A. LờI Mở ĐầU.
Trong những năm gần đây diện tích đất nông nghiệp của Hà Nội đang có xu hướng dần bị thu hẹp do quá trình đô thị hoá cùng với chủ trương xây dựng các khu chung cư của thành phố. điều này đã đặt sản xuất nông nghiệp của các huyện ngoại thành vào một thách thức mới đó là đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về số lượng và chất lượng nông sản trong điều kiện đất nông nghiệp ngày càng có xu hướng thu hẹp. Vấn đề đặt ra cho nông nghiệp ngoại ô hiện nay, làm thế nào để nâ
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp Tiêu thụ sản phẩm rau an toàn trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng được giá trị thu được trên một đơn vị diện tính nhưng những sản phẩm tạo ra đảm bảo về chất lượng.
Trước tình hình trên, sản xuất nông nghiệp của các huyện ngoại thành nói chung và sản xuất rau nói riêng đã dần phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, sản phẩm làm ra trên cơ sở nhu cầu của thi trường, chứ không phải sản xuất những sản phẩm mà địa phương có.
Mặc dù vậy, sản xuất rau an toàn trên địa bàn Hà Nội chưa thực sự phát triển, thu nhập của người sản xuất rau an toàn vẫn chưa cao bởi quá trinh tiêu thụ rau an toàn còn gặp phải một số khó khăn đó là: người tiêu dùng chưa thực sự tin tưởng sản phẩm rau là rau an toàn, quá trình tiêu thụ sản phẩm rau an toàn còn mang tính tự phát, chưa có hệ thống...Do vậy mà phần lớn lượng rau an toàn sản xuất ra vẫn phải tiêu thụ với giá rau thường hoặc thấp hơn rau thường, không có dấu hiệu an toàn, điều này đã gây ảnh hưởng rất lớn đến kết quả và hiệu quả thu được do vậy. Phát triển sản xuất rau an toàn chậm, không ổn định, chưa đáp ứng được nhu cầu của thành phố đặt ra.
Trước thực trạng đó, việc tìm hiểu thực tiễn quá trình tiêu thụ rau an toàn tại Hà Nội, xác định những thuận lợi và khó khăn trên cơ sở đó đề ra một số biện pháp chủ yếu góp phần đẩy mạnh quá trình sản xuất và tiêu thụ rau an toàn tại Hà Nội là việc làm cần thiết. Do vậy em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp tiêu tụ sản phẩm rau an toàn trên địa bàn Hà Nội”.
B. NộI DUNG.
Chương I: cơ sở lý luận và thực tiễn về tiêu thụ rau an toàn.
I.MộT Số VấN Đề Lý LUậN Về TIÊU THụ RAU AN TOàN.
1. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhìn một cách khái quát thì hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường được phân chia thành ba giai đoạn khác nhau, tương ứng với các đặc trưng của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Giai đoạn cung ứng: là giai đoạn doanh nghiệp tiến hành các hoạt động mua hoặc thuê các yếu tố đầu vào (sức lao động, máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu) trên thị trường để chẩn bị cho giai đoạn sản xuất.
- Giai đoạn sản xuất :là giai đoạn có nhiệm vụ tổ chức sản xuất nhằm phối kết hợp các yếu tố đầu vào tốt nhất, sản phẩm đầu ra có thể là những sản phẩm vật chất (vật phẩm) hoặc sản phẩm phi vật chất (dịch vụ).
- Giai đoạn tiêu thụ: là giai đoạn ma doanh nghiệp bán các sản phẩm, dịch vụ sản xuất ra trên thị trường để thu tiền về. Nguồn tiền thu về được tiếp tục đầu tư trở lại, dùng để trả lương, mua sắm thêm máy móc thiết bị, xây dựng, mở rộng nhà xưởng, mua nguyên vật liệu để chuẩn bị cho kỳ sản xuất tiếp theo.
Như vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là là một chu trình khép kín được bắt đầu từ giai đoàn cung ứng và được kết thúc ở giai đoạn tiêu thụ sản phẩm, có thể mô tả hoạt động của một doanh nghiệp sản xuất giản đơn như sau:
T1 H1 SX H2 T2 (T2 > T1)
Cung ứng Sản xuất Tiêu thụ
Theo mô hình trên, doanh nghiệp dùng một khoản tiền T1 để mua hàng hoá H1 (các yếu tố đầu vào) và dưới tác động của các biện pháp cơ, ly, hoá, sinh của giai đoạn sản xuất, H1 biến thành sản phẩm H2. Doanh nghiệp bán H2 và thu về một lượng tiền T2.
Nếu xét hoạt đông sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chỉ để tồn tại thì doanh nghiệp sẽ bán sản phẩm H2 và thu được số tiền T2 vừa bằng T1.. Nghĩa là lượng tiền doanh nghiệp thu về sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh chỉ vừa đủ để chi trả các khoản tiền lương, khấu hao máy móc, thiết bị nhà xưởng, chi phí nguyên vật liệu mà không có tích luỹ.
Song trên thực tế, không có doanh nghiệp nào lại chỉ đặt ra mục tiêu tồn tại mà ngược lại tăng trưởng và phát triển luôn là mục đích cao nhất đối với mọi doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, doanh nghiệp cần phải đạt được lượng T2>T1, khi đó khoản chênh lệch là khoản tiền lãi, một phần được sử dụng để tái đầu tư mở rộng, phần khác được dùng để tích luỹ.
2 . Một số vấn đề về tiêu thụ sản phẩm.
2.1. Khái niệm, ý nghĩa và yêu cầu về tiêu thụ sản phẩm.
*Khái niệm.
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất, là quá trình chuyển hoá quyền sở hữu và quyền sử dụng hàng hoá, tiền tệ giữa các chủ thể kinh tế. Qúa trình tiêu thụ hàng hoá được chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và dòng chu chuyển vốn của đơn vị sản xuất kinh doanh được hoàn thành. Từ đó tạo ra cơ sở thu hồi chi phí và tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng.
* ý nghĩa.
Những hoạt động kinh doanh trên thị trường diễn ra sôi động với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, chiến lược tiêu thụ sản phẩm thể hiện rõ vai trò ở những mặt sau:
- Trong quá trình sản xuất kinh doanh, khâu sản xuất và khâu tiêu thụ có mối liên hệ chặt trẽ, tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau, ý nghĩa quan trọng của sản xuất là ở chỗ nó tạo ra sản phẩm xã hội và phục vụ cho tiêu dùng xã hội.
-Tiêu thụ sản phẩm còn quyết định khâu cung ứng đầu vào. Tiêu thụ quyết định khối lượng, chất lượng nhịp độ sản xuất ra sản phẩm, do đó sản phẩm lại quyết định khâu cung ứng, phải cung cấp cho nó bao nhiêu những phương tiện, thiết bị nguyên vật liệu, với thời gian và nhịp điệu cung cấp thế nào.
-Tiêu thụ sản phẩm quyết định đến kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
-Đối với xã hội, hoạt động tiêu thụ phát triển có tác dụng thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hoá, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất tăng lên, tạo ra nhiều sản phẩm làm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
*Yêu cầu.
-Ngày nay cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật, công nghệ, sản phẩm được sản xuất ra rất đa dạng về chủng loại, chất lượng và số lượng có xu hướng tăng nhanh, vượt qua nhu cầu của xã hội. Lúc này, ưu thế trên thị trường thuộc về người mua, mức độ cạnh tranh trong khâu tiêu thụ diễn ra hết sức gay gắt.
-Hoạt động tiêu thụ sản phẩm sẽ làm tăng uy tín, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
-Tiêu thụ sản phẩm phải nhằm thực hiện mục tiêu phạm vi khách hàng, thoả mãn các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
2.2. Sản phẩm - sản phẩm hàng hóa.
* Sản phẩm.
Sản phẩm là kết quả của một cá nhân, tổ chức doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực để tạo ra. Như vậy, sản phẩm có thể là những vật phẩm tồn tại dưới hình thức vật chất hoặc ở dạng phi vật chất.
Trong cơ chế thị trường, nhiều doanh nghiệp cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh và cung ứng một hay nhiều loại sản phẩm, nên vấn đề cạnh tranh là không thể tránh khỏi và ngày càng gay gắt. Vì vậy việc nghiên cứu, triển khai sản xuất các sản phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp mục tiêu tiêu thụ sản phẩm trở nên dễ dàng hơn và đảm bảo thực hiện có hiệu qủa trên cơ sở thoả mãn nhu cầu của thị trường trong từng thời kỳ hoạt động cuả doanh nghiệp.
* Sản phẩm hàng hoá.
Giữa sản phẩm và hàng hoá có một khoảng cách, sản phẩm chỉ có thể trở thành hàng hoá khi và chỉ khi nó được đem ra trao đổi buôn bán trên thị trường.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hàng hoá. Dưới đây là những định nghĩa phổ biến nhất:
-Quan điểm cổ điển: hàng hoá là những sản phẩm được sản xuất, không phải để phục vụ mục đích tiêu dùng cá nhân của nhà sản xuất mà nhằm mục đích bán, trao đổi trên thị trường.
-Quan điểm Marketing: hàng hoá là tất cả những gì có thể thoả mãn được nhu cầu hay mong muốn và được bày bán trên thị trường với mục đích thu hút sự chú ý mua, sử dụng hay tiêu dùng. Đó có thể là những vật thể hữu hình, dịch vụ, người, mặt hàng, tổ chức và ý tưởng.
3. Một số vấn đề lý luận về tiêu thụ rau an toàn .
3.1 Một số cơ sở lý luận về rau an toàn .
* Rau an toàn.
Rau xanh là các sản phẩm rau được tiêu thụ trên thị trường dưới dạng sản phẩm tươi (không qua chế biến).
Rau an toàn là khái niệm xuất hiện ở nước ta trong thời gian gần đây trước tình hình một số sản phẩm rau xanh được tiêu thụ trên thị trường đã gây ngộ độc thực phẩm cho người sử dụng. Mặc dù chưa được đinh nghĩa chính thức khái niệm rau an toàn được một số tác giả đưa ra như sau:
Sản phẩm rau được xem như là sạch (an toàn) phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
+ Sạch, hấp dẫn về hình thức: Tươi, sạch bụi bẩn, tạp chất, thu đúng độ chín (khi có chất lượng cao nhất), không có triệu chứng bệnh, có bao bì vệ sinh hấp dẫn.
+ Sạch, an toàn về chất lượng: Khi sản phẩm rau có chứa dư lượng thuốc bảo vệ thưc vật, dư lượng Nitrat, dư lượng kim loại nặng và lượng vi sinh vật gây hại không vượt quá ngưỡng cho phép của tổ chức Y tế thế giới.
*Đặc điểm sản xuất rau và rau an toàn.
Rau an toàn trước hết là sản phẩm của quá trình sản xuất nông nghiệp bởi vậy nó có những đặc điểm chung của sản phẩm nông nghiệp: đối tượng của sản xuất nông nghiệp là sinh vật, sản xuất phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, phân bố sản xuất không tập trung, sản phẩm vừa tiêu dùng tại chỗ vừa trao đổi trên thị trường, cung về nông sản hàng hoá và cầu về đầu vào có tính thời vụ và sản phẩm nông nghiệp có liên quan chặt chẽ với các doanh nghiệp dịch vụ.
Sản xuất rau yêu cầu lao động cao. Sản phẩm là thân lá, củ có hàm lượng nước cao do vậy khó khăn trong bảo quản, tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác trong rau chứa hàm lượng nước tới 80-90% do vậy yêu cầu chế độ nước tưới nghiêm ngặt.
Sản xuất rau an toàn phải tuân thủ theo những quy định nghiêm ngặt từ việc quy hoạch vùng sản xuất, kỹ thuật canh tác, thu hoạch, bảo quản và lưu thông tới người tiêu dùng trên cơ sở điều kiện môi trường và tập quán canh tác từng vùng, chú trọng dựa trên những nguyên tắc về kỹ thuật như sau:
-Đất trồng: đất cao, thoát nước, thích hợp sinh trưởng, phát triển cây rau. Vùng trồng rau phải cách ly với khu vực có chất thải công nghiệp, bệnh viện (ít nhất 2km)và khu vực chất thải sinh hoạt của thành phố (ít nhất 200m).
-Nước tưới: trong rau xanh nước chứa trên 90%, vì vậy nước tưới ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm, cần sử dụng nước sạch để tưới như nước giếng khoan, nước sông, ao hồ trong, không ô nhiễm.
-Giống: sử dụng hạt giống tốt và trồng cây con khoẻ mạnh, không có bệnh tật, hạt giống trước khi gieo trồng cần được xử lý hoá chất hoặc nhiệt, cần biết rõ lý lịch, nơi sản xuất hạt giống. Đối với những giống nhập nội phải qua kiểm dịch thực vật.
-Phân bón: không dùng phân hữu cơ còn tươi và nước phân pha loãng bón cho rau, sử dụng các loại phân bón hoá học tuỳ theo yêu cầu sinh lý của cây và phải kết thúc bón trước khi thu hoạch 7-10 ngày với rau có thời gian sinh trưởng ngắn, 10-12 ngày với rau có thời gian sinh trưởng dài, đối với các loại phân bón lá và các loại chất kích thích sinh trưởng cần sử dụng theo chỉ dẫn, kết thúc phun trước khi thu hoạch 5-10 ngày.
-Bảo vệ thực vật: không sử dụng thuốc hoá học bảo vệ thực vật thuộc nhóm độc 1 và 2, nếu thấy cần thiết có thể sử dụng thuốc nhóm 3 và 4. Kết thúc phun thuốc hoá học trước khi thu hoạch ít nhất 5-10 ngày. ưu tiên sử dụng các chế phẩm sinh học (BT, hạt củ đậu...), các chế phẩm thảo mộc, các kí sinh thiên địch để phòng bệnh. áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp phòng trừ tổng hợp (IPM).
-Thu hoạch, bao gói: rau được thu hoạch đúng độ chín, loại bỏ phần kém chất lượng, rửa sạch bằng nước sạch, để ráo và cho vào bao, túi sạch trước khi mang đi tiêu thụ tại các cửa hàng.
* Tiêu chuẩn rau an toàn của thế giới và Việt Nam.
Theo các nhà nghiên cứu, hàm lượng các yếu tố gây ô nhiễm trên các sản phẩm rau như hàm lượng nitrat, kim loại nặng, hoá chất bảo vệ thực vật, vi sinh vật...có thể gây độc hại tới sức khoẻ người sử dụng tùy thuộc vào mức độ gây ô nhiễm. Vì lẽ đó, sản phẩm rau được xem là an toàn khi đáp ứng được các thông số kỹ thuật cho phép của các cơ quan giám định chất lượng và ở mỗi quốc gia đều xây dựng các chỉ tiêu phù hợp. Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), dư lượng cho phép trong sản phẩm rau đối với các yếu tố ô nhiễm như sau:
Bảng 1. Ngưỡng cho phép dư lượng nitrat trong một số loại rau (theo quy định của WHO)
ĐVT: mg/kg sản phẩm
Loại rau
Dư lượng
Loại rau
Dư lượng
Bắp cải
Cà rốt
Cải củ
Hành củ
Hành lá
500
250
1.400
60
400
Dưa chuột
Cà chua
Khoai tây
Súp lơ
Xà lách
Rau thơm
150
150
150
250
200
200
(Nguồn: FAO, 1993)
Bảng 2. hàm lượng kim loại nặng( theo quy định của WHO)
ĐVT: mg/kg sản phẩm
Loại kim loại
Dư lượng
Loại kim loại
Dư lượng
Chì(pb)
Asen(as)
đồng(cu)
Thiếc(sn)
Palutin
0.5
0.2
5.0
200.0
0.05
Camidi(cd)
Thuỷ ngân(hg)
kẽm(zn)
aplatoxin(bl)
0.03
0.02
10.0
0.005
(Nguồn: FAO, 1993)
ở Việt Nam, vấn đề nghiêm cứu về rau an toàn được các nhà khoa học quan tâm từ những năm 1990 và tới năm 1996, tiêu chuẩn tạm thời về rau an toàn đã được bộ khoa học công nghệ và môi trường ban hành. Các tiêu chuẩn này dựa trên tiêu chuẩn của WHO, được đưa vào áp dụng trong việc quản lý sản xuất và lưu thông sản phẩm ở Việt Nam.
3.2. Tình hình tiêu thụ rau trong nước và thế giới.
* Tình hình tiêu thụ rau trên thế giới.
Tuỳ theo phông tục, tập quán của từng nước mà rau được sử dụng các phương thức chế biến khác nhau. ở các nước phát triển, rau thường được nấu chín và ăn như món ăn thêm hoặc lẫn với thịt, cá hay thức ăn khác. Những món phụ gia không nấu được gọi là salad là một phần trong bữa ăn hàng ngày.
Rau được chế biến dưới dạng như luộc, chiên, áp chảo, nấu cari, rán, nướng, hoặc nướng lò..... chúng được nấu với nước, dầu, nước dừa, hoặc đôi khi nấu với rượu. Chúng được ăn với các loại gia vị và nước sốt khác nhau. một số loại rau như muùi tây, tỏi ăn lá, cà chua và cải củ được dùng làm đồ trang điểm cho các món ăn trong các dịp lễ tết, họ có thể ăn hoặc không. Tại các nước phát triển nhu cầu rau tươi rất cao. Riêng đối với một số nước có mùa đông kéo dài thường phải dùng cả rau đông lạnh, nhưng sở thích của họ vẫn là rau tươi, hầu hết các loại rau đều được dùng thông qua chế biến, một phần nhỏ được dùng đóng hộp và giầm giấm. Một số loại rau có thể được để đông lạnh như đậu các loại.... đối với các nước Châu Phi lại có kiểu sử dụng rau khác so với tình hình sử dụng chung. Ví dụ, trồng sắn ngoài việc ăn củ họ còn dùng cả lá.
Mức tiêu thụ rau khác nhau tuỳ theo mỗi quốc gia và thường phụ thuộc vào mức thu nhập, tuy nhiên có một số nước còn phụ thuộc vào tập quán ăn uống của dân tộc.
ở Indonesia, mức tiêu dùng rau là 22kg/người/năm, hàng năm xuất khẩu rau sang Malaysia và Singapo. Theo tác giả Darmawan và cộng sự cho biết 99% sản lượng rau là sản phẩm hàng hoá, do đó phải có sự liên kết chặt chẽ thị trường toàn quốc. Để làm được việc này từ năm 1997, Idonesia đã xây dựng hệ thống và dich vụ thông tin về rau, cung cấp thông tin về giá hàng ngày cho nông dân, thương gia và người tiêu dùng .
ở ấn Độ, mức tiêu dùng rau là 54kg/người/năm, lượng rau hàng hoá đạt 90-98% với nhiều kênh tiêu thụ nhưng kênh tiêu thụ số lượng rau lớn nhất như sau: Người sản xuất - hợp tác xã - người bán buôn - người bán lẻ - người tiêu dùng.
Tại một số nước khác có mức tiêu thụ rau cao hơn như Đài Loan 115kg/người/năm; Hàn Quốc 229kg/người/năm; Nêpan 60kg/người/năm.
* Tình hình tiêu thụ rau ở Việt Nam.
ở Việt Nam, mức tiêu thụ thay đổi qua các thời kỳ và theo vùng địa lý. Thời kỳ 1981-1985, lượng rau tiêu thụ bình quân 78kg/người/năm, cao nhất ở miền núi 112kg/người/năm, thấp nhất ở vùng đồng bằng nam bộ 46kg/người/năm.
Giai đoạn 1986-1989 tiêu thụ rau có xu hướng giảm, tại các tỉnh miền núi, lượng tiêu thụ rau bình quân 86.7 kg/người/năm; vùng nông thôn bình quân 71kg/người/năm và vùng thành phố tiêu thụ rau ít nhất 54kg/người/năm.
Giai đoạn 1990-2002, lượng rau xanh tiêu thụ lại có xu hướng giảm so với thời gian trứơc, mức tiêu thụ bình quân là 52-71kg/người/năm.
Dựa trên cơ sở sản xuất thực phẩn và khả năng kinh tế của đất nược, mức thu nhập của các gia đình, tập quán ăn uống của nhân dân ta, các chuyên gia đã tính toán nhu cầu cần thiết cho mỗi người hàng năm từ 80-85kg rau như vậy mức độ tiêu thụ rau của thị trường trong nước là rất lớn. Thực tế một số năm qua mức binh quân rau của người Việt Nam khoảng 75-80kg/người/năm, chúng ta cần sản lượng rau lớn hơn nữa trong tương lai nhằm không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, mà còn đáp ứng cho lượng dân số tăng trong thời gian tới. Nếu tăng mức dân số đến năm 2005 và 2010 là 0.8% và kể cả lượng khác du lịch vào nước thì số lượng rau cần sẽ tương ứng khoảng 6.5-7.0 triệu tấn.
+ Về chế biến: lượng rau được chế biến chiếm tỉ lệ rất nhỏ, công nghệ chế biến tập trung vào 22 nhà máy với công suất thực tế dưới 100 nghìn tấn/ năm. Ngoài ra, còn một số cơ sở chế biến thủ công quy mô nhỏ với các sản phẩm được chế biến chủ yếu là cà chua, dưa chuột, măng tây, đậu hạt, tương ớt, nấm muối....Hiện nay số nhà mày đầu tư thiết bị đồng bộ chưa nhiều, số các loại thiết bị đã cũ, không đồng bộ nên sản phẩm làm ra chất lượng thấp, số lượng không nhiều bởi vậy sản phẩm không có tình cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế so với các nước khác.
+ Về xuất khẩu: xuất khẩu rau quả của nước ta đã có từ năm 1997 với những sản phẩm đầu tiên đước xuất sang Trung Quốc. Trong giai đoạn 1960-1975, lượng hàng hoá xuất khẩu tăng chậm do sản xuất bị ảnh hưởng của chiến tranh. Từ 1976, lượng xuất khẩu bắt đầu tăng nên, thị trường chính là Liên Xô và các nước Đông Âu. Giai đoạn 1981-1985, sản phẩm rau xuất khẩu đạt 90.5 nghìn tấn( chiếm 40% sản lượng). Đây cũng là giai đoạn hưng thịnh của xuất khẩu rau quả sang các nước thuộc khối SEV. Những năm 1990 lượng rau tươi xuất khẩu giảm mạnh, do các thị trường truyền thống thay đổi. Cùng với sản phẩm rau tươi còn có các sản phẩm đã được chế biến như dưa chuột muối, măng tre, đậu quả, tương cà chua, tương ơt....
CHƯƠNG II: THựC TRạNG TIÊU THụ RAU AN TOàN TRÊN ĐịA BàN THàNH Phố Hà Nội.
I. THựC TRạNG sản xuất RAU AN TOàN ở Hà Nội.
1. Quy mô sản xuất rau và rau an toàn ở Hà Nội.
Hà Nội là một trong những địa phương đầu tiên triển khai thực hiện chương trình RAT . Cho đến nay sản xuất RAT ở Hà Nội đã đạt được những thành tựu đáng kể, thể hiện ở quy mô sản xuất đã không ngừng tăng lên cả về diện tích, năng suất và sản lượng trong vài năm qua.
-Về diện tích: diện tích sản xuất rau an toàn không lớn, nhưng đã không ngừng tăng lên, không chỉ về cả diện tích canh tác, mà cả diện tích gieo trồng, do hệ số vòng quay tăng lên từ 2.5 lần (năm 1996) lên 3.2 (năm 2004), các xã đã tham gia trồng rau an toàn mở rộng thêm diện tích và một số xã mới tham gia vào chương trình rau an toàn của thành phố như Nam Hồng, Bắc Hồng (Đông Anh) và Thạch Bàn (Gia Lâm), Xuân Giang (Sóc Sơn). Điều này cho thấy năng lực khai thác và sử dụng đất đai của các hộ nông dân ngoại thành Hà Nội. Tuy nhiên, tiềm năng về mặt diện tích trồng rau an toàn còn nhiều. Năm 2002 tỷ lệ diện tích rau an toàn so với rau thường mới đạt 32%. Như vậy có thể thấy rằng mặc dù quy mô sản xuất rau thường không lớn, nhưng Hà Nội có lợi thế rất lớn trong việc bố trí sản xuất, tăng mùa vụ, nhất là sản xuất rau trái vụ, rải vụ. Vì vậy khả năng tăng diện tích gieo trồng rau rất cao.
Bảng 3.Tình hình sản xuất rau và rau an toàn ở thành phố Hà Nội.
Diễn giải
ĐVT
2001
2002
2003
2004
1.Rau thường
-Diện tích gieo trồng
-Năng suất
-Sản lượng
% so tổng lượng rau sản xuất
2. Rau an toàn
-Diện tích canh tác
-Diện tích gieo trồng
-Năng suất
-Sản lượng
-% so tổng lượng rau sản xuất
Ha
Ta/ha
Tấn
%
Ha
Ha
Tạ/ha
Tấn
%
7.484,0
189,0
141.447,0
79,0
776,0
2.250,0
167,0
37.575,0
21,0
7.939,0
182,2
144.648,5
77,0
778,0
2.500,0
172,0
43.250,0
23,0
8.452,0
188,6
147.546.5
81,7
781,0
2.700,0
184,2
45.254,0
24.5
8.864,6
196,4
152.456.4
83,6
786,1
2.890,2
190,1
46.325,0
25,2
-Năng suất: người trồng rau Hà Nội có kinh nghiệm sản xuất từ lâu đời, biết đầu tư thâm canh để tăng năng suất, sản lượng, do vậy trong những năm qua năng suất RAT tăng lên không ngừng.
-Sản lượng: cùng với việc tăng năng suât, diện tích thì sản lượng rau an toàn của Hà Nội cũng tăng lên năm 2001 sản lượng đạt 37.575,0 tấn tăng lên 43.250,0 tấn năm 2002.
2. Phân bố sản xuất rau an toàn ở Hà Nội.
Theo số liệu của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, tính đến cuối năm 2002 sản xuất rau an toàn được thực hiện tại 23/33 xã đã được quy hoạch bao gồm:
-Huyện Đông Anh có 8 xã: Vân Nội, Nam Hồng,Tiên Dương, Nguyên Khê, Kim Chung, Kim Nỗ,Tiên Dương 1, Tiên Dương 2, Bắc Hồng.
-Huyện Từ Liêm có 6 xã: Minh Khai, Phú Diễn, Tây Tựu, Liên Mạc, Mỹ Đình, Cổ Nhuế.
-Huyện Gia Lâm có 4 xã: Văn Đức, Đặng Xá, Đông Dư, Lệ Chi.
-Huyện Sóc Sơn có 2 xã: Đông Xuân, Thanh Xuân.
-Huyện Thanh Trì có 3 xã: Yên Mỹ, Hồng Phú, Lĩnh Nam.
Qua số liệu trên cho thấy, rau an toàn phát triển mạnh tại các huyện Đông Anh, Gia Lâm và Từ Liêm. Năm 1996, toàn thành phố có 159 ha rau an toàn thì huyện Đông Anh có 50 ha, huyện Gia Lâm có 40 ha và huyện Từ Liêm có 30 ha. Đến năm 2004, diện tích rau an toàn của 3 huyện này cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng diện tích rau an toàn của toàn thành phố (91,17%), trong đó diện tích rau an toàn của Đông Anh chiếm 34,44%, của huyện Gia Lâm là 33,16% và của Từ Liêm là 23,52%.
Bảng 4. Phân bố diện tích sản xuất RAT tại Hà Nội.
Địa phương
1996
2001
2002
Số lượng (ha)
Cơ cấu (%)
Số lượng (ha)
Cơ cấu (%)
Số lượng (ha)
Cơ cấu (%)
Từ Liêm
30
18,8
183
23,32
183
23,52
Gia Lâm
40
25,2
258
33,24
258
33,16
Đông Anh
50
31,5
268
34,54
268
34,44
Sóc Sơn
20
12,6
30
3,86
30
3,86
Thanh Trì
7
4,4
35
4,51
35
4,49
Tây Hồ
10
6,3
-
-
-
-
Tổng số
159
100
776
100
778
100
(Nguồn: sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội , 2002)
Sự khác nhau trong việc cung ứng rau an toàn giữa các huyện bởi nhiều lý do, một số huyện có lợi thế về vị trí địa lý, lợi thế về điều kiện đất đai, nguồn nước tưới (trong quy hoạch vùng rau an toàn của thành phố) kết hợp với việc người sản xuất tại đây nắm bắt được nhiều thông tin, do vậy mà họ đã chuyển hướng sản xuất sang các loại sản phẩm an toàn để nâng cao thu nhập trên một đơn vị diện tích. Mặt khác cũng phải nói đến lợi thế của sự đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất rau an toàn của các huyện này thông qua các chương trinh, dự án phát triển rau an toàn của thành phố và các tổ chức chính phủ, phi chính phủ trong và ngoài nước (các chương trình, dự án trong kế hoạch 5 năm phát triển rau an toàn 1996-2001 của thành phố Hà Nội, dự án đào tạo nông dân sản xuất rau an toàn theo quy trình tổng hợp 1995-2005 của tổ chức ADDA - Đan Mạch, dự án phát triển bền vững nông nghiệp ven đô Đông Nam á của tổ chức CIRAD phối hợp với một số Viện nghiên cứu của Việt Nam). Những chương trình này đã tạo đà phát triển vùng rau an toàn cho các địa phương hưởng lợi bởi một trong những điều kiện cần để sản xuất rau an toàn đó là yêu cầu phải được đầu tư về hạ tầng cơ sở nhất định mà với quy mô sản xuất hộ hay vốn tự có của địa phương (cấp xã) đôi khi không đáp ứng được.
Nhìn chung, rau an toàn được quy hoạch đầu tư, phát triển tại những địa phương có truyền thống trồng rau lâu đời, có vị trí địa lý thuận lợi cho việc lưu thông, vận chuyển sản phẩm vào nội thành cũng như tới các địa phương khác. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển sản xuất hàng hoá nói chung và đặc biệt đối với cây rau nói riêng vì là sản phẩm chứa nhiều nước do vậy thời gian vận chuyển là điều kiện có ảnh hưởng tói chất lượng sản phẩm.
3. Thời vụ và chủng loại rau an toàn.
Hiện nay, Hà Nội là một trong rất ít các địa phương có cơ cấu chủng loại rau xanh phong phú nhất. Trong số tập đoàn rau xanh rất phong phú đó Hà Nội đã đưa vào chương trình sản xuất rau an toàn một số loại rau như: xu hào, bắp cải, cà chua, đậu quả, các loại cải xanh, xúp lơ, dưa chuột, ngô bao tử...Mặc dù vậy chủng loại chưa nhiều nhưng cũng đã đáp ứng phần nào nhu cầu rau an toàn của người tiêu dùng.
Các loại rau an toàn trên đây được sản xuất theo hai vụ đông xuân và thu đông là chủ yếu. Hiện nay người sản xuất đã chú ý phát triển nhiều loại rau trái vụ như: cà chua, bắp cải, xúp lơ...vụ sớm và vụ muộn. Trong những năm qua, Hà Nội lại đưa thêm một số giống rau mới như cải ngọt, cải bó xôi, cải chân vịt, xa lách tím, bắp cải tím, bí ngô, mướp Nhật...vào sản xuất. Đây là những giống có thời vụ dài trong năm. Điều này chẳng những tăng thêm chủng loại rau xanh ngày càng phong phú, vừa bổ sung cho cơ cấu rau giáp vụ. Việc tăng cường sản xuất rau chính vụ và rải vụ là một trong những ưu thế rất lớn của Hà Nội chẳng những đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng Hà Nội quanh năm mà còn tạo ra năng lực mới để tăng thêm sản phẩm cung cấp cho các tỉnh và cho xuất khẩu.
Trong các loại rau an toàn đã được sản xuất, chủng loại rau an toàn đại trà như: xu hào, bắp cải, cà chua, cải các loại, đậu đỗ, bầu bí...Năm 1996-1997 chiếm 70-80%, còn rau cao cấp như xúp lơ, dưa chuột bao tử, ngô bao tử chỉ chiếm 10-20%. Nhưng từ năm 1998-2003 chủng loại rau cao cấp đã tăng lên 25-30%. Việc tăng cường số lượng, chủng loại rau cao cấp đã đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng, đồng thời cũng tăng thêm thu nhập cho người sản xuất. Xét về khả năng thì Hà Nội hoàn toàn có thể mở rộng quy mô sản xuất rau cao cấp bằng kinh nghiệm của người sản xuất, bằng các biện pháp thâm canh tăng vụ, mở rộng diện tích.
II. THựC TRạNG TIÊU THụ RAU AN TOàN ở Hà Nội.
1. Tổng diện tích rau tiêu thụ.
Trong những năm qua người Hà Nội đã từng bước tiếp cận về kiến thức nông sản an toàn nói chung và rau an toàn nói riêng qua các phươpng tiện thông tin đại chúng, mặt khác, qua những vụ ngộ độc thực phẩm thì người tiêu dùng càng có ý thức hơn về việc lựa chọn và chế biến chúng.
Rau an toàn tiêu thụ tai thị trường Hà Nội bao gồm các loại rau có nguồn gốc nhiệt đới và ôn đới, xét về bộ phận được sử dụng chúng được phân chia làm hai loại như sau:
+ Rau ăn lá: phổ biến là các loại: súp lơ, xà lách, rau muống, mồng tơi, rau ngót....
+Rau ăn củ, quả: đỗ, cà rốt, cà tím, khoai tây, dưa, khoai lang....
Qua số liệu bảng 5 ta thấy, mức tiêu thị rau an toàn ở Hà Nội qua một vào năm gần đây ngày càng ra tăng.
Bảng 5. Kết quả tiêu thụ rau an toàn ở Hà Nội.
TT
Loại rau
ĐVT
2001
2002
2003
2004
1.
2.
3.
Lượng tiêu thụ
- rau ăn lá
Tỷ lệ so với tổng số
-Rau ăn quả, củ
Tỷ lệ so với tổng số
Lượng sản xuất
tỉ lệ tiêu thụ so với sản xuất
Tấn
Tấn
%
Tấn
%
Tấn
%
2200
1550
70.4
650
29.4
37.575
5.8
2900
2000
69.0
900
31.0
43250
6.7
3500
2510
71.2
1002
33.9
46.251
7.2
4215
2794
72.5
1132
35.2
47.925
7.9
2. Cơ cấu các loại rau an toàn.
Cơ cấu lượng rau tiêu dùng qua các năm có sự thay đổi, xu hướng tiêu dùng các loại rau ăn quả, củ ngày càng tăng lên và rau ăn là giảm đi. điều này cho thấy nhu cầu của người tiêu dùng về rau cao cấp, rau chất lượng ngày càng tăng, đòi hỏi người sản xuất phải áp dụng tiến bộ kĩ thuật, đưa các giống mới, giống rau cao cấp vào sản xuất để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường .
3. Giá cả tiêu thụ rau an toàn .
Giá rau an toàn cao hơn rau thường từ 1,2-1,5 lần trong cùng một điều kiện bán hàng, với các loại rau người tiêu dùng nhạy cảm với vấn đề chấta lượng như: đậu đũa, cải ngọt, xàlách, dưa chuột... người tiêu dùng vẫn chấp nhận với giá cả cao hơn nhiều .
Bảng chênh lệch giá rau an toàn và rau thường tại các chợ Hà Nội.
Stt
Loại rau
Rau an toàn(đ/kg)
Rau thường (đ/kg)
Chênh lệch RAT/ rau thường
Giá trị(đ/kg)
So sánh(lần)
1.
2.
3.
4.
5.
Cà chua
đậu đũa
Xàlách
Cải ngọt
Rau muống
3000
5500
10000
3000
1850
2500
3000
6500
2000
1500
500
2500
3500
1000
350
1.20
1.83
1.54
1.50
1.23
(Nguồn: Sở thương mại Hà Nội 2003)
III. Tổ CHứC KÊNH TIÊU THụ RAU AN TOàN
Các kênh tiêu thụ rau an toàn ở Hà Nội.
-Người sản xuất:
Là người trực tiếp tạo rau an toàn các sản phẩm hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu của thị trường.
Là các hộ gia đình được lựa chọn tại các xã trong vùng quy hoạch rau an toàn của thành phố tham gia vào chương trình sản xuất rau an toàn do địa phương quản lý. Họ có thể là những hộ sản xuất độc lập, hoặc trong một nhóm tập trung quy mô nhỏ.
-Người thu gom:
Thu mua sản phẩm hàng hoá của người sản xuất và bán lại cho người bán buôn, bán lẻ. Có thể họ vừa là người tham gia sản xuất rau an toàn các loaị sản phẩm này, đồng thời tham gia thu mua sản phẩm của người sản xuất khác. Người thu gom thường ít có quyết định đối với giá cả sản phẩm đầu rau an toàn bởi nó phần lớn do người bán buôn ấn định.
-Người bán lẻ:
Là những người mua hàng hoá với số lượng lớn rồi bán cho những người bán lại hoặc bán lẻ. Người bán buôn có chức năng đầy đủ như một nhà phân phối và ít có khả năng tiếp cận với người tiêu dùng. Người bán buôn thường có quy mô kinh doanh lớn, đòi hỏi số lượng vốn nhiều, phương tiện kinh doanh đầy đủ, hiện đại nên có khả năng chi phối các quan hệ thị trường rất lớn.
-Người bán lẻ:
Là những người trực tiếp chuyển giao sản phẩm hàng hoá đến người tiêu dùng. Người bán lẻ thường có quy mô kinh doanh nhỏ, vốn ít, hình thức bán hàng phong phú, chịu sự chi phối của người bán buôn. họ rất nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu cua người tiêu dùng, phản ứng linh hoạt với thị trường.
-Trung gian bán lẻ:
Bao gồm các cửa hàng, quầy hàng , sieu thị có bán rau an toàn. Các đơn vị này có thể mua hàng từ trung gian thu gom-bán buôn rồi chuẩn bị sơ chế, bao gói theo quy cách của đơn vị mình trước khi đem bán, hoặc cũng có thể yêu cầu sản phẩm khi đem đến đã qua sơ chế. Còn đối với các cửa hàng, quầy hàng kinh doanh rau an toàn, họ chỉ yêu cầu sản phẩm đã làm sạch, loại bỏ phần già trước khi giao hàng.
-Người tiêu dùng:
Là những người tham gia vào khâu cuối cùng của kênh phân phối, có nhu cầu về một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ nào đó nhưng không có điều kiện sản xuất. Họ mua sản phẩm hàng hoá, dịch vụ để tiêu dùng cho cá nhân và gia đình.
Bao gồm các trường mẫu giáo, trường tiểu học, bếo ăn của một số cơ quan, hộ gia đình, một số nhà hàng, khách sạn.
Ngoài ra còn có các đại lý bổ trợ cung cấp dịch vụ như phương tiện vận chuyển, kho tàng dự trữ, đại lý quảng cáo, các tổ chức tài chính, bảo hiểm...tuy không thực hiện chức năng đàm phán nhưng giúp cho việc thực hiện các công việc phân phối khác ngoài mua, bán và chuyển quyền sở hữu. Xã hội cùng phát triển các tổ chức bổ trợ càng nhiều.
2. Các phương thức tiêu thụ.
Các phương thức tiêu thụ sản phẩm khác nhau sẽ có kênh tiêu thụ khác nhau. Qua tìm hiểu thực tế chúng tôi thấy có các phương thức tiêu thụ rau an toàn tại Hà Nội như sau :
- Tiêu thụ trực tiếp: Người sản xuất bán trực tiếp sản phẩm của mình tới tay người tiêu dùng. Người tiêu dùng là các hộ gia đ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0595.doc