một giấy tờ (chứng khoán) có giá trị cấp cho các cổ đông thể hiệnquyền sở hữu một phần tài sản và thu nhập của doanh nghiệp của cổ đông đó. Số lượngcổ phiếu tối đa mà công ty được phát hành gọi là vốn cổ phần được cấp phép, con số này được ghi trong điều lệ công ty và số lượng cổ phiếu chỉ được thay đổi khi có sự nhất trí của các cổ đông thông qua biểu quyết. + Nguồn vốn khấu hao: được trích từ quỹ khấu hao, Quỹ khấu hao cua rdn được trích hàng tháng hoặc theo hàng quý, hàng năm nhằm khấu hao cho các TSCĐ và được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. + Nguồn lợi nhuận sau thuế: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp có lợi nhuận sau thuế, ngoài một phần được chia cho các cổ đông dưới dạng cổ tức, phần lợi nhuận được giữ lại tiếp tục được bổ sung vào vốn chủ sở hữu để doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất. - Nguồn vốn chủ sở hữu giúp doanh nghiệp chủ động trong việc sử dụng vào hoạt động đầu tư sản xuất, là cơ sở để huy động các nguồn vốn khác, nó cho biết tiềm lực tài chính của doanh nghiệp có mạnh hay không, nguồn vốn này không chịu sự kiểm soát, khống chế của chủ nợ đồng thời duy trì khả năng trả nợ của doanh nghiệp. 3.2.2. Vốn vay Vốn vay là một nguồn tài trợ lớn cho hoạt động của doanh nghiệp , nguồn vay rất đa dạng, mỗi nguồn có một ưu thế và đặc điểm riêng, mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào tiềm lực, vào quan hệ, uy tín của mình mà có thể tiếp cận các nguồn ở mức độ khác nhau, nếu tình hình tài chính mạnh, có uy tín sẽ có khả năng tiếp cận rộng rãi tới nhiều thị trường vốn khác nhau và có thể đạt được nhiều điều kiện vay khác nhau. Trên thị trường tài chính các doanh nghiệp có thể tiến hành vay nợ bởi các trung gian tài chính (các tổ chức ngân hàng, cá nhân,) vay trên thị trường chứng khoán bằng cách phát hành chứng khoán. - Vay các ngân hàng: Ngân hàng luôn là nguồn tài trợ vốn quan trọng cho DN. Nhưng để vay được ngân hàng thì doanh nghiệp phải chứng minh được tình hình tài chính và triển vọng của dự án cho vay vốn đầu tư được các điều kiện của ngân hàng hoặc có đủ tài sản thế chấp. - Vay nợ trên thị trường chứng khoán thông qua việc phát hành trái phiếu (chỉ áp dụng đối với DNNN) Thị trường chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thì trường và trong sự phát triển kinh tế, nó là kênh dẫn vốn quan trọng cho doanh nghiệp, cho Nhà nước để tài trợ cho hoạt động của mình. Để vay vốn trung và dài hạn trên thị trường chứng khoán doanh nghiệp chủ yếu phát hành trái phiếu: giấy vay nợ dài hạn và trung hạn xác định nghĩa vụ của tổ chức phát hành phải trả một lượng nợ nhất định tại thời điểm xác định cho người sở hữu trái phiếu, đối với Công ty cổ phần thì có thể phát hành cổ phiếu cho các cổ đông trên thị trường chứng khoán và trả cổ tức hàng tháng cho họ tuỳ thuộc và loại cổ phiếu và hiệu quả đầu tư của Công ty. 3.2.3. Tín dụng thuê mua thông qua các tổ chức cho thuê tài chính Đây là hình thức tài trợ bằng tài sản, thảo thuận được xác lập giữa hai hay nhiều bên liên quan đến một hay nhiều tài sản, người cho thuê chuyển giao tài sản cho người thuê độ quyền sử dụng trong một thời gian nhất đình và người thuê phải trả tiền cho chủ tài sản, nhờ có hình thức này mà doanh nghiệp gia tăng năng lực sản xuất trong điều kiện hạn chế vốn đầu tư, có thể hiện đại hoá trang thiết bị theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới, rút ngắn thời gian đầu tư đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh, tuy nhiên chi phí cho phương thức này cao hơn mức lãi suất vay của hình thức vay vốn, khi đã trả gần hết số tiền thuê doanh nghiệp vẫn chưa được sử dụng tài sản vào mục đích khác. Nguồn vốn vay có ưu điểm rất lớn là nó giúp doanh nghiệp có vốn để hoạt động kinh doanh, chi ._.phí cho vốn được khấu trừ làm giảm thu nhập chịu thuế, do đó tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, tuy nhiên vốn vay là một sức ép cho doanh nghiệp bởi vì việc sử dụng nhiều nợ có thể dẫn đến rủi ro thanh toán của doanh nghiệp, khi tình hình tài chính không tốt doanh nghiệp vẫn phải thanh toán lãi dẫn đến doanh nghiệp càng khó khăn trầm trọng hơn về tài chính, nếu vốn vay được sử không hiệu quả doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng bế tắc dẫn đến phá sản hoặc giải thể. Như vậy vốn đầu tư là điều kiện cần, tiền đề cho các doanh nghiệp, là mạch máu lưu thông của doanh nghiệp. Để có vốn đầu tư doanh nghiệp phải tự chủ bằng vốn của chính mình đồng thời tiến hành vay vốn từ các nguồn thông qua các tổ chức tín dụng, từ cá nhân tổ chức có vốn nhàn rỗi và từ chính cán bộ công nhân viên trong Công ty. Đối với doanh nghiệp đặc biệt là DN ngoài quốc doanh việc huy động vốn đã khó việc sử dụng vốn hiệu quả càng khó hơn, do đó quan trọng là doanh nghiệp phải có kế hoạch sử dụng vốn hợp lý để việc sử dụng vốn có hiệu quả. III. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu qủa hoạt động đầu tư trong Doanh nghiệp 1. Kết quả hoạt động đầu tư Để đánh giá kết quả hoạt động của một nền kinh tế, của một cơ sở SảN sản xuất kinh doanh và dịch vụ chúng ta dựa vào các chỉ tiêu là: khối lượng vốn đầu tư đã được thực hiện và tài sản cố định đã được huy động hoặc năng lực sản xuất kinh doanh phục vụ tăng thêm. 1.1. Khối lượng vốn đầu tư thực hiện Khối lượng vốn đầu tư thực hiện bao gồm tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư bao gồm: + Chi phí cho công tác chuẩn bị đầu tư, chi phí đất đai. + Chi phí xây dựng sửa chữa nhà cửa và các cấu trúc hạ tầng + Chi phí mua sắm lắp đặt máy móc thiết bị dụng cụ, mua sắm phương tiện vận chuyển... + Chi phí khác I = Ixl + Itb + Ikhác Đối với công cuộc đầu tư quy mô lớn, thời gian thực hiện dài thì Vốn đầu tư được tính là thực hiện khi từng hoạt động hoặc từng giai đoạn của mỗi công cuộc đầu tư đã hoàn thành. Đối với công cuộc đầu tư quy mô nhỏ, thời gian thực hiện đầu tư ngắn thì số vốn đã chi được tính vào Vốn đầu tư thực hiện khi toàn bộ công việc của quá trình đầu tư đã kết thúc. 1.2. Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuát phục vụ tăng thêm Khái niệm: Tài sản cố định (TSCĐ) là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm, hàng hoá hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ cho xã hội đã được ghi trong dự án đầu tư) đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng có thể đưa vào hoạt động được ngay. - Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất phục vụ của các TSCĐ đã đuực huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo quy định được ghi trong dự án đầu tư. - Huy động bộ phận: là việc huy động từng đối tượng, từng hạng mục của công trình vào hoạt động ở những thời điểm khác nhau do thiết kế qui định. - Huy động toàn bộ là huy động cùng một lúc tất cả các đối tượng, hạng mục xây dựng không có khả năng phát huy tác dụng độc lập hoặc dự án không dự kiến cho phát huy tác dụng độc lập đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm và sẵn sàng có thể sử dụng được ngay. Đối với công cuộc đầu tư quy mô lớn nhiều đối tượng, hạng mục xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập thì áp dụng hình thức huy động bộ phận khi từng đối tượng đó đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, lắp đặt. Còn công cuộc đầu tư qui mô nhỏ, thời gian ngắn thì áp dụng hình thức huy động toàn phần khi tất cả các đối tượng, hạng mục công trình đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm và lắp đặt. Phương pháp tính: Các TSCĐ và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là sản phẩm cuối cùng của công cuộc đầu tư chúng được biểu hiện bằng hiện vật hoặc bằng giá trị (tiền). - Chỉ tiêu hiện vật được biểu hiện như số lượng TSCĐ được huy động (số lượng nhà ở, bệnh viện, trường học, nhà máy...), Công suất hoặc năng lực phát huy của TSCĐ được huy động (số căn nhà, số giường bệnh, số KW giờ của nhà máy điện...), mức tiêu dùng nguyên vật liệu trong một đơn vị thời gian. - Đối với từng dự án đầu tư, giá trị TSCĐ huy động chính là giá trị những đối tượng, những hạng mục công trình có khả năng phát huy tác dụng độc lập của dự án đã hoàn thành bàn giao đưa vào hoạt động Công thức : F = Ivo - C Ivo: Vốn đầu tư thực hiện của các đối tượng, hạng mục công trình được huy động C: Các chi phí không làm tăng giá trị tài sản cố định như: + Thiệt hại do thiên tai, địch hoạ và các nguyên nhân bất khả kháng không thuộc phạm vi và đối tượng được bảo hiểm + Giá trị khối lượng được huỷ bỏ theo qui định của cấp có thẩm quyền Hoặc: F = ồ Qi*Pi + Cin + W Qi: khối lượng công tác xăy lắp của đối tượng, hạng mục i đã bàn giao sử dụng Pi: đơn giá một đơn vị khối lượng công tác của đối tượng hạng mục i 2. Hiệu quả của hoạt động đầu tư Khi xem xét đơn giá hiệu quả đầu tư, tuỳ thuộc vào cấp độ quản lý (vĩ mô hay vi mô - phạm vi doanh nghiệp), vào mục đích và hình thức doanh nghiệp mà có những tiêu chí nhất định để đánh giá từ đó mà có những quyết định, những nhận xét có thể trái ngược nhau. Các tiêu thức để đánh giá là tiêu thức về hiệu quả tài chính và tiêu thức về hiệu quả kinh tế xã hội. 2.1. Hiệu quả tài chính  - Khái niệm: Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở số vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kỳ khác, các cơ sở khác hoặc so với định mức chung. Các kết quả do hoạt động đầu tư đem lại cho cơ sở rất đa dạng, và là điều tất yếu của quá trình thực đầu tư. Các kết quả đó có thể là lợi nhuận thuần, là mức tăng năng suất lao động là số lao động có việc làm do hoạt động đầu tư tạo ra, là mức tăng thu nhập cho người lao động của cơ sở thực hiện đầu tư. Do đó để phản ánh hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư người ta phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiệu quả và được sử dụng trong những điều kiện nhất định. 2.1.1. Nhóm chỉ tiêu Lợi nhuận so với Vốn đầu tư *. Chỉ tiêu về tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư Tỷ suất sinh lời của VĐT = DLN Ivo Trong đó : + DLN là lợi nhuận gia tăng của năm t so với năm (t-1) + Ivo là vốn đầu tư năm t Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận thu được trên một đồng vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả tài chính càng cao và càng chứng tỏ rằng hoạt động đầu tư của doanh nghiệp là tốt, là có hiệu quả. *. Chỉ tiêu về khả năng sinh lời của một đơn vị tài sản cố định tăng thêm Chỉ tiêu về khả năng sinh lời của một đơn vị TSCĐ tăng thêm = DLN F Trong đó: F là tài sản cố định tăng thêm (do đầu tư năm t tạo ra). Chỉ tiêu này cho biết lợi nhuận thu được trên một đồng tài sản cố định, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, chứng tỏ kết quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp trong thời kỳ nghiên cứu đã phát huy hiệu quả tốt do đó hoạt động đầu tư của doanh nghiệp có hiệu quả. 2.1.2. Nhóm chỉ tiêu về doanh thu trên vốn đầu tư *. Chỉ tiêu về doanh thu trên vốn đầu tư phát huy tác dụng Chỉ tiêu về doanh thu trên vốn đầu tư phát huy tác dụng = DDT Ivo DDT là giá trị gia tăng doanh thu của năm t so với năm (t - 1) Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. *. Chỉ tiêu khả năng tạo doanh thu của một đơn vị tài sản cố định tăng thêm Chỉ tiêu khả năng tạo doanh thu của một đơn vị TSCĐ tăng thêm = DDT F Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị tài sản cố định được đưa vào sản xuất trong kỳ nghiên cứu thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. 2.1.3. Chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng doanh thu Chỉ tiêu này cho biết trong 1000 đồng doanh thu thì có nhiêu đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt nó phản ánh đầu tư của doanh nghiệp có hiệu quả. 2.1.4. Chi tiêu đánh giá tiềm lực tài chính của DN - Hệ số vốn tự có (vốn chủ sở hữu) so với vốn vay, hệ số này phải lớn hơn bặc bằng 1. Đối với dự án có triển vọng, hiệu quả thu được là rõ ràng thì hệ số này có thể nhỏ hơn 1, vào khoảng 2/3 thì dự án thuận lợi. - Tỷ trọng vốn tự có (vốn chủ sở hữu) có trong tổng vốn đầu tư phải >= 50%. Đối với dự án cso triển vọng, hiệu quả rõ ràng thì tỷ trọng này có thể là 40%, thì dự án thuận lợi. - Tỷ lệ giữa TSLĐ có so với TSLĐ nợ = 2/1 hoặc 4/1 thì dự án thuận lợi. - Tỷ lệ giữa vốn lưu động và nợ ngắn hạn >= 1 phản ánh khả năng thanh toán của công ty trong ngắn hạn. -Tỷ lệ giữa tổng thu từ lợi nhuận thuần và khấu hao so với nợ đến hạn phải trả (tỷ lệ này phải >= 1) Hai chỉ tiêu đầu nói lên tiềm lực tài chính đảm bảo cho mọi dự án thực hiện được thuận lợi, ba chỉ tiêu sau nói lên khả năng đảm bảo thanh toán các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp. 2. Hiệu quả kinh tế xã hội - Khái niệm: Hiệu quả kinh tế xã hội chính là kết quả so sánh giữa cái mà xã hội phải trả cho việc sử dụng các nguồn lực sẵn có của mình một cách tốt nhất và lợi ích do đầu tư tạo ra cho toàn bộ nền kinh tế. Khi xem xét đánh giá hệu quả một hoạt động đầu tư phải từ 2 góc độ người đầu tư và nền kinh tế. Trên góc độ người đầu tư là doanh nghiệp mục đích cuối cùng của nhà đầu tư là lợi nhuận, khả năng sinh lợi của dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận việc làm mạo hiểm của nhà đầu tư, khả năng sinh lợi càng cao thì càng hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên không phải mọi dự án có khả năng sinh lợi cao đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đối với nền kinh tế xã hội. Do đó trên góc độ quản lý vĩ mô phải xem xét mặt kinh tế xã hội của đầu tư đ xem xét lợi ích kinh tế xã hội do thực hiện đầu tư đem lại. Điều này giữ vai trò quyết định để các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư trên góc độ nhà đầu tư đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội dựa trên các chỉ tiêu sau: 2.1. Mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước Chỉ tiêu này bao gồm các khoản nộp vào ngân sách như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, lệ phí chuyển tiền được tính tổng số và tính bình quân trên một đồng vốn đầu tư 2.2. Số lao động có việc làm tăng thêm do thực hiện đầu tư Số lao động có việc làm ở đây bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp cho dự án và số lao động có việc làm ở các dự án liên đới (lao động gián tiếp). Các dự án được thực hiện do đòi hỏi của dự án đng xem xét. Trong khi tạo việc làm cho một số lao đông thì sự hoạt đọng của dự án mới cũng có thể làm cho một số lao động của các cơ sở sản xuất dịch vụ khác vị mất việc do các cơ sở không cạnh tranh được. Do đó, số lao động của cả nước có việc làm chỉ bảo gồm số lao động trực tiếp và gián tiếp cho công cuộc đầu tư trừ đi số lao động mất việc và những người nước ngoài làm việc cho nó. Số việc làm tăng thêm = số lao động thu hút thêm - số lao động mất việc làm 2.3. Mức nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động Thể hiện ở chỉ tiêu bậc thợ bình quân thay đổi sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư và mức thay đổi này tính trên 1000 đồng vốn đầu tư. 2.4. Nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất Thể hiện ở mức thay đổi cấp bậc công việc bình quân sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư và mức thay đổi này tính trên 1000đồng vốn đầu tư. 2.5. Mức tăng năng suất lao động Sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư (tổng số và trên 1000 đồng vốn đầu tư) từng năm và bình quân cả đời dự án 2.6. Chỉ tiêu ngoại hối (tiết kiệm ngoại tệ) Một nhiệm vụ cơ bản khi xem xét lợi ích kinh tế xã hội của một dự án là xem xét lao động của dự án của dự án đến cán cân thanh toán quốc tế của đất nước. Xác định chỉ tiêu mức tiết kiệm ngoại tệ của dự án cho biết mức đóng góp của dự án vào cán cân thanh toán của nền kinh tế đất nước, song song với việc đầu tư mua sắm máy móc trang thiết bị thì sản phẩm tạo ra có khả năng xuất khẩu ra nước ngoài hoặc thay thế hàng nhập khẩu. 2.7. Tạo thị trường mới và mức độ chiếm lĩnh thị trường do tiến hành đầu tư Mức độ chiếm lĩnh thị Doanh thu do bán sản phẩm của cơ sở tại thị trường trường mới do đầu tư = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm cùng loại tại thị trường 2.8. Các chỉ tiêu khác - Tác động đến môi trường: trong quá trình hoạt động đầu tư phải có sự kết hợp các yếu tố đầu vào (tài nguyên thiên nhiên, lao động...) để tạo ra sản phẩm đầu ra có những ảnh hưởng đến môi trường bao gồm cả ảnh hưởng tích cực và cả ảnh hưởng tiêu cực. Nếu có tác động tiêu cực đến môi trường thì phải có những biện pháp khắc phục và hạn chế những ảnh hưởng đó. Nếu chi phí để khắc phục tác động tiêu cực mà quá lớn so vơí chi phí và công sức bỏ ra thì phải huỷ bỏ hoạt động đầu tư này. - Đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, các nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Như vậy, việc xem xét đánh giá hoạt động đầu tư của cơ sở bằng cách kết hợp hai chỉ tiêu kết quả và hiệu quả đầu tư (hiệu quả tài chính và kinh tế xã hội) sẽ đảm bảo cung cấp đầy đủ những luận cứ để xem xét đánh giá tình hình thực hiện đầu tư, trên cơ sở đó đưa ra được những quyết định đầu tư đúng đắn và định hướng được đầu tư trong giai đoạn tới. Đặc biệt đối với một nước đang phát triển nhu cầu vốn là rất lớn như nước ta thì việc đánh giá một cách tỷ mỷ và chính xác để vốn đầu tư và các nguồn lực được phát huy vai trò và đạt hiệu quả cao nhất. IV. Doanh nghiệp - Doanh nghiệp ngành Xây dựng 1. Khái niệm doanh nghiệp - Theo điều 3 luật doanh nghiệp do Quốc Hội thông qua ngày 12/6/1999: Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. - Như vậy doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm cung ứng dịch vụ tên thị trường nhằm mục đích sinh lời. - Có nhiều các phân loại doanh nghiệp, tuỳ theo tiêu chí khác nhau để phân loại nhưng cách phân loại được sử dụng nhiều nhất và có vai trò quan trọng nhất trong nghiên cứu hoạt động của doanh nghiệp là phân loại theo hình thức sở hữu gồm: + Doanh nghiệp quốc doanh (DNNN) + Doanh nghiệp ngoài quốc doanh: là doanh nghiệp dựa trên lở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất trong đó gồm hình thức sở hữu cá nhân, sở hữu gia đình, sở hữu tập thể và hỗn hợp sở hữu của nhà kinh doanh nước ngoài. DNNQD gồm: * Doanh nghiệp tư nhân * Công ty trách nhiệm hữu hạn * Công ty cổ phần * Hợp tác xã - Chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự cùng tồn tại và phát triển của nhiều thành phần kinh tế, trong đó DNQD vẫn giữ vai trò then chốt tuy nhiên DNNQD và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận không thể thiếu và giữ vai trò quan trọng của nền kinh tế. 2. Doanh nghiệp ngành Xây dựng Doanh nghiệp ngành Xây dựng là một loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng nhằm tạo ra TSCĐ, cơ sở hạ tầng có chính doanh nghiệp mình và cho nền kinh tế với mục đích kiếm lời. Những năm trước đây, trong thời kỳ bao cấp với nền kinh tế tập trung mệnh lệnh, hoạt động xây dựng do các doanh nghiệp của Nhà nước độc quyền cung ứng theo dế hoạch. Đến nay, mặc dù có doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước vẫn còn chiếm tỷ lệ cao trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ xây dựng, nhưng cũng có khá nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được thành lập. Đặc biệt là có sự tham gia của các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài do đó mà hiện nay trên thị trường xây dựng cạnh tranh rất khốc liệt. 2.1. Vai trò của Doanh nghiệp ngành Xây dựng * Các doanh nghiệp ngành Xây dựng có nhiệm vụ tái sản xuất các tài sản cố định cho mọi lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất của đất nước. Có thể nói không ngành sản xuất nào, không một hoạt động văn hoá - xã hội nào là không sử dụng sản phẩm của ngành xây dựng. * Các công trình xây dựng của các doanh nghiệp có vai trò tăng năng lực sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp mình, đồng thời tạo sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và tạo thêm chỗ làm cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. * Các doanh nghiệp ngành xây dựng phải sử dụng một lượng vốn lớn, do đó một sai lầm trong xây dựng có thể dẫn đến lãng phí lớn, rất khó sửa chữa trong nhiều năm. * Hoạt động của các doanh nghiệp ngành xây dựng đóng góp đáng kể vào giá trị tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. 2.2. Đặc điểm và nội dung hoạt động của doanh nghiệp ngành xây dựng. *. Doanh nghiệp phải nhận được đơn đặt hàng trước khi sản xuất nghĩa là doanh nghiệp đã biết trước khách hàng và có quan hệ với khách hàng của mình, để có được hợp đồng thì doanh nghiệp phải tạo niềm tin, được khách hàng chấm điểm cao bằng chính năng lực thi công và uy tín của mình. * Tình hình và điều kiện sản xuất trong các doanh nghiệp ngành xây dựng luôn thiếu tính ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm xây dựng và giai đoạn xây dựng. Đặc điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú ý tăng cường tính linh động, linh hoạt, gọn nhẹ về mặt trang thiết bị tài sản cố định sản xuất, lựa chọn các hình thức tổ chức sản xuất linh hoạt, phấn đấu giảm chi phí có liên quan đến vận chuyển, lựa chọn vùng hoạt động thích hợp, lợi dụng tối đa lực lượng lao động tại chỗ và liên kết tại chỗ để có thể hoạt động thi công xây dựng một cách hiệu quả nhất. * Thời gian xây dựng các công trình thường dài. Đặc điểm này làm cho vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản xuất của doanh nghiệp xây dựng thường bị ứ đọng lâu tại công trình đang còn xây dựng dở dang, các doanh nghiệp xây dựng dễ gặp phải rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian, các công trình xây dựng xong dễ bị hao mòn vô hình. * Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp, có những thời điểm đòi hỏi một số đơn vị tham gia xây dựng công trình cùng đến hiện trường thi công để thực hiện phần việc của mình, trong khi diện tích của công trình lại có hạn. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải có trình độ tổ chức phối hợp cao trong sản xuất. * Công việc xây dựng phải tiến hành ngoài trời nên chịu người ảnh hưởng của thời tiết, điều kiện làm việc nặng nhọc. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp xây dựng phải lập tiến độ thi công hợp lý để tránh thời tiếp xấu. * Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch do điều kiện của địa điểm xây dựng đem lại. Cùng một loại công trình nhưng nếu nó được đặt ở nơi có sẵn nguồn nguyên vật liệu xây dựng, nguồn máy móc cho thuê và sẵn nhân công thì doanh nghiệp sẽ hạ được chi phí do giảm được vận chuyển, giảm xây dựng công trình phụ tạm nhờ đó thu được nhiều lợi nhuận. Từ những đặc điểm trên cho ta thấy những đặc điểm này có ảnh hưởng đến rất lớn đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp ngành xây dựng. Đó là trong vốn đầu tư mà doanh nghiệp thực hiện trong mỗi năm chủ yếu là đầu tư vào máy móc thiết bị và đào tạo nguồn nhân lực để tăng năng lực sản xuất và năng lực điều hành, thi công thêm vào đó Công ty phải đầu tư vào TSVH như hoạt động Marketing, quảng cáo... để tăng uy tín của Công ty trên thị trường xây dựng từ đó nhận được các đơn đặt hàng tạo công ăn việc làm cho người lao động hay đó chính là tăng uy tín và tăng khả năng thắng thầu của Công ty. Chương II: thực trạng hoạt động đầu tư tại Công ty TNHH xây dựng Công ty Hoàng hà I. Khái quát chung về Công ty TNHH xây dựng công trình Hoàng Hà 1. Sự hình thành và phát triển. Tên chính thức: Công ty TNHH xây dựng công trình Hoàng Hà Tên viết tắt: HH - Co. Ltd Trụ sở chính: Tổ 17 khu ga - Thị trấn Văn Điển - Thanh trì - Hà Nội. Công ty TNHH xây dựng công trình Hoàng Hà được thành lập tháng 12 năm 1992, là Công ty được thành lập theo luật Công ty và luật doanh nghiệp khi có chủ trương mở cửa của Nhà nước về phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Công ty được UBNN thành phố Hà nội cấp giấy phép thành lập số 01063/GP - UB ngày 31/03/1994 (thay thế quyết định thành lập số 3286/QĐ - UB ngày 18/12/1992) và được trọng tài kinh tế Thành phố Hà nội cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 040605 ngày 31/12/1992. Từ khi thành lập đến nay qua 10 năm Công ty đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm sau mỗi công trình, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước trong thời kỳ đổi mới, đội ngũ cán bộ công nhân viên trong Công ty không ngừng nỗ lực phấn đấu phát huy sức mạnh và sáng tạo của tập thể và cá nhân, mở rộng qui mô và khẳng định năng lực của Công ty đưa Công ty phát triển vững mạnh chiếm được niềm tin.Buổi đầu gây dựng Công ty thiếu thốn về mọi mặt cả nguồn lực và vật lực, bắt đầu từ 25 người có nghề tụ họp lại với số vốn ít ỏi 530.200.000 đồng với ngành nghề kinh doanh là xây dựng công trình giao thông sản xuất vật liệu xây dựng đến nay Công ty đã có một đội ngũ cán bộ công nhân viên được thử thách với 500 con người cùng mấy chục tỷ tài sản cố định và lưu động được tích luỹ. Cùng với công cuộc tự giới thiệu và khẳng định mình Công ty cũng bổ sung nhiều ngành nghề kinh doanh phù hợp với năng lực và khả năng của Công ty như 16/11/98 bổ sung ngành nghề kinh doanh buôn bán tư liệu sản xuất tư liệu tiêu dùng, đại lý mua, bán, ký gửi hàng hoá, trang trí nội ngoại thất, xây dựng dân dụng, xây dựng công nghiệp, xây dựng hạ tầng kỹ thuật với tổng vốn 2.445.000.000 đồng. Ngày 27/5/1999 Bổ sung ngành nghề vận tải hành khách bằng xe buýt trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Ngày 21/6/2000 bổ sung ngành nghề lắp đặt hệ thống thông gió và cấp thoát nước xây dựng đường dây và trạm biến áp dưới 35KV. 6/7/2001 bổ sung ngành nghề sản xuất và buôn bán nước sạch và nước tinh khiết, các thiết bị máy móc ngành nước. Cho đến nay qua nhiều lần mở rộng Công ty hoạt động gồm 5 xí nghiệp thành viên. Hiện nay Công ty đang liên doanh với các Công ty Nhà nước thực hiện 5 dự án các khu đô thị mới, cùng với các đối tác của mình Công ty đang triển khai 2 dự án khu đô thị mới, trong các dự án đều có các nhà chung cư cao tầng từ 9 -12 tầng và các khu biệt thự. 2. Chức năng và nhiệm vụ chính và cơ cấu tổ chức của Công ty 2.1. Chức năng và nhiệm vụ chính của Công ty Là một Công ty xây dựng nhiệm vụ chính của Công ty là tiến hành xây dựng những công trình mà Công ty trúng thầu và những công trình do chính Công ty làm chủ đầu tư, bên cạnh đó Công ty cũng thực hiện nhiệm vụ là tự sản xuất những công cụ dụng cụ, nguyên vật liệu đáp ứng yêu cầu thi công.Chức năng và nhiệm vụ của Công ty được thể hiện thông qua những ngành nghề mà Công ty đang hoạt động, cho đến nay ngành nghề chính của Công ty bao gồm: + Xây dựng dân dụng, công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật. + Xây dựng đường điện và trạm biến áp dưới 35KV. + Sản xuất vật liệu xây dựng. + Trang trí nội ngoại thất. + Kinh doanh bất động sản. + Sản xuất kinh doanh nước sạch và nước tinh khiết. + Cấp và thoát nước. 2.2. Cơ cấu tổ chức của Công ty 3. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty 3.1. Đặc điểm về sản phẩm và qui trình xây dựng công trình - Là một Công ty xây dựng sản phẩm của Công ty là các công trình xây dựng vì vậy nó mang đặc điểm của doanh nghiệp xây dựng và sản phẩm của ngành xây dựng. - Quy trình xây dựng công trình Việc thi công các công trình ở công ty gần giống nhau cho mọi dự án và nó được thiết kế trước khi giao cho các đội thực thi, hoặc do tự các đội thiết kế rồi công ty duyệt thông qua. Mô hình tổng quát quy trình thực hiện công trình có thể biểu diễn qua sơ đồ sau: Sơ đồ 6 : Quy trình thực hiện công trình xây dựng Khảo sát, thiết kế công trình Lập dự án khả thi và lựa chọn Tổ chức thi công xây lắp Tổ chức nghiệm thu và bàn giao Thanh quyết toán và bảo hành Thông thường công trình xây dựng hoàn thành phải trải qua các bước tuần tự: khảo sát, thiết kế công trình, lập dự án tiền khả thi, khả thi và lựa chọn, tổ chức thi công xây lắp, tổ chức nghiệm thu và bàn giao và bước cuối cùng là thanh quyết toán công trình và bảo hành công trình. Trên giác độ doanh nghiệp thực hiện thi công xây lắp mà xem xét một công trình một dự án thực sự bắt đầu được xem xét nghiên cứu trước khi hồ sơ mời thầu được gửi đến, trong quá trình xem xét đó các gói thầu nào được xác định để xây dựng hồ sơ dự thầu sẽ được chuẩn bị cho các bước tiếp theo. Đó là hình thành lên bộ máy quản lý dự án trong đó sơ đồ quản lý dự án sẽ gửi đi kèm hồ sơ dự thầu. Ngay sau khi thắng thầu công ty sẽ chỉ định đội để thực thi công trình thông qua các hợp đồng kinh tế nội bộ, hợp đồng khoán. Lúc này ban quản lý đội sẽ cùng công ty lên kế hoạch chuẩn bị điều động xe , máy, vốn đến công trường sau khi đã khảo sát kĩ mặt bằng và có được kế hoạch tổ chức mặt bằng thi công. 3.2 Đặc điểm về lao động. Do đặc điểm của sản phẩm nên điều kiện sản xuất luôn luôn thay đổi, điều kiện sinh hoạt của người lao động cũng luôn htay đổi do đó người lao động phải thay đổi để thích nghi với điều kiện sản xuất mới. Từ khi ra đời đến nay Công ty luôn duy trì bộ máy quản lý gọn nhẹ, với một nửa là lao động hợp đồng và theo thời vụ Công ty còn kết hợp sử dụng lao động địa phương nơi hti công, huy động mọi lực lượng trong giai đoạn thi công và hoàn thiện công trình một mặt nâng cao hiệu quả của Công ty đồng thời giải quyết được vấn đề lao động nhàn rỗi của địa phương. Về lực lượng lao động, Công ty tuyển dụng các loại thợ môc, nề, sắt, hàn, bê tông... Với nhiều loại tay nghề, bậc thợ đáp ứng tiến độ thi công công việc và chất lượng công trình. Số lượng công nhân tuyển dụng là con số động tuỳ thuộc và lực lượng công việc. Bảng1:Cơ cấu lao động theo tính chất công việc và theo chế độ (Đơn vị : người) TT Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002 SS định gốc (%) 99/98 00/98 01/98 02/98 Tổng 77 191 243 412 497 248 315,6 535 645,4 I. Theo tính chất công việc 1 LĐ giántiếp 11 26 30 46 56 314 272,7 418,2 509,1 GT/Tổng (%) 14,3 13,6 12,3 11,2 9,3 2 LĐ trực tiếp 66 165 213 366 441 250 322,7 545,5 668,2 TT/Tổng (%) 85,7 86,4 87,7 88,8 90,7 II. Theo chế độ 1 LĐ trong biên chế 68 143 155 185 202 250,9 217,9 324,5 354,4 BC/Tổng (%) 88,3 74,9 63,8 44,9 40,6 1 LĐ thời vụ 9 48 88 227 295 533,3 977,8 2522,2 3277,8 TV/Tổng (%) 11,7 25,1 36,2 55,1 59,4 (Nguồn: Phòng Tổng Hợp - Công ty xây dựng Hoàng Hà) Nhìn vào bảmg số liệu trên ta thấy trong vòng năm năm lao động của Công ty liên tục tăng và tăng một cách nhanh chóng về số lượng cũng như tỉ lệ phần trăm. Năm 1998 Công ty có 77 cán bộ công nhân viên, sau một năm đến năm 1999 số lượng lên tới 191 lao động (tăng 248%), cùng với sự phát triển cuat Công ty thì số lao động đến năm 2002 là 497 người (tăng 645.5%) và cơ cấu, tỷ trọng lao động trong Công ty cũng thay đổi theo xu hướng tích cực. Tỷ trọng lao động gián tiếp giảm dần qua các năm, năm 1998 là 14.3%, năm 1999 (13,6%)... đến năm 2002 tỷ lệ này là 11,3%. Mặt khác Công ty cũng biết tận dụng, khai thác đặc điểm hoạt động của ngành mình từ đó có cách quản lý và điều phối lao động nên lực lượng lao động thời vụ tăng cả về số lượng và tỷ trọng, năm 1998 tỷ trọng lao động thời vụ trên tổng lao động là 11,7% thì tỷ lwj này lần lượt qua các năm là: năm 1999 (25%), năm 2000 (36,2%), năm 2001 (55%) và đến năm 2002 tỷ lệ lao động thời vụ chiếm tỷ lệ rất cao (gần 60%). Điều này tạo nên tính linh hoạt trong sản xuất và sử dụng được lao động địa phương, khắc phục được tình trạng phải tạo dựng nhiều công trình phục vụ tàm thời giảm chi phí nâng cao lợi nhuận. Nhưng bên cạnh đó đây cũng là một khó khăn cho Công ty đó là trình độ của người lao động không đồng bộ, chưa quen công việc và điều kiện làm việc nên hiệu quả công ciệc nhiều khi chưa đảm bảo, một số công trình chưa đảm bảo về chất lượng... 3.3 Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật, tài sản cố định Là một doanh nghiệp tư nhân Công ty phải tự lực về mọi mặt từ cơ sở vật chất đến máy móc thiết bị để thi công. Vài năm trước Công ty phải thuê địa điểm để làm trụ sở giao dịch, để thực hiện các công tác ở văn phòng do đó hàng năm phải chi phí lớn cho việc thuê địa điểm. Trong năm vừa qua Công ty đã phải làm đơn xin với thành phố được thuê đất để xây dựng công trình làm trụ sở giao dịch và đã hoàn thành trong năm 2002 do đó giảm được chi phí cho việc thuê trụ sở. Do đặc diểm của sản xuất xây dựng đòi hỏi phải có lượng máy móc thiết bị với giá trị lớn phục vụ cho quá trình thi công tại công trường, công tác tại văn phòng. Công ty tự bỏ vốn và vay vốn để mua máy móc thiết bị như máy cẩu, máy ủi, máy trộnn bê tông và các thiết bị văn phòng như máy tính, máy in, máy photocopy, công cụ máy móc nhỏ như: dàn giáo, cột chống, máy đầm...và hàng năm tiến hành mua sắm, sửa chữa và bảo dưỡng máy móc thiết bị để đảm bảo tiến độ và chất lượng thi công. 3.4. Đặc điểm về thị trường Trong lĩnh vực để tiến hành sản xuất kinh doanh thì trước hết chúng ta phải nhận được đơn đặt hàng vì vậy trong lĩnh vực xây dựng quá trình mua bán xảy ra trước lúc bắt đầu giai đoạn sản xuất (tức là giai đoạn xây dựng công trình) thông qua đấu thầu và ký kết hơp đồng. Cạnh tranh trong thị trường xây dựng chủ yếu thông qua hình thức đấu thầu, đó chính là một điểm khác biệt so với thị trường hàng hoá thông thường, ở thị trường dựng có khi nhờ vào mối quan hệ, uy tín mà thị trường được mở rộng. Thị trường của Công ty xét theo chức năng và nhiệm vụ chính bao gồm công trình xây dựng trường học, dự án san lấp, xây dựng nhà chung cư, công trình điện, công trình xây dựng trạm cấp nước...Là một công ty tư nhân mới hoạt động được trên 10 năm Công ty phải tự tìm chỗ đứng cho chính mình quá trình khẳng định đó không phải ngày một ngày hai. Chiến lược của Công ty là xây dựng là thị trường trọng điểm cho chính mình rồi mới mở rộng ra các thị trường khác vì vậy thị trường của Công ty còn trong phạm vi nhỏ, Công ty mới chỉ xây dựng ở Hà Nội mà chủ yếu ở huyện Thanh Trì. Hiện nay trong tiến trình xây dựng việc tham gia dự thầu các công trình từ nhỏ đến lớn đều rất nhộn nhịp từ Nhà nước đến tư nhân và đặc biệt là các Công ty Nhà nước có một quá trình lịch sử lâu dài và cũng đã gặt hái được nhiều thành quả xây dựng được niềm tin của khách hàng thì đối với Công ty đây là khó khăn rất lớn. Công ty liên doanh với Công ty Nhà nước là Công ty kinh doanh và phát triển Nhà Thanh Trì để được tham gia vào các dự án lớn, mở rộng thị trường đồng thời cán bộ công nhân viên tron._.a Công ty khác, máy móc thiết bị, công nghệ của Công ty ngày càng lạc hậu trong khi vốn còn hạn hẹp Vì vậy, Công ty cần hoạt động linh hoạt, nhanh chóng nắm bặt được cơ hội để có thể đi trước các đối thủ cạnh tranh, ngoài ra Công ty còn phải quản lý một cách thống nhất và có hiệu quả hoạt động đấu thầu để có thể thắng thầu, giành được công trình có giá trị lớn. Chương III: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Công ty Công ty bước vào thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2003 và những năm tiếp theo trên cơ sở những nhiều thuận lợi và cũng ít khó khăn. Từ 1999 - 2002 Công ty tiến hành thi công nhiều công trình có quy mô lớn đã tạo nền tảng cho Công ty trong những năm tiếp theo thêm vào đó Nhà nước có mục tiêu đưa thủ đô phải trở thành thành phố đi đầu trong công cuộc đổi mới, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và coi Đô thị mới là một sự phát triển chiến lược của thủ đô Hà Nội. Hà Nội đã và đang triển khai xây dựng hàng chục khu đô thị mới và có kế hoạch xây dựng 60 khu chung cư, đặc biệt Hà Nội là thị trường truyền thống và quen thuộc của Công ty do đó đã tạo cho Công ty nhiều cơ hội tạo sự phát triển cho chính mình và góp phần tham gia vào hoàn thành kế hoạch của Nhà nước. Nhưng bên cạnh đó Công ty phải đối mặt với rất nhiều khó khăn ở phía trước đó là sự biến động của thị trường, những đối thủ rất mạnh trên thị trường xây dựng và những hạn chế ngay trong nội tại Công ty. Mỗi năm mỗi thời kỳ phát triển Đảng và Nhà nước vạch ra đường lối phương hướng và chính sách phát triển, trên cơ sở đó Công ty cũng đề ra phương hướng mục tiêu của năm tới và đưa ra những giải pháp để thực hiện các mục tiêu đó. I. Phương hướng của Công ty. Với những kết qủa đã đạt được và những khó khăn còn tồn tại Công ty đã có những định hướng phát triển tương đối rõ trong hoạt động đầu tư của Công ty vào năm 2003 và những năm tiếp theo trên cơ sở đó Công ty xác định kế hoạch đầu tư một cách vững chắc. Công ty vẫn xác định nhiệm vụ chính của Công ty trong giai đoạn tới chủ yếu là xây dựng công trình và tham vào công cuộc xây dựng thủ đô, nâng cao hiệu qủa đầu tư và tăng cường các biện pháp huy động vốn để nâng cao năng lực tài chính, tiếp tục đầu tư có trọng điểm cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc trang thiết bị phục vụ xây lắp và sản xuất, bổ sung lực lượng cán bộ kỹ thuật, nhân viên kinh tế trẻ, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực quản lý từ công ty tới các đơn vị thành viên. - Trong năm 2003 Công ty tiếp tục thực hiện việc triển khai hoàn thành những công trình còn dở dang như Nhà B5, san lấp cầu Bươu, ... theo đúng tiến độ đề ra trong kế hoạch với chất lượng đảm bảo, đặc biệt là tiếp tục thực hiện và hoàn thiện đầu tư xây dựng trạm cấp nước sạch Định công để sớm đi vào sản xuất. Đầu tư nâng cao năng lực thi công và bắt tay vào triển khai những dự án mới được phê duyệt như công trình A15, Quy hoạch mở rộng dự án Bắc Định Công 137,2 ha. - Đổi mới và hoàn thiện bộ máy tổ chức và phương án thi công, nâng cao hiệu quả kinh tế. Lấy tỷ suất lợi nhuận là chỉ tiêu phấn đấu hàng đầu của các đơn vị, nâng cao uy tín của Công ty, mở rộng quy mô và tạo tốc độ tăng trưởng cao tạo tiền đề thuận lợi cho Công ty trong những năm phát triển tiếp theo. - Năm 2003 phấn đấu tăng trưởng bình quân về doanh thu là 12 - 18% so với năm 2002, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh là 8-12%, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu đạt 1,2 - 1,7%. Để đạt được những mục tiêu mà Công ty đã vạch ra cần phải có sự nỗ lực của toàn Công ty đặc biệt là Ban lãnh đạo trong Công ty và phải có một loạt những giải pháp đồng bộ và thiết thực nhất. II. Giải pháp Trong nến kinh tế thị trường “thương trường như chiến trường” mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đều phải xác định cho mình một chỗ đứng. Với chính sách của Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển, DNNQD mọc lên ngày càng nhiều nhưng tỉ lệ số doanh nghiệp trụ vững để tồn tại và phát triển thì lại lại rất ít. Công ty TNHH Xây dựng công trình Hoàng Hà thành lập đã được hơn 10 năm, hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, một ngành nghề nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều rủi ro, bước đầu Công ty đã xây dựng được một nền tảng và tạo một tốc độ phát triển cho mình. Trên con đường phát triển Công ty luôn đặt hiệu quả hoạt động đầu tư lên vị trí hàng đầu và đó cũng là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Công ty. Để nâng cao hiệu quả đầu tư phải có những giải pháp thống nhất đồng bộ có sự phối hợp, đồng lòng của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong Công ty. Qua thời gian nghiên cứu thực tập tại Công ty, trên cơ sở những số liệu, tình hình đã phân tích ở trên cùng với những khó khăn mà Công ty đang phải đối mặt tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cơ bản phù hợp có tính khả thi nhất với Công ty góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của Công ty. 1. Giải pháp về vốn. Để tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào thì vốn cũng là nhân tố quan trọng nhất để quyết định xem có tiến hành được hay không, vốn chính là máu cho hoạt động kinh doanh được lưu thông và phát triển. Để đầu tư vào TSCĐ cũng như nhà xưởng, máy móc thiết bị, mua sắm nguyên vật liệu làm tiền đề cho hoạt động đầu tư ngay cả đến giai đoạn hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực... thì đều cần có vốn để trang trải mọi chi phí. Đặc biệt đối với một Công ty tư nhân với số vốn ít ỏi, các nguồn để huy động không đa dạng thì vì việc tìm kiếm các nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn cho hợp lý là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, mỗi nguồn vốn ta phải có phương pháp huy động và kế hoạch sử dụng phù hợp, do đó cần có sự nỗ lực của toàn Công ty. - Đối với nguồn vốn tự có (vốn chủ sở hữu): nguồn vốn này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn đầu tư nhưng có ý nghĩa rất quan trọng nó giúp Công ty chủ động trong quá trình đầu tư, để tăng nguồn vốn này thì cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng và tỷ suất sinh lời vốn đầu tư, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm xây lắp đồng thời cần trú trọng xử lý thu hồi công nợ, giảm lượng hàng tồn kho không cần thiết tức là làm cho lợi nhuận tạo ra tăng, tăng cao phần lợi nhuận trích ra để tiến hành tái đầu tư. Trong một dự án đầu tư cân đối phần lợi nhuận có thể giữ lại để tái đầu tư với phần dùng để hoàn vốn. Ví dụ như kế hoạch Dự án nhà máy nước trong 3 năm đầu Công ty dự định dùng toàn bộ lợi nhuận tạo ra để trả nợ do đó không có phần lợi nhuận để tái đầu tư, Công ty nên trích theo tỷ lệ phần trăm nào đó và tăng dần tỷ lệ này. Trong khi tiến hành khấu hao TSCĐ Công ty nên tiến hành khấu hao ở mức độ hợp lý nhất để sao cho vừa có lãi vừa đảm bảo giá thành sản phẩm xây lắp. - Vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Theo kinh nghiệm của các doanh nghiệp thì đây là nguồn vốn lớn giữ vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, nguồn vốn này được sử dụng rộng rãi để đổi mới máy móc thiết bị phục vụ hoạt động đầu tư và chi phí nâng cao năng lực điều hành, thi công của người lao động. Tuy nhiên những năm qua vốn vay Ngân hàng của Công ty còn hạn chế và phần vốn vay chủ yếu là ngắn hạn còn nguồn vốn vay dài hạn chiếm tỷ lệ rất ít vì những khắt khe về thế chấp trong quá trình ra quyết định cho vay của các ngân hàng. Do đó Công ty phải có phương án trả nợ tối ưu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và từng bước xây dựng uy tín của Công ty để có thể vay được vốn dài hạn với khối lượng và tỉ lệ lớn hơn nhằm phục vụ tốt hơn cho đầu tư. Tuy nhiên với chi phí vốn vay trên thị trường vốn ngày càng cao thì Công ty phải tính toán chi phí với hiệu quả sử dụng vốn cho hợp lý, so sánh kỹ lưỡng chi phí của các cơ hội đầu tư để có được phương án và cơ cấu vốn tối ưu. - Huy động vốn góp của cán bộ công nhân viên trong Công ty: khi Công ty thực hiện một dự án đầu tư mỗi khoản đóng góp dù nhỏ nhưng tập hợp lại Công ty sẽ có một khoản tương đối để trang trải cho các chi phí vì vậy Công ty nên huy động đóng góp của người lao động và trả tiền lãi cho họ hàng tháng không những Công ty có vốn để đầu tư mà còn có tác dụng thúc đẩy người lao động làm việc nhiệt tình hơn, gắn quyền lợi của họ với hiệu quả đầu tư, để họ hiểu rõ rằng sự tồn tại và phát triển của Công ty cũng chính là sự tồn tại và phát triển của họ và ngược lại từ đó tạo nên sự đoàn kết thống nhất từ trên Công ty xuống các đơn vị thành viên trong toàn Công ty. - Tận dụng chính sách cho trả chậm tiềm mua máy móc thiết bị: như hình thức mua trả góp nhờ đó mà Công ty không nhất thiết phải có một khoản tiền lớn ngay lập tức mới có thể mua được máy móc thiết bị. - Tiến hành huy động vốn thông qua hình thức liên danh liên kết nhờ đó Công ty có vốn đầu tư mà không phải trả chi phí sử dụng vốn. Tóm lại, thiếu vốn làm cho hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và Công ty Hoàng Hà nói riêng gặp rất nhiều khó khăn, thiếu vốn làm cho Công ty không có tiền để đầu tư máy móc thiết bị hoặc có đầu tư thì là máy đã qua sử dụng rồi đồng thời thiếu vốn làm cho Công ty bỏ lỡ nhiều cơ hội. Vì vậy khi đã có vốn trong tay Công ty phải có một cơ cấu tài chính tối ưu và có kế hoạch sử dụng vốn hợp lý nhất từ đó có thể trả nợ và tiếp tục vay tiếp. 2. Đầu tư và sử dụng có hiệu qủa máy móc thiết bị. Đứng trước thực trạng mặc dù máy móc đã được đầu tư mua sắm nhưng nhiều máy đã cũ và đầu tư không đồng bộ, Công ty cần đầu tư có trọng tâm vào máy móc thiết bị và đầu tư đổi mới dần dần (tránh tình trạng mua cũ mà không có các chuyên gia đánh giá chất lượng, năng lực của máy dẫn đến tình trạng vừa mua đắt nhưng máy không đáp ứng được yêu cầu về công suất, chất lượng) bởi vì bên cạnh việc phải đầu tư thêm máy móc thiết bị thì công ty có thể thuê ngoài theo ca theo ngày và có thể thuê lâu dài để tiến hành thi công. Việc đầu tư máy móc trong tình trạng khan hiếm vốn đầu tư đã khó nhưng sử dụng máy như thế nào cho có hiệu quả từ đó giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm xây lắp, tăng lợi nhuận để tích luỹ còn khó hơn rất nhiều do đó Công ty cần phải thực hiện các biện pháp sau: - Phải bố trí lao động sử dụng máy sao cho phù hợp với trình độ, tay nghề để máy phát huy tính năng công suất tối đa và có hiệu quả nhất. - Nếu phải tiến hành thuê máy bên ngoài thì phải căn cứ vào tình hình thực tế của công việc, dựa vào kế hoạch thi công từ đó xác định thuê máy theo thời gian hay theo ca. Nếu khối lượng công việc làm máy ít, thời gian thi công ngắn thì nên thuê máy ở ngoài, theo ca. Nếu khối lượng sử dụng máy theo thời gian dài và liên tục trong thời gian thi công thì nên thuê máy theo thời gian hợp đồng dài hạn sẽ giúp Công ty chủ động trong thi công vì máy móc thiết bị lúc nào cũng có sẵnvà tiết kiệm được chi phí do hạn chế được thời gian ngừng máy gây ra và chi phí vận chuyển đưa máy từ nơi thuê đến công trình. - Trong trờng hợp Công ty có máy nhưng yêu cầu công việc không cần sử dụng đến máy có năng lực sản xuất lớn như của Công ty thì Công ty có thể thuê máy ở ngoài có năng lực phù hợp và tiến hành cho thuê máy của mình và hưởng chênh lệch giữa giá đi thuê và giá cho thuê. - Có sự luân chuyển máy linh hoạt song song giữa hai xí nghiệp thi công xây lắp để sử dụng tối đa công suất của máy và tiết kiệm được chi phí bảo quản máy móc. - Thành lập tổ quản lý máy móc thiết bị để quản lý theo dõi tình hình sử dụng máy, có nhiệm vụ bảo trì, bảo dưỡng máy móc trong quá trình thi công. Các xí nghiệp lập kế hoạch thi công để sử dụng máy một cách tối đa. Đến hàng tháng, hàng quý tổ quản lý máy móc thiết bị báo cáo cụ thể tình hình biến động và sử dụng máy từ đó để có thể lập kế hoạch đầu tư mua sắm và bảo dưỡng sửa chữa máy móc có kết quả nhất cho hệ thống máy móc thiết bị của Công ty. Tóm lại Công ty đã giành nhiều vốn để đầu tư cho máy móc thiết bị nhưng về thực tế năng lực phục vụ của máy móc còn hạn chế do chủ yếu Công ty thường mua máy cũ, qua bảo dưỡng, sửa chữa nên công suất tối đa chỉ đạt khoảng 60-70% công suất thực tế, chi phí bảo dưỡng lớn làm cho tiến độ thi công nhiều khi chậm so với kế hoạch được lập ... Do đó Công ty cần đầu tư đổi mới nhiều nữa hơn nhưng đầu tư phải có trọng tâm máy móc thiết bị hiện có từ đó góp phần đẩy nhanh tiến độ thi công công trình. 3. Giải pháp về nhân sự, tăng cường sử dụng lao động địa phương. Trong cơ chế thị trường hiện nay, với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, Công ty cần phải có những giải pháp nhất định đối với nguồn nhân lực về cơ cấu, trình độ, về đào tạo, về tổ chức quản lý sử dụng lao động một cách có hiệu quả nhất để tiến tới hoàn thiện bộ máy tổ chức : tổ chức sản xuất các nguồn lực có hạn một cách có hiệu quả nhất phục vụ cho thực hiện mục đích tạo ra một tổ chức năng động, hiệu quả, nhạy cảm và có tính thích nghi với môi trường kinh doanh, tạo cơ chế quản lý đảm bảo sự nhịp nhàng đồng bộ trong hoạt động, phát huy cao độ tính chủ động sáng tạo của mỗi cá nhân. Cơ cấu tổ chức vừa đảm bảo sự ổn định lâu dài vừa năng động điều chỉnh phù hợp hoạt động kinh doanh trong từng thời kỳ. - Công ty cần phải hướng tới một cơ cấu lao động hoàn chỉnh đó là việc điều chỉnh về số lượng về tỉ trọng sao cho cân đối giữa các trình độ đại học - trung cấp - công nhân kỹ thuật, và phải điều chỉnh cân đối ngay cả trong cơ cấu bậc thợ công nhân kỹ thuật. - Cần trú trọng hơn nữa đến công tác tuyển chọn lao động, cần trực hiện tuyển chọ một cách chặt chẽ hơn, nên dựa vào năng lực và trình độ của người dự tuyển mà đánh giá và tuyển chọn bởi bì nếu đầu vào từ khâu tuyển chọn mà chính xác và chặt chẽ thì sẽ đảm bảo được trình độ tay nghề từ đó mà mặt bằng chung tay nghề được nâng cao, chất lượng và tiến độ thi công đảm bảo, giảm được chi phí cho công tác đào tạo và đào tạo lại không cần thiết... và kết quả là nâng cao lợi nhuận thu được. - Về chế độ cho người lao động cần được trú trọng để họ gắn quyền lợi của họ với quyền lợi của Công ty. - Tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên + Đội ngũ cán bộ quản lý cần phải được đào tạo có cơ bản, có hệ thóng kiến thức quản lý kinh doanh như tổ chức quản lý, năng lực điều hành kinh doanh, các hiểu biết cần thiết về pháp luật, tiền tệ, tín dụng... để họ có thể trở thành một đội ngũ doanh nhân có năng lực, phẩm chất. + Đội ngũ cán bộ lập hồ sơ dự thầu, lập dự án, thiết kế cần phải được đào tạo nâng cao trình độ, hiểu biết từ đó nội dung bài thầu được nâng cao caovề hình thức và bố cục caovề hình thức và bố cục, dự án được lập chính xác, bản thiết kế đẹp về hình thức và có chất lượng + Cần phải đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ công nhân kỹ thuật, thường xuyên mở các lớp thi nâng bậc cho đội ngũ công nhân, vì như trên đã đề cập hạn chế lớn của Công ty là tuyển người lao động chủ yếu dựa vào thân quen nên trình độ người lao động yếu kém. Để khắc phục hạn chế này thì Công ty cần phải lập ngân sách và có kế hoạch rõ ràng cho đào tạo trình độ và tay nghề của người lao động. - Sử dụng biện pháp đòn bẩy kinh tế để thúc đẩy, khuyến khích người lao động hăng hái và nhiệt tình trong công việc, cho người lao động thấy rõ quyền lợi của mình, gắn quyền lợi của họ với chất lượng công trình và năng suất lao động, như có chế độ khen thưởng đối với những cá nhân có sáng kiến hay, hoàn thành công việc với tiến độ và chất lượng tốt. Ngược lại có thể sử dụng biện pháp phạt trừ vào tiền công nếu người lao động không làm đúng hợp đồng, không đúng tiến độ thi công, chất lượng công trình không đảm bảo, có sự so sánh với các doanh nghiệp khác về điều kiện làm việc, phúc lợi từ đó có điều chỉnh cho phù hợp để người lao động gắn bó với Công ty. - Tận dụng đặc điểm ngành nghề kinh doanh, Công ty nên tăng cường sử dụng lao động địa phương, bố trí lao động hợp lý. + Trước khi tiến hành xây dựng một công trình hay san lấp một dự án Công ty cần lập kế hoạch và tiến độ thi công, xác định công việc trước, công việc làm sau, những công việc nào có thể tiến hành đồng thời (xác định theo sơ đồ Pert), từ đó mà xác định số lao động cần thiết cho mỗi công việc, cho mỗi giai đoạn của công trình để từ đó biết được tình hình thừa thiếu lao động để chủ động điều phối cho phù hợp. + Khi xác định được nhu cầu cho từng công việc, từng thời kỳ thì cần sắp xếp, bố trí lao động một cách khoa học, đúng tay nghề và máy móc, tránh sự chồng chéo. Với những công việc yêu cầu về kỹ thuật và mỹ thuật cao thì nhất thiết phải bố trí những người công nhân có tay nghề cao đảm nhiệm. Ngược lại đối với những công việc đơn giản, yêu cầu về kỹ thuật và mỹ thuật không cao, lao động phổ thông cũng có thể làm được thì có thể sử dụng lao động địa phương vào những công việc này sẽ đem lại lợi ích cho Công ty trong việc giảm chi phí nhân công bởi vì năng suất lao động do trình độ tay nghề công nhân, mức độ cơ giới hoá và trình độ tổ chức, phối hợp lao động qui định. Do đó nếu biết kết hợp hài hoà yêu cầu công việc, trình độ tay nghề và trang máy móc thiết bị sẽ tạo ra được năng suất lao động cao đẩy nhanh tiến độ thi công và nâng cao chất lượng công trình... ngoài ra việc thuê thêm lao đông ngoài (lao động địa phương - hợp đồng thời vụ) còn có tác dụng nâng cao trình độ chuyên môn hóa trong xây lắp của đội ngũ công nhân viên giúp họ giỏi một nghề, biết nhiều nghề. Mỗi công nhân chuyên về một nghề hiểu rõ công việc của mình làm tăng năng suất lao động, đào sâu suy nghĩ có những sáng kiến trong thi công xây lắp để đẩy nhanh tiến độ và chất lượng thi công nhưng đồng thời họ cũng có thể đảm nhiệm được công việc của người khác trong trường hợp công việc đó chưa có người đảm nhiệm hoặc trong thời gian họ nghỉ về một lý do nào đó làm cho công việc được tiến hành liên tục không bị gián đoạn. + Bên cạnh việc thuê lao động địa phương Công ty cần phải phát huy năng lực của lao động hiện có, giúp họ có kinh nghiệm trong lao động, quản lý và hướng dẫn lao động địa phương, tăng cường đôn đốc họ thực hiện đúng tiến độ, đúng yêu cầu. 4. Nâng cao hiệu quả sử dụng thành quả đầu tư 4.1. Lựa chọn phương án thi công hợp lý Cùng với một công trình dự thầu, một khối lượng công việc các Công ty dự thầu đưa ra các giá tranh thầu khác nhau. Sở dĩ như vậy là vì các Công ty áp dụng các phương pháp thi công khác nhau và tiến độ thực hiện cũng khác nhau. Công ty nào xác định được phương pháp thi công tối ưu nhất, có giá cả phù hợp nhất sẽ được chủ đầu tư chấp thuận. Phương án thi công tối ưu phải đảm bảo: thời gian thi công hợp lý và nhanh nhất, chi phí bảo quản vật tư thấp nhất, thời gian sử dụng nhân công giảm. Vì vậy khi thi công phải lường hết được những nhuyên nhân làm cho việc thi công gián đoạn. Có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu tập trung vào một số nguyên nhân sau: - Do thời tiết: việc thi công phần lớn được thực hiện ngoài trời do đó thời tiết sẽ có tác động trực tiép đến tiến độ thi công, tới việc khai thác vận chuyển vật tư, thiết bị . - Do thiếu vật tư thi công - Khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho thi công ... Vì vậy phương án thi công được lựa chọn phải đảm bảo: - Tăng cường cơ giới hoá đồng bộ công tác thi công xây lắp. - Tăng cường xưởng hoá sản xuất thi công xây dựng, chia các công việc gần giống nhau về cấu tạo sản phẩm và phương pháp sản xuất như nhóm cốt thép, nhóm mộc để tiện cho sản xuất chuyên môn hoá sản xuất. - Tổ chức thi công phải tạo điều kiện quá trình thi công được liên tục. - Trong quá trình thi công thì thi công phần ngầm trước, phần nổi sau, công việc có tính chất tuần tự phải làm dứt điểm, các công việc tiến hành song song phải bố trí mặt bằng hợp lý, cung ứng nguyên vật liệu, máy móc đầy đủ tránh chồng chéo, việc thi công các hạng mục đã hoàn thành không ảnh hưởng đến việc sử dụng các hạnh mục đã hoàn thành. Sau khi xác định được trình tự các bước công việc phải làm của một hạng mục và thời gian hoàn thành của các bước công việc thì có thể quản lý tiến độ thi công bằng cách sử dụng sơ đồ Pert để xác định được thời gian thi công hoàn thành sớm nhất và muộn nhất, công việc nào cần quản lý chặt chẽ để không ảnh hưởng đến tiến độ thi công và ngày hoàn thành công trình tránh được việc kéo dài thời gian thi công một cách không cần thiết. Khi tiến hành đẩy nhanh tiến độ thi công cần cân đối giữa chi phí tiết kiệm được và chi phí phát sinh cho hợp lý. 4.2. Đổi mới phương pháp quản lý và chế độ hạch toán kinh doanh. * Tăng cường công tác quản lý nguyên vật liệu một cách chặt chẽ ở cả hai khâu nguyên vật liệu và sử dụng nguyên vật liệu. -Khâu mua nguyên vật liệu + Trong thiết kế kỹ thuật phải có phương án sử dụng nguyên vật liệu có giá thành hạ nhưng đảm bảo yêu cầu chất lượng, sử dụng nguyên vật liệu tại địa phương để giảm chi phí vận chuyển, xác định khâu nào cần thi công cần mua bán thành phẩm bên ngoài, khâu nào tự chế tạo. + Trong quá trình lập dự toán phải xác định nguồn cung ứng nguyên vật liệu, xây dựng định mức sử dụng nguyên vật liệu trên cơ sở đơn giá mà Nhà nước ban hành phù hợp với thực tế của Công ty từ đó mà có kế hoạch mua nguyên vật liệu với khối lượng hợp lý phù hợp với yêu cầu thi công của từng công trình.Công ty có đội xe chuyên chở nguyên vật liệu từ nơi mua về kho, công trường cộng thêm cả số lượng xe thuê ngoài chuyên chở. Để tránh tình trạng khai tăng khối lượng nhâp, chuyên chở của từng xe Công ty cần có đội giám sát kiểm tra số lượng và biển số xe chuyên chở xem số chuyến một xe chở trong một ngày đã phù hợp chưa, khối lượng có phù hợp thực tế nhập không từ đó mà giảm được chi phí chuyên chở bên ngoài chở thuê khai tăng số chuyến... Trên thực tế Công ty tích trữ nhiều nguyên vật liệu điều này gây nên tình trạng ứ đọng vốn đầu tư trong tình trạng thiếu vốn đầu tư, sử dụng vốn đầu tư không hợp lý do đó không hiệu quả. + Thường xuyên theo dõi thông tin về giá cả thị trường của các loại nguyên vật liệu. Công ty cần phải có một máy tinh được nối mạng internet để nhanh chóng cập nhập thông tin về thị trường trên địa bàn Hà Nội, trên cả nước và trên thế giới để nắm bắt được nhiều cơ hội. - Khâu sử dụng nguyên vật liêu để thi công xây lắp Công ty không chỉ chú ý dến khâu mua nguyên vật liệu mà sử dụng nguyên vật liệu một cách tiếp kiệm và hiệu quả là quan trọng nhất vì: + Trong công tác quản lý nguyên vật liệu, tồn đọng lớn nhất là khâu quản lý và sử dụng. Chỉ một số nhỏ vật liệu là được đảm bảo trong kho, số còn lại để ngoài trời chịu sự tác động của yếu tố tự nhiên cộng với tình trạng mất mát. Hiện tượng này phổ biến trong xây dựng vì mặt bằng thi công chật hẹp, nó vừa là nơi bố trí thi công vừa là nơi bảo quản nguyên vật liệu. Do đó khó có điều kiện để xây dựng nơi bảo quả vật liệu tránh mưa nắng. Biện pháp khắc phục là bố trí đảm bảo cho việc bảo quản trong nhà kho, lều lán đối với vật liệu có giá trị cao, để giảm chất lượng thậm chí hư hỏng do mưa nắng như: xi măng, vôi, sắt thép, thiết bị nội thất..., chỉ để ngoài trời những loại như: gạch xây, cát, sỏi đá... nhưng cần phải đảm bảo tốt tránh bừa bãi, lang phí, mất mát và giảm không gian do vật liệu chiếm. + Trong khâu cấp phát nguyên vật liêu, cần có sự giám sát chặt chẽ, thường xuyên kiểm tra, kiểm soát tránh cấp thừa cấp không đủ chủng loại. Đồng thời cũng phải có những biện pháp đối với những cá đó nhân làm lãng phí nguyên vật liêu. phải quy trách nhiệm bồi thường cho các cá nhân đồng thời có chế độ khen thưởng cho những cá nhân có thành tích trong công tác tiết kiệm, sử dụng hợp lý nguyên vật liêu. do các công trình mà Công ty đang thực hiện ở nhiều nơi, nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu của Công ty là thường xuyên nên Công ty giao cho từng xí nghiệp xí nghiệp 1/5, xí nghiệp xây lắp1,2 ) trực tiếp quản lý. Do vậy khi Công ty phải tổng hợp số liệu của các xí nghiệp mới có thuê quản lý được và theo dõi xuất vật tư là rất khó và phức tạp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp phát vật tư và tiện theo dõi vẫn dảm bảo tiến độ thi công thì Công ty nên sử dụng “phiếu xuất vật tư theo định mức” để theo dõi việc cấp phát vật tư đối với từng xí nghiệp từng đội thi công từ đó kiểm tra theo dõi điều chỉnh cho kịp thời và phù hợp. * Chế độ hoạch toán kinh doanh. Thực tế ở Công ty công tác tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính như việc lập bảng, cân đối kế toán của Công ty đều thực hiện bởi các nhân viên kế toánchứ chưa sử dụng bằng máy điều này có một hạn chế lớn vì không sử dụng bằng máy độ chính xác chưa cao, tiến độ hoạch toán không đảm bảo vì vậy Công ty cần phải đổi mới phương pháp hạch toán,cần phải sử dụng thống nhất một chương trình kế toán máy, đội ngũ nhân viên kế toán trong Công ty cần phải được đào tạo để vận dụng chương trình này một cách thành thạo ... 5. Đầu tư vào tài sản vô hình (thành lập phòng Marketing). Thực tế Công ty chưa nhận thức được đủ và coi hệ thống quản lý marketing như một công cụ để thích nghi với môi trường kinh doanh nên Công ty thường lúng túng bị động trước những thay đổi của thị trường do đó cần phải thành lập phòng maketing và xây dựng tổ chức thực hiện với 3 chiến lược: khách hàng, cạnh tranh và thích nghi thông qua tiến bộ khoa học kĩ thuật bởi vì: + Một giải pháp không kém phần qua trọng trong việc nâng cao kết quả và hiệu quả đầu tư, khả năng cạnh tranh là tìm hiểu nghiên cứu thị trường, đối thủ, nghiên cứu thị hiếu khách hàng cũng như phong tục tập quán của từng khu vực, từng lãnh thổ để đưa ra những hướng xử lý, thiết kế và xây dựng công trình một cách phù hợp đồng thời trong quá trình nghiên cứu thị trường, khách hàng Công ty có thể phát hiện ra năng lực của Công ty trong việc phục vụ thị trường ở một lĩnh vực, ngành nghề khác, tiến tới đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh hỗ trợ lĩnh vực kinh doanh chính. Đây chính là nhiệm vụ, vai trò công tác marketing. + Việc nghiên cứu nắm bắt những thông tin về thị trường sẽ giúp các cán bộ quản lý, các nhà chức trách của doanh nghiệp vạch được những chiến lược cụ thể trong việc giữ gìn thị trường hiện có và mở rộng sang khu vực khác. + Việc nghiên cứu thị trường giúp cho Công ty biết được xu hướng biến động của giá cả thị trường nguyên vật liệu trong và ngoài nước để từ đó có những quyết định trong mua và dữ trữ nguyên vật liệu cho phù hợp. + Lập chiến lược trong quảng cáo giới thiệu về hình ảnh của Công ty nhờ đó nâng cao vị thế của Công ty trên thị trường. + Công ty nên trích một ngân sách, một phòng riêng và tuyển chọn đội ngũ nhân viên có trình độ cho hoạt động này. 6. Giải pháp cho các dự án đầu tư của Công ty Công ty nên có giải pháp cho từng dự án đầu tư cả trong 3 khâu : lập chiến lược đầu tư, lập dự án đầu tư và thực hiện dự án đầu tư *. Lập chiến lược đầu tư Công ty nên lập chiến lược đầu tư rõ ràng cho từng dự án, các nội dung trong chiến lược phải rõ ràng và có tính khả thi, và có tính thuyết phục, phù hợp với năng lực của Công ty, để có chiến lược đầu tư tốt thì cần phải đào tạo đội ngũ lập chiến lược, chi phí thích đáng cho công tác nghiên cứu thị trường. *. Lập dự án Lập BCNCKT là công tác quan trọng nhất trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Tổng chi phí cho giai đoạn này chiếm từ 0,5 - 15% tổng vốn đầu tư của dự án, làm tốt công tác này sẽ tạo tiền đề cho việc sử dụng tốt 85-99,5% trong giai đoạn thực hiện đầu tư do đó trong quá trình soạn thảo phải dành đủ thời gian và chi phí theo đòi hỏi của nghiên cứu. - Đối với những dự án quy mô nhỏ vừa với sức lực của công ty thì Công ty nên tự thực hiện để giảm chi phí, các nhiệm vụ trong công tác lập phải được phân đúng người đúng trình độ chuyên môn đồng thời phải có chế độ khen thưởng và bồi dưỡng cho những người làm công tác lập. - Đối với những dự án lớn Công ty không thể đảm đương thì nên thuê tư vấn bên ngoài lập để được BCNCKT có chất lượng, các chỉ tiêu được tính toán chính xác đồng thời có thể lường trước những rủi ro có thể xảy ra. *. Thực hiện dự án Công ty nên nhiệm vụ thi công cho từng xí nghiệp theo đúng kế hoạch được lập, lập ban quản lý để thường xuyên kiểm tra giám sát tiến độ và chất lượng thi công dự án, trong công tác mua sắm máy móc thiết bị Công ty nên tham khảo các chuyên gia và nên thuê tư vấn giám định chất lượng máy móc để mua được máy móc thiết bị với giá hợp lý và chất lượng cao. Kết luận Xây dựng thủ đô Hà Nội trở thành trung tâm chính trị văn hoá, khoa học - kỹ thuật tài chính thương mại và kinh tế của Việt Nam như nghị quyết 08 Bộ chính trị đã khẳng định là nhiệm vụ hàng đầu của thủ đô trong đó đầu tư xây dựng đô thị mới Hà Nội góp phần làm giảm bớt căng thẳng về nhà ở, về hạ tầng kỹ thuật và môi trường đô thị đồng thời xây dựng được một đô thị chuẩn mực hiện đại góp phần phát triển kinh tế xã hội trong những năm đầu thế kỷ XXI là chiến lược phát triển của thủ đô đã đặt ra cho Công ty nhiều cơ hội trong quá trình tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước và tích luỹ phát triển Công ty. Từ thực trạng đầu tư và kết quả mà Công ty đã đạt được đã tạo cho Công ty hành trang kha khá trên con đường phát triển tuy nhiên trong thị trường cạnh tranh khốc liệt này Công ty cần phải đầu tư có trọng tâm hơn nữa, nâng cao hiệu quả hoạt động và tìm hướng đi đúng cho chính mình. Với cá nhân tôi, trong thời gian thực tập tại Công ty, thời gian tuy ngắn nhưng có ý nghĩa thiết thực trong việc tiếp cận thực tiễn, học hỏi kinh nghiệm phong cách làm việc và đặc biệt hiểu sâu hơn về vai trò của hoạt động đầu tư mà đặc biệt là đầu tư phát triển đối với sự tồn tại và phát triển của một Doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế của một đất nước nói chung. Với sự nỗ lực của toàn Công ty phát huy nền tảng mà Công ty đã tạo dựng được tôi tin chắc rằng Công ty sẽ khẳng định được mình bằng hiệu quả kinh doanh. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy cô bộ môn Kinh tế đầu tư và Công ty đã giúp đỡ tôi rất nhiều để tôi hoàn thành chuyên đề thực tập của mình. Do trình độ còn hạn chế rất mong sự đóng góp của thầy cô và Công ty để chuyên đề hoàn thiện hơn. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế đầu tư. Chủ biên: PGS. PTS. Nguyễn Ngọc Mai. Nhà xuất bản giáo dục năm 1998. 2. Giáo trình Lập và Quản lý Dự án Đầu tư. Chủ biên: TS. Nguyễn Bạch Nguyệt. Nhà xuất bản thống kê năm 2000. 3. Tạp chí Xây dựng 2001- 2003 4. Giáo trình Quản lý Dự án Đầu tư. Chủ biên: Th.S. Từ Quang Phương Nhà xuất bản giáo dục năm 2001. 5. Phát triển và quản lý các DNNQD. Chủ biên: TS. Nghiêm Xuân Đạt, GS.TS. Tô Xuân Dân, TS. Vũ Trọng Lâm. Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật Hà Nội 2002. 6. Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tư xây dựng trạm cấp nước sạch Đại Kim - Định công. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0058.doc
Tài liệu liên quan