Thực trạng & Giải pháp phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam

Tài liệu Thực trạng & Giải pháp phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam: MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ I. Quan niệm về TMĐT và lợi ích của nó 1. Khái niệm TMĐT 2. Đặc trưng của TMĐT 3. Lợi ích của TMĐT II. Hình thức hoạt động TMĐT 1.Giao dịch TMĐT 2. Các loại giao dịch TMĐT 3. Hình thức hoạt động của TMĐT III. Cơ sở đảm bảo hoạt động của TMĐT ở nước ta CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG TMĐT Ở VIỆT NAM I. Môi trường phát triển TMĐT 1.Nhận thức và nguồn nhân lực cho TMĐT 1.1.Nhận thức xã hội đối với TMĐT 1.2.Đào tạo và phát ... Ebook Thực trạng & Giải pháp phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1793 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển nguồn nhân lực cho TMĐT 2.Chính sách và pháp luật cho phát triển TMĐT 2.1. Sự cần thiết phải xây dựng khung pháp lý cho việc triển khai TMĐT 2.2. Các yêu cầu pháp lý cho việc phát triển TMĐT 2.3.Một số chính sách liên quan tới TMĐT 2.4.Pháp luật 3.Hạ tầng công nghệ và dịch vụ hỗ trợ TMĐT 3.1.Công nghệ thông tin (CNTT) 3.2. Viễn thông và Internet 3.3. Thanh toàn điện tử II. Một số loại hình kinh doanh dịch vụ trực tuyến 1.Tình hình phát triển chung 1.1. Mở ra một hướng đi mới cho các doang nghiệp (DN) 1.2. Phát triển sôi động nhưng thiếu cân đối 1.3. Định hướng phát triển 2. Các dịch vụ công 3. Quảng cáo trực tuyến 4. Giải trí trực tuyến 5. Đào tạo trực tuyến 6. Các loại hình kinh doanh giá trị giá trị gia tăng trực tuyến khác 6.1. Báo điện tử khẳng định vị thế 6.2. Dịch vụ gia tăng cho mạng điện thoại di động III. Tình hình ứng dụng TMĐT trong DN 1.Tình hình ứng dụng TMĐT trong DN 2.Tình hình kinh doanh TMĐT 2.1. B2B 2.2. B2C và C2C 3.Ứng dụng TMĐT với DN xuất khẩu CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TMĐT Ở VIỆT NAM (VN) I.Phương hướng phát triển TMĐT ở VN II.Một số giải pháp cho phát triển TMĐT ở VN KẾT LUẬN LỜI MỞ ĐẦU Vào cuối thế kỷ XX, sự phát triển và hoàn thiện của kỹ thuật số đã được áp dụng trước hết vào máy tính điện tử, tiếp đó sang các lĩnh vực khác (điện thoại di động, thẻ tín dụng ...). Số hoá và mạng hoá đã là tiền đề cho sự ra đời của nền kinh tế mới - nền kinh tế số (còn gọi là nền kinh tế tri thức, nền kinh tế dựa trên tri thức,...). Việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử, Internet và các mạng viễn thông khác đã xuất hiện, đó chính là “Thương mại điện tử” (TMĐT). TMĐT là hoạt động thương mại sử dụng phương thức truyền số liệu điện tử để thực hiện hoặc xử lý quá trình kinh doanh. Trong nhiều thập kỷ nay các công ty đã sử dụng rất nhiều công cụ truyền thông điện tử để chỉ dẫn các giao dịch kinh doanh khác nhau. Ngân hàng dùng EFTs để chuyển tiền của khách hàng trên khắp thế giới, các doanh nghiệp thì sử dụng EDI để đặt hàng và gửi các hoá đơn, những người bán lẻ dùng quảng cáo trên TV để thu thập các đơn đặt hàng bằng điện thoại... Một số người dùng cụm từ thương mại Internet để định nghĩa cho TMĐT, nghĩa là dùng Internet hoặc Web như là bộ phận trung gian trong việc chuyển giao số liệu của nó. Ngay từ khi cụm từ này còn là quá mới thì đôi khi các doanh nghiệp và người dân thường dùng nó theo nhiều nghĩa khác nhau. Thí dụ như IBM đã định nghĩa TMĐT là quá trình thay đổi kinh doanh chủ yếu qua việc sử dụng các công nghệ Internet. Vai trò quan trọng của TMĐT là phải hiểu được cách làm cho các công ty sử dụng nó chấp nhận sự thay đổi. Tuy mới xuất hiện và chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong thương mại song TMĐT đã mang lại những lợi ích to lớn cho doanh nghiệp, chính phủ, người tiêu dùng và xã hội. Thương mại điện tử đã vượt ra khỏi lĩnh vực thương mại, ngày càng tác động đến các lĩnh vực khác và hứa hẹn mang lại những thay đổi to lớn và sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài người. Thương mại điện tử ngày càng được sự quan tâm của Chính phủ, Doanh nghiệp và người tiêu dùng và đang trở thành một công cụ hữu hiệu trong quá trình toàn cầu hoá và trong xây dựng nền kinh tế số. Thât khó mà hình dung ra xã hội tương lai nếu không có TMĐT. Bên cạnh đó, TMĐT cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết để khai thác các lợi ích của TMĐT như vấn đề an toàn, an ninh cho các giao dịch trên mạng, các vấn đề về bảo vệ bí mật, tính riêng tư, các vấn đề về CNTT và truyền thông, cơ sở hạ tầng, các vấn đề về nhân lực, chuyển đổi mô hình kinh doanh, các vấn đề về quản lý, thay đổi tập quán, thói quen trong kinh doanh… Phát triển TMĐT đang là vấn đề đặt ra cho nước ta khi tham gia Tổ chức thương mại thế giới WTO. TMĐT vừa là cơ hội, vừa là công cụ hữu hiệu bảo đảm sự bình đẳng và bứt phá của Doanh nghiệp VN trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thương mại điện đang là một cấu chuyện dài và nóng tại Việt Nam, Việt Nam vừa gia nhập WTO, nền kinh tế toàn cầu, việc buôn bán giao thương giữa các nước, các khu vực khác nhau trên thế giới, và như vậy vị trí địa lý sẽ được xóa nhòa khi internet phát triển như hiên nay. Bạn có thể chỉ với chiếc máy tính, cần điền vào một số thống số, vài ngày sau bạn đã có một sản phẩm vừa ý, và điều đương nhiên các công ty nước ngoài cũng nhảy vào Viêt Nam sẽ tạo nên cuộc cạnh tranh hết sức gay gắt, làm gì để chúng ta cạnh tranh được, với thời đại CNTT phát triển như hiện nay chỉ có các công ty nào đủ nhanh nhạy thì mới có thể bắt kịp với xu hướng, và cái xu hướng ấy tất sẽ xảy ra, đó là thưong mại điện tử trong tương lai không xa. Trước những thực trạng như vậy, em lựa chọn đề tài nghiên cứu “THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TMĐT Ở VIỆT NAM” để viết đề án môn học Kinh tế Thương mại. Em làm đề án này dưới sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Thương mại, đặc biệt là của thầy Nguyễn Thanh Phong. Bài viết của em còn nhiều thiếu sót mong các thầy cô thông cảm và giúp đỡ em hoàn thiện đề án này. Em xin chân thành cảm ơn ! Đề án này gồm ba chương: CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TMĐT I. Quan niệm về TMĐT và lợi ích của nó Hiện nay, TMĐT đang phát triển nhanh chóng trên toàn thế giới, đặc biệt là ở những nước công nghiệp phát triển. Sự phát triển của TMĐT một mặt là kết quả của xu hướng tất yếu quá trình “số hoá” toàn bộ hoạt động của con người. Mặt khác , là kết quả của các nỗ lực chủ quan của từng nước, đặc biệt là vấn đề tạo môi trường pháp lý, chủ trương chính sách cho kinh tế “số hoá” nói chung và TMĐT nói riêng. 1. Khái niệm TMĐT Trước khi tìm hiểu khái niệm TMĐT chúng ta cùng phải thống nhất về thuật ngữ Thương mại. Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng (theo UNCITRAL) để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ. Ủy ban Châu Âu định nghĩa: TMĐT được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh. TMĐT gồm nhiều hành vi gồm hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng. TMĐT được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động dịch vụ truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo). Tổ chức Thương mại Thế giới định nghĩa: TMĐT bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình các sản phẩm được giao nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet. Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của TMĐT rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của TMĐT. Trong xã hội hiện đại, TMĐT đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm của con người. Nói một cách vắn tắt, chính các hoạt động thương mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ TMĐT Theo ước tính, TMĐT có trên 1300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó buôn bán hàng hoá chỉ là một lĩnh vực ứng dụng. 2. Đặc trưng của TMĐT: So với các hoạt động thương mại truyền thống, TMĐT có các đặc trưng sau: _Các bên tiến hành giao dịch trong TMĐT không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước. Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý như chuyển tiền, séc, hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Các phương tiện viễn thông như: fax, telex,.. chỉ được dùng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để truyền tải thông tin một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch. TMĐT cho phép mọi người cùng tham gia từ các vùng xa xôi hẻo lánh đến các khu vực đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp mọi nơi đều có cơ hội tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu và không đòi hỏi nhất thiết phải có mối quan hệ với nhau. _Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của khái niệm biên giới quốc gia, còn TMĐT được thực hiện trong một thị trường không có biên giới (thị trường thống nhất toàn cầu). TMĐT trực tiếp tác động tới môi trường cạnh tranh toàn cầu. TMĐT càng phát triển, thì máy tính cá nhân trở thành cửa sổ cho doanh nghiệp hướng ra thị trường trên khắp thế giới. Với TMĐT, một công ty dù mới thành lập đã có thể kinh doanh ở Nhật Bản, Đức hay Mỹ…, mà không hề phải bước ra khỏi nhà, một công việc trước kia phải mất nhiều năm mới thực hiện được. _Trong hoạt động giao dịch TMĐT đều có sự tham gia của ít nhất 3 chủ thể, trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực. Trong TMĐT, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch giống như giao dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ 3, đó là nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực… là những người tạo môi trường cho các giao dịch TMĐT. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch TMĐT, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch TMĐT. _Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với TMĐT thì mạng lưới thông tin chính là thị trường. Thông qua TMĐT, nhiều loại hình kinh doanh mới được hình thành. Ví dụ: các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình thành nên các nhà trung gian ảo làm các dịch vụ môi giới cho giới kinh doanh và tiêu dùng; các siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy tính. 3. Lợi ích của TMĐT Lợi ích của TMĐT rất to lớn, bao quát và tiềm tàng thể hiện ở một số mặt chính sau : * Lợi ích đối với các tổ chức : - Mở rộng thị trường: Với chi phí đầu tư nhỏ hơn nhiều so với thương mại truyền thống, các công ty có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, tiếp cận người cung cấp, khách hàng và đối tác trên khắp thế giới. Việc mở rộng mạng lưới nhà cung cấp, khách hàng cũng cho phép các tổ chức có thể mua với giá thấp hơn và bán được nhiêu sản phẩm hơn. - Giảm chi phí sản xuất: Giảm chi phí giấy tờ, giảm chi phí chia xẻ thông tin, chi phí in ấn, gửi văn bản truyền thống. - Cải thiện hệ thống phân phối: Giảm lượng hàng lưu kho và độ trễ trong phân phối hàng. Hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ trợ bởi các showroom trên mạng, ví dụ ngành sản xuất ô tô (Ví dụ như Ford Motor) tiết kiệm được chi phí hàng tỷ USD từ giảm chi phí lưu kho. - Vượt giới hạn về thời gian: Việc tự động hóa các giao dịch thông qua Web và Internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện 24/7/365 mà không mất thêm nhiều chi phí biến đổi. - Sản xuất hàng theo yêu cầu: Còn được biết đến dưới tên gọi “Chiến lược kéo”, lôi kéo khách hàng đến với doanh nghiệp bằng khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Một ví dụ thành công điển hình là Dell Computer Corp. - Mô hình kinh doanh mới: Các mô hình kinh doanh mới với những lợi thế và giá trị mới cho khách hàng. Mô hình của Amazon.com, mua hàng theo nhóm hay đấu giá nông sản qua mạng đến các sàn giao dịch B2B là điển hình của những thành công này. - Tăng tốc độ tung sản phẩm ra thị trường: Với lợi thế về thông tin và khả năng phối hợp giữa các doanh nghiệp làm tăng hiệu quả sản xuất và giảm thời gian tung sản phẩm ra thị trường. - Giảm chi phí thông tin liên lạc: - Giảm chi phí mua sắm: Thông qua giảm các chi phí quản lý hành chính (80%); giảm giá mua hàng (5-15%) - Củng cố quan hệ khách hàng: Thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua mạng, quan hệ với trung gian và khách hàng được củng cố dễ dàng hơn. Đồng thời việc cá biệt hóa sản phẩm và dịch vụ cũng góp phần thắt chặt quan hệ với khách hàng và củng cố lòng trung thành. - Thông tin cập nhật: Mọi thông tin trên web như sản phẩm, dịch vụ, giá cả... đều có thể được cập nhật nhanh chóng và kịp thời. - Chi phí đăng ký kinh doanh: Một số nước và khu vực khuyến khích bằng cách giảm hoặc không thu phí đăng ký kinh doanh qua mạng. Thực tế, việc thu nếu triển khai cũng gặp rất nhiều khó khăn do đặc thù của Internet. - Các lợi ích khác: Nâng cao uy tín, hình ảnh doanh nghiệp; cải thiện chất lượng dịch vụ khách hàng; đối tác kinh doanh mới; đơn giản hóa và chuẩn hóa các quy trình giao dịch; tăng năng suất, giảm chi phí giấy tờ; tăng khả năng tiếp cận thông tin và giảm chi phí vận chuyển; tăng sự linh hoạt trong giao dịch và hoạt động kinh doanh. * Lợi ích đối với người tiêu dùng - Vượt giới hạn về không gian và thời gian: Thương mại điện tử cho phép khách hàng mua sắm mọi nơi, mọi lúc đối với các cửa hàng trên khắp thế giới - Nhiều lựa chọn về sản phẩm và dịch vụ: Thương mại điện tử cho phép người mua có nhiều lựa chọn hơn vì tiếp cận được nhiều nhà cung cấp hơn - Giá thấp hơn: Do thông tin thuận tiện, dễ dàng và phong phú hơn nên khách hàng có thể so sánh giá cả giữa các nhà cung cấp thuận tiện hơn và từ đó tìm được mức giá phù hợp nhất - Giao hàng nhanh hơn với các hàng hóa số hóa được: Đối với các sản phẩm số hóa được như phim, nhạc, sách, phần mềm.... việc giao hàng được thực hiện dễ dàng thông qua Internet - Thông tin phong phú, thuận tiện và chất lượng cao hơn: Khách hàng có thể dễ dàng tìm được thông tin nhanh chóng và dễ dàng thông qua các công cụ tìm kiếm (search engines); đồng thời các thông tin đa phương tiện (âm thanh, hình ảnh) - Đấu giá: Mô hình đấu giá trực tuyến ra đời cho phép mọi người đều có thể tham gia mua và bán trên các sàn đấu giá và đồng thời có thể tìm, sưu tầm những món hàng mình quan tâm tại mọi nơi trên thế giới. - Cộng đồng thương mại điện tử: Môi trường kinh doanh TMĐT cho phép mọi người tham gia có thể phối hợp, chia xẻ thông tin và kinh nghiệm hiệu quả và nhanh chóng. - “Đáp ứng mọi nhu cầu”: Khả năng tự động hóa cho phép chấp nhận các đơn hàng khác nhau từ mọi khách hàng - Thuế: Trong giai đoạn đầu của TMĐT, nhiều nước khuyến khích bằng cách miến thuế đối với các giao dịch trên mạng * Lợi ích đối với xã hội - Hoạt động trực tuyến: Thương mại điện tử tạo ra môi trường để làm việc, mua sắm, giao dịch... từ xa nên giảm việc đi lại, ô nhiễm, tai nạn - Nâng cao mức sống: Nhiều hàng hóa, nhiều nhà cung cấp tạo áp lực giảm giá do đó khả năng mua sắm của khách hàng cao hơn, nâng cao mức sống của mọi người - Lợi ích cho các nước nghèo: Những nước nghèo có thể tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ từ các nước phát triển hơn thông qua Internet và TMĐT. Đồng thời cũng có thể học tập được kinh nghiệm, kỹ năng... được đào tạo qua mạng. - Dịch vụ công được cung cấp thuận tiện hơn: Các dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, các dịch vụ công của chính phủ... được thực hiện qua mạng với chi phí thấp hơn, thuận tiện hơn. Cấp các loại giấy phép qua mạng, tư vấn y tế.... là các ví dụ thành công điển hình II. Hình thức hoạt động TMĐT 1.Giao dịch TMĐT Giao dịch TMĐT (electronic commerce transaction) với chữ “thương mại” được hiểu với đầy đủ các nội dung đã ghi trong đạo luật mẫu về TMĐT của Liên hợp quốc, gồm 4 kiểu giao dịch : _Người với người : qua điện thoại, máy Fax và thư điện tử(electronic mail) ; _Người với máy tính điện tử :trực tiếp hoặc qua các mẫu biểu điện tử (electronic form) và qua “võng thị toàn cầu” (World Wide Web); _Máy tính điện tử với máy tính điện tử : qua trao đổi dữ liệu điện tử (EDI : electronic Data interchange), thẻ thông minh(smart card), các dữ liệu mã hoá bằng vạch (barcoded data, cũng gọi là dữ liệu mã vạch ); _Máy tính điện tử với người : qua thư tín do máy tự động sản ra, máy Fax và thư điện tử. 2. Các loại giao dịch TMĐT Có ba chủ thể tham gia giao dịch TMĐT, đó là Doanh nghiệp (B) giữ vai trò động lực phát triển TMĐT, Người tiêu dùng (C) giữ vai trò quyết định thành công của TMĐT và Chính phủ (G) giữ vai trò định hướng, điều tiết và quản lý. Các giao dịch TMĐT có thể được thực hiện giữa các bên khác nhau như sau: _Giữa các doanh nghiệp (loại hình B2B): Trong các giao dịch B2B, cả người bán và người mua đều là các tổ chức kinh doanh, có thể hiểu đơn giản là TMĐT giữa các doanh nghiệp với nhau. Mô hình này hỗ trợ rất nhiều cho các doanh nghiệp trong nước trong việc kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài dựa trên các lợi ích mà nó đem lại. Mô hình này chiếm 80% doanh số TMĐT toàn cầu. Một trong những mô hình điển hình đã thành công trong hoạt động theo mô hình B2B là Alibaba.com của Trung Quốc. _Giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (loại hình B2C): Trong B2C, là thương mại giữa các doanh nghiệp và người tiêu dùng liên quan đến việc khách hàng thu thập thông tin, mua hàng hóa hữu hình (như sách, các sản phẩm tiêu dùng, …) hoặc sản phẩm thông tin hoặc hàng hóa về nguyên liệu điện tử hoặc nội dung số hóa như phần mềm, sách điện tử và các thông tin, nhận sách qua mạng điện tử. Một trong những nhà kinh doanh thành công trên thế giới theo mô hình này là Amazon.com với việc kinh doanh bán lẻ qua mạng các sản phẩm như sách, đồ chơi, đĩa nhạc, sản phẩm điện tử, phần mềm và các sản phẩm gia đình. _Giữa những người tiêu dùng (loại hình C2C): Trong C2C, là mối quan hệ thương mại giữa các cá nhân và người tiêu dùng với nhau. Đây cũng được coi là mô hình kinh doanh có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và ngày càng phổ biến. Hình thái dễ nhận ra nhất của mô hình này là các website bán đấu giá trực tuyến, rao vặt trên mạng. Một trong những thành công vang dội của mô hình này là trang web đấu giá eBay. _Giữa Chính phủ và những đối tượng khác (loại hình G2C): Trong trường hợp này, Chính phủ cung cấp các dịch vụ cho các công dân thông qua các giao dịch TMĐT. _Các cấp chính quyền có thể làm việc với nhau hoặc với các doanh nghiệp (loại hình G2B): Đây là loại hình TMĐT giữa doanh nghiệp và Chính phủ, được hiểu chung là thương mại giữa các doanh nghiệp khối hành chính công. Nó bao hàm việc sử dụng Internet cho mua bán công, thủ tục cấp phép và các hoạt động có liên quan tới chính phủ. Hình thái này của thương mại có hai đặc tính: thứ nhất, khu vực hành chính công có vai trò dẫn đầu trong việc thiết lập TMĐT; thứ hai, người ta cho rằng khu vực này có nhu cầu lớn nhất trong việc biến các hệ thống mua bán trở nên hiệu quả hơn. 2.Hình thức hoạt động của TMĐT a. Thư điện tử (email) : Thư điện tử, hay email (từ chữ electronic mail) là một hệ thống chuyển nhận thư từ qua các mạng máy tính. Email là một phương tiện thông tin rất nhanh. Một mẫu thông tin (thư từ) có thể được gửi đi ở dạng mã hoá hay dạng thông thường và được chuyển qua các mạng máy tính, đặc biệt là mạng Internet. Nó có thể chuyển mẫu thông tin từ một máy nguồn tới một hay rất nhiều máy nhận trong cùng lúc. Ngày nay, email chẳng những có thể truyền gửi được chữ mà còn truyền được các dạng thông tin khác như hình ảnh, âm thanh, phim,… b. Thanh toán điện tử (electronic payment) là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử (electronic message) thay cho việc giao tay tiền mặt. Ngày nay, với sự phát triển của TMĐT, thanh toán điện tử đã mở rộng bao gồm : trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data Interchange - FEDI), tiền mặt Internet (Internet Cash), túi tiền điện tử (electronic purse), thẻ thông minh (smart card), giao dịch ngân hàng số hoá (digital banking) * Hiện nay hình thức thanh toán điện tử được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực như: _Bán lẻ điện tử: Bán lẻ điện tử là bán trực tiếp các sản phẩm thông qua các cửa hàng điện tử hay các khu siêu thị điện tử, thường được thiết kế xung quanh một khuôn mẫu ca-ta-lô cửa hàng điện tử. Có thể thấy hàng trăm nghìn các cửa hàng điện tử trên Internet, mỗi quầy đều có tên riêng và cổng (portal) TMĐT của mình. Giống như hình thức mua hàng bằng cách đặt hàng qua điện thoại, TMĐT cho phép mua hàng từ nhà và thực hiện công việc này 24h mỗi ngày và 7 ngày mỗi tuần. Bán lẻ điện tử cung cấp một lượng phong phú các sản phẩm và dịch vụ, kể cả các mặt hàng độc đáo nhất, thường là với mức giá thấp hơn. Hơn nữa chỉ trong vài giây, người mua hàng có thể nhận được các thông tin chi tiết về sản phẩm và có thể dễ dàng tìm kiếm và so sánh các sản phẩm và giá của các đối thủ cạnh tranh _Ngân hàng trực tuyến: Các giao dịch ngân hàng được thực hiện trực tuyến. Hệ thống thanh toán của một ngân hàng lớn gồm nhiều hệ thống nhỏ: +Thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng qua điện thoại, tại các điểm bán lẻ, các ki-ốt, giao dịch cá nhân tại các gia đình, giao dịch tại trụ sở khách hàng, giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng, thông tin hỏi đáp,… +Thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu thị,…). . Thanh toán nội bộ một ngân hàng . Thanh toán liên ngân hàng c. Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic data interchange –EDI) : là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “Có cấu trúc” (structure form) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác, giữa các công ty hay tổ chức đã thoả thuận buôn bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người. EDI sử dụng rộng rãi trên thế giới, chủ yếu phục vụ cho mua và phân phối hàng (gửi đơn hàng, các xác nhận, các tài liệu gửi hàng, hoá đơn...), người ta cũng dùng cho các mục đích khác, như thanh toán tiền khám bệnh, trao đổi các kết quả xét nghiệm... EDI chủ yếu được thực hiện qua mạng ngoại bộ (Extranet). d. Giao gửi số hoá các dung liệu (digital delivery of content) : dung liệu (content) là phần của hàng hoá với tính cách là nội dung của nó, nói cách khác, dung liệu chính là nội dung của hàng hoá chứ không phải kà bản thân nội dung. Ví dụ : tin tức, sách báo, các chương trình phần mềm, các yw kiến tư vấn, vé máy bay, hợp đồng bảo hiểm...Ngày nay dung liệu được số hoá và truyền gửi qua mạng, gọi là “giao gửi số hoá” (digital delivery). e.Bán lẻ hàng hoá hữu hình (Retail of tangible goods) : Hiện nay danh mục các hàng hoá bán lẻ qua mạng đã mở rộng hơn rất nhiều, từ hoa tới quần áo, ô tô và xuất hiện một hoạt động gọi là mua hàng điện tử hay mua hàng trên mạng. Để thực hiện việc mua và bán hàng, khách hàng chỉ việc tìm đến trang web của cửa hàng, xem hàng hóa được trưng bày thông qua hình ảnh hiển thị trên màn hình, xác nhận việc mua và trả tiền bằng thanh toán điện tử. Người mua chọn hàng rồi đặt vào giỏ mua hàng giống như đi siêu thị, nhưng ở đây là các thao tác được thực hiện trên trang web. Sau khi đã chọn đúng mặt hàng, số lượng cần, màu sắc ưng ý, người mua thực hiện thao tác thanh toán. Tổng giá trị hàng hóa sẽ hiện lên trang web với đầy đủ chi tiết đơn hàng của khách hàng. Vì là hàng hóa hữu hình nên tất yếu sau đó cửa hàng phải dùng tới các phương tiện gửi hàng theo kiểu truyền thống để đưa hàng đến tay người tiêu dùng. Khách hàng có thể lựa chọn phương thức thanh toán trả cho người giao hàng hoặc trả qua thẻ tín dụng. Xu hướng trong những năm tới, TMĐT chủ yếu được ứng dụng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng,tiếp đến là du lịch, kinh doanh bán lẻ và quảng cáo, trong lĩnh vực buôn bán hàng hoá hữu hình khác còn rất hạn chế. f. Chính phủ điện tử Khi TMĐT phát triển chín muồi và các công cụ và ứng dụng của nó được hoàn thiện hơn thì có sự chú ý nhiều hơn đến việc sử dụng nó để áp dụng vào hoạt động của các tổ chức công cộng và các cấp chính quyền. Chính phủ điện tử là việc sử dụng công nghệ Internet nói chung và đặc biệt là TMĐT để đưa thông tin và các dịch vụ công đến cho người dân, các đối tác kinh doanh và các nhà cung cấp, và những người làm việc trong ngành công cộng. Nó khá hiệu quả để tiến hành các giao dịch kinh doanh với các công dân và các doanh nghiệp và trong nội bộ các cơ quan chính phủ. Chính phủ điện tử cung cấp nhiều lợi ích: Nâng cao hiệu quả và tính hữu hiệu của các chức năng của chính phủ, bảo gồm cả việc cung cấp các dịch vụ công cộng. Nó cho phép các cấp chính quyền trở nên minh bạch hơn đối với công chúng và các doanh nghiệp bằng việc cung cấp truy cập đến nhiều thông tin của Chính phủ hơn. Chính phủ điện tử tạo nhiều cơ hội hơn để các công dân phản hồi đến các cơ quan của Chính phủ và tham gia vào các tổ chức và quá trình dân chủ. Các ứng dụng của chính phủ điện tử có thể chia thành ba loại chính: Chính phủ và công dân (G2C), Chính phủ và các doanh nghiệp (G2B), và Nội bộ Chính phủ (G2G). III. Cơ sở đảm bảo hoạt động TMĐT ở nước ta Theo chuyên gia trung tâm thương mại quốc tế (ITC) thì không nên nhìn nhận TMĐT đơn thuần chỉ là việc dùng phương tiện điện tử để thực hiện các hành vi thương mại truyền thống mà nên hiểu rằng một khi chấp nhận TMĐT thì toàn bộ hình thái hoạt động của một nước sẽ thay đổi, cả hệ thống giáo dục, tâp quán làm việc và các quan hệ quốc tế...Những yêu cầu của TMĐT rất ngiêm ngặt, bao gồm tổng thể nhiều vấn đề phức tạp đan xen nhau trong mối quan hệ hữu cơ. _Trước hết là hạ tầng cơ sở công nghệ : TMĐT là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hoá và công nghệ thông tin mà trước hết là kỹ thuật máy tính điện tử. Vì thế, TMĐT thực sự có vai trò và hiệu quả đích thực khi đã có một hạ tầng cơ sở thông tin vững chắc. Hạ tầng cơ sở công nghệ ấy bao gồm các chuẩn của DN, của cả nước và sự liên kết của các chuẩn ấy với các chuẩn quốc tế, kỹ thuật ứng dụng và thiết bi ứng dụng và không vhỉ là của riêng từng DN mà phải là một hệ thống quốc gia với tư cách như một phân hệ của hệ thống công nghệ thông tin khu vực và toàn cầu (trên nền tảng của Internet hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là bao gồm cả các phân mạng, hệ thống liên lạc viễn thông toàn cầu), hệ thống ấy phải tới được từng cá nhân trong hệ thống thương mại (cho tới từng cá nhân người tiêu dùng). _Thứ hai, yêu cầu cơ sở nguồn nhân lực : ứng dụng TMĐT làm nảy sinh hai đòi hỏi lớn về nhân lực. +Một là,mọi người đều phải quen thuộc và phải có khả năng thành thạo hoạt động trên mạng. +Hai là, có một đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên bắt kịp các công nghệ thông tin mới, phát triển để phục vụ cho kinh tế số hoá nói chung và TMĐT nói riêng (hiện nay đã ở mức đổi mới hàng tuần), cũng như có khả năng thiết kế các chương trình phần mềm đáp ứng nhu cầu hoạt động của một nền kinh tế số hoá, tránh bị động, lệ thuộc hoàn toàn với nước khác. Vì vậy, TMĐT sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản trong hệ thống giáo dục và đào tạo. _Thứ ba, tạo lập môi trường kinh tế và pháp lý : ở mỗi nước, TMĐT chỉ có thể được tiến hành khi tính pháp lý của nó được thừa nhận, biểu hiện cụ thể bằng sự thừa nhận pháp lý giá trị của các giao dịch điện tử, chữ ký điện tử, chữ ký số hoá, các thanh toán điện tử...Ngoài ra, nó còn đòi hỏi phải có một môi trường kinh tế đã tiêu chuẩn hoá ở mức cao với các khía cạnh của TMĐT được phản ánh đầy đủ trong hệ thống nội luật. _Thứ tư, yêu cầu bảo vệ sở hữu trí tuệ : trong việc truyền gửi các dữ liệu qua mạng nổi lên vấn đè sở hữu chất xám và bản quyền của các thông tin. So với việc bảo vệ sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế vật thể thì vấn đề này phức tạp hơn nhiều. _Thứ năm, yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng : bảo vệ người tiêu dùng là yêu cầu ngày càng được đề cao trong hoạt động thương mại. Hơn nữa trong TMĐT, thông tin về hàng hoá đều là thông tin số hoá, nên người mua không có điều kiện “nếm thử” hay “dùng thử” hàng hoá trước khi mua. Khả năng rơi vào “thị trường chanh quả” sẽ càng gia tăng, chưa kể tới khả năng nhầm lẫn các cơ sở dữ liệu, bị lừa gạt bởi các thông tin và các tổ chức phi pháp có mặt trên mạng. Bởi vậy, người mua chịu rủi ro lớn hơn so với thương mại giao dịch vật thể. Điều này làm nảy sinh nhu cầu phải có một trung gian bảo đảm chất lượng hoạt động hữu hiệu và ít tốn kém. _Thứ sáu, yêu cầu bảo mật và an toàn : giao dịch thương mại qua TMĐT, trong đó mọi dữ liệu (kể cả chữ ký) đều ở dạng số hoá đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về tính bảo mật, an toàn, tránh mất tiền, lừa gạt, thay đổi thông tin, xâm nhập dữ liệu...Hệ thống bảo mật an toàn được thiết kế trên cơ cở kỹ thuật mã hoá hiện đại và một cơ chế an ninh hữu hiệu (nhất là các hệ thống có liên quan đến an ninh quốc gia). Ngoài ra, TMĐT chỉ có thể thực hiện trên thực tế và có hiệu quả khi đã tồn tại một hệ thống thanh toán tài chính ở mức độ phát triển đủ cao, cho phép tiến hành thanh toán tự động. Những tác động văn hoá, xã hội của Internet và vấn đề lệ thuộc công nghệ cũng cần được tính đến khi áp dụng TMĐT. CHƯƠNG II . THỰC TRẠNG TMĐT Ở VN Sự phát triển của thương mại điện tử (TMĐT) trên thế giới đã làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Với Việt Nam, TMĐT tuy còn khá mới mẻ, nhưng đã hé mở nhiều triển vọng sáng sủa, đặc biệt là sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới cuối năm 2006. Chúng ta đã chứng kiến những bước ngoặt đối với TMĐT Việt Nam trong năm 2007. Đứng trước sự phát triển đó, TrustVn tạm phác thảo ra một số nét tiêu biểu đối với TMĐT Việt Nam năm nay: - Thanh toán trực tuyến đã được triển khai tại Việt Nam - Các tập đoàn thương mại điện tử hàng đầu thế giới triển khai các dịch vụ tại thị trường Việt Nam - Hệ thống các nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử đã được ban hành đầy đủ - Gần một nửa số tỉnh/thành phố đã có kế hoạch phát triển thương mại điện tử tới 2010 - Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (Vecom) thành lập I Môi tr._.ường phát triển TMĐT 1. Nhận thức và nguồn lực cho TMĐT . “Nhận thức thấp” : Đó là một trong những đánh giá của Vụ TMĐT về nguyên nhân khiến TMĐT tại Việt Nam kém phát triển. Theo Vụ TMĐT, có 4 nguyên nhân chính dẫn đến sự yếu kém này: nhận thức của người dân và DN về TMĐT còn thấp; Hệ thống thanh toán điện tử chưa phát triển; Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện; Môi trường xã hội và kinh doanh chưa tương thích và nhân lực CNTT, hạ tầng CNTT viễn thông không đáp ứng được yêu cầu. Chính vì chưa nhận thức hết tiềm năng phát triển của TMĐT, nhiều DN đã bỏ phí cơ hội tăng doanh số bán hàng mà không phải bỏ ra hàng loạt chi phí như: quảng cáo, tiếp thị, nhân công, trưng bày sản phẩm… nhờ ưu thế sẵn có của mạng Internet. 1.1 Nhận thức xã hội đối với TMĐT Các doanh nghiệp đã bắt đầu ý thức được tầm quan trọng của con người và xã hội khi bắt tay vào triển khai TMĐT. Tuy nhiên, thay đổi nhận thức xã hội về một phương thức sản xuất kinh doanh mới là một quá trình lâu dài và phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của mọi thành phần từ các cơ quan nhà nước, phương tiện truyền thông, tổ chức xã hội cho đến bản thân doanh nghiệp và người tiêu dùng. Sự thay đổi nhận thức của các nhóm đối tượng khác nhau có thể diễn ra với nhịp độ khác nhau, nhưng nhìn chung nhận thức xã hội về TMĐT đến nay đã có nhiều chuyển biến tích cực. a.Nhận thức của người tiêu dùng Ở Việt Nam trên 99% các khoản chi tiêu tiêu dùng cá nhân vẫn được thanh toán bằng tiền mặt, điều này ở một số nước đang phát triển ở khu vực như Singapore không xẩy ra, thanh toán tiền mặt chỉ dùng cho tiêu dùng nhỏ lẻ, chính vì vậy nên thị trường thẻ nước này rất phát triển. Thực tế thói quen thanh toán tiền mặt trong đời sống, sinh hoạt là một nguyên nhân quan trọng khiến thanh toán thẻ sau hơn 14 năm ra đời ở Việt Nam vẫn chưa phát triển hiệu quả như mong đợi. Nhìn chung, hạ tầng thanh toán thẻ tại thị trường VN chưa ổn định. Hiện nay, có 2 cách thanh toán qua thẻ: một là thẻ do các ngân hàng phát hành và các ngân hàng đặt những trạm rút tiền tự động (ATM). Tuy nhiên, cách thanh toán này thường hay bị gián đoạn kết nối và tính bảo mật chưa được bảo đảm. Ngoài ra, giao dịch giữa hai ngân hàng còn rất hạn chế như thanh toán hay dịch vụ chuyển khoản… Cách thứ 2 là thanh toán qua thẻ Master Card/Visa/American Express… nhưng giao dịch cũng rất chậm và chi phí còn cao cũng như không thông dụng. Tuy nhiên từ 2006 đến nay nhận thức của người dân và DN đã có những chuyển biến khả quan hơn. Đó là xác định đúng thanh toán điện tử là một trong những cách huy động vốn nhàn rồi hiệu quả nhất với bất kỳ chính phủ nào. Bước tiến mới từ cuối năm 2006 : Trả lương qua tài khoản, cũng như khuyến khích các giao dịch qua ngân hàng nhằm tăng lượng tiền lưu chuyển trong các ngân hàng, tạo nguồn vốn dồi dào cho đầu tư, kinh doanh... tất cả đều cho mục đích phát triển nền kinh tế. Chưa kể đến số tiền khổng lồ nếu được thanh toán bằng thẻ cho các hợp đồng giao dịch, buôn bán, và nhu cầu mua sắm của người dân. Hiện nay theo thống kê của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, số lượng thanh toán bằng tiền mặt giảm xuống hàng năm khoảng 17%/năm. Bên cạnh chuyển biến về thói quen dùng tiền mặt, tập quán tiêu dùng trong xă hội cũng đang có những bước thay đổi lớn cùng với sự tăng trưởng nhanh của hàm lượng thông tin trong nền kinh tế. Người tiêu dùng hiện đại, đặc biệt giới trẻ và những người có thu nhập cao, ngày càng hiểu biết và được tiếp cận nhiều thông tin hơn, do đó nhu cầu tiêu dùng cũng trở nên tinh tế hơn. Trong bối cảnh đó, thương mại điện tử đem lại một giải pháp tư tưởng để người tiêu dùng tìm hiểu thông tin và mở rộng phạm vi lựa chọn hàng hóa dịch vụ. Một tỷ lệ ngày cao người dùng Internet Việt Nam đang bắt đầu tham gia vào thương mại điện tử, từ những bước đơn giản ban đầu như tra cứu thông tin sản phẩm, tìm hiểu về dịch vụ, cho đến tiêu thụ dịch vụ trực tiếp trên Internet (như chơi trò chơi trực tuyến, tải nhạc, tải phần mềm, v.v…) b.Nhận thức của DN Hầu hết các doanh nghiệp (DN) Việt Nam chưa dám nghĩ tới việc xây dựng website từ khi thành lập, hoặc trước khi ra đời, mà thường là sau khi hoạt động rất nhiều năm mới "lò dò" đi hỏi: Nếu tôi muốn có một 'cái' thì mất bao nhiêu, liệu có làm được không? Theo thống kê của Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC), Việt Nam có khoảng 80 triệu người, tính đến tháng 8/2004 số người biết sử dụng Internet là 5.341.943, tỷ lệ này đạt 6,55%. Tổng số DN tại Việt Nam có khoảng 120.000, số lượng trang web mà các DN Việt Nam đăng ký để phục vụ cho hoạt động kinh doanh là 10.362, khoảng 8,63%, trong đó số tên miền .vn (như .com.vn, .net.vn,...) đã tăng từ 2.300 (năm 2002) lên 5.510 (năm 2003) và 9.037 (năm 2004). (i) Khoảng 46,2% các doanh nghiệp được khảo sát đã có website, trong số này phần lớn (68,7%) là các doanh nghiệp kinh doanh thương mại-dịch vụ, phần còn lại là các doanh nghiệp sản xuất. (ii) Khoảng 87,6% số doanh nghiệp có website cho biết đối tượng chính mà doanh nghiệp muốn hướng tới thông qua website là các doanh nghiệp khác, hướng tới người tiêu dùng là 65,7%. Như vậy, có khả năng hình thức giao dịch B2B sẽ chiếm ưu thế hơn hình thức B2C. (iii) Khoảng 32,8% số website có các tính năng hỗ trợ giao dịch thương mại điện tử (như cho phép khách hàng gửi yêu cầu, đặt hàng trực tuyến, v.v..). Có nhiều cách lý giải cho con số ít ỏi các DN  tiếp xúc với thương mại điện tử (TMĐT) đã được đưa ra. Nào thiếu lực lượng có tay nghề để đáp ứng nhu cầu của công nghệ cao; thiếu vốn đầu tư xây dựng hạ tầng công nghệ cao;  môi trường chính sách, pháp lý chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập và hầu như chưa hỗ trợ để xúc tiến phát triển TMĐT... Nhưng ít ai nghĩ rằng nguyên nhân lớn nhất và quan trọng nhất là do nhận thức của xã hội về TMĐT, đặc biệt là chính các DN chưa chịu hoặc chưa biết cách  triển khai. Hiện ở Việt Nam chỉ có một số ít DN  đang nỗ lực biến TMĐT trở thành công cụ chính trong hoạt động kinh doanh của mình, như: VEC, VASC, VDC, VNET,... hay sử dụng TMĐT để tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ các DN Việt Nam thâm nhập thị trường Australia như Công ty VBD. Những nỗ lực này đều xuất phát từ một điểm là họ có sự nhận thức thấu đáo hơn các DN khác về TMĐT.  Theo các chuyên gia, điều quan trọng nhất trong việc phát triển TMĐT ở Việt Nam hiện nay xuất phát từ các doanh nghiệp. Đây là lực lượng nòng cốt ứng dụng và phát triển TMĐT. c. Nhận thức về vấn đề an ninh, an toàn mạng Hoạt động thương mại điện tử diễn ra trong một không gian kinh tế khác biệt so với các phương thức kinh doanh truyền thống, và môi trường thương mại điện tử cũng có những rủi ro rất đặc thù. Để tham gia thương mại điện tử một cách thật sự hiệu quả, các bên cần có nhận thức đúng đắn về những rủi ro này, đồng thời trang bị những hiểu biết phù hợp nhằm tự bảo vệ ḿnh trong môi trường đó. Nhiều vụ lừa đảo và vi phạm liên quan đến thương mại điện tử trong năm qua được thực hiện một phần cũng do nhận thức của người tiêu dùng về các vấn đề này chưa được thấu đáo. Bên cạnh đó, còn có các hành vi gây rối của các cá nhân trên môi trường mạng như phát tán virus và tấn công website. Các hành vi này có tác động xã hội rất lớn, gây ảnh hưởng tiêu cực tới tâm lý của người tiêu dùng và phá hoại tính ổn định trong môi trường TMĐT. Mặt khác, tốc độ lây lan và diện ảnh hưởng của những hành vi này cũng cho thấy nhận thức của xã hội về các biện pháp tự bảo vệ khi tham gia môi trường kinh doanh trực tuyến còn rất thấp. Theo tổng kết của Bkis, năm 2007 nổi lên một số vấn đề về an ninh mạng như: nhiều website chưa bảo đảm an ninh, nhất là website của các công ty chứng khoán, mật khẩu là điểm yếu của người sử dụng máy tính, các hình thức lừa đảo qua mạng ngày càng tăng. Theo ông Nguyễn Tử Quảng, Giám đốc Trung tâm Bkis, năm 2006, Trung tâm đã tiến hành khảo sát và phát hiện ra lỗ hổng nguy hiểm tại 140 website của các cơ quan, doanh nghiệp. Vào đầu năm và cuối năm, Trung tâm đã hai lần tiến hành khảo sát các website đang hoạt động của các công ty chứng khoán Việt Nam. Trong lần khảo sát vào tháng 3/2007, có 12/22 website (chiếm tới 54%) tồn tại lỗ hổng nghiêm trọng có thể bị hacker lợi dụng tấn công chiếm quyền kiểm soát. Lần khảo sát lại vào cuối năm, kết quả cho thấy vẫn còn 40% website có lỗi trên tổng số 60 website của các công ty chứng khoán đang hoạt động. Như vậy tình hình có được cải thiện, nhưng số lượng có lỗi vẫn ở mức cao. Ông Quảng cũng cho biết, năm 2007, hầu hết các hình thức lừa đảo trực tuyến phổ biến trên thế giới đều đã xuất hiện ở Việt Nam như: lừa đảo qua diễn đàn trên mạng, lừa đảo qua email mà điển hình nhất là lừa đảo trúng thưởng xổ số, lừa đảo qua website (Colony Invest, Cali Invest,…). Ngoài ra, còn có lừa đảo qua tin nhắn di động, chat, qua game online, mạng xã hội ảo… Theo thống kê của Bkis, năm 2007, trung bình mỗi ngày xuất hiện hơn 18 virus mới, đưa tổng số virus xuất hiện trong năm lên tới hơn 6.700 virus. Có hơn 33,6 triệu lượt máy tính bị nhiễm virus và 342 website bị tấn công, trong đó có 118 website bị hacker trong nước tấn công, có những website bị hack tới hai lần. d. Tình hình tuyên truyền về TMĐT Thay đổi và nâng cao nhận thức về thương mại điện tử là một quá trình đòi hỏi sự tham gia của mọi tầng lớp trong xă hội, tuy nhiên giữ vai trò nổi bật nhất trong quá trình này vẫn là doanh nghiệp và các phương tiện truyền thông. Đây là hai lực lượng năng động và nhạy bén hơn cả trong việc nắm bắt những xu hướng, những trào lưu mới của xă hội. Với sự tham gia chủ động và tích cực của hai nhóm đối tượng này, năm 2006 các hoạt động tuyên truyền về thương mại điện tử đã diễn ra thật sự sôi động. _ Trên các phương tiện thông tin đại chúng : Truyền hình, đài và báo viết là ba công cụ lớn tham gia vào quá trình tuyên truyền về thương mại điện tử trong thời gian qua. Sự xuất hiện của kênh truyền hình kỹ thuật số 5 (VTC5) từ ngày 1/8/2006 đã mang lại nhiều thông tin cho khán giả về tất cả các lĩnh vực của khoa học công nghệ nói chung cũng như công nghệ thông tin và TMĐT nói riêng. Chuyên mục “Cuộc sống số” của VTV1 cũng là chuyên mục hấp dẫn thu hút được đông đảo người xem. Đài tiếng nói Việt Nam (VOV) cũng tích cực tham gia tuyên truyền các kiến thức về thương mại điện tử cho thính giả trong cả nước. Bên cạnh báo hình, báo viết cũng được ghi nhận là một kênh tuyên truyền quan trọng cho TMĐT. Nhiều báo viết hiện nay đã có hẳn chuyên trang Công nghệ thông tin, nơi tập hợp thông tin đa dạng về các hoạt động và sự kiện liên quan tới TMĐT. Một số báo điển hình là Lao động, Sài g̣òn Giải phóng, Thương mại, Thời báo Kinh tế Việt Nam và tạp chí Thế giới Vi tính. Khác với báo viết, báo điện tử hướng tới các đối tượng độc giả đã sẵn có phương tiện và kiến thức nhất định về ứng dụng Internet. Với tính ưu việt về sự tiện lợi, chi phí thấp và tần suất cập nhật thông tin cao, báo điện tử là một kênh tuyên truyền kiến thức hiệu quả về TMĐT với số lượng độc giả ngày một tăng. Nội dung của các báo điện tử khá phong phú, đặc biệt là các chuyên đề về công nghệ thông tin và thương mại điện tử. Những chuyên đề như Nhịp sống số (Tuổi trẻ online), Vi tính (Vnexpress), Công nghệ thông tin truyền thông (Vietnamnet), Vi tính–Internet (24h.com.vn), Khoa học công nghệ (Tiền phong online), TMĐT (Chúng ta) đã thu hút rất nhiều độc giả. _Trên các website doanh nghiệp và các diễn đàn về thương mại điện tử Kiến thức về thương mại điện tử cũng được cung cấp thường xuyên trên website của những DN kinh doanh TMĐT. Tại đây, người tiêu dùng hoặc doanh nghiệp có thể tìm hiểu những kiến thức từ cơ bản đến chuyên sâu về lĩnh vực này. Bên cạnh các chuyên đề hướng dẫn kỹ năng tham gia giao dịch TMĐT, nhiều website còn thiết lập hẳn một chuyên mục hoặc thư viện tra cứu về thương mại điện tử. Đây là nguồn thông tin, phổ biến kiến thức hiệu quả và có giá trị ứng dụng cao do được tích lũy từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp. Bên cạnh các website cung cấp thông tin theo dạng một chiều, các diễn đàn cũng đang trở thành một kênh tuyên truyền hiệu quả về thương mại điện tử. Một số diễn đàn đã thu hút được nhiều thành viên tham gia tranh luận về những vấn đề liên quan đến thương mại điện tử. _Qua các cuộc thi và các hình thức khác Bên cạnh những cuộc thi và trao giải liên quan tới TMĐT như năm 2005, năm 2006 đã xuất hiện thêm một số giải thưởng mới dành riêng cho TMĐT. Ngoài giải Cúp vàng TMĐT của Hội Tin học Việt Nam, giải Sao Khuê do Hiệp hội phần mềm Việt Nam tổ chức lần đầu tiên đã có giải thưởng cho giải pháp TMĐT. Các cuộc thi tìm hiểu TMĐT cũng thường xuyên được tổ chức tại một số trường đại học và trên truyền hình, thu hút được sự quan tâm của đông đảo khán giả và sinh viên. Năm 2007, Chương trình sinh viên với TMĐT được tổ chức với mục tiêu tìm kiếm những ý tưởng mới về TMĐT từ sinh viên, bắt đầu phát động vào cuối tháng 5/2007 và kết thúc vào tháng 12/2007. Chương trình đã tạo cơ hội cho các trường đại học, DN kinh doanh TMĐT và sinh viên giao lưu, tìm hiểu và nâng cao hiệu quả học tập nghiên cứu về TMĐT. Một số cuộc thi khác do các doanh nghiệp hoặc cơ quan truyền thông tổ chức như BIT Cup lần đầu tiên trong năm cũng đa có những giải thưởng cho giải pháp TMĐT. Chương trình xếp hạng các sàn TMĐT do Bộ Thương mại phối hợp với Hội Tin học Việt Nam thực hiện càng ngày càng có uy tín, góp phần định hướng cho DN và người tiêu dùng tiến hành mua bán trên những sàn có chất lượng phục vụ tốt và độ tin cậy cao. Ngoài ra, trong năm 2006 nhiều cuộc hội thảo, toạ đàm về TMĐT với các chủ đề đa dạng đã được tổ chức ở hàng chục tỉnh, thành phố, đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Những cuộc hội thảo này có hiệu quả rất lớn trong việc tuyên truyền về lợi ích của thương mại điện tử. Ngoài ra, phần lớn hội thảo được các phương tiện truyền thông đại chúng quan tâm đưa tin, bài và phổ biến tới đông đảo các đối tượng trên cả nước. 1.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho TMĐT TMĐT là một công cụ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới. Do đó, đào tạo nguồn nhân lực có khả năng quản lý các giao dịch bằng TMĐT là một nhu cầu cấp bách hiện nay. Làm thương mại trong môi trường kinh doanh quốc tế đòi hỏi không chỉ am hiểu về nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, nắm vững luật pháp kinh doanh quốc tế mà còn phải biết tận dụng những thành tựu của công nghệ thông tin và truyền thông và các hoạt động kinh doanh để tăng hiệu quả, giảm chi phí, nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Trả lời câu hỏi vì sao việc khai thác kinh doanh qua mạng còn hạn chế, phần lớn doanh nghiệp đều cho là nguồn nhân lực TMĐT còn thiếu và yếu về kỹ năng. Hiện mới có 38% doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về TMĐT, một tỉ lệ khá thấp so với các nước trong khu vực. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực một cách chính qui cho TMĐT ở nước ta bắt đầu chưa lâu. Ngày 15/9/2005 chúng ta mới có Quyết định 222/QĐ-TTG phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT, trong đó có dự án đầu tư nguồn nhân lực TMĐT tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trước đó, một số học viện, trường cũng có đào tạo nhưng các tiêu chí từ giáo viên, giáo trình cho đến hình thức thi tuyển, đào tạo, công nhận (bằng, chứng chỉ, chứng nhận... ) chưa được qui chuẩn thống nhất. Vì vậy giữa tháng 4/2007 xảy ra chuyện 474 học viên khoá I, hệ "Kỹ thuật viên tin học ứng dụng" của Viện Công nghệ thông tin, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã phản ứng kịch liệt vì đã tốt nghiệp rồi mà nhà trường không thể cấp bằng cho họ được, phải "nhờ" Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh cấp bằng hộ. Vì chưa có chương trình khung, nên doanh nghiệp phải tự tìm hình thức đào tạo nguồn nhân lực cho mình. Đào tạo tại chỗ theo nhu cầu công việc phổ biến hơn cả, được 62% doanh nghiệp lựa chọn, tiếp theo là gửi nhân viên tập huấn lớp ngắn hạn, chiếm 30%, và tự mở lớp đào tạo, 8%. Đào tạo tại chỗ là cách rẻ nhất và nhanh nhất để phục vụ nhu cầu trước mắt của doanh nghiệp, nhưng về mặt chiến lược, hình thức này không trang bị được cho nhân viên những kiến thức bài bản, có hệ thống, do đó hiệu quả về lâu dài không cao. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp mới quan tâm đến đào tạo TMĐT bề nổi mà chưa có bề sâu. Do đó, khi xây dựng trang Website hoặc tham gia vào các sàn giao dịch điện tử, những doanh nghiệp này vẫn chưa khai thác và tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh mà Internet đem lại. _Đa dạng giáo viên, giáo trình Từ năm học 2006 - 2007 trở đi mới xuất hiện những hình thức đào tạo một cách bài bản, qui chuẩn. Hiện có 75% số trường Đại học, Cao đẳng có khoa kinh tế hoặc khoa Quản trị kinh doanh thuộc các tỉnh phía Bắc có môn học TMĐT. Mặc dù tỉ lệ số trường có chương trình đào tạo TMĐT là khá cao ( 75% ở miền Bắc) nhưng nhìn chung, đội ngũ giảng viên cho chuyên ngành này chưa đáp ứng được nhu cầu. Giảng viên TMĐT có nguồn gốc rất khác nhau. Thí dụ, giảng viên của Đại học Thương mại chủ yếu từ chuyên ngành Kinh tế và Quản trị kinh doanh chuyển sang, của Đại học Ngoại thương thì chủ yếu tự đào tạo, bồi dưỡng của trường và bên ngoài, của Đại học Kinh tế quốc dân: Tự đào tạo và đào tạo ở nước ngoài ... Vấn đề bất cập nhất hiện nay của đội ngũ giảng viên TMĐT là số giảng viên có kiến thức cơ bản về kinh doanh thì được đào tạo không cơ bản về công nghệ thông tin và ngược lại, có rất ít giảng viên được đào tạo chuyên nghiệp cả về thương mại lẫn điện tử. Đồng thời do không đủ điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thiếu các phần mềm TMĐT hiện đại hỗ trợ cho đào tạo nên các giảng viên vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp giảng dạy truyền thống. Nguồn giáo trình TMĐT cũng chưa được quy chuẩn, chủ yếu từ nước ngoài và thông qua mạng Internet, cụ thể gồm: Các chương trình đào tạo TMĐT ở bậc Đại học, sau Đại học do các giảng viên sau khi tốt nghiệp ở nước ngoài mang về, chương trình đào tạo của các trường Đại học nước ngoài cung cấp công khai trên mạng Internet, sách, tài liệu của các tác giả nước ngoài và Việt Nam. Tất cả các giáo trình này mới chỉ dừng ở mức cung cấp kiến thức cơ bản, còn chuyên sâu đến kỹ năng ứng dụng, an toàn, bảo mật, thanh toán điện tử hay chiến lược TMĐT chưa có nhiều. 2. Chính sách và pháp luật cho phát triển TMĐT 2.1. Sự cần thiết phải xây dựng khung pháp lý cho việc triển khai TMĐT Sự phát triển của TMĐT trên thế giới đã làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng phải thừa nhận rằng những rủi ro gặp phải trong quá trình giao dịch, kinh doanh trên mạng là hiện thực và việc này đòi hỏi phải có các giải pháp không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn cần phải hình thành được một cơ sở pháp lý đầy đủ. Những kinh nghiệm thực tế trên thế giới cho thấy để thúc đẩy TMĐT phát triển thì vai trò của Nhà nước phải được thể hiện rõ nét trên hai lĩnh vực: cung ứng dịch vụ điện tử và xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ TMĐT. Nếu TMĐT hoạt động thì các DN và người tiêu dùng sẽ rất lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan và về phía các cơ quan Nhà nước cũng sẽ rất khó có cơ sở để kiểm soát được các hoạt động kinh doanh TMĐT. Hơn thế nữa thương mại điện tử là một lĩnh vực mới mẻ cho nên tạo được niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ thương mại điện tử là một việc làm có tính cấp thiết mà một trong những hạt nhân là phải tạo ra được một sân chơi chung với những quy tắc được thống nhất một cách chặt chẽ. Trong tiến trình hội nhập với thế giới với tư cách là thành viên của APEC, Việt nam đang tích cực tham gia và ủng hộ "Chương trình hành động chung" mà khối này đã đưa ra về thực hiện "Thương mại phi giấy tờ" vào năm 2005 đối với các nước phát triển và năm 2010 đối với các nước đang phát triển. Việt nam cũng tích cực tham gia vào lộ trình tự do hoá của Hiệp định khung e-ASEAN và thực hiện theo "Các nguyên tắc chỉ đạo Thương mại điện tử" mà các nước trong khối đã thông qua. Chính vì thế những đòi hỏi của pháp lý quốc tế chúng ta phải đáp ứng để có thể hoà nhập và theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới. 2.2. Các yêu cầu pháp lý cho việc phát triển TMĐT * Giá trị pháp lý của các hình thức thông tin điện tử : Theo quan niệm lâu nay của những người làm công tác pháp lý thì họ vẫn hiểu trong một nền thương mại truyền thống thì văn bản được đồng nghĩa với giấy tờ (dưới hình thức viết). Như vậy, nếu các hình thức thông tin điện tử không được ghi nhận về mặt pháp lý là một trong những hình thức của văn bản, thì các hợp đồng được giao kết trên mạng máy tính giữa các chủ thể sẽ bị coi là vô hiệu theo pháp luật của Việt nam, do không đáp ứng được các yêu cầu về mặt pháp lý của hợp đồng. Nếu đòi hỏi các hợp đồng thương mại, dân sự phải được thể hiện dưới hình thức viết và chữ ký tay thì những ưu thế của các giao dịch thương mại điện tử sẽ không được tận dụng và phát huy. Chính vì vậy việc xoá bỏ rào cản đầu tiên ảnh hưởng đến sự phát triển của thương mại điện tử là về phía Nhà nước cần phải có sự ghi nhận về mặt pháp lý đối với giá trị của văn bản giao dịch thông qua phương tiện điện tử. Việc chúng ta ghi nhận giá trị pháp lý của các hình thức thông tin điện tử có thể được thực hiện bằng hai cách chính như sau: - Thứ nhất: Nên đưa ra khái niệm văn bản điện tử và có những quy định riêng đối với loại văn bản này. - Thứ hai: Phải coi các hình thức thông tin điện tử như là các văn bản có giá trị tương đương với văn bản viết nếu như chúng đảm bảo được các yếu tố: . Khả năng chứa thông tin, các thông tin có thể được lưu giữ và tham chiếu lại khi cần thiết. . Ðảm bảo được tính xác thực của thông tin . Ðảm bảo được tính toàn vẹn của thông tin Hiện nay tại Việt nam vấn đề này chúng ta đã có đề cập đến và đã được giải quyết tuy còn ở một góc độ rất hạn chế. Trong luật Thương mại Việt nam đã có quy định Hợp đồng mua bán hàng hoá thông qua điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác cũng được coi là hình thức văn bản. Tuy nhiên ở các hợp đồng kinh tế, dân sự, thương mại khác thì vấn đề này chưa đuợc thừa nhận một cách rõ ràng và cụ thể. Chính vì vậy để hoàn thiện và có một cách hiểu thống nhất chúng ta cần phải có những điều chỉnh kịp thời trong thời gian tới. * Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử Từ trước đến nay chữ ký là phương thức phổ biến để ghi nhận tính xác thực của thông tin được chứa đựng trong văn bản. Có một số đặc trưng cơ bản của chữ ký là: - Chữ ký nhằm xác định tác giả của văn bản - Chữ ký thể hiện sự chấp nhận của tác giả với nội dung thông tin chứa đựng trong văn bản. Trong giao dịch thương mại thông qua các phương tiện điện tử, các yêu cầu về đặc trưng của chữ ký tay có thể đáp ứng bằng hình thức chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử trở thành một thành tố quan trọng trong văn bản điện tử. Một trong những vấn đề cấp thiết đặt ra là về mặt công nghệ và pháp lý thì chữ ký điện tử phải đáp ứng được sự an toàn và thể hiện ý chí rõ ràng của các bên về thông tin chứa đựng trong văn bản điện tử. Hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và đã được ứng dụng rộng rãi nhằm nhận dạng và chứng thực cá nhân. Những công nghệ này bao gồm công nghệ số và mật lệnh nhận dạng, dấu hiệu hoặc thẻ thông minh, sinh trắc học, dữ liệu điện tử đơn giản, chữ ký kỹ thuật số và các kết hợp của những công nghệ này. Luật pháp điều chỉnh lĩnh vực này sẽ tập trung vào việc đặt ra các yêu cầu về nhận dạng chữ ký điện tử cho phép các bên không liên quan hoặc có ít thông tin về nhau có thể xác định được chính xác chữ ký điện tử của các bên đối tác. Và trong trường hợp này để xác định được độ tin cậy của chữ ký điện tử người ta trù liệu hình thành một cơ quan trung gian nhằm chứng thực tính xác thực và đảm bảo độ tin cậy của chữ ký điện tử. Cơ quan này hình thành nhằm cung cấp một dịch vụ mang nhiều ý nghĩa về mặt pháp lý hơn là về mặt công nghệ. Ðối với Việt nam vấn đề chữ ký điện tử vẫn còn là một vấn đề mà chúng ta mới có những bước đi đầu tiên. Tháng 3/2002 Chính phủ đã có quyết định số 44/2002/QÐ-TTg về chấp nhận chữ ký điện tử trong thanh toán liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt nam đề nghị. Có thể coi đây là văn bản pháp lý cao nhất quy định về chữ ký điện tử hiện đang được áp dụng tại Việt nam. Chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm để hoàn thiện và nhân rộng để chữ ký điện tử trở thành phổ biến trong các giao dịch thương mại điện tử. * Vấn đề bản gốc Vấn đề "bản gốc" có liên quan chặt chẽ đến vấn đề "chữ ký" và "văn bản" trong môi truờng kinh doang điện tử. Bản gốc thể hiện sự toàn vẹn của thông tin chứa đựng trong văn bản. Trong môi trường giao dịch qua mạng thì vấn đề bản gốc được đặt gắn liền với việc sử dụng chữ ký điện tử. Do đó chữ ký điện tử không những chỉ xác định người ký mà còn nhằm xác minh cho tính toàn vẹn của nội dung thông tin chứa trong văn bản. Việc sử dụng chữ ký điện tử đồng nghĩa với việc mã hoá tài liệu được ký kết. Về mặt nguyên tắc thì văn bản điện tử và văn bản truyền thống có giá trị ngang nhau về mặt pháp lý. Vấn đề này được làm rõ sẽ là cơ sở cho việc xác định giá trị chứng cứ của văn bản điện tử. Việc công nhận giá trị chứng cứ của văn bản điện tử đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của thương mại điện tử. Chỉ khi giá trị của văn bản điện tử được đặt ngang hàng với văn bản viết truyền thống thì các chủ thể trong giao dịch thương mại điện tử mới sử dụng một cách thường xuyên văn bản điện tử thay cho văn bản viết truyền thống. Tuy vậy giá trị của văn bản điện tử cũng chỉ được xác nhận khi nó đảm bảo được các thành tố mà đã được nêu ở phần trên. Có thể nói vấn đề xây dựng khung pháp lý làm cơ sở cho thương mại điện tử phát triển là một việc làm mang tính cấp thiết. Dẫu là còn nhiều vấn đề mà chúng ta phải bàn về nó song một thực tế là thương mại điện tử không thể phát triển mạnh và hoàn thiện nếu như không có môi trường pháp lý đầy đủ cho nó hoạt động. Theo kế hoạch tới cuối năm 2002 Bộ Thương mại sẽ trình Chính phủ Pháp lệnh về Thương mại điện tử. Ðây là sẽ một tin vui cho tất cả những ai đã, đang và sẽ triển khai, quan tâm đến thương mại điện tử. 2.3. Một số chính sách liên quan tới thương mại điện tử _Ngày 7/2/2006 : Quyết định số 32/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển Viễn thông và Internet Việt Nam đến năm 2010. _Ngày 7/4/2006 : Quyết định số 74/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình cung cấp. dịch vụ viễn thông công ích đến năm 2010. _Ngày 24/5/2006 : Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Quyết định 112/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 có 14 dự án và đề án, trong đó 3 đề án liên quan đến thương mại điện tử: +Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 – 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. + Dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán giai đoạn II do Ngân hàng Thế giới tài trợ. +Dự án hệ thống thông tin quản lưu và hiện đại hoá ngân hàng do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Tiếp theo dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán giai đoạn I do Ngân hàng Thế giới tài trợ, ba dự án mới này sẽ góp phần tạo dựng một môi trường thanh toán có tính liên thông cao, đồng thời đặt nền tảng cho việc triển khai hệ thống thanh toán điện tử hiện đại, đáp ứng các nhu cầu phát triển của TMĐT tại Việt Nam. _Dự thảo Chương trình phát triển công nghiệp phần mềm Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010. _Dự thảo Kế hoạch phát triển Chính phủ điện tử. 2.4. Pháp luật Theo Luật giao dịch điện tử của Việt Nam thì giao dịch điện tử được định nghĩa ngắn gọn là “giao dịch được thực hiện bằng những phương tiện điện tử” (Khoản 6, Điều 4, Chương I). Trong Luật này, lần đầu tiên những khía cạnh chủ yếu của giao dịch thương mại điện tử đã được công nhận tính pháp lý và có cơ chế bảo vệ: thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử, dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử, hợp đồng điện tử, v... Theo đánh giá chung, Luật Thương mại mới nhất (2005) chưa dành một sự quan tâm tương xứng đến TMĐT. Mới chỉ có một khoản (Khoản 4, Điều 20 nói về “Các hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ” trong đó coi “Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ trên internet” là một hình thức trưng bày, giói thiệu hàng hóa, dịch vụ. Bộ Luật Dân sự tại Khoản 1, Điều 124 “Hình thức giao dịch dân sự” quy định: “Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản”. Như vậy, TMĐT trong Boộ Luật Dân sự cũng chưa được phản ánh một cách rõ nét. Nghị định về TMĐT (số 57/2006/NĐ-CP ngày 09/6/2006) cụ thể các điều, khoản của Luật giao dịch điện tử, đồng thời cũng nêu rõ những chế tài, công cụ, tổ chức quản lý của nhà nước đối với giao dịch TMĐT. Bộ Thương mại là cơ quan nhà nước có chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. * Năm 2006 là năm đầu tiên thương mại điện tử được pháp luật thừa nhận chính thức : _Sau gần 2 năm soạn thảo, ngày 29/11/2005, Luật giao dịch điện tử đã được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/3/2006. Luật gồm 8 chương, 54 điều quy định về thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử, giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước, an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử.Phạm vi điều chỉnh chủ yếu của Luật là giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, tron g lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại. _Luật Thương mại (sửa đổi) được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2006. Với 9 chương và 324 điều, Luật Thương mại mới đã mở rộng phạm vi điều chỉnh so với Luật Thương mại 1997, không chỉ bao gồm mua bán hàng hoá mà còn điều chỉnh cả cung ứng dịch vụ và xúc tiến thương mại. Nhiều loại hình hoạt động thương mại mới cũng được đề cập như dịch vụ logistics, nhượng quyền thương mại, bán hàng đa cấp, mua bán qua sở giao dịch hàng hoá... _ Bộ luật Dân sự (sửa đổi) được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực thi hành ngày 1/1/2006 là một văn bản pháp luật quan trọng điều chỉnh các quy._.đầu tư và đang lắp đặt thiết bị đáp ứng cho khoảng 10 triệu thuê bao di động. Một gương mặt có vẻ “ngoại đạo” là FPT Telecom cũng tham gia cuộc vận động này. Thông tin cho thấy, FPT Telecom sẽ cung cấp dịch vụ điện thoại cố định trên nền tảng NGN và tổng đài Softswich. Khách hàng lựa chọn dịch vụ trên sẽ cùng lúc được sử dụng Internet băng rộng, điện thoại cố định và truyền hình IP. Rõ ràng, NGN đã làm các công ty viễn thông, dịch vụ với các loại hình kinh doanh khác biệt xích gần nhau hơn. Ngoài các yếu tố công nghệ, năm 2008 được đoán là bước chuyển mạnh để dịch vụ GTGT bùng nổ còn do sự tham gia, đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài. Sự xuất hiện của những tên tuổi như France Telecom, Docomo, SK Telecom… cũng hứa hẹn nhiều dịch vụ mới. Thế mạnh của các doanh nghiệp nước ngoài là công nghệ và dịch vụ công nghệ cao, có chiều sâu, khu biệt từng đối tượng khách hàng như Mobile TV, Mobile Network TV…Và khi họ tới Việt Nam, các doanh nghiệp và cả khách hàng đều sẽ được thừa hưởng tất cả những ưu thế đó. Nguyên bộ trưởng Bộ Bưu chính - Viễn thông, GS.TS Đỗ Trung Tá từng nhận định: Việt Nam quyết định chuyển toàn bộ mạng lõi sang mạng thế hệ NGN từ năm 2008 nên sự tham gia của các đối tác nước ngoài là rất quan trọng… Tất cả các yếu tố nêu trên cho phép nhiều người sử dụng tin tưởng: năm 2008 là sẽ khởi đầu “thời điểm vàng” của các dịch vụ GTGT tại Việt Nam… III. TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG TMĐT TRONG DN Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, là lực lượng chiếm đại đa số 97% trong tổng số trên 200.000 doanh nghiệp trên toàn quốc. Tuy nhiên rất ít doanh nghiệp dám mạnh dạn đầu tư website để từng bước xây dựng thương hiệu cho mình. 1. Tình hình ứng dụng TMĐT trong DN Nghịch lý là theo thống kê có trên 97% các doanh nghiệp Việt Nam chưa có website riêng hoặc nếu có thì đa số chỉ “khoe” web lên chứ không hề phát triển nội dung cũng như cập nhật thông tin bởi không có kinh phí hoặc không biết làm thế nào để quảng bá, các kỹ năng ứng dụng TMĐT cũng yếu dẫn tới một số hiện tượng “chết yếu”. Tuy nhiên vẫn có một số doanh nghiệp năng động trong ứng dụng TMĐT đã chọn cho mình phương án khá tối ưu đó là tham gia vào các sàn thương mại điện tử. Hình thức mua bán giữa các doanh nghiệp với nhau (B2B) chiếm trên 90% giá trị giao dịch trên mạng. Kết quả điều tra mới đây của Vụ cũng cho thấy hơn 64% doanh nghiệp dùng Internet cho mục đích trao đổi thư điện tử; gần 63% doanh nghiệp có mục đích truyền và nhận dữ liệu, 41% doanh nghiệp với mục đích mua bán hàng hoá và dịch vụ, 40% doanh nghiệp dùng để duy trì và cập nhật website và chỉ có hơn 22% doanh nghiệp dùng Internet như một kênh liên lạc với các cơ quan nhà nước. Kết nối mạng đã giúp các doanh nghiệp tìm kiếm được thông tin nhanh chóng về các đối tác, tìm hiểu thông tin thị trường về ngành hàng quan tâm, tìm các thông tin quảng cáo hoặc chủ động quảng bá hình ảnh doanh nghiệp. Theo điều tra năm 2006 của Vụ Thương mại điện tử (Bộ Công thương), toàn quốc có 72% doanh nghiệp có website riêng, 65% tổ chức cung cấp dịch vụ đào tạo CNTT hoặc TMĐT. Trong đó, 79% tổ chức có phòng, ban hoặc khoa riêng đào tạo về CNTT, TMĐT và 81% tổ chức có phòng máy vi tính. Nước ta đứng thứ 71/82 nước được xem xét về mức độ sẵn sàng tham gia mạng năm 2003. Nước ta cũng được xếp trong nhóm 13 nước tụt hậu về CNTT và năm 2001 ta lên vị trí 58/60 nước; năm 2002 đứng vị trí 56/60 nước. Trong số 10 nước Asean, VN nằm trong số 4 nước chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh cho TMĐT. Các số liệu trên cho thấy, việc đưa tên VN vào vị trí trung bình trong bảng xếp hạng về ứng dụng TMĐT của các nước khu vực và trên thế giới đòi hỏi phải có những nỗ lực hết sức lớn lao từ phía Chính phủ, các bộ, ngành lẫn các DN. * Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh bình đẳng ngay cả với doanh nghiệp nước ngoài. Do vậy, thương mại điện tử là một phương thức giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Mặt khác thương mại điện tử có rất nhiều lợi ích hấp dẫn. Thế nhưng, không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng. _LẬP WEBSITE CHỈ ĐỂ… GIỚI THIỆU SẢN PHẨM Kết quả điều tra hơn 1.000 doanh nghiệp (DN) trên toàn quốc của Vụ Thương mại điện tử (Bộ Thương mại) cho thấy, số máy tính trung bình tại mỗi DN lên tới 17,6 và trung bình cứ 6,3 người có một máy tính; tỉ lệ DN đã kết nối Internet là 92%; nhiều lớp tập huấn về thương mại điện tử (TMĐT) cho DN đã được tổ chức và thu hút đông đảo học viên trên khắp các tỉnh, thành trong cả nước… Điều này chứng tỏ thị trường TMĐT đang dần hình thành và hầu hết các DN thấy được lợi ích của TMĐT. Số lượng và chất lượng các website kinh doanh là một tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ phát triển TMĐT, đặc biệt trong bối cảnh DN VN vẫn còn bỡ ngỡ với các phương thức tiến hành TMĐT của thế giới. Theo thống kê của vụ TMĐT (2007), hiện có 98,3% DN Việt Nam có website giới thiệu Công ty. Tuy nhiên, 62,5% các website này chủ yếu dùng để giới thiệu sản phẩm và dịch vụ. Số website cho phép đặt hàng qua mạng Internet là 27,4% song chỉ có 3,2% cho phép thanh toán trực tuyến. Theo đánh giá của Vụ TMĐT, DN mới chỉ dừng lại ở mức độ quảng bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm và trao đổi thông tin bằng các phương tiện điện tử. Ở cấp độ cao hơn, việc giao dịch và ký hợp đồng bằng các công cụ điện tử cũng được một số DN ứng dụng, nhưng con số này chưa nhiều. Với giao dịch trong nước DN vẫn có xu hướng sử dụng giấy tờ truyền thống. Chính vì vậy, nhiều DN cho rằng cần nhiều thời gian để thay đổi thói quen tiêu dùng và tập quán kinh doanh. _DN CHƯA QUAN TÂM? Việc ứng dụng TMĐT của nhiều DN vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể trên cả nước nói chung và của các DN thuộc các tỉnh, thành khu vực ĐBSCL nói riêng còn nhiều hạn chế. Theo Vụ TMĐT (Bộ Công Thương), ngoài nguyên nhân về nhận thức, vấn đề thanh toán điện tử là trở ngại lớn thứ hai của việc phát triển TMĐT. Công cụ thanh toán qua các tiện ích hiện đại như: thanh toán bằng thẻ tín dụng, thanh toán trực tuyến chỉ chiếm tỷ lệ từ 3,2-14,3%; còn lại chủ yếu là chuyển khoản qua hệ thống ngân hàng, thanh toán bằng tiền mặt và chuyển tiền qua bưu điện . Nguyên nhân do còn nhiều rủi ro trong việc trao đổi hàng hóa, chưa có hành lang pháp lý cụ thể cho các giao dịch điện tử (chữ ký điện tử, con dấu...). Ngoài ra, hợp đồng mua bán, hình thức thanh toán quốc tế, các tranh chấp TMĐT... cũng đang thiếu cơ sở pháp lý để khách hàng (đặc biệt là các doanh nghiệp) có thể an tâm thực hiện các giao dịch mua bán trực tuyến. Những vấn đề khác như: tốc độ đường truyền; chi phí đầu tư, phát triển trang web; cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực am hiểu về công nghệ thông tin và truyền thông... còn hạn chế. _ĐÁNH THỨC TIỀM NĂNG Khi internet ngày càng trở nên phổ biến, mức sống và thu nhập của người dân được nâng cao thì TMĐT và phương thức kinh doanh trực tuyến càng phát huy được những ưu điểm vượt trội. DN có thể dễ dàng thành lập một siêu thị ảo để quảng bá thương hiệu, bán các sản phẩm của mình và có khả năng giao tiếp với nhiều đối tượng khách hàng trong cùng thời điểm. Những đối tượng khách hàng (nhất là ở các tỉnh, thành phố lớn) không có nhiều thời gian rảnh rỗi cho công việc mua sắm truyền thống (tại các chợ, cửa hàng, siêu thị...) có thể mua được những mặt hàng cần thiết và được giao hàng nhanh chóng, miễn phí tận nhà chỉ qua vài thao tác nhắp chuột trên trang web. Một DN có thể thiết kế một website để phục vụ cho các mục đích: điều tra thị trường, hỗ trợ bán hàng, thực hiện dịch vụ quảng cáo điện tử, tổ chức một hệ thống thông tin theo yêu cầu, chiến lược kinh doanh của mình... Thông qua hệ thống quản lý trên website, DN có thể dễ dàng thực hiện nhanh các giao dịch thương mại, thanh toán điện tử, chăm sóc khách hàng, đại lý, nhà cung cấp, đối tác... mà không phải tốn nhiều đến các khoản chi phí như: điện thoại, thư từ, fax). Với tốc độ phát triển công nghệ thông tin mạnh mẽ cùng với sự hội nhập toàn diện của nền kinh tế, chắc chắn trong vài năm tới, thương mại điện tử sẽ bùng nổ ở Việt Nam. Tuy nhiên hoạt động thương mại điện tử mới chỉ manh nha ở các doanh nghiệp lớn, đại đa số các doanh nghiệp nhỏ tại Việt Nam vẫn đang nằm ngoài guồng quay của phương thức kinh doanh hiện đại này. Rõ ràng, thương mại điện tử Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu, nhưng theo dự báo, đến năm 2010, cả nước sẽ có khoảng 80% doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng thành công TMĐT; 10% hộ gia đình từ thành phố, vùng nông thôn đến các hải đảo xa xôi chuyển sang hình thức mua bán dịch vụ trực tuyến. * Hiệu quả ứng dụng TMĐT trong DN Khảo sát của Bộ Thương mại đưa ra kết luận: website của các doanh nghiệp chủ yếu chỉ giới thiệu về công ty. Tính năng thương mại điện tử rất mờ nhạt. Đây là điểm bất lợi trong cạnh tranh thương mại. Tuy nhiên, theo điều tra của Bộ Thương mại, số lượng DN có website chiếm chỉ khoảng 20-25%. Trong số đó, có tới 93,8% số website chỉ để giới thiệu về công ty. Tính năng giao dịch điện tử chỉ  27%. Tính ra, chỉ khoảng 5,4 đến 6% số DN Việt Nam sử dụng thương mại điện tử. TMĐT ở Việt Nam chỉ mới ở bước đầu, các loại giao dịch B2B và B2C, thanh toán điện tử, chữ ký điện tử… mới ở mức độ sơ khai, là một khó khăn để phát triển lĩnh vực TMĐT. Hiện nay, tuy vẫn ở nhóm thấp trên thế giới, song trong năm qua, tỷ lệ sử dụng internet/100 dân đạt ngưỡng trung bình của châu Á; 40% doanh nghiệp tại Việt Nam có website riêng.... Kết quả điều tra do Bộ Thương mại tiến hành (2007) cho thấy: Gần 100% số DN đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của TMĐT với quá trình kinh doanh của DN. Trong số này có 79% DN cho rằng TMĐT mang lại các lợi ích: Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có; lôi kéo khách hàng mới; cải thiện sự hài lòng của khách hàng; làm tăng doanh số, lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh. Khoảng 96% DN cho rằng TMĐT giúp họ tăng kênh bán hàng; 85% cho rằng TMĐT giúp họ xây dựng được hình ảnh của mình. Như vậy, hầu hết DN đều có mục đích rõ ràng khi tham gia TMĐT. Số DN tham gia theo kiểu "phong trào" chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ - điều này khác hẳn với điều tra cách đây 3-4 năm khi số DN nhận thức đúng về TMĐT chỉ chiếm chưa đầy 10%. Theo khảo sát của Cục TMĐT và Công nghệ thông tin, hơn 1/3 doanh nghiệp có doanh thu nhờ đơn đặt hàng qua phương tiện điện tử đạt 15% trở lên so với tổng doanh thu, trong khi năm 2005 chỉ dừng ở mức 8%. Trong số những doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch TMĐT, có doanh nghiệp đã kí được hợp đồng xuất khẩu trị giá 9,6 tỷ đồng. Có tới 63% doanh nghiệp tin tưởng rằng doanh thu có được từ các đơn đặt hàng qua giao dịch TMĐT sẽ tiếp tục tăng. Tuy nhiên, đa số website TMĐT còn thiếu cam kết cụ thể về chế độ thu thập thông tin cá nhân cho người tham gia giao dịch. Trong số 290 website TMĐT được khảo sát năm 2006, chỉ có 75 website công bố chính sách bảo vệ thông tin khách hàng, chiếm 26% tổng số website. Hiệu quả ứng dụng TMĐT trong năm 2006 tăng lên rõ rệt trên nhiều tiêu chí: Thu hút khách hàng mới, từ 2,9 điểm năm 2005 lên 3,3 điểm (điểm 4 là cao nhất), tăng doanh số từ 1,94 lên 2,25 điểm, tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, từ 1,9 lên 2,78 điểm ... Song kết quả điều tra của Bộ Thương mại cũng cho thấy những gam màu sẫm của bức tranh: tỷ lệ doanh nghiệp có Website 31,3%, nhưng tính năng TMĐT trong Website còn chưa hữu hiệu. Chức năng chủ yếu của Website là giới thiệu về doanh nghiệp (98,3%), giới thiệu sản phẩm dịch vụ(62,5%), trong khi chức năng cho phép đặt hàng qua mạng chỉ có 27,4% và đáng lo ngại hơn cả là thanh toán trực tuyến mới đạt 3,2%. 2.Tình hình kinh doanh TMĐT Năm 2006 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của số lượng website B2C và C2C. Bộ Thương mại đã thống kê và tập hợp được gần 300 website chất lượng tốt để tiến hành đánh giá. 2.1. B2B Giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay chủ yếu được thực hiện thông qua các sàn thương mại điện tử B2B tổ chức theo hình thức cổng thông tin về cơ hội giao thương hoặc trung tâm thương mại. Thông qua những sàn TMĐT này, doanh nghiệp có thể tìm hiểu thông tin về đối tác tiềm năng và giới thiệu các sản phẩm dịch vụ của mình ra thị trường. Bắt đầu xuất hiện vào năm 2003, đến cuối năm 2007 tại Việt Nam có khoảng 40 sàn thương mại điện tử B2B. Tuy nhiên, tiện ích của phần lớn các sàn giao dịch này mới giới hạn ở việc đăng tải thông tin doanh nghiệp và nhu cầu mua bán. Hầu như chưa sàn nào có tiện ích tốt để hỗ trợ doanh nghiệp đàm phán, giao kết hợp đồng trực tuyến, theo dơi thực hiện hợp đồng và chăm sóc khách hàng. Phần lớn các đơn vị quản lý sàn cho biết vẫn chưa thu phí thành viên tham gia giao dịch, nguồn thu chủ yếu là từ hoạt động quảng cáo trực tuyến, xúc tiến thương mại và dịch vụ ngoại tuyến cung cấp cho một số đối tác trọng điểm. Sau giai đoạn tăng trưởng nhanh về số lượng sàn giao dịch B2B trong hai năm 2005-2006, đến năm 2007 tốc độ tăng này có xu hướng chững lại. Thay vào đó là sự phát triển theo chiều sâu của những sàn hiện có, bao gồm việc cải thiện tính năng kỹ thuật, nâng cao chất lượng dịch vụ và thu hút lượng thành viên tham gia đông đảo hơn. Tuy nhiên, ngoài một số sàn thu hút được khá đông doanh nghiệp tham gia với số cơ hội kinh doanh tăng nhanh, nhiều sàn giao dịch hiện nay phát triển tương đối chậm. 5 website B2B e-marketplace tiêu biểu năm 2006 www.ecvn.gov.vn www.vnemart.com www.gophatdat.com www.e-vietnamlife.com www.techmart.cesti.gov.vn (Nguồn : www.trustvn.gov.vn ) Ngày 26 tháng 8 năm 2005, cổng TMĐT quốc gia ECVN với Bộ Thương mại là cơ quan chủ quản, có địa chỉ tại website ECVN.gov.vn đã chính thức ra mắt với mục đích hỗ trợ các công ty nhanh chóng làm quen và tham gia vào TMĐT, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước khi tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu. Cổng giao dịch với ngôn ngữ thể hiện là tiếng Anh và tiếng Việt sẽ rất thuận tiện cho các công ty trong quá trình sử dụng và tra cứu. Bảng 4: Một số thống kê về tình hình hoạt động của ECVN tại thời điểm 31/12/2007 Một số chỉ tiêu Hàng hoá Dịch vụ Số lượng chào mua 186 38 Số lượng chào bán 3.860 961 (Nguồn : Báo cáo của Ban quản lý ECVN, tháng 12/2007) Trong năm 2007, Chương trình  TrustVn đã phối hợp cùng Vecom tổ chức đánh giá và xếp hạng các website TMĐT uy tín tại Việt Nam. 2.2. B2C và C2C _ Phần lớn các sàn B2C hoạt động theo dạng cửa hàng trực tuyến kinh doanh tổng hợp nhiều mặt hàng, trong đó chủ yếu là các mặt hàng có độ tiêu chuẩn hoá cao như hàng điện tử, thiết bị điện, đồ gia dụng, sách báo, văn phòng phẩm, v.v... Với mô hình kinh doanh và chiến lược quảng bá bài bản, nhiều sàn thương mại điện tử B2C bắt đầu tạo nguồn doanh thu ổn định cho doanh nghiệp. Các website B2C Việt Nam hiện nay cung cấp khá chi tiết thông tin giới thiệu về hàng hoá, dịch vụ. Các website tiêu biểu thường xuyên cập nhật thông tin sản phẩm mới, tổ chức các chương trình khuyến mại, cung cấp các dịch vụ trực tuyến phục vụ cho quá trình mua hàng của người tiêu dùng được nhanh chóng và thuận tiện. Hàng hoá bán trên các website B2C tập trung vào lĩnh vực hàng điện tử - tin học, đồ gia dụng, điện thoại di động, sách báo, văn phòng phẩm, quà tặng, thời trang, du lịch…Các hình thức thanh toán rất đa dạng từ trả tiền mặt, điện chuyển tiền, thanh toán qua người vận chuyển, thẻ thanh toán nội địa, thẻ hội viên. Tuy nhiên, hình thức thanh toán trực tuyến vẫn còn rất ít website áp dụng. Hình thức phân phối, vận chuyển hàng hoá cũng được các website B2C bắt đầu chú trọng. Có hai hình thức phổ biến: chủ sở hữu website tự đứng ra tổ chức mạng lưới vận chuyển hoặc sử dụng dịch vụ bưu chính chuyển phát. Một điểm đáng lưu ý là các website B2C của Việt Nam hầu hết chưa chú trọng đến các quy định bảo mật thông tin cá nhân cho khách hàng.Chỉ có các website tiêu biểu mới thực sự quan tâm đến việc quảng cáo, tiếp thị hình ảnh website của mình thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Các website này cũng đã biết cách chuyên nghiệp hoá giao diện người mua hàng, tạo một bố cục gắn kết, dễ tìm kiếm thông tin. 10 website B2C tiêu biểu 2006 www.btsplaza.com.vn www.megabuy.com.vn www.duylinhmobile.com.vn www.123mua.com.vn www.cleverlearn.com www.saigontourist.net www.chibaoshop.com www.golgift.com www.vinabook.com 10 website B2C tiêu biểu 2007 www.pacificairlines.com.vn www.123mua.com.vn www.travel.com.vn www.megabuy.com.vn www.golmart.com.vn www.thegioididong.com www.ben.com.vn www.vinabook.com www.saigontourist.net www.25h.vn (Nguồn : www.trustvn.gov.vn ) _ Số lượng website C2C năm 2006 được chọn lọc cũng rất phong phú với 88 website. Các website C2C chủ yếu là nơi rao vặt, một số ít website có thêm công cụ đấu giá và tạo các gian hàng ảo. Nhìn chung, hầu hết các website không chú trọng tới các quy định sử dụng cũng như chính sách bảo vệ thông tin cho các cá nhân đăng tin. Hàng hoá giao dịch rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã. 5 website C2C tiêu biểu năm 2006 www.1001shoppings.com www.chodientu.vn www.vietco.com www.sieuthihangchatluong.com www.aha.com.vn (Nguồn : www.trustvn.gov.vn ) Phần lớn người tiêu dùng vẫn sử dụng hình thức rao vặt qua mạng để trao đổi mua bán hàng hóa giữa các cá nhân. Nhưng đó là C2C không chuyên nghiệp và chưa hoàn thiện. Về góc độ kinh doanh thì đó không phải mô hình tốt nếu mãi duy trì như vậy, dù kiểu giao dịch này đang khá phổ biến", người quản lý Chợ điện tử phân tích. "Vì đó là kiểu làm tự phát, dễ thiết lập, dễ vận hành nhưng khó tạo niềm tin, đảm bảo uy tín và quan trọng là rất khó thu tiền". Trong bối cảnh như vậy, việc eBay - sàn giao dịch trực tuyến khổng lồ của thế giới - ra mắt giao diện tiếng Việt, khởi đầu cho những hoạt động kinh doanh chính thức tại VN, được đánh giá là "cú hích" đối với TMĐT, đặc biệt là giao dịch C2C trong nước. Nhìn nhận "VN là thị trường tiềm năng với 10 triệu người sử dụng Internet hiện nay, trong vòng 3 năm tới sẽ phát triển khoảng 24%", song động thái của eBay không quá ầm ĩ và thể hiện mục đích khiêm tốn là "nâng cao hiểu biết cho người sử dụng Internet ở Việt Nam, giúp người bán hàng trong nước tăng số lượng hàng hóa xuất khẩu" như Giám đốc eBay khu vực Đông Nam Á Sam MacDonagh phát biểu trước báo giới trong lễ ra mắt ebay.vn. 3. Ứng dụng TMĐT với doanh nghiệp xuất khẩu Có thể thấy do tính chất hướng ngoại rất cao của các doanh nghiệp xuất khẩu, nên sự tiếp cận thương mại điện tử là nhu cầu thiết yếu nhằm hội nhập với nền kinh tế thế giới. Cụ thể ở đây do đặc thù của hoạt động xuất khẩu là hướng tới những thị trường bên ngoài lãnh thổ quốc gia, việc ứng dụng Internet giúp cho doanh nghiệp trong việc tìm hiểu thị trường, quảng bá sản phẩm và tiến hành giao dịch với đối tác với chi phí thấp nhưng đạt hiệu quả cao. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cũng rất chú trọng việc xây dựng website, có đến 66,3% doanh nghiệp xuất khẩu đã có website riêng, chưa tính đến các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng các website trên các Sàn do đơn vị trung gian cung cấp (như các website doanh nghiệp trên trang www.vnemart.com ), đây là tỉ lệ khá cao so với mặt bằng chung các doanh nghiệp khác đầu tư xây dựng website. Điều này cho thấy để đáp ứng nhu cầu quảng bá khuếch trương sản phẩm trên phạm vi toàn cầu và không bị giới hạn bởi thời gian, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đầu tư tham gia các hội trợ, triển làm quốc tế, hay đi tìm kiếm thị trường. Thay thế bằng cách sử dụng website doanh nghiệp vừa tiết kiệm được các chi phí đó, vừa giới thiệu được hình ảnh, thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm của mình đến thị trường quốc tế vào bất kỳ thời điểm nào.  Một điều đáng chú ý khác là việc ứng dụng các công cụ hỗ trợ giao dịch của các doanh nghiệp xuất khẩu, đây là điều rất quan trọng vì nó không những giảm chi phí, nâng cao uy tín của doanh nghiệp mà còn tạo thuận lợi cho khách hàng thực hiện giao dịch nhanh chóng. So với tỷ lệ 32,8% các website thông thường có tính năng hỗ trợ giao dịch thương mại điện tử, thì tỷ lệ này ở các doanh nghiệp xuất khẩu là 54,3% các website cho phép tương tác trực tuyến để hỏi hàng hay đặt hàng. Tuy còn là tỷ lệ khiêm tốn so với mức độ ứng dụng ở các nước phát triển, nhưng có thể nói các doanh nghiệp Việt Nam đã ngày càng nhận thức cao hơn về tầm quan trọng của việc cung cấp dịch vụ trọn gói, kể cả giao dịch trực tuyến cho khách hàng.  Trong điều kiện môi trường pháp lý còn đang trong giai đoạn hoàn thiện và hạ tầng cho thanh toán điện tử còn chưa thực sự phát triển, chính vì vậy chất lượng thực sự của các giao dịch nói chung hiện nay của các website bán hàng tại Việt Nam là chưa cao, rất nhiều các giao dịch mới chỉ dừng lại ở mức trao đổi thông tin còn việc thanh toán vẫn phải sử dụng các phương thức thông thường. Đây chính là nguyên nhân mà các website thương mại điện tử này chủ yếu nhằm duy trì các khách hàng truyền thống và một thị trường khách hàng tiềm năng nhất định chứ chưa thể thu hút đông đảo khách hàng quốc tế thông qua Internet.  Cũng đề cập đến việc thu hút người dùng cho các website hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc quảng bá trực tuyến như yếu tố quyết định đến hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của mình. Có khoảng 26,7% các doanh nghiệp xuất khẩu có đăng ký website với các công cụ tìm kiếm trực tuyến như Google hay Yahoo… Ứng dụng thương mại điện tử có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, chúng ta cùng điểm quan tình hình ứng dụng thương mại điện tử của một số ngành xuất khẩu mũi nhọn:  -  Ngành dệt may, da giầy: có 100% các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy kết nối Internet, trong đó 90% sử dụng đường truyền kết nối tốc độ cao, 80% doanh nghiệp có trang web riêng và khoảng 30% các hợp đồng giao dịch được ký kết thông qua Internet.  -  Ngành thủ công mỹ nghệ: với 100% doanh nghiệp ứng dụng Internet trong đó chủ yếu sử dụng ADSL, điều đáng chú ý ở các doanh nghiệp xuất khẩu thủ công mỹ nghệ là có đến 80% doanh nghiệp có website riêng và mang tính chuyên nghiệp cao, ngoài ra rất nhiều doanh nghiệp sử dụng phương thức tham gia các Sàn giao dịch quốc tế để tận dụng lợi thế của các Sàn này đã được quảng bá rộng rãi trên phạm vi toàn cầu (như www.vnemart.com, www.vinafrica.com …).  -  Ngành nông lâm thủy sản: cũng với 100% doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đã có kết nối Internet, tuy nhiên số doanh nghiệp có website mới chỉ đạt 63%. Cùng với hạ tầng công nghệ và môi trường pháp lý đang dần được cải thiện, tin tưởng rằng thương mại điện tử sẽ tiếp tục mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu nói riêng. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TMĐT Ở VN I. Phương hướng Bốn mục tiêu, phương hướng cụ thể gồm: Đến năm 2010, sẽ có 70% các giao dịch B2B được thực hiện; 90% các DN vừa và nhỏ biết tới lợi ích của TMĐT và có ứng dụng nhất định; 15% hộ gia đình và cá nhân thực hiện được B2C; và khoảng 30% các hoạt động mua sắm, giao dịch điện tử của Chính phủ được thực hiện trên mạng (B2G). 1.Đối với chính phủ · Tạo dựng một môi trường có tính hỗ trợ giúp cho TMĐT mở rộng và phát triển · Kích hoạt TMĐT thông qua các dự án thí điểm, các trung tâm thí điểm và các thực nghiệm. · Xây dựng một quan điểm phối hợp, đổi mới và có mục tiêu đối với việc lập chính sách. . Đẩy nhanh tiến trình xây dựng chính phủ điện tử . Chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý cho TMĐT, ban hành các luật cần thiết đảm bảo tính chắc chắn, khả thi, và sáng tỏ của các bên hữu quan, có tính tới các phương thức đang hình thành của hoạt động kinh doanh số hoá. Khuôn khổ pháp lý mới phải có khả năng thích ứng và đủ linh hoạt để thích nghi được với các biến đổi CN và với tình hình môi trường toàn cầu, khu vực và trong nước biến hoá không ngừng.Để nâng cao hơn nữa tác dụng hỗ trợ của môi trường nhằm xúc tiến TMĐT, chính phủ cần kết hợp phải có các chính sách kinh tế thuận lợi, các chương trình kích thích cả gói và một cơ chế hỗ trợ. Khai thông thanh toán điện tử để tạo đường cho TMĐT phát triển hoàn chỉnh. 2. Đối với DN - Nâng cao nhận thức và kiến thức về thương mại điện tử, cần chủ động tìm hiểu lợi ích của TMĐT, coi đây là một trong những nhiệm vụ gắn với việc xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn. - Không chỉ đổi mới tư duy mà còn phải thay đổi cách quản lý theo hướng hiện đại. - Tự tin, chủ động ứng dụng thương mại điện tử trong sản xuất, kinh doanh, tin học hoá quy trình kinh doanh. - Tích cực hơn nữa trong việc tham gia các sàn giao dịch TMĐT, nhất là các sàn có sự hỗ trợ kinh doanh tốt và miễn phí. - Cung cấp thông tin kinh tế cho các doanh nghiệp và xúc tiến, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia thương mại điện tử, tăng cường hợp tác quốc tế về  thương mại điện tử. - Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan xây dựng chính sách và pháp luật thông qua việc góp ý kiến, tham gia các diễn đàn… nhằm hỗ trợ cho các cơ quan Nhà nước hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng chính sách và pháp luật liên quan tới TMĐT. II. Giải pháp Sáu chính sách để thực hiện bốn mục tiêu, phương hướng trên bao gồm: Triển khai mạnh và liên tục hoạt động phổ biến tuyên truyền và đào tạo về TMĐT; Tạo môi trường thuận lợi và ban hành đầy đủ, đồng bộ các văn bản quy phạm; Các cơ quan Chính phủ ở mọi cấp phải đi tiên phong trong hỗ trợ và ứng dụng TMĐT; Phát triển hạ tầng kỹ thuật trên cơ sở chuyển giao công nghệ từ nước ngoài; Tổ chức thực thi cương quyết các quy định pháp luật; Tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về TMĐT. 1.Đối với chính phủ - Hiện nay, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật có liên quan như Luật Giao dịch Điện tử, Luật Thương mại sửa đổi và mới đây, Nghị định về Thương mại Điện tử được ban hành cũng đã đánh dấu bước tiến lớn trong việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý để các doanh nghiệp yên tâm tiến hành giao dịch thương mại điện tử, khuyến khích thương mại điện tử phát triển. Một số văn bản pháp lý khác như Nghị định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, Nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số cũng đang được xây dựng Chính phủ cần thể hiện rõ sự quan tâm về vấn đề an ninh, an toàn mạng, vấn đề bản quyền, sở hữu trí tuệ... - Nhanh chóng triển khai các chương trình, dự án được đề ra trong Kế hoạch tổng thể phát triển Thương mại điện tử giai đoạn 2006 – 2010. - Đưa ra những chính sách cụ thể hoá đường lối phát triển, hướng dẫn thực hiện, hỗ trợ để DN có thể đầu tư, kinh doanh TMĐT đúng phương hướng đã đề ra. - Hoàn thiện nhanh các hoạt động cần thiết cho việc phát triển TMĐT như việc thống kê TMĐT, các dịch vụ công hỗ trợ cho TMĐT như hải quan điện tử, thuế điện tử, cấp phép qua mạng (thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đầu tư và giấy phép thành lập văn phòng đại diện, cấp phép kinh doanh các sản phẩm dịch vụ có điều kiện qua mạng), xử lý hồ sơ qua mạng (tạo điều kiện để 100% doanh nghiệp thực hiện báo cáo thống kê, khai báo thuế, thực hiện thủ tục hải quan qua mạng)... - Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước, liên thông kết nối các sở - ngành, hoàn thiện hệ thống thông tin doanh nghiệp tiến tới một cửa giải quyết hồ sơ hành chính qua mạng. - Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông, đẩy mạnh học tập và ứng dụng internet trong nhà trường, các vùng nông thôn, trong thanh niên - Thực hiện khai thuế qua mạng, hải quan điện tử, xây dựng trung tâm chứng thực điện tử và triển khai thực hiện chữ ký số. - Phát triển hệ thống thanh toán dùng thẻ - Đẩy mạnh hoạt động phổ biến và tuyên truyền về TMĐT. - Xây dựng các sàn TMĐT, kết nối các sàn TMĐT; kết nối các tỉnh thành phố trên khắp cả nước. - Hợp tác quốc tế đối với các Chính phủ, tổ chức nước ngoài trong việc đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn giải pháp, cung cấp dịch vụ… liên quan đến phát triển thương mại điện tử. 2. Đối với DN - Xây dựng website TMĐT chuyên nghiệp có đầu tư, chọn lọc : trên thực tế, DN có ba sự lựa chọn: . Mua một giải pháp dựng sẵn . Thuê một chỗ trong một giải pháp thương mại điện tử dựa trên mạng . Xây dụng một hệ thống với những cấu kiện khác nhau. - Đào tạo kiến thức, kỹ năng và môi trường ứng dụng thương mại điện tử; vấn đề sở hữu trí tuệ trong môi trường giao dịch ảo; phổ cập các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động thương mại điện tử. - Chủ động tìm hiểu về thương mại điện tử và lợi ích của TMĐT, Xác định mô hình thương mại điện tử thích hợp và xây dựng kế hoạch triển khai mô hình tại doanh nghiệp. Trên cơ sở mô hình đã chọn, các doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch triển khai, bao gồm kế hoạch tài chính trên cơ sở đầu tư vào thiết bị và công nghệ, đầu tư nguồn lực con người, v.v... - Tích cực tham gia các sàn giao dịch TMĐT : Sàn Giao dịch là một trong những hình thức hỗ trợ TMĐT quan trọng nhất. Thay vì phải tự hình thành một website riêng, DN có thể giới thiệu về mình, tìm kiếm đối tác, khách hàng và tận dụng được nhiều lợi ích kèm theo từ các sàn giao dịch trực tuyến. Các DN có thể tìm kiếm mặt hàng, đối tác trên các sàn giao dịch vốn đã nổi tiếng trên thế giới như (Hàn Quốc), (Mỹ) .. - Học tập kinh nghiệm quản lý, phát triển hạ tầng và hỗ trợ phát triển TMĐT tại các quốc gia có nền TMĐT phát triển. KẾT LUẬN Sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông trong thời đại kinh tế tri thức đã dẫn đến việc hình thành một phương thức kinh doanh mới - TMĐT. Các nhà kinh doanh thương mại đã nhanh chóng khai thác thành tựu này, họ sử dụng Internet như phương tiện để gửi thư, đàm phán, thảo hợp đồng, ký kết hợp đồng, quảng cáo, chào hàng, tìm kiếm thị trường, đối tác thương mại, và trong một số trường hợp Internet còn được sử dụng như kênh giao hàng. Đối với thế giới nói chung và đối với Việt Nam nói riêng, TMĐT đang mở ra một con đường tơ lụa mới. Đi sau các nước chừng 10 năm về TMĐT, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng hành lang pháp lý, đẩy mạnh đào tạo, nâng cao nhận thức cho nguời dân. Đến nay các hoạt động TMĐT đã có nhiều khởi sắc, đặc biệt là sự phát triển của các loại hình dịch vụ trực tuyến như mua bán qua mạng, game online, dịch vụ giải trí trực tuyến… TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế thương mại – Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân 2007 Báo cáo TMĐT của Bộ Công Thương các năm 2003 – 2007 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11261.doc
Tài liệu liên quan