Thực trạng giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam

A. Lời mở đầu ở nước ta, cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, một số hệ thống thị trường dịch vụ tài chính đồng bộ dần được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng các dịch vụ tài chính ngày càng tăng của các chủ thể trong nền kinh tế. Các loại hình dịch vụ tài chính ngày càng đa dạng, cả về số lượng cũng như chủng loại, bao gồm: dịch vụ ngân hàng, dịch vụ trên thị trường chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, kế toán, kiểm toán, tư vấn tài chính…Các ch

doc23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1503 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ thể tham gia thị trường dịch vụ tài chính ngày càng mở rộng, trong đó có các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Giá cả dịch vụ tài chính đang được đổi mới theo định hướng tự do hoá, giảm dần sự can thiệp mang tính hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước. Thị trường dịch vụ tài chính cũng đang trong quá trình hội nhập với thế giới và khu vực. Tuy nhiên, thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam mới đang trong quá trình hình thành, các loại hình dịch vụ tài chính còn sơ khai, chưa đáp ứng được các nhu cầu về dịch vụ tài chính của nền kinh tế. Đặc biệt, khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn một số rào cản: Cơ chế, chính sách, thiếu thông tin…Những vấn đề về thị trường dịch vụ tài chính và phát triển dịch vụ tài chính Việt Nam còn đang khá mới mẻ. Chính vì vậy, cần có một nghiên cứu khái quát về thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam nhằm cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính, cũng như cho các đói tượng và làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam. Đó là lý do em chọn đề tài này. Trong bài tiểu luận, em đã nêu ra một số vấn đề về phát triển dịch vụ tài chính ở Việt Nam trong quá trình hội nhập, bao gồm: Một số vấn đề cơ bản về cơ bản về vấn đề thị trường dịch vụ tài chính, thị trường dịch vụ tài chính tại một số nước trên thế giới, thực trạng hoạt động dịch vụ tài chính Việt Nam, hội nhập thị trường dịch vụ tài chính, những định hướng và giải pháp. Do sự hạn chế về thời gian và trình độ mà bài tiểu luận này của em khó tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong những nhận xét, đánh giá của các thày cô giáo để bài viết được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! B. nội dung I. Khái niệm chung về thị trường dịch vụ tài chính. 1. Khái quát chung Tuy là một khái niệm mới nhưng khái niềm về thị trường dịch vụ tài chính đã được nghiên cứu khá nhiều.Tuy nhiên, do tính chất quan trọng của nó đối với phát triển kinh tế, nhất là trong bối cảnh mở cửa và hội nhập hiện nay thì cần phải có cách hiểu chung và thống nhất để thuận tiện cho việc phát triển lĩnh vực này tại mỗi nước và trên toàn thế giới.Thị trường dịch vụ tài chính là một khái niệm mới do tổ chức thương mại thế giới WTO đưa ra nhằm hình thành các quy tắc ứng xử giữa các thành viên WTO trong hoạt động thương mại dịch vụ.Theo WTO: một dịch vụ tài chính là bất kì dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp.Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác. Có thể phân chia các loại dịch vụ tài chính thành bốn nhóm: _Dịch vụ ngân hàng _Dịch vụ trên thị trường chứng khoán _Dịch vụ bảo hiểm _Dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính. 2. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường dịch vụ tài chính Trong các loại hình dịch vụ tài chính, ngân hàng là loại hình dịch vụ xuất hiện sớm nhất.Dịch vụ ngân hàng đã xuất hiện đầu tiên tại vùng Địa Trung Hải, cụ thể là tại Hy Lạp và La Mã, với dịch vụ đầu tiên là dịch vụ đổi tiền, đổi ngoại tệ lấy bản tệ và dịch vụ triết khấu thương phiếu giúp các nhà buôn có vốn.Sự phát triển của những con đường thương mại xuyên lục địa mới và những biến chuyển trong ngành hàng hải vào thế kỉ 15,16,17 đã dần chuyển trung tâm thương mại của thế giới từ Địa Trung Hải sang châu Âu và quần đảo Anh, nơi ngân hàng trở thành nghành công nghiệp hàng đầu.Sự phát triển của cách mạng công nghiệp, việc ứng dụng phương thức sản xuất lớn đòi hỏi một sự mở rộng tương ứng trong thương mại toàn cầu để tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp, đòng thời đòi hỏi phải phát triển các phương thức thanh toán và tín dụng mới.Vì vậy, hệ thống ngân hàng đã phát triển nhanh chóng thêm nhiều loại hình dịch vụ mới để đáp ứng nhu cầu về thanh toán và tín dụng.Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, các dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển đa dạng.Bên cạnh các dịch vụ ngân hàng truyền thống, đã xuất hiện nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại như cho vay tiêu dùng, tư vấn tài chính, cho vay tài trợ dự án, thuê mua tài chính… Bên cạnh dịch vụ ngân hàng, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, cách mạng công nghiệp và sự phát triển của nền kinh tế thế giới, các loại hình dịch vụ tài chính khác ấy được hình thành,sự phát triển của dịch vụ thị trường chứng khoán gắn liền với sự hình thành và phát triển của một số thị trường chứng khoán.Từ năm 1611 đã có một số nhà buôn bắt đầu buôn bán cổ phiếu của công ty Đông ấn, hình thành sở giao dịch chứng khoán đầu tiên tại Amsterdam-Hà Lan.Năm 1724, ở Pháp thành lập sở giao dịch chứng khoán Paris. Tuy nhiên, phải đến tháng3 năm 1802, sở giao dịch chứng khoán London khai trương, đánh dấu bước phát triển quan trọng của nghành công nghiệp chứng khoán.Sau đó, năm 1817, hội giao dịch chứng khoán NewYork được thành lập.Năm1863 đổi tên thành “sở giao dịch chứng khoán NewYork”.Các dịch vụ về bảo hiểm cũng ra đời và phát triển mạnh ở Anh ngay từ thế kỉ XVI.Loại hình dịch vụ bảo hiểm đầu tiên là hình thức bảo hiểm tương hỗ.Cuối thế kỉ XVIII, công ty bảo hiểm tương hỗ đầu tiên cũng được thành lập ở Mĩ. II. Thị trường dịch vụ tài chính tại một số nước trên thế giới 1. Anh *Dịch vụ ngân hàng Hệ thống ngân hàng Anh được thành lập vào năm 1964, được hoạt động dưới hình thức ông chủ ngân hàng của chính phủ và những người quản lý nợ.Sau đó, vai trò của hệ thống ngân hàng ngày được nâng cao, tập trung chủ yếu vào quản lý tiền tệ quốc gia và vị trí của nó tại Hệ thống tài chính tiền tệ Anh.Bản chất chủ yếu của hệ thống ngân hàng là lợi nhuân nhưng cũng liên quan tới hệ thống ngân hàng ngày nay. Những sự kiện và hoàn cảnh 3 năm về trước và cả hiện tại quyết định mô hình và ảnh hưởng tới những vai trò và trách nhiệm của hệ thống ngân hàng. Chúng hình thành văn hoá và truyền thống của hệ thống ngân hàng có liên quan tới danh tiếng và tính hiệu quả của ngân hàng trung ương đầu thế kỉ 21.Cũng vào thời điểm này, bản chất hệ thống ngân hàng cũng tương tự như bản chất hệ thống kinh tế và tài chính và thường có cả vị thế chính trị. Hệ thống ngân hàng nước Anh cũng phổ biến như vậy. *Thị trường chứng khoán Vào giữa thế kỉ XVI, tất cả hàng hoá tại nước Anh được giao dịch trên một mậu dịch thị trường. Sau khi nước Anh hoàn tất cuộc cách mang công nghiệp, nhiều công ty và ngân hàng ra đời bên cạnh trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty ngày càng gia tăng. Từ đó mậu dịch thị trường London được tách thành các bộ phận giao dịch khác nhau cho mỗi loại hàng hoá trong đó giao dịch giá khoán động sản được tách thành thị trường chứng khoán. Lúc này, việc mua bán chứng khoán được diễn ra tại các cửa hiệu cà phê. Tới năm 1793, London có “một ngôi nhà tạm” để tiến hành giao dịch chứng khoán. Gần mười năm sau, vào năm 1802, thị trường chứng khoán Hoàng Gia chính thức được thành lập tại London, nguồn gốc của sở giao dịch chứng khoán london ngày nay(LS E). Thời kì đầu, LS E là một hội vô danh. Cácchứng khoán chỉ có giá trị tượng trưng cho các hội viên nắm giữ, không có ưu quyền gì về giao dịch. Cơ cấu tổ chức của hội được quy định hết sức chặt chẽ gồm hai loại thành viên là người môi giới và người tự doanh. 36 người trong số thành viên ấy hợp thành Hội đồng tự quản sở giao dịch chứng khoán và có quyền hạn hết sức rộng rãi. Hội đồng quy định cứ sau 15 ngày thanh toán một lần, thường là vào ngày thứ 3 và mỗi năm có 24 ngày thanh toán. Trong thời gian đầu mới thành lập LS E, chứng khoán giao dịch chủ yếu là quốc trái, công trái ngoại quốc, về sau thêm cổ phiếu ngành mỏ, tàu biển, đường sắt...Trong nước đã bắt đầu xuất hiện nhiều thị trường chứng khoán địa phương như Manchester, Liverpool...Sau đó các thị trường này sát nhập với LSE thành hiệp hội giao dịch chứng khoán vào năm 1973. Sau đó, Hiệp hội này hợp nhất với sở giao dịch chứng khoán trung ương thành thị trường chứng khoán. LSE là trung tâm giao dịch lớn nhất được chia thành các khu độc lập: thị trường cổ phiếu nội địa, thị trường cổ phiếu nước ngoài(ISE) và thị trường các quyền lựa chọn... Đến thập niên 60, kinh tế Anh suy thoái làm trung tâm tiền tệ quốc tế London chuyển sang New York. Sang thập niên 70, thị trường trái phiếu Châu Âu phát triển mạnh tạo điều kiện thụân lợi cho thị trường London khôi phục được địa vị thị trường tiền tệ quốc tế của mình. Tháng 10 năm 1979, Anh huỷ bỏ chế độ kiểm soát ngoại tệ, tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vào thời điểm này, số công ty tham gia thị trường chứng khoán nhiều. Năm 1983 có2654 doanh nghiệp được phát hành chứng khoán trên thị trường LS E, cùng thời điểm đó ở New York là 1550 doang nghiệp và ở Tokyo là 1452 doanh nghiệp. Năm 1986, Anh làm cuộc cách mạng lớn về thị trường chứng khoán gọi là “big bang” với 5 nội dung: 1. Đến cuối năm 1986 sẽ xoá bỏ mọi quy định cũ, có tính bảo thủ, gây trở ngại cho giao dịch chứng khoán và cho phép thực hiện tự do phí giao dịch. 2. Cho phép người không là nhà đầu tư được tham gia ban quản trị giao dịch. 3. Mở rộng quyền thẩm tra tư cách nhà đầu tư và giảm yêu cầu vốn của nhà đầu tư. 4. Cho phép người tự donh và người môi giới được thưch hiện tư cách song trùng, bãi bỏ chế độ tư cách riêng và có thể thực hiện hai nghiệp vụ đan xen nhau. 5.Lắp đặt hệ thống báo giá tự động. Trong năm đầu của thời kì “ big bang”, doanh thu về chứng khoán tăng gấp đôi trong ngày, có ngày lên tới 1,1 tỉ bảng, còn phí giao dịch giảm khoảng ẳ. Sau cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán quốc tế 1987, doanh thu về cổ phiếu trên thị trường nước Anh giảm 1/2, và từ năm 1988, các công ty chứng khoán gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, nước Anh có 20 sở giao dịch chứng khoán, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là thị trường chứng khoán london về cả lịch sử ra đời lẫn số lượng chứng khoán lưu hành. Hàng tuần, LS E làm việc 6 ngày, giờ giao dịch từ 8h30 đến 17h, thứ bảy và chủ nhận nghỉ giao dịch. 2. Thuỵ Sĩ *Dịch vụ ngân hàng Hệ thống ngân hàng Thuỵ Sĩ nổi tiếng trên toàn thế giới bởi việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng tinh vi và kín đáo. Thuỵ Sĩ có khoảng 4ô ngân hàng. Các ngân hàng này đều phục vị từ nhu cầu riêng lẻ của mỗi người dân cho tới những khách hàng đặc biệt. Hai ngân hàng lớn nhất Thụy Sĩ, Credit Suise và UBS, có mạng lưới các chi nhánh không chỉ tại Thuỵ Sĩ mà ở các nước trên thế giới. Các ngân hàng được cấp phép hoạt động bởi chính phủ Liên bang Thuỵ Sĩ và Hiệp hội ngânhàng có thể hoạt động ở khắp nơi tại Thuỵ sĩ.Một số ngân hàng có văn phòng đại diện hay chi nhánh tại nước ngoài. Trong số 400 ngân hàng được cấp phếp tại Thuỵ Sĩ, có nhiều chi nhánh có trụ sở chính tại nước ngoài. Hệ thống cung cấp dịch vụ của hệ thống ngân hàng Thuỵ Sĩ Một số ngân hàng tại Thuỵ Sĩ chỉ chuyên về một số loại dịch vụ chủ yếu nhưng nhiều ngân hàng lại cung cấp hầy hết các loại dịch vụ. Tại hầu hết các nước châu Âu, người dân thường mua và bán chứng khoán thông qua hệ thống ngân hàng của họ. Hệ thống ngân hàng Thuỵ Sĩ nổi tiếng trong lĩnh vực quản lý các danh mục đầu tư cho khách hàng và cung cấp một số dịch vụ khác như lập kế hoạch bất động sản, quản lý tài sản...cho các khách hàng riêng lẻ. Hệ thống ngân hàng tư nhân(Private banks) Hệ thống các ngân hàng tư nhân là hệ thống mà các ngân hàng không kết hợp thành một tổ chức và do đó toàn bộ tài sản cá nhân của họ có thể là các khoản nợ của ngân hàng. Những ngân hàng này có truyền thống lâu đời tại Thuỵ Sĩ. Ban đầu, các ngân hàng tư nhân cũng hoạt động trong lĩnh vực quản lý danh mục đầu tư của các khách hàng riêng lẻ, Thuật ngữ “ngân hàng tư nhân” thường được sử dụng để mô tả toàn bộ các dịch vụ ngân hàng cung cấp cho khách hàng trong lĩnh vực quản lý dang mục và quản lý tài sản. Luật bí mật dặc biệt của hệ thống ngân hàng Thuỵ Sĩ Các ngân hàng tại hầu hết các nước bị cấm tiết lộ thông tin về các khách hàng của họ và các điều khoản của luật pháp Thuỵ Sĩ cũng tương tự như vậy. Luật pháp Thuỵ Sĩ rất nghiêm khắc trong việc thực hiện vấn đề này. Các ngân hàng, nhân viên và chi nhánh hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt sẽ bị kết tội hình sự nếu như để tiết lộ bất kì thông tin mật nào ra bên ngoài. Các bí mật đặc biệt của hệ thống ngân hàng Thuỵ Sĩ được giữ gìn thận trọng bở nhận thức rõ rằng tính chất quan trọng về bổn phận của các ngân hàng trong việc duy trì lòng tin đối với khách hàng. Cả các ngân hàng và cá nhân sẽ bị khởi kiện nếu như bị phát hiện những sai sót của họ. Điều này càng khẳng định tính chất bí mật của các ngân hàng và vấn đề sai sót là hiếm khi xảy ra. Luật bí mật của ngân hàng Thuỵ Sĩ ra đời năm 1934 quy định các ngân hàng Thuỵ Sĩ đều phải thực hiện chế độ mật mã để đảm bảo giữ bí mật tuyệt đối cho khách hàng. Việc ngân hàng làm thủ tục tiền gửi bí mật chỉ giới hạn trong phạm vi vài nhân viên cao cấp, cấm các nhân viên khác không được can dự vào. Người để lộ bí mật khoản tiền gửi sẽ phải chịu hình phạt nghiêm khắc: bị giam giữ sáu tháng và chịu phạt 2 vạn franc Thuỵ Sĩ hoặc nặng hơn.Luật này còn quy định: Bờt cứ người nước nào hoăc chính phủ nước nào, thậm chí cả nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng Chính phủ và toà án của Thuỵ Sĩ đều không có quyền can thiệp, điều tra và xử lý tiền gửi tại ngân hàng Thuỵ Sĩ của bất cứ người nào, Trừ khi có đủ chứng cứ chứng minh người gửi tiền có hành vi phạm tội. Nhờ có luật này, một khối lượng tiền gửi khổng lồ đã đổ về Thuỵ Sĩ. Đặc biệt, các nhà độc tài, chính khách và những người chạy ra nước ngoài của một số quốc gia coi ngân hàng Thuỵ Sĩ là nơi cất giữ tiền an toàn nhất. Theo ước tính của các nhà tài chính, hiện nay số tiền gửi tại Thuỵ Sĩ của khách hàng trên khắp thế giới có thể lên tới vài ngàh tỉ úD, đem lai cho nền kinh tế Thuỵ Sĩ những nguồn lợi lớn. III. Thực trạng hoạt động thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam 1. Dịch vị ngân hàng Dịch vụ ngân hàng là dịch vụ tài chính quan trọng và phát triển nhất trên thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam cho đến nay, đảm nhiệm vai trò chủ đạo trong hoạt động luân chuyển các nguồn tài chính, các dịch vụ tài chính khác mới chỉ hình thành và phát triển trong những năm cuối của thế kỉ XX, bao gồm: Dịch vụ tiết kiệm do các ngân hàng, các tổ chức tín dụng cung cấp thông qua các công cụ tiền gửi tiết kệm cung ứng cho mọi tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế với các loại kì hạn khác nhau từ không kì hạn đến 12 tháng, tiết kiệm bằng ngoại tên, tiết kiệm có đảm bảo bằng vàng, tiết kiệm phục vụ mục đích mua nhà, cho con đi học nước ngoài... Dịch vụ tín dụng do các ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các công ty thuê mua tài chính, các quỹ đầu tư và hỗ trợ...cung cấp bao gồm các nghiệp vụ cho vay tín dụng, thuê mua tài chính, cho vay thế chấp, chiết khấu giấy tờ có giá... Dịch vụ thanh toán bao gồm các nghiệp vụ thanh toán bằng séc, chuyển khoản và một số dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt mới được đưa vào thực hiện giữa những năm 1990 như bằng thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, tài khoản cá nhân.. Có thể đánh giá, các dịch vụ do các ngân hàng Việt Nam mới ở điểm xuất phát tiếp cận với các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng thương mại. Hoạt động kinh doanh chủ yếu mang lại lợi nhuận gần như duy nhất cho các ngân hàng thương mại Việt Nam là từ dịch vụ tín dụng-cho vay khách hàng. Ngay cả các loại hình dịch vụ ngân hàng truyền thống vẫn còn nhiều tồn tại. Hình thức huy động vốn còn đơn điệu, chưa có nhiều hình thức huy động và nhân tiền gửi mới, phù hợp với nhu cầu của người dân và các doanh nghiệp. Doanh số các loại hình tín dụng mới như: cho thuê tài chính, cho vay đồng tài trợ, cho vay bảo lãnh còn thấp. Quá trình đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng hiện đậi ở nước ta còn chậm. Các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng còn chậm do chưa có hệ thống và công nghệ thanh toán hiện đại, chủ yếu vẫn là thủ công, với chứng từ bằng văn bản giấy tờ, tỉ trọng thanh toán bằng tiền mặt còn lớn. Các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt còn nhiều hạn chế, do tính thuận tiện, nhanh nhạy, an toàn chưa cao. Dịch vụ ngân hàng điện tử-một loại hình dịch vụ ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán rất phát triển trên thế giới, mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng nhưng việc triển khai ở nước ta còn rất hạn chế. Ngoài ra, việc cung cấp các dịch vụ tư vấn về thông tin, thị trường, ngiệp vụ... cho khách hàng cũng hầu như chưa được triển khai. 2. Dịch vụ trên thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán(TTCK) tập trung đầu tiên ở VIệt Nam mới được khai trương(20/7/2000) và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 28/7/2000. Vì vậy,so với các dịch vụ tài chính khác, dịch vụ chứng khoán là một loại hình kinh doanh khá mới mẻ ở Việt Nam. Các dịch vụ chứng khoán thường được thực hiện bởi các công ty chứng khoán. Ngoài ra, còn có các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng có thể tham gia triển khai loại hình dịch vụ này. Sau 3 năm chính thức đi vào hoạt động, trên thị trường chứng khoán Việt nam đã có 11 công ty chứng khoán được cấp giấy phép hoạt động, trong đó có 9 công ty chứng khoán đủ điều kiên toàn bộ 5 nghiệp vụ kinh doanh: dịch vụ môi giới chứng khoán, dịch vụ tư vấn chứng khoán, dịch vụ bảo lãnh và đại lý phát hành, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư, dịch vụ tư doanh. Trong đó, dịch vụ chứng khoán chủ yếu là dịch vụ môi giới chứng khoán. Tính đến tháng 6-2003, đã có gần 14500 tài khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng mở tại các công ty chứng khoán( trong đó có 91 nhà đầu tư có tổ chức và 35 nhà đầu tư nước ngoài). Một số công ty đã thu hút được khách hàng đến mở tài khoản và có tổng giái trị môi giới mua bán chứng khoán cho khách hàng cao (như: BVSC, SSI, ACBS, BSC) và là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu trong tổng thu nhập của các công ty chứng khoán. Tuy nhên, trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam còn sơ khai và hoạt động trầm lắng, các dịch vụ chứng khoán còn kém đa dạng, chủ yếu là dịch vụ môi giới, chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp và cá nhân. Các nghiệp vụ như: Bảo lãnh, đại lý phát hành, quản lý danh mục đầu tư...chưa được phát triển mạnh mẽ. Hoạt động tư vấn đầu tư của các công ty chứng khoán mới chỉ mang tính chất hướng dẫn người đầu tư thực hiện đúng các thủ tục mua bán chứng khoán, chưa thực sự tư vấn cho họ biết cách lựa chọn lĩnh vực đầu tư cũng như thời điểm mua bán chứng khoán sao cho có hiệu quả nhất...Vì vậy có thể nói rằng, trong thời gian qua các công ty chứng khoán chưa thực hiện được chức năng của người tạo thị trường. 3. Dịch vụ bảo hiểm Ngành dịch vụ bảo hiểm Việt Nam hình thành vào thập niên 60 với sự ra đời của tổng công ty bảo hiểm Việt Nm(năm 1964). Cho đến năm 1992, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam là nha cung cấp dịch vụ độc quyền trên thị trường, dịch vụ bảo hiểm mới chỉ thực hiện một số loại hình bảo hiểm truyền thống với khoảng gần 20 loại sản phẩm như bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm tai nạn hành khách...và mới chỉ dừng lại ở chức năng bảo vệ tài sản mà chưc thực hiện được chức năng tiết kiệm và đầu tư...Tuy nhiên thị trường bảo hiểm Việt Nam mới bắt đầu thực sự sôi động đóng góp đáng kể vào thị trường vốn kể từ sau khi có nghị định 100-CP ngày 18-12-1993 về kinh doanh bảo hiểm, tạo môi trường pháp lý thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển, gpó phần tạo lập môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Từ năm 1995 trở lại đây, khi Việt Nam thưch hiện đa dạng hoá thị trường bảo hiểm, cho phép thành lập thêm nhiều doanh nghiệp bảo hiểm mới thuộc nhiều thành phần kinh tế, ngành bảo hiểm đã phát triển mạnh trên nhiều mặt như quy mô thị trường, số lượng doanh nghiệp bảo hiểm, số lao động, sự đa dạng về sản phẩm và việc hoàn thiện dần cơ chế chính sách. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng đã nhanh chóng phát triển và thích ứng với môi trường cạnh tranh mới. Thị trường bảo hiểm đạt tốc độ tăng trưởng cao trong giai đoạn 2001-2004, mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 43,7%.Doang thu phí bảo hiểm năm 2001 là 4.843 tỷ đồng, năm 2002 là 6.992 tỷ đồng, năm 2003 là 10.192 tỷ đồng, năm 2004 đạt 13.044 tỷ đồng. Cơ cấu tỷ trọng doanh thu dịch vụ bảo hiểm trong GDP cũng được nâng lên rõ rệt, năm 2000 chiếm 0.78%, năm 2003 tăng lên 1.7%GDP. Do số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng nhiều nên đã thu hút và tạo công ăn việc làm cho một đội ngũ khá lớn người lao động, nhất là khi bảo hiểm nhân thọ được triển khai. Hiện nay số cán bộ làm bảo hiển trên toàn thị trường đã lên đến con số trên 8000 người, với cả 40000 đại lý chuyên nghiệp(cả bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ), trong đó số đại lý bảo hiểm nhân thọ đã chiếm tới 30000 người. Ngoài ra, ngành bảo hiểm còn tạo việc làm cho một số lượng khá lớn cộng tác viên bảo hiểm cũng như các ngành có liên quan. Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh với sản phẩm ngày càng đa dạng nhưng chất lượng hoạt động chưa cao thể hiện ở công nghệ quản lý, kinh doanh bảo hiểm còn hạn chế; thiếu đội ngũ chuyên gia giỏi đặc biệt là trong lĩnh vực phí bảo hiểm, thẩm định bảo hiểm, quản lý rủi ro và đầu tư. Hiệu quả hoạt động thấp(tỷ suất lợi nhuận bình quân trên vốn chu sở hữu đạt 13%), chi phí quản lý cao(trung bình 24%/năm). Hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh đã xuất hiện gây khó khăn cho công tác quản lý và làm tổn hại đến uy tín của chính các doanh nghiệp. Tình trạng chia cắt, cát cứ trên thị trường xuất phát từ hoạt động của các công ty bảo hiểm chuyên ngành cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển lành mạnh của thị trường và gây thiệt hại đến quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm còn hạn chế. Căn cứ theo các chuẩn mực quốc tế, số vốn hiện có của các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường mới chỉ đủ để đảm bảo giữ lại 40% phí bảo hiểm đối với các nghiệp vụ bảo hiểm có tái bảo hiểm. Do đó, chỉ tính riêng trong năm 2001, khoảng 33% tổng số phí bảo hiểm phi nhân thọ thu được đã được tái bảo hiểm. Tỷ lệ này ở Mĩ là vào khoảng 96% trong cùng thời kì. Do năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là các công ty bảo hiểm cổ phần trong nước cồn nhỏ, hàng năm thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn phải trả từ 150-250 tỷ đồng tiền phí tái bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm ở nước ngoài. Tính trung bình, cứ 4 đồng phí bảo hiểm gốc thu được tại Việt Nam từ những nghiệp vụ có doanh thu lớn như bảo hiểm dầu khí và bảo hiểm hàng không thì có đến một đồng phải tái bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm nước ngoài, chủ yếu được thanh toán bằng ngoại tệ. Nừu có biện pháp và cơ chế thích hợp để tăng cường năng lực tài chính và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các doanh nghiệp trên thị trường, chúng ta sẽ có thể giữ lại một phần đáng kể nguồn vốn quan trọng bằng ngoại tệ để bổ sung cho sự công nghiệp hoá và hiện đại hoá...Tổ chức quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu phất triển thị trường trong điều kiện hội nhập: cơ cấu tổ chức còn chồng chéo, bộ máy chưa được chuyên môn hoá, chưa hiệu quả, công tác đào tạo và quản lý đại lý chưa đượcquan tâm đúng mức; công nghệ khai thác và quản lý chậm đổi mới, trình độ đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập...Nhìn chung, hoạt động kinh doanh bảo hiểm mới chỉ tập trung vào các thành phố lớn, trung tâm dân cư và những sản phẩm truyền thống như bảo hiểm tài sản, bảo hiểm hàng hải, hàng không...trong khi nhiều lĩnh vực khác mà nền kinh tế và xã hội có nhu cầu nhưng vẫn bị bỏ trống như các vùng xa, vùng sâu, các nghiệp vụ bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp trong lĩnh vực xây dựng, thiết kế, y tế, tư vấn pháp luật... 4. Dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính Dịch vụ kế toán là loại hình dịch vụ mới ra đời và phát triển từ đầu thập kỷ 90, cho đến nay, thị trường dịch vụ kế toán đã có tương đối đầy đủ các loại sản phẩm như kiểm toán, tư vấn kế toán, tư vấn thuế...Tuy nhiên, vấn đề chính đối với thị trường dịch vụ kế toán là chất lượng dịch vụ. Cho gần 10 năm phát triển vừa qua, chất lượng các dịch vụ kế toán đang được từng bước nâng lên nhờ sự phát triển của nền kinh tế, các tiêu chuẩn về kiểm toán được xây dựng và ban hành, đội ngũ kiểm toán viên có trình độ tốt hơn, được kiểm tra và kiểm soát chặt chẽ và có bài bản hơn...Tuy nhiên, cho tới nay dịch vụ kế toán, kiểm toán mới đang trong giai đoạn phát triển đầu tiên, còn tương đối sơ khai( mặc dù đã ra đời và hoạt động được gần 10 năm, song cho đén năm 2000 chúng ta mới ban hành được 4 chuẩn mực kiểm toán đầu tiên); chất lượng và giá cả dịch vụ kiểm toán của các công ty kiểm toán trong và ngoài nước còn có khoảng cách lớn; nhu cầu, mục đích kiểm toán trong nền kinh tế còn rất phức tạp( một số doanh nghiệp chỉ kiểm toán với mục đích nâng giá trị góp vốn trong liên doanh...) Hầu hết các công ty đều có những loại dịch vụ phổ biến như: Kiểm toán BCTC, dịch vụ kế toán, tư vấn quản lý, tài chính, thuế...Trong những năm qua đã xuất hiện thêm một số loại dịch vụ mới, như: Soát xét báo cáo tài chính, kiểm toán tỷ lệ nội địa hoá ô tô, xe máy, tư vấn thuế, tư vấn tái cơ cấu doanh nghiệp, tư vấn ứng dụng công nghệ thông tin, nguồn nhân lực, soát xét quy trình kinh doanh và hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán hoạt động để đánh giá và đề xuất xây dựng chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh cho từng lĩnh vực và nghành nghề ở Việt Nam; tư vấn về rủi ro kinh doanh và rủi ro đầu tư, tư vấn phục hồi và giải toả doanh nghiệp, tư vấn đầu tư ra ngoài lãnh thổ Việt Nam. Giá trị dịch vụ cung cấp của các công ty kiểm toán nước ngoài rất lớn, có dịch vụ trị giá từ 1 triệu đến 6 triệu USD. Trong các dịch vụ trên thì dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) chiếm tỷ trọng lớn nhất vì các công ty có cổ phần đầu tư nước ngoài bắt buộc phải kiểm toán theo luật định, đòng thời yêu cầu kiểm toán BCTC của doanh nghiệp nhà nước, chủ yếu là các tổng công ty cũng đang tăng dần...Dịch vụ kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản là quan trọng và cần thiết nhưng chưa thực sự chiếm tỉ trọng cao do chưa có quy định bắt buộc phải kiểm toán, do giá chi phí thấp...Về các dịch vụ thuế, tư vấn tài chính, kế toán, tư vấn quản lý,...doanh thu chiếm tỉ trọng còn thấp do khách hàng chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ này và các công ty kiểm toán cũng chưa quan tâm khai thác. Ngoài ra, khả năng cung cấp các dịch vụ này của nhiều công ty kiểm toán cũng còn bị hạn chế.Đối với các công ty kiểm toán khi kiểm toán báo cáo tài chính của công ty niêm yết, thuyết minh BCTC còn sơ sài, các biến động lớn về tình hình tài chính như tăng giảm vốn Điều lệ, các khoản lợi nhuận bất thường chưa giải thích rõ nguyên nhân; các nghiệp vụ mới như Cổ phiếu ngân quỹ, cổ phiếu trả chậm, các nghi vấn chưa thận trọng lưu ý người đọc báo cáo tài chính. Tóm lại, tính đến nay, các loại hình dịch vụ tào chính đã phát triển khá đa dạng và phong phú, chất lượng dịch vụ cũng từng bước được nâng lên, do đó đã ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng về sử dụng nhiều loại hình dịch vụ tài chính trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các loại dịch vụ truyền thống như tiết kiệm, tín dụng và một số nghiệp vụ bảo hiểm con người, xe cơ giới...vẫn là những dịch vụ chính, chiếm tỉ trọng lớn nhất trên toàn bộ thị trường, đa số các dịch vụ còn lại mới hình thành và phát triển trong những năm gần đây, thậm chí một số dịch vụ mới ra đời trên giấy tờ(dịch vụ đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán), một số dịch vụ đang trong quá trình thử nghiệm và một số dịch vụ khác chưa hình thành như thương phiếu..., nên mức độ đáp ứng các nhu cầu đa dạng của thị trường còn thấp. Bên cạnh đó, các khách hàng truyền thống như khu vực doanh nghiệp quốc doanh, dân cư đô thị vẫn là đối tượng chính, được tập trung khai thác nhiều nhất, chính vì vậy, thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam hiện nay vẫn chưa khai thác hết mọi tiềm năng về các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế. IV. Các giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam 1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và hệ thống quản lý nhà nước Hệ thống khung pháp lý có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động và sự phát triển của thị truờng dịch vụ tài chính, đây là cơ sở quan trọng nhất quy định nguyên tắc và tổ chức hoạt động của thị trường. Trong khi đó theo phân tích thực trạng hệ thống khung pháp luật của chúng ta đối với thị trường dịch vụ tài chính thì hệ thống này cồn thiếu và yếu, chính vì vậy chúng ta cần nhanh chóng giải quyết vấn đề này để tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính. Thứ nhất, nâng cao hiệu lực pháp lý của hệ thống khung pháp luật về thị trường dịch vụ tài chính. Điều này có nghĩa là chúng ta cần phải nhanh chóng nâng lên thành luật đối với các loại dịch vụ tài chính hiện nay đang được quy định ở các mức pháp lệnh, nghị định...như dịch vụ đầu tư chứng khoán, dịch vụ kiểm toán... Thứ hai, hoàn thiện về mặt cơ sở pháp lý đối với toàn bộ thị trường dịch vụ tài chính. Nói cách khác là cần phải nhanh chóng xây dựng và ban hàng hệ thống văn bản pháp luật hoàn thiện cho tất cả các lĩnh vực của thị trường dịch vụ tài chính, nhất là đối với vấn đề hình thành và phát triển các dịch vụ tài chính mới như: xây dựng và ban hành các chuẩn mực kiểm toán, tiêu chuẩn công khai thông tin trên thị trường chứng khoán... Cuối cùng, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Song song với việc nâng cao hiệu lực pháp lý của hệ thống văn bản pháp luật hiện tại, cần nhanh chóng xây dựng và ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn một cách đồng bộ. Thực hiện tổng rà soát hệ thống pháp luật trong nền kinh tế để có biện pháp điều chính, sửa đổi và bổ sung hệ thống pháp luật, bảo đảm tính thống nhất xuyên suốt toàn bộ hệ thống pháp luật. 2. Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ tài chính *Đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng: Các ngân hàng thương mại Việt Nam cần tiến hành đa dạng hoá dịch vụ theo hướng: hoàn thiện, phát triển các dịch vụ hiện có, đồng thời triển khai thực hiện các dịch vụ mà kinh tế, nền kinh tế đang cần và ngân hàng có điều kiện thực hiện ngay, đồng thời, chuẩn bị các điều kiện để triển khai các dịch vụ mới. Đối với các ngân hàng hiện có: Cải tiến quy trình nghiệp vụ huy động vốn theo hướng: đơn giản, thuận tiện, an toàn cho ngân hàng và khách hàng. Trang bị máy móc, thiết bị, chương trình phần mềm cần thiết để mở rộng phạm vi và cải tiến hệ thống thanh toán của ngân hàng. Mở._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0609.doc
Tài liệu liên quan