Lời Mở Đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới, các nước có mức sống cao cũng là những nước có nhu cầu tiêu thụ sản phẩm quả rất lớn trong đó quả tươi là loại thực phẩm không thể thiểu trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày. Ngoài việc cung cấp chất khoáng và nhiều loại Vitamin khác nhau, hoa quả còn có tác dụng rất tốt trong việc tiêu hoá thực phẩm và chống chứng táo bón cũng như một số biểu hiện bất thường khác.
ở những những nước này, cây ăn quả dược coi là một ngành kinh tế quan trọng, thú
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2524 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp phát triển sản xuất cây ăn quả ở ngoại thành Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c đẩy sự phát triển ngành nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế xã hội nói chung. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, một số nước không có điều kiện để phát triển cây ăn quả hoặc trình độ sản xuất cây ăn quả nằm ở mức thấp, không tự đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thì Nhà nước phải có chính sách nhập khẩu quả tươi hàng năm. Sự điều phối thị trường mua bán quả cả sản phẩm tươi và chế biến, tạo nên sự giao lưu hàng hoá ngày càng rộng rãi và trở thành một nhân tố kích thích cho sự phát triển cây ăn quả trên phạm vi toàn thế giới.
ở Việt Nam, sau khi vấn đề lương thực giải quyết cơ bản nhu cầu quả tươi nhu cầu tiêu dùng ngày một gia tăng ( bình quân tiêu dùng quả/ đầu người một năm là 60 Kg(2000) và dự báo đến năm 2010 là 70Kg ). Sự giao lưu hàng hoá trong đó có quả dứa hai miền Nam Bắc tạo nên một thị trường tiêu thụ phong phú và đa dạng .
Nhìn trên tổng thể, Việt Nam hoàn toàn có đủ điều kiện để phát triển cây ăn quả. Thực tế cho thấy những năm trước đây việc sản xuất cây ăn quả chưa được quan tâm đúng mức, tốc độ phát triển chậm và còn mang tính tự phát, kim ngạch xuất khẩu quả thấp, ngay cả tiêu thụ nội địa cũng chưa đáp ứng nhu cầu đang có xu hướng ngày càng tăng.
Hà nội vốn là vùng có một số cây ăn quả đặc sản như: cam Canh, bưởi Diễn, hồng xiêm Xuân Đỉnh. Các cây trồng này đã được trồng ở ngoại thành từ lâu đời. Những năm gần đây, do yêu cầu của thị trường, bên cạnh các cây ăn quả đặc sản, Hà Nội còn phát triển nhiều loại cây ăn quả khác như: nhãn, táo, na dai, vải thiều.
Trong những năm qua, nhiều chương trình dự án có liên quan đến sản xuất cây ăn quả đã được triển khai ở 5 huyện ngoại thành như chương trình 327, khuyến nông, khuyến lâm. Tuy có những lợi thế về thị trường, khoa học kỹ thuật, điều kiện kinh tế xã hội tốt, điều kiện tự nhiên khá phù hợp với một số cây ăn quả, nhưng sản xuất cây ăn quả Thành phố Hà nội chưa khai thác tận dụng có hiệu quả lợi thế này.
Thực trạng sản xuất cây ăn quả của Hà nội còn manh mún, chưa hình thành các vùng sản xuất cây ăn quả tập trung quy mô lớn với các loại cây ăn quả chiến lược. Sản xuất cây ăn quả còn chưa được đầu tư và chú trọng đúng mức. Diện tích vườn quả còn nhỏ, phân tán, vườn tạp còn nhiều, hiệu quả kinh tế chưa cao.
Phát triển cây ăn quả là một giải pháp tốt cho việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội; phát triển sản xuất một cách lâu dài ổn định, phù hợp với nền nông nghiệp thủ đô.Với ý nghĩa đó, chuyên đề “ Thực trạng và giải pháp phát triển sản xuất cây ăn quả ở ngoại thành Hà nội ” được xác lập.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu hiện trạng sản xuất, chế biến và tiêu thụ quả trong vùng, từ việc đánh giá mặt mạnh và yếu mà xác định các loại cây ăn quả chủ lực, các cây bổ trợ và nhóm cá loại cây có triển vọng phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
- Đánh giá tài nguyên sinh thái Hà Nội, xác định mức độ thích nghi đối với một số cây ăn quả chủ yếu
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản xuất cây ăn quả của vùng, đồng thời đề xuất những giải pháp thực hiện, tiêu thụ quả của vùng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Là một số cây ăn quả chủ yếu (nhãn, vải, hồng xiêm, bưởi, cam, quýt, chuối, đu đủ, hồng, na) đã và đang tồn tại trong phạm vi 5 tỉnh ngoại thành Hà Nội
Là mối quan hệ giữa các loại cây ăn quả với điều kiện sinh thái trong vùng, các yếu tố thúc đẩy, các yếu tố hạn chế, từ đó đề ra giải pháp phát triển một số cây ăn quả chủ yếu trong vùng.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tiến hành trên phạm vi 5 huyện ngoại thành Hà nội: Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn.
4.Nội dung của đề tài bao gồm:
- Lời nói đầu
- Phần I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển cây ăn quả
- Phần II: Thực trạng phát triển cây ăn quả ở ngoại thành Hà nội
- Phần III: Phương hướng và một số giải pháp phát triển sản xuất cây ăn quả ở ngoại thành Hà Nội
- Kết luận
Do thời gian nghiên cứu có hạn, với vốn kiến thức của bản thân còn hạn chế, nên nội dung đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để đề tài được tốt hơn.
ChươngI:
Cơ sở lý luận và thực tiễnvề phát triển cây ăn quả
I. Vị trí và vai trò của cây ăn quả
1. Vị trí cây ăn quả trong kinh tế nông nghiệp hiện nay
Lịch sử loài người cho thấy rằng: ngay từ thửa xa xưa, trái cây đã là một trong các nguồn thức ăn sẵn có trong tự nhiên của con người nguyên thuỷ. Giá trị dinh dưỡng và sinh tố của các loại quả đã khiến chúng được con người sử dụng ngày càng nhiều trong cuộc sống hàng ngàn năm nay.Theo tài liệu của FAO sản lượng quả các loại toàn thế giới thời kỳ 1989-1991 là 352 triệu tấn/năm, đến năm 2000 đã tăng lên đạt 429,4 triệu tấn/năm ( tăng 22% ). Trong khi đó mức tăng tương ứng của lúa gạo là 10,8%, khoai tây 10,6%, chỉ có rau (29,8%) là tăng nhanh hơn quả các loại. Năm 2000 sản lượng bình quân đầu người trên thế giới là 73kg, có những nước bình quân này rất cao như ý 273 kg, Thổ Nhĩ Kỳ 200 kg, Pháp 174 kg. Năm 2000 tốc độ tiêu thụ quả các loại tăng lên rõ rệt, trong khi các loại nông sản chủ yếu khác đều giảm đi (bảng 1):
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng hàng năm của các nông sản chính
trên thế giới năm 2000
Nhóm
nông sản
Sản xuất
Nhu cầu
Bình quân
1978-1988
%
Bình quân
1988-2000
%
Bình quân
1878-1988
%
Bình quân
1988-2000
%
Lương thực thực phẩm
Ngũ cốc
Đậu đỗ
Sản phẩm chăn nuôi
Chất béo và dầu ăn
Đường
Đồ uống nhiệt đới
Quả các loại
1,9
1,8
2,5
2,2
3,6
1,6
2,9
2,1
1,7
1,8
1,7
1,6
2,9
1,6
1,8
2,6
2,1
2,1
2,5
2,2
3,8
2,1
2,7
2
1,6
1,6
1,6
1,6
2,7
1,5
2,1
2,4
Do giá trị dinh dưỡng và hương vị phong phú, mà các loại hoa quả và rau quả nói chung là loại thức ăn không thể thiếu được trong đời sống con người và mức tiêu thụ ngày càng tăng.
Rau quả ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Như ở Nhật bản trong 4 thập kỷ qua tỷ trọng rau quả trong tổng giá trị nông sản đã tăng lên như sau: 15% (1960), 25% (1970), 26% (1980), 34% (1990). Trong khi đó, lúa gạo từ 47% (1960) giảm xuống còn 28% (1990).
Trước tình hình các nông sản xuất khẩu truyền thống ( ngũ cốc, sản phẩm chăn nuôi, đường, đồ uống nhiệt đới..) trên thế giới có xu hướng tăng lên chậm hoặc không tăng, nhiều nước đang phát triển rất chú trọng chiến lược xuất khẩu các nông sản không truyền thống như rau quả. Ví dụ: Trị giá rau quả xuất khẩu giai đoạn 1983-1985 của Trung Quốc đạt 552 triệu USD, tăng 8,6 lần giai đoạn 1961-1963. So sánh tương tự Thái Lan đạt 295 triệu USD (tăng 49,1 lần), Đài loan đạt 544 triệu USD ( tăng 14,3 lần).
Rau quả đã chiếm vị trí đáng kể trong cơ cấu nông sản xuất khẩu ở nhiều nước trên thế giới. Theo FAO tỷ trọng rau quả trong tổng giá trị nông sản xuất khẩu năm 1996 ở một số nước như sau: Trung Quốc 23,8%; Thái Lan 18,1%; Hàn Quốc 14,4%.
Theo số liệu thống kê trong những năm gần đây (1996-2000), diện tích cây ăn quả cả nước tăng lên nhanh và liên tục, từ 260,9 ngàn ha (1996) đã tăng lên đạt 438,3 ngàn ha (2000).
Về giá trị sản xuất cây ăn quả 5 năm qua cũng tăng liên tục, song tốc độ tăng chưa tương xứng với mức tăng về diện tích trồng, vì cây ăn quả phải trải qua thời kỳ chăm sóc (2-4 năm) mới bắt đầu có quả và năng suất sẽ tăng lên dần. Do vậy, tỷ trọng cây ăn quả trong cơ cấu giá trị sản xuất trồng trọt trong 5 năm qua không tăng, bình quân là 8,3% (bảng2). Tính ra năm 2000 cây ăn quả mới chiếm 7,9% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp cả nước.
Bảng 2: Vị trí cây ăn quả trong cơ cấu giá trị sản xuất trồng trọt cả nước
Loại cây
1996 %
1997
%
1998
%
1999
%
2000
%
Bình quân
%
Tổng số
Trong đó:
Cây lương thực
Rau đậu
Cây công nghiệp
Cây ăn quả
100
65,9
6,4
16,7
8,8
100
63,6
7,5
28,3
8,4
100
64,1
7,3
18,4
8,2
100
62,5
7,3
19,5
8,2
100
63,9
7,2
19,1
7,9
100
64
7,1
18,1
8,3
Nguồn: Theo số liệu thống kê nông- lâm -thuỷ sản Việt Nam 1990-2000
2. Vai trò của sản xuất cây ăn quả
Cây ăn quả là loại cây có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao. Trong những năm gần đây, cây ăn quả góp phần tích cực vào việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng nông nghiệp, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, cải tạo môi trường sinh thái nhất là các tỉnh trung du miền núi. Trong xu thế phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, khi mà vấn đề lương thực cơ bản đã được giải quyết, đời sống nông dân được cải thiện thì nhu cầu về tiêu thụ sản phẩm quả ngày càng cao cả về số lượng lẫn chất lượng. Có thể nói rằng cây ăn quả có vai trò hết sức to lớn đối với con người. Cụ thể là:
2.1 Quả dùng cho bữa ăn hàng ngày
Các loại quả là nguồn dinh dưỡng quý giá của con người ở mọi lứa tuổi và ngành nghề khác nhau. Trong quả có loại đường dể tiêu, các axit hữu cơ, prôtêin, lipit, chất khoáng, pectin, tananh, các hợp chất thơm và các chất khác có nhiều loại vitamin khácc như A, B1, B2, B6,C,PP. Đặc biệt là vitamin C rất cần thiết cho cơ thể con người, vitamin A cần thiết cho trẻ em. Trong khẩu phần ăn của con người không những cần đầy đủ calo mà cần có vitamin, muối khoáng, các axit hữu cơ và các hoạt chất khác để các họt động sinh lý được tiến hành bình thường. Nhu cầu về calo dựa vào việc cung cấp đạm, mỡ, hydrat cacbon từ động vật và thực vật, còn vitamin và các hoạt chất khác thì chủ yếu dựa vào quả và rau.
Biểu 3: Sản lượng tính theo đầu người / năm ở các nước trong khu vực Châu á- Thái Bình Dương ( từ năm 1985 -1987 )
STT
Nước
Sản lượng theo đầu người (Kg/năm)
STT
Nước
Sảnlượng
theo đầu người
( Kg/ năm)
1
Bangladesh
13,0
11
Papua Niu Ghilê
307,8
2
Mianma
23,3
12
Philippin
113,6
3
Trung quốc
11,3
13
Srilanka
49,2
4
Campuchia
39,9
14
Thái Lan
104,3
5
Bắc Triều Tiên
56,7
15
Việt Nam
61,1
6
Hàn Quốc
37,2
16
Nhật Bản
47,1
7
ấn Độ
31,3
17
Niuzilân
170,7
8
Inđônêxia
34,2
18
úc
151,3
9
Lào
35,5
19
TB Châu á-TBD
30,1
10
Malaixia
69,3
20
TB Thế Giới
65,5
Theo tài liệu điều tra của GS .TS Trần Thế Tục và cộng sự năm (1993) lượng tiêu thụ quả tươi ở Hà Nội bình quân là 30/kg/người.
Theo các công trình nghiên cứu khoa học, để con người hoạt động bình thường thì hàng năm phải cung cấp khoảng 100kg quả/ người/ năm( các loại hoa quả như nho, táo chuối, xoài, cam, mơ, mận, chanh..). Đó là những chỉ tiêu cơ bản để định kế hoạch cây ăn quả ở mỗi nước ( xem biểu 1).
2.2 Sản xuất cây ăn quả cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến-xuất khẩu
Vai trò cung cấp nguyên liệu cho công nghệ chế biến và xuất khẩu đã tác động tới sự phát triển của công nghiệp, tạo nguồn ngoại tệ mạnh cho sự phát triển kinh tế nhất là những nước chưa phát triển, đặc biệt là Việt Nam.
Vào đầu những năm 60, ngành công nghiệp chế biến rau quả của Việt Nam đã được hình thành và phát triển. Nó phát triển mạnh vào những năm 70 với nhiều chủng loại sản phẩm như: rau quả hộp, rau quả sấy, bán thành phẩm của quả (puple). Trước những năm 75, song song với việc phát triển các nhà máy ở phía Bắc, việc sản xuất phục vụ và các mặt hàng chế biến ngày cành phong phú, đa dạng:
* Mặt hàng sấy có: chuối sấy ,vải sấy, long nhãn.
* Mặt hàng nước giải khát:
-Nước quả tự nhiên (nguyên chất): là sản phẩm mà thành phẩm chủ yếu là dịch quả, trong đó có một phần thịt quả hoặc không chứa dịch quả. Nước quả tự nhiên có hàm lượng dinh dưỡng cao, cảm quan hấp dẫn do có màu sắc của sản phẩm rất gần với hương vị màu sấc của nguyên liệu .
-Necta quả: còn gọi là nước quả đục, nước quả ngiền với thịt quả. Necta quả khác với nước quả tự nhiên ở chỗ chứa nhiều thịt quả và ở dạng sệ, chế biến bằng cách chà mịn các loại quả khó ép lấy dịch như: chuối, xoài, đu đủ, mẵng cầu. Do chứa thành phần quả; là chủ yếu nên Necta quả cũng có giá trị dinh dưỡng cao- tương tự như nước quả tự nhiên .
-Nước quả cô đặc: là nước quả ép, lọc trong rồi được cô đặc tới hàm lượng chất khô 60-70%. Có thể coi nước quả cô đặc là một dạng bán chế phẩm để chế biến nước giải khát, rượu vang quả, rượu mùi, kem. Để nước quả cô đặc có mùi vị và giá trị dinh dưỡng cao người ta ứng dụng những công nghệ cô đặc tiên tiến. Phổ biến hơn cả là công nghệ cho nước quả bốc hơi ở độ chân không cao ( trên 500mm thuỷ ngân) để nhiệt độ được hạ thấp 50-600C. Cũng có thể áp dụng công nghệ làm lạnh đông: dịch quả được làm đông tới nhiệt độ -5 đến -100C. Khi ấy phần nước trong dung dịch đóng băng trước và được tách khỏi dịch quả bằng cách li tâm. Dịch quả được làm đặc từng bước và sản phẩm cuối cùng đạt độ khô 60-70% .
-Xirô quả: Là nước quả được pha thêm nhiều đường (thường dùng đường kính trắng) để độ đường trong Xirô đạt 60-70% .Cần phân biệt Xiro quả với nước quả cô đặc, 2 sản phẩm này cùng chứa dịch quả, có cùng hàm lượng đường cao nhưng nước quả cô đặc không bổ sung đường còn Xiro quả đường bổ sung đường với số lượng lớn.
-Squash quả:Tương tự như Xiro quả nhưng chứa nhiều thịt quả hơn và ở dạng đặc sánh hơn.
-Nước quả lên men: được chế biến bằng cách cho nước quả lên men rượu. Sau thời gian lên men từ 24-36 giờ, độ rượu trong sản phẩm đạt tới 4 -5% V .Sau đó sản phẩm được triệt trùng, đóng vào bao bì kín và tiêu thụ nhanh. Nước quả lên men có hương vị đặc biệt do nấm men tạo ra, lại chứa nhiều CO2 nên có tác dụng tiêu hoá tốt.
-Bột quả giải khát: Bao gồm dạng cao cấp là dạng bột quả hoà tan và dạng cấp thấp hơn là dạng bột quả không hoà tan. Bột quả hoà tan được chế biến từ nước quả, qua quá trình sấy đặc vừa sấy khô thành dạng bột , có thêm một số phụ gia thực phẩm để tăng thêm màu sắc hương vị và độ hoà tan cho sản phẩm. Bột quả giải khát không hoà tan thì được chế biến từ quả nghiền mịn ( cả thịt lẫn với phần xơ ) rồi sấy khô bằng máy sấp phun hoặc máy sấy kiểu trục cán để sản phẩm đạt độ khô rất cao, thuỷ phân chỉ còn 2-5%. Sau đó, sản phẩm được gia màu, gia hương tương tự như bột quả giải khát hoà tan.
-Nước quả giải khát : Thành phần chủ yếu là dịch quả, chiếm 10-50% ( tuỳ theo dạng nguyên liệu và dạng sản phẩm) cộng với đường axit thực phẩm, chất màu thực phẩm và hương liệu. Sản phẩm có thể được nạp CO2 hoặc không nạp CO2.
Hiện nay công ty rau quả Việt Nam đang lập dự án xây dựng mới các cơ sở chế biến rau quả tại các trọng điểm trước mắt là các xí nghiệp NCN Đồng Giao. Trong các dự án nói trên sản phẩm nước quả giải khát luôn được coi là một trong những sản phẩm chủ yếu của các cơ sở chế biến rau quả .
Công nghiệp chế biến rượu vang: mới phát triển trong những năm gần đây và chủ yếu là ở các tỉnh miền Bắc như Hà Nội, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên. Sản lượng rượu vang năm 1993 khoảng 10 triệu lít, nguyên liệu quả cần dùng khoảng 25 nghìn tấn . Các loại quả được sử dụng như nho, dứa, chuối, mận và những loại quả khác.
Công nghệ chế biến rượu vang đang có triển vọng phát triển do nhu cầu tiêu dùng của thị trường dang ngày một tăng lên. Hiện nay có khoảng 17 nhà máy chế biến quả xuất khẩu.Trong đó tông công ty quản lý 12 nhà máy và 5 nhà máy địa phương quản lý ( Sơn La, Sơn Tây, Hữu Giang, Linh Xuân, Tiền Giang) với tông công xuất 50.000 tấn /năm về đồ hộp và 25.000 tấn/năm về rau quả đông lạnh. Hầu hết các thiết bị đều nhập từ các nước XHCN ( cũ) như Nga, Đức, Bungari, Balan, Hungari và đã sử dụng 20-30 năm nay nên thiết bị và công nghệ đã lạc hậu. Những năm cao điểm, các nhà máy trên đã sản suất được 19.000 tấn quả đóng hộp ( 1987) và 20.000 tấn dứa đông lạnh(1984).
Từ sau 1990, khi bị mất thị trường truyền thống, quả được xuất sang thị trường Châu á và Tây Âu , song mới ở dạng thăm dò, giới thiệu. Do vậy hiện nay các nhà máy mới chỉ sử dụng 40-50% công suất và hiệu quả kinh tế đưa lại còn thấp. Ngoài hệ thông các nhà máy chế biến nêu trên,vài năm gần đây hệ thống lò sấy thủ công chế biến long nhãn xuất khẩu sang Trung Quốc cũng được phát triển ở vùng nhãn đồng bằng Sông Cửu Long và các tỉnh có nhiều nhãn ở đồng bằng sông Hồng như Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam.
Theo số liệu điều tra thì cả nước có khoảng 140 lò sấy, trong đó đồng bằng sông Cửu Long có 115 lò đồng bằng Sông Hồng có 25 lò, tiêu thụ khoảng 70% nhãn tươi trong vùng. Khối lượng long nhãn thành phẩm khoảng 4000-5000 tấn.
Chỉ từ năm 1981-1990 nghành rau quả xuất khẩu được khối lượng đáng kể và thu được kim ngạch khá lớn. Năm 1981 xuất được 42106 tấn sản phẩm thu được 11.992.000 USD ( chiếm 9,7% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản). Về xuất khẩu rau quả tươi chiếm 40-60% ( từ năm 1989-1990 chỉ còn chiếm 18-30%) kim ngạch chỉ đạo 32-36% tổng kim ngạch xuất khẩu.Trong đó nhóm gia vị chiếm 5-15% nhưng kim ngạch xuất khẩu lại cao chiếm 25-30%. Vì vậy,ta tăng sản phẩm chế biến, giảm xuất khẩu tươi (năm 1993 kim ngạch xuất khẩu còn 6,9 triệu USD) .
2.3. Cây ăn quả còn có tác dụng lớn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái với các chức năng làm sạch môi trường, giảm tiếng ồn, làm rừng phòng hộ, làm đẹp cảnh quan.
Nhiều cây giống ăn quả cho nguồn mật có chất lượng cao được nhiều người tiêu dùng ưa thích. ở vùng nhiệt đới cây ăn quả còn có tác dụng bảo vệ dất chống xói mòn, làm hàng rào cản bão. ở các khu dân cư, đô thị người ta trồng cây ăn quả với mục đích cây cảnh, cây bóng mát. Nhiều cây ăn quả có tán lá đẹp, màu sắc hấp dẫn dùng trồng trong công viên hoặc các công trình kiến trúc, các bảo tàng, bệnh viện hay các khu điều dưỡng. Các vùng vải, nhãn ở Hưng Yên, Lục Ngạn vừa là nguồn sản phẩm dinh dưỡng quý vừa có độ che phủ chống xói mòn, bảo vệ đất với hiệu quả cao hơn nhiều so với các cây trồng trước đó.
2.4. Sản xuất cây ăn quả góp phần tăng thu nhập
Một số cây ăn quả mặc dù có giá trị kinh tế cao như nhãn, vải, xoài, nhưng lại có thể tận dụng trồng ở đất qoanh vườn nhà, đất đồi và những đất chưa được khai thác góp phần tăng thu nhập cho nông dân.
II. Đặc điểm của sản xuất cây ăn quả
2.1 Đặc điểm kinh tế
Các loại cây ăn quả thường có chu kỳ sản xuất dài chỉ trồng một lần, đời sống cơ thể kéo dài và thu hoạch nhiều năm với năng suất cao, giá trị gấp 10-15 lần trồng lúa.Trong khi đó, đầu tư cho cây ăn quả không cao, ít sâu bệnh, độ rủi ro thấp ( chủ yếu do điều kiện thời tiết mang lại hơn ) so với cây trồng khác .
Chính vì vậy ,cây ăn quả được đánh giá cao, giữ vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng hiện nay ở nước ta.
2.2 Đặc Điểm Kỹ Thuật .
Cây ăn quả là loại cây trồng cạn, có tính chịu hạn cao, không kén đất, với khả năng này nó tận dụng được đất đai không thể trồng được cây lương thực, với kỹ thuật canh tác trên đất dốc, cây ăn quả có thể trụ lại và phát triển bình thường, sau thời kỳ kiến thiết cơ bản ( thường từ 3-4 năm) đến thời kỳ sản xuất kinh doanh, thời kì này kéo dài vài chục năm thậm chí kéo dài cả trăm năm. Cho tới nay vẫn chưa xác định chắc chắn chu kì sản xuất của nó là bao nhiêu năm, điểm này rất thuận lợi cho việc sản xuất. Tuy nhiên, do đặc điểm về kỹ thuật trong sản xuất dẫn đến tính thời vụ cao nếu chuyên môn hoá quá sâu.Để giảm bớt tính thời vụ trong việc phát triển ngành cây ăn quả cần lưu ý mấy vấn đề sau:
+ Thực hiện chuyên môn hoá sản xuất kết hợp với phát triển tổng hợp bằng cách kết hợp cơ cấu cây ăn quả hợp lý, kết hợp cây ăn quả với các loại cây trồng và vầt nuôi khác. Bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý để sử dụng tối đa lực lượng lao động và sở dụng hợp lý các loại vật tư kỹ thuật.
+ Tạo ra các giống cây cho sản phẩm không trùng nhau trong một năm( cây trái vụ) để hạn chế tính thời vụ.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất cây ăn quả
1. Nhân tố tự nhiên
* Đất đai: là yếu tố sản xuất không thể thiếu được của mọi nhành sản xuất, đặc biệt là ngành trồng trọt, trong đó có ngành rau quả. Số lượng, chất lượng, vị trí của đất đai có ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành sản xuất câu ăn quả.
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam Châu á, đất nước có chiều dài trên 15 vĩ độ với mấy ngàn km giáp biển đông. Đất đai nước ta rất phong phú, cả nước có 13 nhóm đất chính, trong đó nhóm đất đỏ chiếm gần 54% được phân bố ở trung du miền núi phía Bắc. Đây là nhóm đất có chất lượng tốt thuận lợi cho việc phát triển cây công nghiệp lâu năm và đặc biệt là cây ăn quả. Còn lại là tất cả các loại đất như: đất đen, đất xám, đất phù sa, đều thuận lợi cho việc phát triển cây ăn quả.
*Khí hậu: khí hậu là môi trường sống của các loại cây trồng. Vì vậy, nếu khí hậu thời tiết thuận lợi cây trồng phát triển tốt và ngược lại, nếu thời tiết không thuận lợi thì cây trồng không phát triển được hoặc kém phát triển.
Việt Nam nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa với sự biến đổi khí hậu giữa các miền Bắc- Nam. Điều đó cho phép nước ta trồng được nhiều loại hoa quả nhiệt đới, á nhiệt đới và một số rau quả gốc ôn đới, mùa vụ thu hoạch kế tiếp nhau nhiều tháng trong năm. Việt Nam còn là một trong những vùng phát sinh của một số cây ăn quả như cam, quýt, vải, chuối và có nguồn gien di truyền thực vật phong phú, đa dạng về cây ăn quả, gia vị và hoa.
Bên cạnh những lợi thế sinh thái, rau quả nước ta cũng bị ảnh hưởngcủa một số hạn chế và bất lợi của khí hậu đối với nông nghiệp như : bão lụt, thời tiết kém ổn định do gió mùa đông bắc, dẫn tới rủi ro về chất lượng.
*Địa hình: Rải đều khắp từ Bắc tới Nam là địa hình từ núi cao đến đồng bằng, sông suối và ven biển đã tạo nên những lợi thế về địa lý -sinh thái so với nhiều nước khác. Các hệ thống giao thông đường bộ, đường biển và hàng không thuận tiện cho việc giao lưu hàng hóa quốc tế và khu vực.
2. Nhân tố kinh tế xã hội
*Lao động: là yếu tố sản xuất, là nhân tố quyết định đến sự phát triển của các ngành trong đó có ngành rau quả.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, hiện tại 80% dân số cả nước sống ở nông thôn và trên 70% lực lượng lao động toàn xã hội làm việc trong khu vực này. Do vậy, có thể nói lực lượng lao động của nước ta rất dồi dào và có thể cung cấp đủ lao động cho sản xuất cây ăn quả.
Người nông dân nước ta cần cù sáng tạo, qua nhiều thế hệ đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trồng trọt, chọ giống rau đậu, cam, quýt, bưởi, hồng xoài, chôm chôm, thanh long. Nông dân ở nhiều vùng rau quả thuyền thống đã thu được năng suất và lợi nhuận cao. Tuy nhiên, chỉ với kinh nghiệm thì nhiều vấn đề chưa giải quyết được, nhất là các khâu như: giống, phòng trừ sâu bệnh, xử lý sau thu hoạch. Nhìn chung, trình độ dân trí của nước ta còn thấp so với nhiều nước trên thế giới.
*Cơ sở vật chất kỹ thuật: là nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến việc sản xuất cây ăn quả. Hiện nay Việt Nam nhập khẩu nhiều dây chuyền sản xuất của một số nước trên thế giới do vậy nước ta đã có nhiều dây chuyền sản xuất hiện đại đưa vào sản xuất với công suất lớn, chất lượng cao. Nhưng nhìn chung chúng ta vẫn còn nhiều công nghệ lạc hậu so với thế giới. Vì vậy, sản lượng và chất lượng các loại sản phẩm chưa cao, khả năng cạnh tranh các loại sản phẩm nông nghiệp nước ta ( kể cả rau quả ) còn rất hạn chế.
*Phong tục tập quán: sản xuất cây ăn quả nước ta vẫn còn mang tính tự phát , sản xuất nhỏ, phân tán theo tập quán. Ruộng đất phân chia nhỏ theo từng hộ nông dân, vốn liếng ít ỏi nhất là ở phía bắc, càng ngại rủi ro, chưa dám mạnh dạn đầu tư và thích ứng kịp thời với sản xuất hàng hòa theo cơ chế thị trường. Do vậy, có những trường hợp nông dân bị tác động bởi giá cao hơn, không đảm bảo chữ tín hợp đồng. Đây là một nhược điểm và trở ngại trong tổ chức sản xuất rau quả chế biến.
*Cơ chế chính sách: là nhân tố ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất cây ăn quả. Nếu chính sách đúng nó sẽ tạo điều kiện và kích thích ngành rau quả phát triển sản xuất và tăng khối lượng xuất khẩu. Nhưng ngược lại, nếu cơ chế chính schs mà không đúng thì sẽ cản trở phát triển sản xuất câu ăn quả.
Do hoàn cảnh nước ta một thời gian dài phải tập trung cho sản xuất lương thực, nên khả năng đầu tư cho các ngành sản xuất nông sản có giới hạn. Trong đó , ngành rau quả chưa được đầu tư đúng mức do vậy chưa phát huy được tiềm năng vốn có. Những năm gần đây, nhà nước đã có chình sách đầu tư cho ngành rau quả thích đáng hơn, công tác nghiên cứu khoa học được nhà nước quan tâm nhiều hơn. Cho nên, ngành rau quả đã có sj phát triển nhất định. Song các chính sách khuyến khích sản xuất cây ăn quả còn nhiều hạn chế chưa khuyến khích được ngành rau quả phat triển mạnh.
3. Nhân tố về tổ chức kỹ thuật
Những nhân tố nông nghiệp này bao gồm: các hình thức tổ chức sản xuất
( trang trại, hợp tác xã , hộ gia đình); sự phát triển của khoa học kỹ thuật và việc ứng dụng chúng vào sản xuất.
Các hình thức tổ chức sản xuất phản ánh mức độ tập trung cac nguồn lực của địa phương cho sản xuất. Trong ngành nông nghiệp ở các nước tư bản phát triển thì hình thức tổ chức sản xuất chủ yều là trang trại, có rất nhiều những trang trại với quy mô hàng ngàn ha, còn ở nước ta thì chủ yếu lại là hộ gia đình, sản xuất với quy mô nhỏ bé, ruộng đất manh mún, phân tán là nguyên nhân cản trở sản xuất hàng hoá phát triển.
Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất góp phần hoàn thiện các phương thức sản xuất nhằm khai thác, ứng dụng hợp lý và hiệu quả hơn các nguồn lực xã hội vào ngành trồng trọt.
Trong lĩnh vực trồng trọt, việc xác định cơ cấu cây trồng trước tiên phải tìm hiểu nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước về số lượng, chất lượng, mẫu mã, giá cả. Trên cơ sở đó mà có sự bố trí sắp xếp sản xuất hợp lý đáp ứng nhu cầu thị trường, thúc đẩy nhanh tái sản xuất mở rộng.
IV Tình hình sản xuất cây ăn quả ở Việt Nam và trên thế giới
1. Tiềm năng và thực trạng phát triển sản xuất cây ăn quả ở Việt Nam
Với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng đa dạng phù hợp với yêu cầu sinh trưởng của nhiều loại cây ăn quả nhiệt đới và á nhiệt đới, Việt Nam là một trong các quốc gia có những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc sản xuất cây ăn quả. Trong khi đó nhu cầu tiêu dùng trái cây trên thế giới ngày càng gia tăng. Trong các năm 1980-1995 thị trường trái cây thế giới tăng 20,5%. Mặc dù hiện nay thị trường thế giới chỉ nhập khẩu hơn 5% tổng sản lượng trái cây nhiệt đới, song nhu cầu đối với trái cây nhiệt đới ngày càng tăng lên. Trong các năm 1980-1995 trái cây nhiệt đới xuất khẩu tươi tăng mạnh: dứa tăng gấp đôi, xoài tăng gấp 6, bơ tăng gấp 3, đu đủ tăng 4 lần. Hầu hết các loại trái cây nhiệt đới được ưa chuộng trên thị trường thế giới như xoài, chuối, dứa, thanh long, chôm, măng cụt, bơ nhãn đều rất phù hợp với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng của nhiều vùng lãnh thổ Việt Nam.
Cùng với sự gia tăng nhu cầu trái cây của trị trường thế giới, nhu cầu tiêu dùng trái cây trong nước cũng ngày càng tăng do thu nhập và mức sống của dân cư ngày càng được nâng cao. Hiện nay mức tiêu dùng trái cây bình quân đầu người ở nông thôn nước ta là 20-30kg/ người/ năm, ở thành thị là 35-45kg/ người/ năm. Mức này còn thấp xa hơn so với mức trung bình của thế giới (năm 2000, mức trung bình của thế giới khoảng 75-80kg/ người/ năm). Với tốc độ tăng thu nhập của dân cư như những năm đổi mới vừa qua thì tới năm 2010 mức tiêu dùng trái cây bình quân đầu người ở Việt Nam có thể gần đạt tới mức trung bình của thế giới hiện nay. Đến năm 2010, nếu theo dự báo dân số nước ta là 90 triệu người và mức tiêu thụ trái cây bình quân đầu người đạt mức 65-70kg/ người/ năm thì nhu cầu tiêu thụ trái cây trong nước ta sẽ là 6,0-6,3 triệu tấn/ năm. Ngoài ra, nhu cầu của thị trường trái cây trong nước tăng lên còn do lượng khách nước ngoài du lịch vào Việt Nam trong những năm tới sẽ ngày càng gia tăng. Từ năm 2010 theo dự báo hàng năm số khách du lịch nước ngoài vào Việt nam có thể đạt mức 8 triệu người/ năm.
Như vậy, có thể thấy rằng Việt Nam có những tiềm năng to lớn về điều kiện tự nhiên và điều kiện về thị trường tiêu thụ trái cây (cả thị trường trong nước và ngoài nước) để phát triển sản xuất các loại cây ăn quả trong những năm tới.
Cả nước ta hiện có 140 loài cây ăn quả thuộc gần 40 họ thực vật. Những năm qua diện tích và sản lương cây ăn quả ở nước ta tăng lên nhanh chóng. Năm 1999 cả nước có hơn 425.000 ha cây ăn quả, đến năm 2002 đã có khoảng 500.000 ha, trong đó Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long chiếm 54% diện tích cây ăn quả của cả nước và có tới 30 loại trái cây có sản lượng sản xuất hàng năm khá lớn như xoài, dứa, măng cụt, dưa hấu, sầu riêng, chôm chôm, cam quýt. Về sản lượng trái cây, theo số liệu của cục khuyến nông-khuyến lâm, năm 1994 cả nước sản xuất 2,6 triệu tấn trái cây, năm 1996 là 3,2 triệu tấn, năm 1998 là 4 triệu tấn, năm 2000 là 4,5 triệu tấn.
Trái với tốc độ tăng nhanh diện tích và sản lượng, việc tiêu thụ sản phẩm trái cây lại luôn gặp nhiều khó khăn và ách tắc.Trái cây Việt Nam xuất khẩu rất khó khăn, năm 1998 cả nước chỉ xuất khẩu được dưới 10.000 tấn, mới bằng 0,25% sản lượng trái cây sản xuất trong nước. Các năm 1999-2000 xuất khẩu trái cây có tăng song sản lượng xuất khẩu còn rất nhỏ bé. Trái cây Việt Nam không chỉ ách tắc trong xuất khẩu mà tiêu thụ cũng rất khó khăn ở thị trường nội địa và rất khó cạnh tranh với trái cây cùng loại nhập khẩu. Theo tổng cục Hải quan, chỉ tính nguồn nhập khẩu chính ngạch, hiện mỗi năm nước ta nhập khẩu từ 20.000 đến 30.000 tấn trái cây,trong đó có khoảng 8000 tấn táo, 3000 tấn nho, 340 tấn nho khô. Ngoài ra nguồn trái cây nhập khẩu từ Trung Quốc qua con đường tiểu ngạch (bao gồm táo, lê, cam, quýt, nho) vào nước ta có khối lượng khá lớn. Riêng lượng ngoại tệ để nhập khẩu trái cây chính ngạch hàng năm ước tính đã tới 13-15 triệu USD/ năm. Những khó khăn và ách tắc trong tiêu thụ sản phẩm đã hạn chế việc phát huy các tiềm năng phát triển sản xuất cây ăn quả và hạn chế rất lớn hiệu quả sản xuất cũng như lợi ích của người sản xuất cây ăn quả nước ta .
2. Tình hình sản xuất cây ăn quả ở Việt Nam
Cây ăn quả ở nước ta tuy đã được trồng từ lâu đời, song trước kia sản xuất chủ yếu dựa theo tập quán. Theo các tài liệu thì sang thế kỷ 20 các hoạt động điều tra nghiên cứu mới bắt đầu được quan tâm.
Thời Pháp thuộc, từ năm 1930 một số cơ quan nông nghiệp bắt đầu điều tra giống cây ăn quả, thành lập một số trại nghiên cứu ở Gia Rai-Biên Hoà, Vân Du-Thanh Hoá; tổ chức hội thi quả ngon; lập vườn ươm giống cấp tỉnh.
Sau năm 1954, Bác Hồ phát động tết trồng cây (1959), không chỉ làm bóng mát, lấy gỗ, lấy quả mà còn làm sạch môi trường. Từ năm 1960 nhiều nông trường trồng cây ăn quả được thành lập, Vụ trồng trọt - Bộ nông nghiệp đã xây dựng các quy trình kỹ thuật trồng cam, quýt, chuối, dứa. Năm 1968, Viện cây công nghiệp - cây ăn quả được thành lập. Công tác nghiên cứu về cam được chú trọng từ năm 1962, đến năm 1964 có sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô và từ năm 1976 có các chuyên gia Cuba, cùng với các t._.ập đoàn giống cam quýt của Cuba viện trợ cho Việt Nam. Thời kỳ này một số kêt quả nghiên cứu đã được tổng kêt như: Báo cáo tổng kết thí nghiệm về cam và cà phê tại hội nghị toàn quốc ở Tây Hiếu- Nghệ An (1977), Bộ nông nghiệp đã xây dựng quy hoạch các vùng cây ăn quả (cam dứa quýt, chuối) trình Thủ tướng Chính phủ. Năm 1970 quy hoạch vùng sản xuất dứa Miền Bắc Việt Nam đã được xây dựng.
Sau năm 1975, Bộ nông nghiệp đã phát động phong trào “ vườn quả Bác Hồ ” trong cả nước (1979). Năm 1986 “ Đề án phát triển cây ăn quả có múi ở Viêt Nam thời kỳ 1986-2000 ” đã được xây dựng, xác định khả năng phát triển sản xuất cây ăn quả có múi cả nước là 70 ngàn ha. Năm 1986, Hội làm vườn Việt nam được thành lập, mô hình VAC đã được phổ biến ngày càng rộng, trong đó cây ăn quả là một chủ lực. Thực hiện hiệp định hợp tác rau quả Việt Xô 1986-1990, chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước đã được tiến hành, sau đó các đề tài về dứa, cam, chuối, rau đã được tổng kết. Năm 1990, Viện nghiên cứu rau quả đã được thành lập, bao gồm 3 trung tâm Phú Hộ, Xuân Mai và Phủ Quỳ. Tiếp đó năm 1994, trung tâm cây ăn quả Long Định được thành lập (nay là Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam). Lực lượng nghiên cứu cây ăn quả đã được tăng cường trong cả nước.
ở nước ta cây ăn quả được phát triển dưới 2 hình thức :
+ Trồng phân tán trong các vườn của các nông hộ với mục đích tự túc, bổ sung dinh dưỡng bữa ăn. Tuy vậy chỉ mới có khoảng 15-20%số hộ có trồng cây ăn quả trong vườn. Theo kết quả điều tra nông hộ ở các vùng nông nghiệp khác nhau, ước tính bình quân mỗi nông hộ ttrồng khoảng 40 m2 cây ăn quả trong vườn với nhiều loại cây truyền thống như mít, nhãn, ổi, chuối.
+ Tập trung trành vùng có mục đích sản xuất hàng hoá, chủ yếu là do các nông hộ trồng, trong đó có 28 nông trường có trrồng cây ăn quả với nhiều quy mô, diện tích khác nhau .
Quá trình hình thành vùng quả từ 3 khu vực đặc trưng là :
+ Do chủ trương của nhà nước về quy hoạch phát triển vùng cây ăn quả, bắt đầu từ các nông trường quốc doanh, sau đó phổ biến rộng ra các nông hộ trong vùng, gắn với công nghệ chế biến xuất khẩu, chẳng hạn như khu vực trồng dứa vùng đất phènTứ Giác Long Xuyên, đồng Tháp Mười, khu vực Đồng Giao( Ninh Bình), Hà Trung( Thanh Hoá).
+ Do điều kiện lợi thế về sinh thái của các loại cây ăn quả có vị trí thuận lợi về giao thông vận tải và có rhị trường tiêu thụ nên đã hình thành vùng cây ăn quả như vùng quả của đồng bằng sông cưủ long, Đông Nam Bộ , ngoại thành Hà Nội
+Từ những vườn cây ăn quả đặc sản của những địa phương được thị trường tiêu thụ mạnh phát triển nên thanhg các vùng quả tập trung như các vùng bưởi Năm Roi (Vĩnh Long). Tân Triều ( Đồng Nai), Phúc Trạch ( Hà Tĩnh), mơ mận (Tây Bắc,Đông Bắc).
Qui mô vườn quả của các nông hộ sản xuất ở các vùng tập trung tuỳ thuộc vào đặc điểm đất đai từng vùng. Vùng đồng bằng Sông Hồng dưới 200 m2; miền Nam, miền Núi Trung Du Phía Bắc Phổ biến từ 1000-2000m2.Đã có những điện hình tổ chức sản xuất theo kiểu trang trại cây ăn quả cả vùng đồng bằng và vùng đất đồi núi. Những vùng cây ăn quả thâm canh và có hiệu quả kinh tế cao thường gắn viẹc trồng cây ăn quả trong kinh tế sinh thái VAC vừa nuôi trồng thuỷ sản, phát triển chăn nuôi công nghiệp .
Với điều kiện đất đai, khí hậu nhiệt đới có pha trộn tính ôn đới rất thuật tiện cho nhiều loại cây ăn quả ở nước ta phát triển. Hiện nay tập đoàn cây ăn quả ở nước ta rất phong phú trong đó có nhiều loại cây ăn quả quí không chỉ có ý nghĩa tiêu dùng trong nước, mà còn có ý nghĩa xuất khẩu có giá thị như cam, nhãn, vải, dứa, sầu riêng, xoài, diện tích cây ăn quả nước ta từ năm 1985 đến nay đã có sự phát triển khá mạnh: năm 1985 mới có 213 ngàn ha, đến năm 1988 đã có 272,2 ngàn ha và đến năm 2000 đã có khoảng 500 ngàn ha và sản lượng đạt 7 triệu tấn, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 70 triệu USD( theo bộ NN và PTNT).
Việc bố trí sản xuất cây ăn quả. Ngoài việc bố trí trồng rải rác trên tất cả các vùng, các địa phương , chúng ta còn bố trí trồng tập trung quy mô cây ăn quả ở những vùng và những địa phương có điều kiện như: vùng cây ăn quả tập trung Nam Bộ và miền núi phía Bắc trong đó 70% diện tích nằm ở các vùng phía Nam
3. Tình hình sản xuất cây ăn quả trên thế giới.
Ngày nay nhiều nước trên thế giới quan tâm tới việc phát triển cây ăn quả và họ đã giàu lên nhờ xuất khẩu sản phẩm tươi và chế biến từ quả .
Những nước có diện tích trồng cây ăn quả lớn như là Mĩ, Trung Quốc, ấn Độ, ví dụ : năm 1995 Trung Quốc có 6,4 triệu ha cây ăn quả với sản lượng khoảng 35 triệu tấn. ấn độ có 2,94 triệu ha với sản lượng 25,5 triệu tấn.
Theo thống kê của tổ chức FAO năm 1998 sản lượng quả toàn thế giới là 333,6 triệu tấn, trong đó số quả mọng là 3329,5 triệu tấn chiếm 98,8% tổng sản lượng toàn thế giới, còn lại 4,1 triệu tấn là quả vỏ cứng chiếm 1,2% tổng sản lượng . Nếu xếp theo số thứ tự sản lượng châu á đứng đầu tiếp theo là Mĩ ,Châu Âu, Châu Phi, cuối cùng là châu Đại Dương.
Năm 1998 Braxin sản xuất ra 27,5 triệu tấn chiếm 8,33% tổng sản lượng quả thế giới. Sau đó là các nước Mĩ 25 triệu tấn và chiếm 7,8%, ấn Độ 24,6 triệu tấn ( chiếm 7,48%) Italia 18,8 triệu tấn ( chiếm 5,72%),Trung Quốc 18,4 triệu tấn ( chiếm 5,59%) sản lượng quả của 5 nước này tương đương 35% tổng sản lượng quả trên thế giới. Ngoài 5 nước có sản lượng quả lớn kể trên còn có các nước khác như Liên Xô ( cũ) 14,5 triệu tấn, Pháp 11,1 triệu tấn, Tây Ban Nha 11,02 triệu tấn, Thổ Nhĩ Kì 8,8 triệu tấn.
Để phát triển diện tích và tăng sản lượng cây ăn quả,trên thế giới đã chú trọng những vấn đề như: chọn giống mới, nghiên cứu kỹ thuật trồng và quản lý, chăm sóc cây ăn quả; tưới nước giữ độ ẩm, chống xói mòn đất cho cây ăn quả ; nghiên cứu kỹ thuật thu hái xử lý sau thu hoạch
chương II
Thực trạng phát triển sản xuất cây ăn quả ở
ngoại thành hà nội
I. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sản xuất cây ăn quả ngoại thành Hà Nội
1. Đặc điểm về tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý
Ngoại thành Hà Nội gồm 5 huyện: Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm và Sóc Sơn. Hà Nội nằm ở trung tâm vùng Đồng bằng sông Hồng, trong phạm vi từ 20°53 đến 21°23 vĩ độ Bắc và từ 105°44 đến 106°02 độ kinh Đông. Hà Nội tiếp giáp với 5 tỉnh: Bắc Kạn và Thái Nguyên ở phía Bắc, Hà Tây và Hà Nam ở phía Nam và Tây nam. Vị trí này tương đối thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế của vùng trong nền kinh tế mở cửa và là điều kiện quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá.
1.2 Đất đai
Hà Nội có tổng diện tích tự nhiên là 911.800 ha, trong đó đất nông nghiệp là 43.465 ha chiếm 4,76%, đất lâm nghiệp 6717 ha chiếm 0,73% còn lại là đất chuyên dùng. ở ngoại thành Hà Nội có 3 loại đất chủ yếu, đất phù sa chiếm khoảng 46%, đất gò đồi bán sơn địa chiếm khoảng 31% và đất trũng chiếm 23%. Ngoại thành Hà Nội được chia làm 2 vùng đồi núi thấp và trung bình với dãy núi Sóc Sơn có đỉnh cao nhất là đỉnh Chân Chim với độ cao là 462m, vùng đồi núi của Hà Nội có thể kết hợp sản xuất nông nghiệp và du lịch. Với địa bàn đồi núi thấp, nơi đây phù hợp với nhiều loại cây ăn quả và chăn nuôi đại gia súc. Vùng đồng bằng của Hà Nội là vùng châu thổ của sông Hồng đã được khai phá từ lâu đời. Vùng này đặc trưng dân cư đông đúc với tập quán canh tác của các vùng nông nghiệp truyền thống ngoại thành. Vùng đồng bằng ngoại thành phù hợp với phát triển nhiều loại cây trồng ngắn ngày đòi hỏi vốn đầu tư lớn, có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là các loại cây ăn quả, hoa, cây cảnh. Trong đất nông nghiệp, diện tích đất canh tác là 38.885 ha chiếm 89,48%, đất vườn tạp là 473 ha chiếm 1,09%, đất mặt nước nuôi trồng thủy sản là 2820 ha chiếm 6,49%, đất trồng cây lâu năm 1.200 ha chiếm 2,76% và đất trồng cây thức ăn chăn nuôi là 78 ha chiếm 0,18%. Hà Nội có nhiều diện tích ao hồ, ruộng 1 vụ lúa, 1 vụ cá, đất canh tác hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng, nhất là các vùng xa như Sóc Sơn, một số xã của huyện Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm, Đông Anh có nhiều khả năng phát triển cây ăn quả.
Biểu số 4: Cơ cấu diện tích đất đai toàn quốc và vùng ngoại thành Hà Nội
Chỉ tiêu
Toàn quốc
Ngoại thành HN
Diện tích (ha)
%
Diện tích (ha)
%
Tổng diện tích
32.868.095
100
911.800
100
1. Đất nông nghiệp
8.104.241
24,66
43.456
4,76
1.1. Đất trồng cây hàng năm
5.678.655
70,07
38.885
89,48
1.2. Đất vườn tạp
561.369
6,93
473
1,09
1.3. Đất trồng cây lâu năm
1.453.302
17,93
1.200
2,76
1.4. Đất đồng cỏ
71.584
0,88
78
0,18
1.5. Đất mặt nước nuôi thuỷ sản
339.331
4,19
2.820
6,49
2. Đất lâm nghiệp
10.935.362
33,27
6.717
0,73
3. Đất chưa sử dụng
12.087.040
36,77
1.137
0,12
3.1. Đất bằng
868.772
7,19
364
32,01
3.2. Đất đồi núi
8.549.550
70,73
210
18,47
3.2. Mặt nước
189.313
1,57
563
49,52
Như vậy, diện tích đất ngoại thành Hà Nội chiếm 2,77% so với tổng diện tích toàn quốc trong đó đất nông nghiệp chiếm 0,54%, đất lâm nghiệp chiếm 0,06% và đất chưa sử dụng chiếm 0,009%, do đó ngoại thành Hà Nội có thế mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp cao.
1.3 Thời tiết, khí hậu, thuỷ văn
Khí hậu của Hà Nội mang đặc trưng của đồng bằng sông Hồng, đó là nền khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới ẩm, có pha trộn ít nhiều tính chất ôn đới. Tuy nhiên do ngoại thành Hà Nội còn có các tiểu vùng sinh thái đặc thù như vùng đồi gò Sóc Sơn, vùng trũng Thanh Trì... nên cũng có một số nét đặc trưng. Nhiệt độ trung bình năm 24°C, tối cao là 42,8°C, tối thấp là 5,6°C. Lượng mưa cả năm dao động 1.300 - 1.700 mm, với năm cao nhất là 2.714 mm và năm thấp nhất là 25%, bão ảnh hưởng đến Hà Nội từ tháng 7 đến tháng 10, tỷ suất dao động từ 2,5 - 32,5%. Số giờ nóng dao động từ 1.500 - 1.700 giờ/ha, tổng bức xạ quang hợp từ 55 - 62 kcal cm2/năm.
Nguồn nước ở ngoại thành Hà Nội đa dạng, có thể thoả mãn nhu cầu phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp dịch vụ và nhu cầu sinh hoạt. Bao gồm nước của các sông Hồng, sông Đuống, sông Cà Lồ, sông Cầu với tổng chiều dài là 36,5 km2, nước của số lớn các ao hồ và nguồn nước ngầm có thể khai thác 1 triệu m3/ ngày đêm. Lượng mưa trung bình trên địa bàn khoảng 1500 mm. Với nguồn nước đa dạng và phong phú như vậy cho phép đáp ứng đủ nhu cầu của sản xuất nông nghiệp ngoại thành. Tuy nhiên nó cũng tồn tại khó khăn cơ bản là nước một số nơi đang bị ô nhiễm nặng nề, nguy cơ ô nhiễm ngày càng cao đặc biệt là các xã ven nội của Thanh Trì và Từ Liêm.
Nhìn chung, những đặc điểm về điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu ở ngoại thành Hà Nội có nhiều lợi thế để phát triển một nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá tỷ suất cao. Cơ cấu giống cây trồng vật nuôi phong phú nhưng quy mô bố trí các loại đất ở các huyện ngoại thành là không giống nhau, đặc biệt đất gò đồi. Lâm nghiệp tập trung chủ yếu ở huyện Sóc Sơn, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản tập trung phần lớn ở Thanh Trì.
2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội
2.1Cơ cấu đất nông nghiệp ngoại thành
a.Khái niệm đất nông nghiệp
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt của sản xuất nông nghiệp, là một trong các yếu tố quan trọng nhất của môi trường sống và là địa bàn phân bố dân cư. Như vậy, đất đai được dùng hầu hết vào các ngành sản xuất, các lĩnh vực của đời sống, đất đai được phân thành các loại khác nhau và gọi tên theo ngành và lĩnh vực sử dụng chúng.
Với ý nghĩa đó đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản xuất các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc sử dụng để nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Ngoài tên gọi đất nông nghiệp, đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp còn được gọi là ruộng đất.
Khi nói đất nông nghiệp người ta nói đất sử dụng chủ yếu vào sản xuất của các ngành nông nghiệp, bởi vì trên thực tế có trường hợp đất đai được sử dụng vào những mục đích khác nhau của các ngành. Trong trường hợp đó, đất đai được sử dụng chủ yếu cho mục đích hoạt động sản xuất nông nghiệp mới coi là đất nông nghiệp, nếu không sẽ là các loại đất khác (tuỳ theo việc sử dụng vào mục đích nào là chính).
Tuy nhiên, để sử dụng đầy đủ hợp lý ruộng đất, trên thực tế người ta coi đất đai có thể tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà không cần có đầu tư lớn nào cả, là đất nông nghiệp cho dù nó đã đưa vào sản xuất nông nghiệp hay chưa. Vì vậy trong luật đất đai năm 1993, điều 17 có ghi rõ: khoanh định các loại đất nông nghiệp... điều chỉnh việc khoanh định cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi từng địa phương và cả nước. Những diện tích đất đai phải qua cải tạo mới đưa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp được coi là đất có khả năng nông nghiệp.
Trong nông nghiệp đặc biệt là trong ngành trồng trọt, đất đai có vị trí hết sức quan trọng. ở đây, đất đai không chỉ là chỗ đứng, chỗ tựa của lao động như các ngành khác mà còn cung cấp thức ăn cho cây trồng và thông qua sự phát triển của trồng trọt tạo điều kiện cho ngành chăn nuôi phát triển. Với ý nghĩa đó, trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt là cơ sở tự nhiên sản sinh ra của cải vật chất cho xã hội. Đúng như Uyliam petis đã nói: “Lao động là cha, đất là mẹ của mọi của cải vật chất”.
b. Cơ cấu đất nông nghiệp ngoại thành
Năm 2000, diện tích đất nông nghiệp của Hà Nội là 42.460 ha, chiếm 50,8% trong tổng diện tích đất tự nhiên của thành phố. Tỷ lệ trên sẽ còn biến động trong các năm tới, khi mà tốc độ phát triển đô thị của Hà Nội diễn ra nhanh. Những ý đồ về quy hoạch không gian đô thị của thủ đô Hà Nội sẽ tạo ra những thay đổi lớn trên từng khu vực, có thể sẽ làm phong phú thêm chức năng, nhiệm vụ của ngành nông nghiệp.
`
Biểu5: Diện tích đất nông nghiệp
Hạng mục
Tổng số
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Biến động so với năm 1998/DT (ha)
Tổng số
42.460
100
-542,6
I. Đất trồng cây hàng năm
38.300
90,20
- 1.029,5
1. Đất lúa, đất màu
31.023
73,06
- 2.947,3
- Ruộng 3 vụ
5.621
13,23
- Ruộng 2 vụ
21.205
49,94
- Ruộng 1 vụ
3.297
7,76
- Đất chuyên mạ
900
2,12
2. Đất trồng cây hàng năm khác
7.277
17,14
+ 1.917,8
- Chuyên màu và cây CNNN
3.977
9,37
- Chuyên rau
2.050
4,83
- Cây hàng năm khác
1.250
2,94
II. Đất vườn tạp
300
0,70
- 181,6
III. Đất trồng cây lâu năm
550
1,29
+ 320,2
1. Đất trồng cây ăn quả
500
1,18
+ 236,6
2. Đất trồng cây lâu năm khác
40
0,09
3. Đất ươm cây giống
10
IV.Đồng cỏ dùng vào chăn nuôi
110
0,26
+ 21,3
V.Mặt nước nuôi trồng thuỷ sản
3.200
7,54
+ 397
1. Chuyên nuôi cá
3.200
7,54
2. Nuôi trồng thuỷ sản khác
Nguồn: Sở NN và PTNT Hà Nội - 2000
Đánh giá về cơ cấu các loại đất nông nghiệp như sau: đất trồng cây hàng năm chiếm tỷ lệ gần như tuyệt đối 90,20%, trong đó đất lúa và lúa + màu chiếm 73,06%. Như vậy cơ cấu đất canh tác ở Hà Nội chủ yếu vẫn là đất lúa. Đất màu và cây ngắn ngày khác chiếm 17,14%, đa số loại đất này gieo trồng từ 2 đến 3 vụ trong năm. Nếu cộng tỷ lệ phần trăm đất gieo cấy 3 vụ lúa màu là 13,23% thì diện tích canh tác làm vụ đông ở Hà Nội mới đạt từ 26 -28% tổng diện tích đất canh tác. Có thể so sánh diện tích gieo trồng vụ đông ở Hà Nội cao hơn các vùng khác ở đồng bằng sông Hồng nhưng vẫn chưa khai thác hết tiềm năng sản xuất vụ đông ở Hà Nội (ước tính có thể đạt tới 40 - 45% tổng diện tích đất canh tác). Đất trồng cây lâu năm còn quá thấp mà nguyên nhân chính là do các năm trước đây chưa phát triển mạnh nghề làm vườn theo nền sản xuất hàng hoá, thiếu chủ trương và mức đầu tư còn thấp.
Diện tích mặt nước nuôi thả cá đã đạt quy mô 3200 ha - chiếm 7,54% diện tích đất nông nghiệp và tương lai quy mô về diện tích còn được mở rộng, do thành phố có chủ trương đầu tư tập trung cho ngành thuỷ sản.
Theo dõi về biến động đất nông nghiệp ở Hà Nội trong 3 năm từ năm 1998 đến năm 2000 cho thấy: tổng diện tích đất nông nghiệp đã giảm đi 542,6 ha. Đã diễn ra 2 xu hướng: các nhóm đất giảm diện tích là đất lúa và lúa + màu giảm 2.947,3 ha, đất vườn tạp giảm 181,6 ha mà nguyên nhân chính của tình trạng mất đất nông nghiệp nêu trên là do mở rộng các công trình xây dựng do phát triển đô thị. Các loại đất tăng về diện tích là: đất trồng cây hàng năm tăng 1.917,8 ha, đất trồng cây lâu năm tăng 320,2 ha, các loại đất nêu trên tăng là do mở rộng về quy mô sản xuất trên các loại đất bãi ven sông, đất gò đồi cao ở Sóc Sơn và Đông Anh. Việc mở rộng đất cho sản xuất nông nghiệp tuy quy mô còn nhỏ nhưng là dấu hiệu tốt cho xu hướng sử dụng quỹ đất có hiệu quả kinh tế cao hơn.
2.2 Dân số và lao động
Hiện nay dân số ngoại thành Hà Nội là 1.265,2 ngàn người, chiếm 50% dân số thành phố Hà Nội, mật độ dân số trung bình là 1516 người/ km2 với 118 xã và 8 thị trấn. Tuy nhiên mật độ dan cư phân bố không đồng đều, tập trung cao nhất ở các huyện Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm còn lại Sóc Sơn, Đông Anh mật độ thấp hơn.
Biểu 6: Dân số và đơn vị hành chính của các huyện ngoại thành Hà Nội
Dân số
(1000 người)
Mật độ dân số
(người/ km2)
Đơn vị hành chính
Phường/ xã
Thị trấn
Tổng số
1.265,2
1.516
118
8
Sóc Sơn
245
779
25
1
Đông Anh
260,1
1.429
23
1
Gia Lâm
340,2
1.968
31
4
Từ Liêm
193,2
2.573
15
1
Thanh Trì
226,7
2.837
25
1
Nguồn: Niên giám thống kê - Cục thống kê Hà Nội
Trong khi đó đất canh tác bình quân mỗi nhân khẩu nông nghiệp đã thấp (khoảng 514 m2/người) trong điều kiện dân số nông nghiệp nói riêng và nông thôn nói chung tăng nhanh và đất bị thu hẹp dần do quá trình đo thị hoá nên xu thế đất đai canh tác ngày một giảm, trong khi đó yêu cầu giải quyết việc làm trong nông nghiệp ngoại thành vừa bức bách lại vừa gay gắt.
Bình quân thời kỳ 1991 đến nay, các ngành nông - công nghiệp - dịch vụ ở ngoại thành thu hút thêm lực lượng lao động tăng 5,88%, trong đó số lao động tăng trong ngành nông nghiệp thấp hơn (5,21%). Đặc biệt năm 1994 so với năm 1993, lao động làm việc trong các ngành tăng 2,01% thì trong nông nghiệp chỉ tăng 0,07%, đây là xu hướng tiến bộ. Mặc dù đã có cố gắng hơn trong việc bố trí lại lao động trong các ngành kinh tế ở nông thôn ngoại thành nhưng do lao động nông nghiệp hiện nay vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể năm 1997 tỷ trọng lao động các ngành của các huyện ngoại thành là:
- Lao động nông nghiệp 78,1%.
- Lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 11,4%.
- Lao động thương nghiệp, dịch vụ 10,5%.
Trong số lao động nông nghiệp ước tính có 21,4% lao động chăn nuôi, 22,5% lao động thuỷ sản, 0,9% lao động làm nghề xây dựng theo mùa, số còn lại làm nghề trồng trọt.
Người dân ngoại thành khá nhạy bén với kỹ thuật và thị trường là một điều rất thuận lợi nhưng theo kết quả điều tra cho thấy cứ 100 lao động thì có 13 người chưa tốt nghiệp PTCS, số người tốt nghiệp cao đẳng trở lên ít. Do đó yêu cầu đào tạo và đào tạo lại lao động phù hợp với yêu cầu mới là bức bách hàng đầu trong phát triển cây ăn quả.
2.3 Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nông thôn ngoại thành được Nhà nước và thành phố quan tâm đầu tư xây dựng. Vốn xây dựng hạ tầng cơ sở nông nghiệp và nông thôn hàng năm đều tăng, tổng số vốn từ năm 1996 - 2001 là:
- Nông nghiệp 43,204 tỷ đồng
- Thuỷ lợi đê điều 142,365 tỷ đồng
- Giao thông nông thôn 75,889 tỷ đồng
- Nước sinh hoạt 10,599 tỷ đồng
- Điện nông thôn 51,552 tỷ đồng
Biểu7: Cơ sở hạ tầng toàn quốc và ngoại thành Hà Nội
Chỉ tiêu
Toàn quốc
Ngoại thành HN
1. Số xã có đường ô tô đến
87,9
99,2
2. Số xã có trạm biến thế
49,3
97,66
3. Số xã có điện
60,4
100
4. Số xã có trạm bưu điện
16,0
100
5. Số hộ dùng điện
53,2
98,44
6. Số xã có trạm bơm do xã quản lý
29,6
79,69
7. Diện tích cây hàng năm được tiêu bằng công trình thuỷ lợi
41,4
73,9
8. Diện tích cây hàng năm được tưới bằng công trình thuỷ lợi
30,3
76
9. Diện tích cây hàng năm được làm bằng máy
33,8
63
10. Số xã có trạm xá
93,2
100
11. Số xã có trường cấp I
87,9
100
12. Số xã có trường cấp II
76,6
100
13. Số xã có trường cấp III
7,0
32,5
Nguồn: Niên giám thống kê - Cục thống kê HTXNN
a.Hệ thống thuỷ lợi đê điều
Với tổng số vốn đầu tư (1995 - 2000) là 142,365 tỷ đồng để cải tạo xây dựng mới các công trình thuỷ lợi, đến nay hệ thống thuỷ nông của toàn thành phố đảm bảo tưới chủ động cho 76% diện tích, tiêu chủ động cho 73,9% diện tích, có khoảng 25% số kênh mương dẫn nước được cứng hoá.
b. Giao thông nông thôn
Tổng số vốn đầu tư từ năm 1995 - 2000 là 75,889 tỷ đồng. Tới nay đã có 80% đường giao thông nông thôn được rải nhựa, cả cấp phối hoặc lát gạch. Giao thông nông thôn phát triển đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn ngoại thành, tạo điều kiện cho người dân đi lại và dịch vụ buôn bán nông sản, cung cấp vật tư phục vụ sản xuất thuận tiện.
c.Xây dựng điện nông thôn.
Đưa nghị quyết điện nông thôn của Thủ tướng Chính phủ và nghị quyết của hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội vào thực tiễn, hai năm qua (2000 - 2001) Hà Nội đã cơ bản hoàn thành đề án nâng cấp điện đến nhiều thôn xã của ngoại thành. Đến nay đã có 100% số xã có điện, gần 100% số hộ đã sử dụng điện, chỉ có một số hộ dân ở một vài xóm vùng núi của Sóc Sơn là chưa có điện, hầu hết các xã bán giá điện cho nông thôn ổn định, có 100% xã có giá điện bình quân dưới 700 đồng/ kwh, có 87% số xã, trong đó huyện Từ Liêm có 100% xã có giá điện bình quân dưới 700 đồng/kwh, Thanh Trì 96%, Gia Lâm 93,75%, Đông Anh 96%, Sóc Sơn 56%. Để công tác quản lý điện có hiệu quả, đảm bảo lưới điện sau khi đầu tư được sử dụng đúng mục đích, sở công nghiệp đã phối hợp với công tư điện lực thành phố, UBND các huyện mở nhiều lớp bồi dưỡng, nâng cao trình độ quản lý điện tại địa phương. Đến nay thành phố đã mở được 8 lớp tập huấn tại các huyện với tổng số trên 800 người. Đây là điều kiện thuận lợi cho người dân ngoại thành Hà Nội tiếp cận được những thông tin cần thiết về thị trường, khoa học kỹ thuật...
d. Nước sạch và môi trường
Vấn đề nước sạch và vệ sinh môi trường ở vùng nông thôn cũng là một trong những vấn đề hết sức cấp bách và được UBND thành phố quan tâm. Với tổng số vốn đầu tư là 10,599 tỷ đồng. Đến nay đã có 36 trạm bơm lớn nhỏ, tập trung công suất từ 20 - 80 m3/h và hàng chục ngàn giếng khoan của hộ nông dân, tỷ lệ dân được dùng nước sạch hiện nay gần 70%.
Các hình thức HTX dịch vụ cung cấp nước sạch sinh hoạt cho hộ nông dân bước đầu phát triển và có kết quả tốt, góp phần tích cực tạo nguồn nước sạch cho người sử dụng. Vấn đề môi trường đã được một số địa phương quan tâm giải quyết, một số xã đã thành lập tổ vệ sinh môi trường do dân tự đóng góp kinh phí và hoạt động có kết quả như xã Tây Tựu, Chung Văn (Từ Liêm).
e. Công tác y tế, văn hoá giáo dục.
Về giáo dục, thành phố đã tập trung vốn đầu tư cho xây dựng sửa chữa nâng cấp trường lớp. Đến nay 100% số xã đã có trường tiểu học và PTCS được xây dựng kiên cố, bán kiên cố. Đã xoá bỏ được hoàn toàn học ca 3. Cơ sở vật chất được nâng cấp phục vụ tốt hơn cho việc học tập. 100% số huyện đã phổ cập cấp II, Hà Nội là địa phương đầu tiên trong cả nước được công nhận đã phổ cập cấp II; 68,5% cháu trong độ tuổi theo học lớp giáo dục mầm non; 99,7% số cháu trong độ tuổi được vào học PTCS; 8,87% số cháu trong độ tuổi được học PTTH.
Về văn hoá thể thao: 100% số xã có trạm truyền thanh, 51% số xã có nhà văn hoá, tháng 6/1996, UBND thành phố Hà Nội có kế hoạch triển khai xây dựng làng văn hoá.
Thông tin liên lạc ở ngoại thành ngày càng phát triển: nếu năm 1991 mới có 66 máy điện thoại trong dân thì năm 1995 có 1.050 máy điện thoại, và cho đến nay có 1.348 máy, 100% số xã có máy điện thoại.
Phong trào thể dục thể thao phát triển mạnh, mang tính chất xã hội hoá, nhiều môn thể thao phát triển mạnh như cầu lông, bóng bàn, bóng đá, đã có 97/118 xã có sân bãi chiếm 82,7% số xã.
Về y tế - dân số KHHGĐ: hiện nay 100% số xã đã có trạm y tế phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân tại cơ sở, 100% số trạm y tế đã có bác sĩ, y sĩ. Hà Nội là một trong hai tỉnh thành phố đầu tiên trong cả nước có 100 số xã có bác sĩ, trung bình 1000 người dân ngoại thành có 0,26 bác sĩ; 0,46 giường bệnh, nhiều trạm y tế xã, trung tâm y tế huyện được nâng cấp trang bị những dụng cụ chữa bệnh cần thiết. Đã khám chữa bệnh miễn phí cho hàng chục ngàn người nghèo. Công tác chăm sóc khám chữa bệnh cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng, cho các đối tượng chính sách đặc biệt quan tâm. Công tác KHHGĐ đã có những chuyển biến đáng kể cả về nhận thức của người dân lẫn kết quả thực hiện. Tỷ lệ sinh ở ngoại thành Hà Nội đã giảm từ 2,13% (1990) xuống 2,018% (1993) và cho đến nay chỉ còn 1,615%. Bình quân mỗi năm giảm 0,07%, tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm từ 20,39% (năm 1990) xuống còn 10,96% (1995) và nay còn 9,72%.
Tóm lại: Ngoại thành Hà Nội có những điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội thuận lợi, về kết cấu hạ tầng khá phát triển so với nhiều địa phương khác trong cả nước. Đó là những thuận lợi rất lớn cho phát triển cây ăn quả ngoại thành. Để thúc đẩy nhanh hơn nữa phát triển sản xuất hàng hoá, đòi hỏi phải đầu tư nhiều cho xây dựng cơ sở hạ tầng và phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng thì mới đáp ứng nhu cầu của thực tiễn.
3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến phát triển cây ăn quả.
Nông thôn ngoại thành Hà Nội chịu sự tác động mạnh mẽ của kinh tế đô thị, có thể nói đây là vùng chuyển tiếp giữa kinh tế thành thị và nông thôn. Đó là một nền nông nghiệp đô thị. Đất ít người đông, bình quân diện tích trên đầu người thấp và đang có xu hướng ngày càng giảm, đặc biệt là đất nông nghiệp. Khí hậu Hà Nội có đặc điểm của khí hậu Bắc Việt Nam - khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa đông lạnh và ít mưa, mùa hè nóng và mưa nhiều, cho phép phát triển nhiều loại cây ăn quả nhiệt đới và á nhiệt đới. Nhưng khí hậu Hà Nội cũng gây nhiều khó khăn cho sản xuất cây ăn quả như khô, lạnh, thiếu nước vào mùa đông, ngập úng, đổ, gãy, rụng quả, hoa vào mùa hè... đòi hỏi trong sản xuất cây ăn quả phải có các biện pháp canh tác, các giải pháp kỹ thuật nhằm hạn chế các tác hại, phát huy các mặt lợi của khí hậu, thời tiết để phát triển cây ăn quả.
Lao động dồi dào, song ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá nhất là đất nông nghiệp ngày càng giảm tạo nên sức ép về việc làm ngày càng lớn và gay gắt. ảnh hưởng của đô thị hoá vừa tạo ra cơ hội cho việc chuyển lao động nông thôn làm nông nghiệp sang lao động các ngành khác có nhu cầu lao động cao hơn và đảm bảo nâng cao đời sống cho người dân ngoại thành song cũng là một thách thức về
việc làm, đang đặt ra những bức xúc cho thành phố.
ở các vùng nông thôn ngoại thành đã hình thành các trung tâm kinh tế văn hoá của từng vùng, kết cấu hạ tầng ở những trung tâm này khá tốt tương tự như thành thị. Hệ thống kết cấu hạ tầng của ngoại thành Hà Nội là thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cây ăn quả nói riêng.
ở ngoại thành Hà Nội và trên địa bàn thành phố nhiều cơ quan khoa học, viện nghiên cứu, trường Đại học và cao đẳng. Đây là một hậu thuẫn lớn để nông thôn ngoại thành tiếp cận trực tiếp khoa học công nghệ và khai thác tiềm năng khoa học hiện đại vào sản xuất.
II. Thực trạng sản xuất cây ăn quả ở ngoại thành Hà Nội
1. Tình hình về diện tích, năng suất và sản lượng sản xuất cây ăn quả
1.1. Diện tích cây ăn quả
Ngoại thành Hà Nội là vùng đất không rộng, các yếu tố và điều kiện sinh thái không khác lệch nhau nhiều, nghề trồng cây ăn quả đã phát triển khá đồng đều giữa các huyện. Tình hình về diện tích cây ăn quả theo các đơn vị như sau:
Biểu 8: Diện tích cây ăn quả qua các năm
Hạng mục
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Tổng số
2975,5
100
3137
100
3374,5
100
Huyện Từ Liêm
349,0
11,73
370
11,79
398
11,79
Huyện Thanh Trì
207,7
6,98
217
6,92
245,5
7,26
Huyện Gia Lâm
460,7
15,48
489
15,59
546
16,19
Huyện Đông Anh
842,4
28,31
866
27,61
949
18,12
Huyện Sóc Sơn
1115,7
37,50
1195
38,09
1236
36,65
Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
Như vậy, tổng diện tích trồng cây ăn quả của ngoại thành Hà Nội năm 2000 là 2975,5 ha chiếm 6,85% diện tích đất nông nghiệp ngoại thành, năm 2001 là 3137 ha chiếm 7,22%, năm 2001 là 3374,5 ha chiếm 7,77%. Tỷ lệ đất như trên, trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp còn nhỏ so với khả năng và yêu cầu cần phát triển
Hai huyện có diện tích trồng cây ăn quả lớn và tập trung là Đông Anh và Sóc Sơn với tổng số 1958,1 ha (năm 2000), chiếm 65,80% diện tích cây ăn quả ở ngoại thành, 2061 ha (năm 2001) chiếm 65,7% diện tích cây ăn quả ở ngoại thành Hà Nội, 2185 ha (năm 2002) chiếm 64,75%. Huyện có diện tích thấp nhất là Thanh Trì với 207,7 ha (năm 2002) và 245,5 ha (năm 2002).
Nhìn vào bảng 8 ta thấy diện tích cây ăn quả ở các huyện có xu hướng tăng khá nhanh, huyện tăng cao nhất là Sóc Sơn và Đông Anh, và huyện tăng chậm nhất là Thanh Trì, tổng diện tích năm 2001 tăng 161,5 ha so với năm 2000 và năm 2002 tăng 399 ha so với năm 2000
Nếu so sánh với số liệu thống kê về cây ăn quả của cục thống kê Hà Nội thì trong 3 năm qua ở các huyện ngoại thành đã có phong trào trồng cây ăn quả khá nhanh, đặc biệt trên địa bàn hai huyện có quỹ đất lớn là Đông Anh và Sóc Sơn
Cơ cấu diện tích của 10 loại cây ăn quả chính được trồng ở địa bàn ngoại thành Hà Nội như sau:
Tỷ lệ (%)
III. Các loại cây ăn quả khác
10. Na dai
9. Hồng
8. Đu đủ
7. Táo
6. Chuối
Tỷ lệ (%)
II. Các loại cây ăn quả phụ
5. Nhãn
4. Vải thiều
3. Hồng Xiêm
2. Cam, quýt
1. Bưởi
Tỷ lệ (%)
I. Các loại cây ăn quả chính
Tổng số
Các loại cây ăn quả
1,060
3,700
3,300
1,200
3,500
99,20
23,30
37,39
130,5
68,40
12,10
60,40
31,70
42,20
61,55
214,8
349,0
2000
Từ Liêm
Biểu 9:Diện tích các loại cây ăn quả ở ngoại thành Hà Nội (đơn vị: ha)
1,350
5,000
4,000
2,000
5,000
95,00
30,00
36,76
136,0
68,00
13,00
61,00
32,00
55,00
61,80
229,0
370,0
2001
1,760
7,000
4,000
3,000
8,000
64,00
45,00
31,16
124,0
68,00
14,00
65,00
37,00
80,00
67,09
267,0
398,0
2002
1,490
3,100
2,900
0,700
2,500
12,40
48,60
32,31
67,10
67,50
3,400
46,80
2,700
17,10
66,20
137,5
207,7
2000
Thanh Trì
2,300
5,000
3,000
12,00
51,00
30,41
66,00
70,00
4,300
50,00
2,700
19,00
67,28
146,0
217,0
2001
2,44
6,000
4,000
15,00
53,00
29,33
72,00
75,00
9,000
56,50
3,000
26,00
69,04
169,5
245,5
2002
1,410
6,500
2,900
3,700
4,100
50,20
60,90
26,44
121,8
219,7
7,800
46,30
13,90
44,70
72,15
332,4
460,7
2000
Gia Lâm
1,430
7,000
3,000
4,000
5,000
56,40
67,00
27,69
135,4
225,3
9,800
47,00
14,5._.ất ra các loại quả mà còn khai thác tổng hợp các thế mạnh khác của vùng kinh tế ngoại thành, kinh tế ven đô, đó là giá trị về sinh thái, văn hoá du lịch và tạo cảnh quan môi trường. Nó không những hoà quyện, phù hợp với tổng thể qua hoạch, không gian đô thị của Hà Nội, mà còn phải góp phần làm đẹp hơn cho ngoại thành bằng các vườn cây ăn quả gắn với các công trình lịch sử, văn hoá, các làng nghề, các khu du lịch, vui chơi, giải trí cho người dân Hà nội.
-Phấn đấu đến năm 2010; cây ăn quả các loại đạt diện tích 5800 ha ( hiện có 3137 ha ), sản lượng đạt 53.049 tấn.
Biểu 17: Dự kiến phân bố biến đồ phát triển cây ăn quả ở ngoại thành Hà Nội (phương án 1)
Tỷ lệ ( % )
III. Các CAQ khác
10. Na dai
9. Hồng
8. Đu đủ
7. Táo
6. Chuối
Tỷ lệ ( % )
II. Các CAQ phụ
5. Nhãn
4. Vải
TĐ: Hồng xiêm Xđ
3. Hồng xiêm: DT
TĐ: Cam Canh
2. Cam , quýt: DT
TĐ: Bưởi Diễn
1. Bưởi: Tổng DT
Tỷ lệ ( % )
I. Các CAQ chính
Dự kiến quy mô cơ cấu các loại CAQ
Các chỉ tiêu
2,30
5
3
12
51
30,41
66,0
70
4,3
50
50
1
2,7
4,9
19
67,28
146
217
2001
Thanh Trì
4,27
12
4
16
61
28,83
81,0
80
10
60
60
3
22,0
35
66,90
188
281
2005
5,0
20
5
20
81
26,50
106,0
100
25
70
70
4
60,0
75
68,50
274
400
2010
1,35
5
4,0
2
5
95
30
36,37
136,0
68
13
61
61
31
32
53,5
55
61,89
229
370
2001
Từ Liêm
2,14
10
4,0
3
8
49
40
26,50
124,0
68
14
65
65
34
37
125,0
150
71,37
334
468
2005
2,50
15
5,0
5
10
60
50
21,67
130,0
70
15
70
70
40
50
230,0
250
75,83
455
600
2010
1,43
7
3,0
4
5
56,4
67
27,69
135,4
225,3
9,8
47
47
11
14,5
7,4
50
70,88
346,6
489
2001
Gia Lâm
4,64
30
7,0
6
20
75
80
29,10
188,0
250,6
14,5
55
55
13
17,9
46,0
90
66,25
428
646
2005
6,67
60
10,0
20
30
90
120
30,00
270,0
300
30
70
70
15
20
100,0
150
63,33
570
900
2010
1,44
12,5
20,0
3
12
58,9
68
18,70
161,9
326,3
60,8
65
65
20,3
24,5
26,2
215
79,86
691,6
866
2001
Đông Anh
1,72
18
25,0
6
35
70
70
19,6
206,0
330
100
85
85
20,5
25
162,0
285
78,65
825
1049
2005
2,2
30
35,0
15
60
85
85
20,74
280,0
330
160
120
120
25
30
350
400
77,04
1040
1350
2010
1,30
15,5
73,0
11
35
52,7
464
53,20
635,7
154
232,1
25,7
25,7
14,3
31,6
17,1
100,4
45,51
543,8
1195
2001
Sóc Sơn
1,56
27,1
125,0
75
60
65
434
43,72
759,0
200
426,5
52
52
25,6
41,4
145,1
230
54,72
949,9
1736
2005
1,96
50
180,0
230
90
70
399
38,00
969,0
300
675
80
80
50
76
300,0
400
60,04
1531
2550
2010
4. Mục tiêu phát triển
Dự kiến quy mô diện tích cây ăn quả đến năm 2010 đạt từ 5800 - 6000 ha trong đó các loại cây ăn quả đặc sản, cây có giá trị kinh tế cao, có tán xanh quanh năm chiếm từ 70 - 80% tổng diện tích cây ăn quả.
Biểu 18: Diện tích và cơ cấu các loai cây ăn quả tới năm 2010
Hạng mục
Phương án 1
Phương án 2
Diện tích( ha)
Cơ cấu(%)
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Tổng diện tích
5800
100
10.000
100
Các loại cây chính
3.870
66,7
8.020
80,2
Bưởi
TĐ: bưởi Diễn
1275
1040
22,0
17,9
1625
1365
20,3
16,9
Cam
180
3,1
395
4,9
Hồng xiêm Xuân Đỉnh
410
7,1
515
6,4
Vải thiều
905
15,6
2.675
33,4
Nhãn lồng
1.100
19,6
2.810
35,0
Các cây ăn quả khác
1.930
33,3
1.980
29,8
- Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân của giá trị sản xuất cây ăn quả từ 10 - 15%/ năm trong đó xác định mục tiêu tăng nhanh về quy mô sản xuất cây ăn quả ở địa bàn gò đồi cao của hai huyện Đông Anh và Sóc Sơn.
- Dự kiến sản lượng quả thương phẩm đến năm 2010 đạt từ 50.000 - 71.000 tấn và khi định hình toàn bộ diện tích sản lượng có thể đạt 75.000 - 100.000 tấn, đáp ứng khoảng 25 - 35% nhu cầu về quả cho nhân dân Thủ đô.
-Giá trị sản lượng quả ước đạt: 250 - 360 tỷ đồng, đạt giá trị kinh tế cao, ổn định trên đơn vị diện tích ước tính từ 75 - 85 triệu đồng/ha, sử dụng có hiệu quả lao động nông nghiệp và nâng cao đời sống của hộ nông dân.
Biểu 19: Tổng hợp diện tích-năng suất-giá trị sản lượng các loại cây ăn quả đến năm 2010 ngoại thành Hà Nội.
Hạng mục
Diện tích
(ha)
Sản lượng
(tấn)
NS
TB
Tạ/ha
Giá trị sản phẩm
(Triệu đồng)
2001
2005
2010
2001
2005
2010
2001
2005
2010
Tổng số: KD
2802,5
3057,3
4185
37226
42597
53049
136.441
165.798
219.702
Cam canh
74,6
76,3
90
677,85
762,75
813
65,54
13.557
15.255
16.260
Cam khác
25
23,2
26
251,5
234,05
255,25
65,94
1.258
1.170
1.276
Bưởi
330,3
261,9
194
4336,9
4138,6
3221
93,61
6.505
6.208
4.832
Bưởi diễn
72,1
188
635
946,4
2211,6
6755,5
100,18
5.678
13.269
40.533
Hồng xiêm
234,5
252
320
2754
3048
3571,5
82,08
11.016
12.192
14.256
Vải
279,6
348,5
590
1444,6
2232,2
3295
45,38
11.557
17.858
26.360
Nhãn
813,6
776,6
845
3823
4465,3
4595
37,21
34.408
40.188
41.355
Chuối
545
546
590
16350
16380
17700
300
32.700
32.760
35.400
Táo
243
265
283
3645
3975
4245
150
9.113
9.938
10.613
đu đủ
57
120
185
1425
3000
4625
250
3.563
7.500
11.563
Hồng
12,6
34,6
135
75,6
182,5
626
44,37
378
913
3.130
Na dai
76,5
100,2
160
1109,3
1317,5
2026,7
99,32
5.547
6.588
10.134
Cây ăn quả khác
38,7
65
132
387
650
1320
100
1.161
1.950
3.960
II.Một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất cây ăn quả ở Hà Nội
Để phát triển nhanh và có hiệu quả sản xuất cây ăn quả trong quá trình xây dựng một nền nông nghiệp bền vững, các giải pháp phải phù hợp với điều kiện của vùng và khả năng thực hiện của nông dân.
1. Các giải pháp về tổ chức sản xuất.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ độc canh sang phát triển sản xuất hàng hoá là quá trình biến đổi lớn của vùng. Các giải pháp về tổ chức sản xuất có tầm quan trọng hàng đầu. Bởi vì trong mọi quá trình biến đổi hoạt động sản xuất, con người là yếu tố quyết định. Tổ chức sản xuất hợp lý sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện các giải pháp khoa học kỹ thuật và công nghệ mới.
1.1 Quy hoạch phát triển cây ăn quả.
Hiện nay, phong trào trồng cây ăn quả đang ngày càng sôi động ở nhiều tỉnh trong cả nước nói chung và ở Hà Nội nói riêng, như một thời cơ phát triển mới. Vào thời điểm này, công tác quy hoạch tổng thể nông nghiệp của vùng - trong đó có việc xác định vùng trồng cây ăn quả khác nhau phù hợp sinh thái, phù hợp cơ cấu cây trồng tương lai là rất quan trọng. Bởi vì cây ăn quả, nhất là các cây ăn quả lâu năm đòi hỏi sự đầu tư lớn và phải hợp lý ngay từ đầu mới đem lại hiệu quả lâu dài. Nếu không được tổ chức sản xuất một cách hợp lý và có hệ thống thì sẽ rơi vào tình trạng tự phát của nông dân theo lối sản xuất nhỏ, không tạo được những sản phẩm hàng hoá theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Nhất là hiện nay, ruộng đất đã được giao cho hộ gia đình nông dân sử dụng lâu dài, càng cần phải có quy hoạch chung và định hướng của Nhà nước. Bởi vì:
+ Từng hộ nông dân thiếu thông tin và dự báo thị trường.
+ Muốn tiêu thụ được nhiều sản phẩm và ổn định phải có sự tổ chức tiêu thụ của Nhà nước và các doanh nghiệp kể cả nội tiêu, chế biến và xuất khẩu.
+ Muốn cây ăn quả có năng suất cao, chất lượng tốt, đạt tiêu chuẩn hàng hoá cao, nông dân cần sự giúp đỡ và hướng dẫn của các cơ quan khoa học kỹ thuật về giống, kỹ thuật tiến bộ trong trồng trọt, phòng trừ sâu bệnh, thu hái, bảo quản...
1.2 Hình thành và phát triển một số vùng sản xuất cây ăn quả tập trung, thâm canh cao có tỉ suất hàng hoá lớn.
Trên thế giới, những nước có ngành sản xuất cây ăn quả phát triển cao đều đi theo hướng sản xuất hàng hoá. ở các nước phát triển nghề trồng cây ăn quả coi như công nghiệp đầu tư cao và kỹ thuật hiện đại, ngày càng đạt những tiêu chuẩn cao của hàng hoá theo yêu cầu của thị trường. ở các nước đang phát triển, các loại quả có khối lượng xuất khẩu lớn trên thị trường quốc tế như chuối của Philippin, dứa của Thái Lan... cũng được đầu tư và sản xuất có hệ thống đồng bộ giữa trồng trọt - thu hoạch - chế biến - tiêu thụ theo lối sản xuất hàng hoá.
Đối với các nông sản khô như: gạo, lạc, đỗ tương, ngô, hồ tiêu... từng hộ nông dân có thể tự sản xuất mà vẫn có thể đạt tỷ lệ hàng hoá cao, kể cả hàng xuất khẩu. Nhưng với các loại quả thì giữa nông sản và hàng hoá nhiều khi có sự khác biệt rất lớn về khối lượng, chất lượng... Ví dụ: chuối, những năm qua cả nước ta đã đạt sản lượng trên 1 triệu tấn/ năm, nhưng khối lượng xuất khẩu tươi chỉ xoay quanh vài chục ngàn tấn/năm. Hoặc cam, quýt, xoài, chôm chôm, vải... cũng có hiện tượng tương tự. Như vậy, từng hộ nông dân có thể sản xuất ra các loại quả như các nông sản khác. Nhưng không phải tất cả khối lượng quả ấy có thể trở thành hàng hoá đem đi tiêu thụ ở tỉnh khác hoặc chế biến, xuất khẩu. Bởi vì một loại nông sản muốn trở thành hàng hoá, nhất là hàng hoá xuất khẩu cần phải:
+ Có chất lượng bên trong, mẫu mã bên ngoài phù hợp với thị hiếu của khách hàng.
+ Có đủ khối lượng và đúng thời gian giao hàng để phù hợp với lịch vận chuyển của tàu hoặc khả năng chế biến của nhà máy.
+ Có giá cả mà thị trường chấp nhận.
Để đáp ứng 3 yêu cầu trên, hộ nông dân không những phải tuân thủ những yêu cầu kỹ thuật trong sản xuất ( giống, thời vụ gieo trồng, thu hoạch, kỹ thuật thu hái, đóng gói...) mà còn phải thực hiện đúng hợp đồng. Nếu như đến vụ thu hoạch có đủ khối lượng sản phẩm nhưng nông dân lại không giao hàng cho chủ ký hợp đồng lại bán cho khách hàng với giá cao hơn thì hợp đồng sẽ bị phá vỡ. Hậu quả là năm sau sẽ không ký được hợp đồng để có thể tiêu thụ ổn định, vì mất tín nhiệm với khách hàng đã ký. Lối sản xuất như vậy không phải là sản xuất hàng hoá. Những năm qua ngành rau quả đã gặp nhiều trường hợp như vậy.
Trong khi đó, ở các nước có khối lượng xuất khẩu rau quả lớn, cũng đều do các chủ hộ nông dân sản xuất trên các trang trại. Quy mô trang trại ở các nước có khi tới vài chục ha hoặc hàng ngàn ha. Nhưng cũng có trường hợp quy mô nhỏ như ở Nhật Bản (trung bình 1,3 ha/hộ). Vậy, vấn đề chính không phải là quy mô trang trại, mà là nhận thức của chủ hộ.
Từ sản xuất nhỏ, tự túc tự cấp là chính, lại trải qua một thời kỳ dài trong cơ chế bao cấp, nông dân ngoại thành Hà Nội chuyển sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, là cả một quá trình đổi mới nhận thức. Nhất là xuất phát điểm từ chỗ tiềm lực vốn của gia đình có hạn, tâm lý sợ rủi ro của nông dân, ảnh hưởng lớn đến tính mạnh dạn trong kinh doanh.
Chính vì vậy, để có thể từng bước phát triển sản xuất cây ăn quả thành hàng hoá cần có bước đi thích hợp. Trong quá trình này không thể thiếu định hướng của Nhà nước và sự tham gia của các cơ quan khoa học - kỹ thuật, cùng với việc thu hút vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước theo hướng sau đây:
- ưu tiên phát triển các cây ăn quả hàng hoá chủ lực cho nội tiêu và xuất khẩu ( chuối, nhãn, dứa, vải ), xây dựng thành các vùng tập trung sản xuất hàng hoá có tính đồng bộ giữa sản xuất và tiêu thụ. Đồng thời tạo điều kiện cho các cây ăn quả phục vụ tiêu dùng trong vùng là chính ( cam, quýt, bưởi, hồng xiêm, hồng, đu đủ, na...).
- Tập trung đầu tư vốn, kỹ thuật tiến bộ cho các vùng tập trung cây ăn quả hàng hoá, nhưng trên cơ sở các dự án khả thi. Trước hết nên xây dựng 1 - 2 vùng làm mẫu để các nông hộ đăng ký thực hiện dự án quen dần với cách làm ăn mới.
- Với tầm nhìn cả nước, việc phát triển cây ăn quả ở vùng ngoại thành Hà Nội phải thống nhất với định hướng chung về phát triển cây ăn quả Việt Nam. Trong đó, việc phát triển các loại quả có khả năng trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn phải xuất phát từ quan điểm có tính chiến lược lâu dài của quốc gia, cũng như với các nông sản xuất khẩu khác như cao su, cà phê, lúa gạo,... Như vậy, ví dụ nếu định đưa nhãn, chuối, bưởi, vải của Hà Nội hoặc xoài, sầu riêng, thanh long... của Nam Bộ phát triển thành các mặt hàng xuất khẩu với khối lượng lớn thì đó không chỉ là việc riêng của các vùng trên mà còn là vấn đề chung của Việt Nam.
1.3 Tăng cường sự liên kết giữa các nhà khoa học, nông dân, doanh nghiệp và nhà nước để phát triển sản xuất cây ăn quả
ở tầm vĩ mô, tác động của Nhà nước sẽ thúc đẩy cây ăn quả phát triển đúng hướng và có hiệu quả lâu dài. Hướng tác động chủ yếu là:
- Đối với các dự án khả thi, sau khi duyệt:
+ Xét miễn giảm thuế nông nghiệp cho các vùng đất mới chuyển sang trồng cây ăn quả trong 3 - 4 năm đầu chưa có sản phẩm chính.
+ Có chính sách cho các nông hộ thực hiện dự án được trực tiếp vay vốn lãi suất thấp tại ngân hàng để đầu tư cơ bản ban đầu cho khâu chuyển đổi sang cây ăn quả.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho các nông hộ được vay vốn lưu động của ngân hàng, để thực hiện hợp đồng sản xuất quả xuất khẩu với các doanh nghiệp, bằng các phương thức đảm bảo an toàn vốn của các bên.
- Nhà nước quan tâm đầu tư tài chính cho:
+ Trang thiết bị, chi phí nghiên cứu khoa học kỹ thuật và đào tạo cán bộ của các viện, trường đại học, nhằm tập trung nghiên cứu giải quyết các khâu trọng yếu như: giống cây ăn quả, phòng trừ sâu bệnh, kỹ thuật thâm canh, xử lý sau thu hoạch, bảo quản quả tươi... Cần thu hút vốn của các doanh nghiệp tham gia đầu tư vào công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
+ Công tác khuyến nông và hoạt động của hội làm vườn nhằm: chuyển giao kỹ thuật tiến bộ, hướng dẫn nông hộ đi vào sản xuất quả hàng hoá... bằng nhiều hình thức như: mô hình trình diễn, mở lớp huấn luyện, phổ cập đại chúng, phối hợp với chương trình của các trường học...
+ Hỗ trợ kinh phí cho việc lập các trung tâm nhân giống của vùng, sản xuất giống cây ăn quả chất lượng cao và an toàn sâu bệnh để cung cấp cho sản xuất đại trà. Giống gốc của các trung tâm phải được cung cấp từ các viện nghiên cứu của Nhà nước trên cơ sở các giống đã được công nhận và cho phép đưa vào sản xuất. Tiến tới ban hành quy chế về sản xuất và cung cấp giống cây ăn quả. Mọi tổ chức tập thể, tư nhân kinh doanh giống cây ăn quả phải đăng ký chất lượng. Chỉ cho phép các nguồn giống đã có giấy phép kiểm tra chất lượng được lưu thông trên thị trường.
- Để thúc đẩy lưu thông tiêu thụ quả nội tiêu, Nhà nước có thể xem xét cho mở một số chợ bán buôn quả ở các điểm thích hợp trong vùng. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia đầu tư với các hình thức như: đấu thầu, cổ phần... nộp thuế cho Nhà nước theo luật định.
- Đầu tư đổi mới thiết bị, hiện đại hoá các nhà máy chế biến rau quả hiện có. Khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào xây dựng các vùng quả hàng hoá tập trung, các cơ sở bao bì, đóng gói, các nhà máy chế biến quả mới.
- Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi về thị trường thông qua các hiệp định thương mại, thuế quan với các nước nhập khẩu rau quả của Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp của ta và của các nước hoạt động.
2. Các giải pháp về khoa học - công nghệ.
Cơ sở định hướng cho các giải pháp khoa học - công nghệ nhằm phát triển cây ăn quả trong thời gian tới xuất phát từ những quan điểm về CNH - HĐH đất nước được nêu trong các văn kiện của các hội nghị của BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá 7: “ Từ nay đến cuối thập kỷ phải rất quan tâm đến CNH - HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản”; “nông nghiệp phải quy vùng tập trung chuyên canh, đưa công nghệ mới đặc biệt là công nghệ sinh học vào sản xuất, tạo ra nguồn nguyên liệu lớn, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến hiện đại...”.
Khác với rau và các cây ngắn ngày, cây ăn quả phần lớn là cây lâu năm hoặc 4 - 5 năm. Do vậy để phát triển cây ăn quả vùng ngoại thành Hà Nội theo hướng CNH - HĐH nông nghiệp, phải kết hợp cả những kết quả nghiên cứu trong nước và chọn lựa ứng dụng các thành quả khoa học kỹ thuật của nước ngoài mới có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất. Hiện nay trình độ sản xuất cây ăn quả của ta nói chung còn thấp, nên phải “tận dụng lợi thế của nước đi sau” trong việc vận dụng kinh nghiệm và khoa học - công nghệ tiến bộ của thế giới, nhanh chóng theo kịp trình độ các nước trong khu vực.
2.1 Về giống.
- Song song với công tác điều tra, sưu tập tập đoàn quỹ gen cây ăn quả, phải tập trung trong một số năm nhất định, sớm xác định danh mục các giống cây ăn quả thích hợp nhất là giống cho các vùng quả tập trung sản xuất hàng hoá và xuất khẩu.
- Tiến hành 3 hướng giải quyết giống: tuyển chọn giống đã có, tạo giống mới và nhập các giống tốt của nước ngoài. Từ 3 nguồn này, trồng khảo nghiệm với kỹ thuật chăm sóc tối ưu để rút ngắn thời gian, đánh giá, sớm có kết luận các giống thích hợp.
- Phổ cập kỹ thuật ghép thay cho kỹ thuật triết cổ truyền để tiết kiệm vật liệu nhân giống, nhất là đối với các giống quý đặc sản như vải, nhãn, hồng... loại bỏ cách trồng bằng hạt. Sớm xác định các cây gốc ghép cho các cây ăn quả lâu năm để phổ biến vào sản xuất. Nghiên cứu sử dụng kỹ thuật dâm cành đối với một số cây ở vùng thích hợp.
Sơ đồ hệ thống cung cấp giống cây ăn quả.
Giống tuyển chọn và mới tạo
Giống ngoại nhập đã khảo nghiệm
Các giống được công nhận đưa ra sản xuất
Vườn nhân nhanh và xét nghiệm bệnh
Vườn ươm sản xuất cây giống
Vườn cây ăn quả trồng mới
Xét duyệt của hội đồng giống của Bộ
Kiểm tra chất lượng của cơ quan chuyên môn
Các viện và cơ
quan nghiên cứu
Các trung tâm giống
cây ăn quả của tỉnh
Các hộ đăng ký sản xuất
kinh doanh giống
Nông hộ trồng cây ăn
2.2. Kỹ thuật trồng cây ăn quả
Tổng kết và phổ biến các mô hình thiết kế vườn cây ăn quả thích hợp sinh thái của từng vùng, kết hợp với cây ngắn ngày
-Nghiên cứu ứng dụng các kỹ thuật có hiệu quả cao trong nghề làm vườn phổ biến cho nông dân trồng cây ăn quả theo hướng thâm canh cao như:
* kỹ thuật trồng mật độ dày đối với cây ăn quả lâu năm,nhất là vùng đất kém phì nhiêu để sớm thu hồi vốn và có lợi nhuận cao. Bố trí khoảng cách hợp lý tuỳ loại cây, tuỳ vùng để sau khi cây giao tán có thể chặt tỉa giảm mật độ cho phù hợp.
*kỹ thuật bón phân: chuyển sang sử dụng phân NPK tổng hợp + vi lượng. Đặt hàng cho các nhà máy phân bón sản xuất các loại phân tổng hợpvới công thức phối hợp khác nhau cho từng loại cây. Nghiên cứu và phổ biến cho nông dân các chất điều hoà sinh trưởng nhằm tăng năng suất, chất lượng và các vụ thu hoạch các loại quả.
*Tưới nước: Đưa dần biện pháp tưới nước cho cây ăn quả trở thành tập quán sản xuất, nhất là các vùng đất cao, gò đồi. Kết hợp với tỉa gốc trong mùa khô , trồng cây phủ đất, giữ ấm và chống xói mòn.
* Đốn tỉa cây ăn quả : là biện pháp hết sức quan trọng, có tác dụng rất lớn trong việc điều khiển sinh trưởng phát triển của cây, đây là một biện pháp có ý nghĩa giai đoạn việc ra hoa đậu quả năm sau. Do vậy, cần phải tranh thủ vận dụng đốn tỉa cây ăn quả trong và ngoài nước kể cả việc tìm kiếm các bí quyết nhà nghề để phổ biến rộng cho nhiều người áp dụng.
2.3 Thu hoạch và bảo quản và chế biến sản phẩm.
* Một phần đáng kể sản lượng cây ăn quả bị mất do hư thối sau thu hoạch. Đối với nền sản xuất hàng hoá, đây là khâu có ý nghĩa kinh tế lớn. Do vậy cần cải tạo một chuyển biến mới trong khâu này với các biện pháp như:
+ Hướng dẫn cho nông hộ cách thu hái quả: đúng độ chín của quả, bằng dụng cụ thích hợp, xếp đỡ nhẹ nhàng, tránh mưa nắng, cách bảo quản thông thường trong gia đình .
+ Tổ chức tốt mạng lưới tiêu thụ để giảm hư hao qua các khâu trung gian.
+ Đối với các vùng quả tập trung sản xuất hàng hoá xuất khẩu và cả hàng hoá lưu động nội địa: cần khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xử lý và đóng gói quả sau thu hoạch. Các nhà đóng gói này cần đặt ngay tại vùng sản xuất, càng gần vườn cây càng tốt. Bước đầu các nhà này có thể chưa hiện đại về xây lắp và thiết bị tự động, nhưng vẫn có thể thực hiện các quy trình công nghệ xử lý, đóng gói quả bằng lao động thủ công.
* Chế biến sản phẩm cây ăn quả : nhất là bằng phương pháp công nghiệp sẽ làm cho chất lượng và giấ trị của sản phẩm cây ăn quả tăng gấp nhiều lần, nhờ đó nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm cây ăn quả trên thị trường trong nước và ngoài nước. Góp phần đẩy mạnh sự phân công và hợp tác trong việc sản xuất và xuất khẩu sản phẩm cây ăn quả.
3. Giải pháp về tiêu thụ sản phẩm.
Mặc dù thời gian gần đây đời sống nông thôn đã phần nào được cải thiện, nhưng mức thu nhập của nông dân vẫn còn thấp và bấp bênh, người trồng cây ăn quả vẫn ở trong tình trạng chấp nhận may rủi và thị trường tiêu thụ hạn hẹp và không ổn định, giá bán sản phẩm giữa các mùa chênh lệch nhau. Vì vậy để hỗ trợ cho người dân có thu nhập ổn định và ngày càng tăng, cần có các giải pháp sau:
Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hoa quả, việc giữ cho sản phẩm tươi lâu cũng là vấn đề hết sức quan trọng để giữ được chất lượng và làm tăng giá trị sản phẩm hoa quả. Đây là vấn đề được nhiều người, cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng quan tâm, nhưng tới nay vẫn chưa giải quyết được, đòi hỏi các nhà khoa học cân tập trung nghiên cứu để có giải pháp hữu hiệu.
Mở các dịch vụ sản xuất, chế biến, sơ chế sản phẩm hoa quả bằng những hình thức như sản xuất rượu hoa quả, hoa quả đóng hộp... vì các loại hoa quả là loại sản phẩm có tính thời vụ tập trung cao vào một thời gian ngắn nên việc chế biến hoa quả có tầm quan trọng đặc biệt, nó phần làm tăng giá trị sản phẩm hàng hoá do không bị ép giá, đồng thời làm cho thời gian tiêu thụ không bị ứ đọng, ùn tắc. Mặt khác, khi sản phẩm đã qua chế biến thì có khả năng vận chuyển nhiều, đưa được tới các vùng xa, cả nội thành và các khu vực khác.
Bằng mọi cách, các cấp chính quyền phải giữ nghiêm trật tự thị trường, chống mọi hành vi gây rối và gây phiền hà cho người mua và người bán, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân yên tâm đến tiêu thụ và chế biến hoa quả tại các địa phương trong huyện.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân ở địa phương khác và huyện thu mua sản phẩm mở các dịch vụ sản xuất, sơ chế và chế biến hoa quả. Đề nghị thành phố đầu tư vốn xây dựng nhà máy chế biến hoa quả quy mô lớn, giúp các huyện tìm kiếm, mở thị trường tiêu thụ sản phẩm hoa quả tươi và sản phẩm đã chế biến.
Nghiên cứu, thành lập các tổ chức tìm kiếm và mở rộng thị trường ở các khu vực khác, tiến hành dự báo thị trường, mở các hình thức thông tin kinh tế phù hợp để tăng khả năng tiếp thị của nhân dân. Nghiên cứu xây dựng chiến lược thị trường để có quyết định đúng đắn cho nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá.
4. Đổi mới hoàn thiện chính sách
4.1 Chính sách đất đai
Hiện nay tốc độ đô thị hoá nông thôn Hà Nội cũng như toàn thành phố diễn ra với tốc độ rất nhanh, thành phố cần phải có chính sách sử dụng đất để quá trình đô thị hoá nông thôn không thu hẹp quá nhiều đất nông nghiệp, vì vậy có thể nói vùng ngoại thành Hà Nội là vành đai lương thực, thực phẩm vững chắc của Thủ đô Hà Nội.
Đến năm 2005, diện tích đất nông nghiệp giảm còn 38.370 ha. Đến năm 2010 diện tích đất nông nghiệp còn lại 27.000 ha. Việc chuyển đất nông nghiệp vào mục đích khác sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của hộ nông dân vì quá trình chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ ở ngoại thành hiện nay còn chậm. Cho nên cùng với dự kiến của thành phố về mục đích sử dụng đất, các thẩm quyền cần phân bố lại cho các hộ nông dân. Hiện nay có hộ nằm trong khu vực quy hoạch của thành phố.
Giải quyết nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân, tạo cho hộ nông dân thực sự yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, ngăn ngừa việc tranh chấp đất xảy ra, đồng thời đẩy mạnh tốc độ giao đất.
Thành phố sớm ban hành các văn bản dưới Luật liên quan đến quyền sử dụng đất, quyền chuyển nhượng, quyền chuyển đổi, quyền thế chấp và cho thuê. Góp phần tăng cường sự vận động của ruộng đất, sử dụng có hiệu quả ruộng đất, tích cực tìm mọi biện pháp ủng hộ nông dân đầu tư khai thác những diện tích đất hiện nay không phù hợp với sản xuất nông nghiệp như gò đồi hoang tạp, vùng trũng có độ pH cao.
Tạo điều kiện thuận lợi cho người đã được giao quyền sử dụng đất nhưng lại không sống bằng nghề nông nghiệp mà bằng nghề khác có thu nhập cao hơn để chuyển nhượng cho người nông dân khác.
Phải có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với việc sử dụng 5% quỹ công.
Tạo điều kiện để nông dân có thể tích tụ và tập trung ruộng đất, xoá bỏ thực trạng ruộng đất manh mún và rải rác như hiện nay.
Đối với từng vùng đất, loại đất cụ thể thì phải có cách hướng dẫn bà con trồng loại cây phù hợp.
Trên đây là một số giải pháp chủ yếu về ruộng đất, tuy nhiên trong quá trình thực hiện thành phố cần lưu ý vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái chung của toàn vùng. Cần sử dụng để đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.
4.2 Giải pháp về vốn
Để thực hiện tốt việc xây dựng vùng cây ăn quả ở ngoại thành Hà Nội thì chính sách đầu tư vốn, tạo vốn là chính sách không thể thiếu được. Để có vốn, các địa phương phải huy động từ nhiều nguồn vốn như: vốn viện trợ của các tổ chức quốc tế cho các chương trình dự án như tổ chức FAM..., vốn của các chương trình dự án quốc gia như dự án 327, quỹ quốc gia giải quyết việc làm, ngân hàng phục vụ người nghèo, thông qua các tổ chức, đoàn thể giúp nhau về vốn.
Trước hết cần đầu tư vốn hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn như: làm và nâng cấp đường giao thông, xây dựng, tu sửa, kiên cố hoá mạng lưới thuỷ lợi để tạo điều kiện thâm canh cây trồng và giao lưu hàng hoá.
Hỗ trợ vốn để chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào trồng cây ăn quả đặc sản đến từng hộ nông dân trong địa bàn huyện.
Cần mở rộng nguồn vốn và tín dụng, cho vay đến tận các xã để tạo điều kiện cho người sản xuất đỡ phải đi lại và thuận lợi cho công tác thẩm định và bảo toàn vốn.
Khai thác nhưng phải hướng dẫn cho người sản xuất sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho vay, tránh những trường hợp sử dụng vốn không đúng mục đích gây lãng phí vốn.
Trong đó phải chú ý cải cách thủ tục cho vay vốn, tránh phiền hà, rườm rà làm cho người sản xuất phải đi lại nhiều lần. Cần có chính sách cho vay vốn dài hạn, từ 3 năm trở lên vì đặc điểm của cây trồng lâu năm là thời hạn đầu tư xây dựng cơ bản dài, phải từ 3 năm trở lên mới cho thu hoạch. Đặc biệt là phải động viên nhân dân bỏ vốn tự có để đầu tư cho sản xuất, các tổ chức quần chúng phải tích cực phát động hội viên của mình và nhân dân tiết kiệm đầu tư cho sản xuất, vận động mọi người ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau với phương châm vùng thấp ủng hộ vùng cao, người giàu giúp đỡ người nghèo, người có nhiều giúp đỡ người có ít... Liên doanh liên kết để trồng cây ăn quả, qua đó tạo điều kiện cho tất cả mọi người đều có vốn đầu tư cho sản xuất.
Song vấn đề xuyên suốt giải pháp vốn là tinh thần tự lực cánh sinh, tiết kiệm chi tiêu để đầu tư phát triển, không được trông chờ, ỷ lại. Tinh thần này phải được thông suốt trong các cấp uỷ, cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân trong huyện.
4.3 Một số giải pháp khác
Hà Nội trong thời gian tới còn tiếp tục phát triển, mở rộng và xây dựng các khu công nghiệp mới, do đó nhu cầu quả và thị trường quả sẽ tăng lên để đáp ứng sự phát triển này. Tuy nhiên với khả năng của 5 huyện ngoại thành Hà Nội có thể phấn đấu để tự túc 1/3 - 1/2 lượng quả nhu cầu với các giải pháp sau:
-Tăng diện tích trồng cây ăn quả gấp 2 lần diện tích hiện có trên cơ sở cải tạo vườn tạp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp.
- Quy hoạch hình thành các vùng chuyên canh cây ăn quả để trên cơ sở đầu tư thuỷ lợi, vốn, giống, cơ sở hạ tầng phục vụ cho thâm canh và bảo quản sản phẩm quả.
- Xây dựng cơ sở giống và chọn lọc cây giống đầu dòng, trước hết với các cây đặc sản của Hà Nội, phục vụ cho việc phát triển cây ăn quả.
- Có chính sách, cơ chế phù hợp với quản lý, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đất đai và cho vay vốn phát triển sản xuất, có cơ chế chính sách tốt phù hợp cho các tư thương, công ty buôn bán và bảo quản quả tươi, xây dựng một mạng lưới buôn bán và thị trường hợp lý.
kết luận
Hà Nội là Thủ đô của cả nước, là trung tâm chính trị, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, có hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật và đội ngũ cán bộ khoa học hùng mạnh, người lao động có trình độ khá... tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất cây ăn quả theo hướng sản xuất hàng hoá, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực tế những năm gần đây, gắn liền với sự đổi mới về chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, Hà Nội đã thu được những kết quả đáng kể trong sản xuất nông nghiệp. Mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu kinh tế nhưng nông nghiệp Hà Nội vẫn là ngành có vị trí quan trọng, cung cấp khối lượng nông sản hàng hoá đáng kể cho nhu cầu thực phẩm của nội thành, giữ vững ổn định chính trị xã hội ở nông thôn ngoại thành, giữ cân bằng sinh thái trong quá trình đô thị hoá. Đặc biệt sự phát triển sản xuất cây ăn quả là phù hợp với nền sản xuất nông nghiệp ngoại thành, vừa tăng hiệu quả sử dụng đất, vừa cải tạo cảnh quan môi trường sinh thái đẹp, trong lành, vừa phát triển du lịch, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô.
Thị trường tiêu thụ quả của Hà Nội rộng lớn với đòi hỏi ngày càng cao cả về số lượng, chất lượng, chủng loại. Trong khi đó sản lượng quả của Hà Nội hiện tại mới chỉ đáp ứng 15 - 18% nhu cầu, phát triển cây ăn quả vùng ngoại thành Hà Nội nhằm đáp ứng một phần nhu cầu của thị trường Hà Nội. Bên cạnh đó, Hà Nội là đầu mối đi các tỉnh và một số nước có khả năng quan hệ cung - cầu các loại quả với Hà Nội, nên phát triển sản xuất cây ăn quả ở Hà Nội là một yêu cầu khách quan mang lại hiệu quả nhiều mặt về kinh tế - xã hội - môi trường, cảnh quan...
Đề tài được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo: Hoàng Văn Định và sự nỗ lực của bản thân cũng như sự giúp đỡ tạn tình hướng dẫn, chỉ bảo của cô chú cán bộ Viện Quy Hoạch và Thiết Kế Nông Nghiệp. Tuy nhiên do thời gian có hạn và thời gian thực tập ngắn nên chắc chắn đề tài còn nhiều hạn chế, em mong được sự đóng góp ý kiến thêm của thầy cô giáo và các bạn sinh viên.
tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế Nông nghiệp NXB Thống Kê năm 2002.
2. Giáo trình cây ăn quả- NXB Nông nghiệp Hà Nội 1996.
3. Thực trạng sản xuất và tiềm năng phát triển cây ăn quả ở ngoại thành Hà Nội.
4. Trồng cây ăn quả ở Việt Nam- NXB Nông nghiệp TP.HCM
5. Dự án phát triển cây ăn quả thành phố Hà Nội đến năm 2010
6. Tạp chí NN&PTNT số 3/2001.
7. Tạp chí kinh tế và phát triển số 55/2002.
8. Quy hoạch phát triển nông nghiệp của Hà nội
9. Quy hoạch phát triển KT-XH một số huyện ngoại thành Hà Nội
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0020.doc