Tài liệu Thực trạng & Giải pháp phát triển nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Quảng Ninh: LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Với cánh cửa của WTO ngày càng mở rộng khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này, thì đây là một điều kiện hết sức thuận lợi để Việt Nam phát triển nền kinh tế một cách toàn diện trong giai đoạn hội nhập. Gia nhập vào WTO chúng ta có rất nhiều cơ hội để phát triển kinh tế từ kinh tế nông nghiệp đến kinh tế ngoại thương. Trong điều kiện đó thì xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản cũng dễ dàng hơn vào thị trường các nước trên thế giới.
Trên thực tế... Ebook Thực trạng & Giải pháp phát triển nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Quảng Ninh
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1709 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp phát triển nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thì hiện nay Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với 75% dân cư sinh sống ở nông thôn và trên 75% lực lượng lao động xã hội làm việc trong khu vực này. Sự phát triển của nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế và sự ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Do vậy, khi gia nhập WTO nông nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển. Thuỷ sản cũng là một bộ phận của ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm nông - lâm - ngư nghiệp. Và có thể nói ngành thuỷ sản đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của nước ta.
Có một đặc điểm là nguồn lợi thuỷ sản mang tính tái tạo, tái sinh. Nhưng khi con người khai thác quá khả năng tái sinh thì nguồn lợi sẽ bị cạn kiệt. Trên thực tế hiện nay khi sản lượng thuỷ sản mà con người khai thác ngày càng bị suy giảm. Nếu như con người không tiến hành giải pháp khác thì nguy cơ cạn kiệt nguồn lợi là điều dễ dàng nhận thấy. Vì vậy, nuôi trồng thuỷ sản vừa nhằm mục đích phục vụ nhu cầu trong nước đồng thời xuất khẩu có thể nói là một giải pháp hữu hiệu trong giai đoạn phát triển hội nhập như hiện nay.
Quảng Ninh là một tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc Bộ, là một trong những địa phương của nước ta đựơc thiên nhiên ưu đãi về tiềm năng phát triển kinh tế thuỷ sản. Nếu than đá được coi là huyết mạch của nền kinh tế Quảng Ninh, thì việc khai thác, phát triển nguồn lợi hải sản tựa như khí trời, tiếp thêm nguồn sinh lực mới cho một vùng kinh tế đang khởi sắc. Cùng với ngành công nghiệp khai mỏ, ngành thuỷ sản đang phấn đấu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, nhất là nuôi thuỷ sản nước lợ và nuôi thuỷ sản biển. Với chiều dài bờ biển trên 250 km, diện tích vùng nội thủy rộng trên 6000 km2, có nhiều đảo lớn như Vĩnh Thực, Vĩnh Trung, Cái Chiên, Cái Bầu. Có vịnh Bãi Tử Long, vịnh Hạ Long - là di sản thiên nhiên thế giới. Biển Quảng Ninh có các yếu tố môi trường đặc trưng, biển lặng ít bị ảnh hưởng của gió bão, môi trường sạch, nước có độ muối cao, ổn định, độ trong lớn, nhiệt độ không xuống thấp thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của hầu hết các sinh vật. Chính vì lý do trên mà Đảng và chính phủ có chính sách phát triển kinh tế biển đảo, được Bộ Thuỷ sản, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ninh quan tâm chỉ đạo nhằm phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt là nuôi biển.
Các giải pháp mà tỉnh đưa ra đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản trong Tỉnh. Nó thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, giải quyết được vấn đề lao động và việc làm cho một bộ phận dân cư và hơn nữa là sự phát triển của ngành thuỷ sản đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế của toàn Tỉnh. Tuy nhiên, còn một số tồn tại như: Việc chỉ đạo, triển khai thực hiện một số chính sách hỗ trợ phát triển nuôi trồng còn chậm và chưa hoàn toàn được quan tâm đúng mức; việc xây dựng quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản tại các địa phương còn chậm. Nhiều địa phương khi đã có quy hoạch song việc giám sát thực hiện quy hoạch còn hạn chế, tình trạng cơ sở nuôi đào đắp ao, đầm chưa theo quy hoạch, không có thiết kế kỹ thuật vẫn diễn ra phổ biến. Diện tích nuôi thâm canh, bán thâm canh còn thấp so với tổng diện tích nuôi dẫn tới năng suất, sản lượng chưa cao; Chưa tạo được tính chủ động trong việc sản xuất giống cá biển và nhuyễn thể, hầu như chỉ dựa vào khai thác tự nhiên, nhập từ tỉnh ngoài, nước ngoài.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến vấn đề này bao gồm cả chủ quan và khách quan. Về chủ quan là do việc triển khai chính sách khuyến khích phát triển kinh tế thuỷ sản của nhà nước còn hạn chế: Công tác xây dựng và triển khai quy hoạch phát triển kinh tế thuỷ sản ở địa phương còn chậm..v.v. Nguyên nhân khách quan như: Thiếu đồng bộ trong cơ chế chính sách phát triển kinh tế thuỷ sản, cơ sở dịch vụ hậu cần chưa đáp ứng và theo kịp yêu cầu phát triển sản xuất; nguồn nhân lực chưa được quan tâm đào tạo, trình độ kỹ thuật của ngư dân còn thấp…
Chính vì những lý do trên nên em đã chọn đề tài: “ Thực trạng và giải pháp phát triển nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Quảng Ninh” làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
2.1. Mục đích.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là :
+ Hệ thống các vấn đề lý luận chung về ngành thuỷ sản và hoạt động nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Quảng Ninh.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động nuôi trồng thuỷ sản trong Tỉnh để tìm ra vấn đề cần giải quyết.
+ Đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nuôi trồng thuỷ sản của Tỉnh Quảng Ninh.
2.2. Nhiệm vụ.
+ Lựa chọn những vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
+Phân tích và đánh giá tình hình nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Quảng Ninh.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nuôi trồng thuỷ sản trong Tỉnh.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Tình hình nuôi trồng thuỷ sản trên cả ba lọai hình: nước ngọt, nước mặn, lợ, trong đó chú trọng đến hoạt động nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ của tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn từ năm 2003 - 2007.
Đánh giá hoạt động nuôi trồng thuỷ sản từ đó rút ra vấn đề và đưa ra biện pháp giải quyết nhằm phát triển hoạt động nuôi trồng thuỷ sản của Tỉnh.
4. Cấu trúc của luận văn.
Cấu trúc của luận văn ngoài phần mở đầu và phần kết luận, gồm 3 chương chính như sau:
Chương 1: Lý luận chung về ngành thủy sản và hoạt động nuôi trồng thuỷ sản.
Chương 2: Thực trạng hoạt động nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm mục đích phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Để hoàn thành khoá luận này em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các bác các bác, các chú, các anh, chị đang làm việc tại Sở thuỷ sản tỉnh Quảng Ninh và sự hướng dẫn nhiệt tình của thày Hoàng Văn Định. Em xin chân thành cảm ơn. Mặc dù đã có sự cố gắng hết sức mình nhưng chắc chắn vẫn không thể tránh được những thiếu sót, em mong được sự quan tâm và đóng góp ý kiến của mọi người.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÀNH THUỶ SẢN VÀ HOẠT ĐỘNG NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN.
I. Khái niệm, vị trí, đặc điểm của ngành thuỷ sản trong nền kinh tế.
1. Khái niệm ngành thuỷ sản.
Ngành thuỷ sản là một bộ phận nhỏ của ngành nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nông - lâm - ngư nghiệp. Ngành thuỷ sản được coi là ngành sản xuất dựa trên những khả năng tiềm tàng về sinh vật trong môi trường nước để sản xuất ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu không ngừng tăng lên của con người. Hoạt động thuỷ sản là việc tiến hành khai thác, nuôi trồng, vận chuyển, bảo quản, chế biến, mua bán, xuất khẩu, nhập khẩu thuỷ sản, dịch vụ trong hoạt động thuỷ sản, điều tra, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.
2. Vị trí và vai trò của ngành thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân.
Trên thực tế thì hiện nay Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp. Ngành thuỷ sản đóng một vai rò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của nước ta.Với lợi thế về điều kiện tự nhiên, được thiên nhiên ưu đãi nên nước ta có một tiềm năng lớn trong khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Việt Nam có một bờ biển dài hơn 3260 km với nhiều sông, ngòi, lạch, đầm phá thuận lợi cho cả nuôi thuỷ sản nước ngọt và nước mặn, lợ. Chính vì điều này mà qua nhiều năm phát triển ngành kinh tế thuỷ sản đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng bao gồm nhiều phân ngành: khai thác, nuôi trồng, chế biến, các ngành công nghiệp phụ trợ như công nghiệp đóng sửa tàu thuyền, cơ khí, dệt lưới, bao bì, kho tàng, vận chuyển.... Phát triển ngành thuỷ sản sẽ góp phần quan trọng trong tăng trưởng của toàn ngành nông nghiệp và toàn nền kinh tế nói chung.
Có thể nói rằng, các sản phẩm thuỷ sản là những sản phẩm bổ dưỡng, giàu đạm, dễ tiêu hoá, phù hợp với sinh lý dinh dưỡng ở mọi lứa tuổi, không chứa chất béo nên rất tốt cho cơ thể. Trong xã hội hiện đại, với cuộc sống tấp nập, xô bồ, người ta thường có thói quen ăn những đồ ăn nhanh. Những đồ ăn này không hề có lợi cho cơ thể. Vì vậy, một bữa ăn giàu đạm với cá, tôm và các loại hải sản khác bên cạnh gia đình và người thân thật sự là có ý nghĩa biết bao. Càng những nước có nền kinh tế phát triển, mức sống và thu nhập của người dân cao thì người ta thường hướng vào loại thực phẩm bổ dưỡng này.
Hơn thế nữa ngành thuỷ sản ngày càng có một vị trí đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết tại chỗ nhu cầu về thực phẩm của nhân dân với chất lượng cao, thu hút hàng vạn lao động dư thừa, nông nhàn ở nông thôn góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nông dân và làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Góp phần chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Ngành thuỷ sản có một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Bởi vì, ngành thuỷ sản cũng là một ngành sản xuất vật chất mà sản phẩm của nó là các sinh vật sống trong môi trường nước, đó là một trong những loại thực phẩm làm thức ăn phục vụ cho đời sống nhân dân. Do đó phát triển ngành thuỷ sản không những đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu thu được ngoại tệ cho đất nước.
Ngành thuỷ sản của nước ta đi lên từ nghề cá nhân dân, với những hình thức sơ khai buổi đầu là đánh bắt thuỷ sản nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu của chính bản thân ngư dân. Và ngày nay khi đất nước ta đã hoà mình vào nền kinh tế quốc tế thì ngành thuỷ sản cũng có nhiều cơ hội mới để phát triển, đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản. Ngành thuỷ sản phát triển thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của đất nước. Bởi vì xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường các nước trên thế giới, không những giúp ta thu được ngoại tệ cho đất nước mà hơn thế nữa nó sẽ mở ra một cơ hội cho đất nước hoà mình cùng nhịp điệu sôi động của thế giới, mở ra mối quan hệ hợp tác, giao lưu giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Có thể thấy rằng sự mở rộng quan hệ thương mại quốc tế của ngành thuỷ sản đã góp phần mở ra những con đường mới và mang lại nhiều bài học kinh nghiệm để nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào khu vực và trên thế giới.
3. Đặc điểm của ngành thuỷ sản.
Ngành thuỷ sản là một bộ phận của ngành nông nghiệp nên vừa có những đặc điểm chung của ngành nông nghiệp lại vừa mang những đặc điểm riêng biệt.
3.1. Ngành thuỷ sản là ngành sản xuất vật chất độc lập.
Ngành thuỷ sản là ngành sản xuất vật chất độc lập bởi những lý do sau:
+ Đối tượng sản xuất của ngành thuỷ sản là những sinh vật sống dưới nước. Nó khác hẳn với đối tượng sản xuất của ngành nông nghiệp là những cây, những con mà con người có thể chủ động trong việc nắm bắt được số lượng. Chính vì vậy mà đã gây khó khăn trong việc xác định trữ lượng thuỷ sản có trong một ao hồ hay một ngư trường.
+ Ngành nuôi trồng thuỷ sản có lực lượng chuyên môn hoá thể hiện đó là một nghề nhất định. Bởi vì do đối tượng sản xuất của ngành thuỷ sản quyết định đến tính chuyên môn hoá của lực lượng sản xuất. Nếu như trong hoạt động nuôi trồng thuỷ sản phải cần những lao động có đủ trình độ kỹ thuật để chăm sóc, nuôi dưỡng vật nuôi, kiểm soát dịch bệnh… Còn trong lĩnh vực chế biến thuỷ sản lại cần những lao động được đào tạo một cách bài bản để có thể nắm bắt được công nghệ chế biến.
+ Các loài sinh vật sống trong môi trường nước bị ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, khí hậu, dòng chảy, địa hình, độ mặn…tác động đến quá trình sinh trưởng và phát triển của chúng.
+ Nếu đất đai là tư liệu sản xuất của ngành trồng trọt thì thuỷ vực là tư liệu sản xuất của ngành thuỷ sản. Nó cũng là loại tư liệu sản xuất không thể thay thế được vì nếu không có thuỷ vực thì các sinh vật thuỷ sinh không thể tồn tại được. Thuỷ vực trong ngành thuỷ sản bao gồm: sông, ngòi, ao, hồ, mặt nước ruộng, cửa sông, biển… Tính chất của thuỷ vực cũng khác nhau phụ thuộc vào điều kiện địa lý của từng vùng, miền
3.2. Ngành thuỷ sản là ngành sản xuất vật chất có tính hỗn hợp và tính liên ngành cao.
Ngành thuỷ sản mang tính chất sản xuất hỗn hợp bởi cũng giống như ngành sản xuất nông nghiệp, đối tượng của ngành là các sinh vật sống trong môi trường nước có khả năng tái sinh tự nhiên. Chúng có chu kỳ tăng trưởng, chu kỳ sinh sản có môi trường sống riêng theo từng loài, đồng thời cũng có những hoạt động di trú theo mùa, theo thời tiết rất đa dạng và phong phú. Chính vì vậy đi đôi với việc khai thác các nguồn lợi tự nhiên thì cần phải nghiên cứu và thực hiện bảo vệ, duy trì tái tạo nguồn lợi.
Ngành thuỷ sản mang tính chất sản xuất vật chất phức tạp do đối tượng sau khi khai thác có tính chất mau hỏng, chất lượng và giá trị dinh dưỡng của sản phẩm sau khi đưa ra khỏi môi trường nước nhanh chóng bị giảm sút và biến đổi. Do vậy để tránh gây lãng phí trong sản xuất thì cần có một sự kết hợp chặt chẽ, liên hoàn từ khâu khai thác đến nuôi trồng, chế biến, kinh doanh tiêu thụ sản phẩm và đầu tư tái tạo nguồn lợi.
II. Vai trò,đặc điểm của hoạt động nuôi trồng thuỷ sản.
1. Khái niệm nuôi trồng thuỷ sản.
Nuôi trồng thuỷ sản là một bộ phận của ngành thuỷ sản. Nuôi trồng thuỷ sản ra đời cũng bắt nguồn từ nhu cầu của cuộc sống khi mà sản lượng khai thác thuỷ sản ngày càng có nguy cơ cạn kiệt. Nước ta có một tiềm năng to lớn để phát triển hoạt động nuôi trồng thuỷ sản.
Nuôi trồng thuỷ sản là một bộ phận sản xuất có tính nông nhiệp nhằm duy trì, bổ sung, tái tạo và phát triển nguồn lợi thuỷ sản. Nuôi trồng thuỷ sản nhằm mục đích cung cấp sản phẩm cho tiêu dùng của dân cư và cung cấp nguyên liệu cho hoạt đông chế biến thuỷ sản xuất khẩu.
2. Vai trò của nuôi trồng thuỷ sản.
2.1. Cung cấp thực phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cung cấp các sản phẩm thiết yếu cho nhu cầu của con người đó là lương thực, thực phẩm, đó là loại sản phẩm có vai trò đầu tiên quyết định mọi hoạt động của con người. Nếu không có sản phẩm này thì con người không thể tồn tại và phát triển được. Nuôi trồng thuỷ sản cũng là ngành sản xuất vật chất và cung cấp sản phẩm cho con người như cá, tôm, cua, ghẹ…những sản phẩm này cung cấp chất dinh dưỡng cho con người giúp con người có thể tạo ra các hoạt động trong xã hội. Xã hội ngày càng phát triển, đời sống của con người ngày càng nâng cao, thì nhu cầu của con người cũng ngày càng cao, người ta hướng đến những loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, bổ dưỡng và thuỷ sản là một trong những sản phẩm như thế.
2.2. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nuôi trồng thuỷ sản đóng góp một phần quan trọng trong tăng tưởng chung của ngành thuỷ sản và toàn ngành kinh tế nói chung. Đối tượng của nuôi trồng thuỷ sản là những sinh vật thông qua hoạt động chế biến chúng tạo thành những sản phẩm có giá trị dinh dưõng và giá trị kinh tế cao. Việc tiêu thụ những sản phẩm này trong nội địa hay xuất khẩu sang thế giới đều giúp cho nhà nước ta thu được lợi nhuận, góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng của toàn ngành kinh tế nói chung. Ngành thuỷ sản phát triển mở ra một cơ hội mới cho nền kinh tế của đất nước.
2.3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong xu thế đất nước đang chuyển mình hoà nhịp vào nền kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng có sự phát triển trông thấy, tăng trưởng kinh tế của nước ta năm 2007 đạt 8,5%. Ngay trong bản thân ngành nông nghiệp cũng có sự chuyển dịch là tỷ trọng ngành chăn nuôi tăng lên, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm. Ngành thuỷ sản phát triển cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta, và đóng góp vào sự tăng trưởng của toàn nền kinh tế nói chung. Xu hướng chuyển đổi diện tích trồng trọt kém hiệu quả sang việc sử dụng hiệu quả hơn bằng cách phát triển nuôi trồng thuỷ sản đã và đang diễn ra mạnh mẽ. Bên cạnh đó phát triển nuôi trồng thuỷ sản cũng đã thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn và quan trọng hơn cả là sự tham gia của các hộ gia đình nông thôn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển cũng kéo theo sự phát triển của các ngành dịch vụ và công nghiệp như các cơ sở sản xuất thức ăn, các công ty chế biến thuỷ sản.
2.4. Giải quyết việc làm và tăng thu nhập.
Ngành thuỷ sản với sự phát triển nhanh của mình đã tạo ra hàng loạt việc làm và thu hút một lực lượng đông đảo tham gia vào tất cả các công đoạn sản xuất, làm giảm sức ép nạn thiếu việc làm trên phạm vi cả nước. Nuôi trồng thuỷ sản góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận dân cư, giúp họ tạo thêm được thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, một khi bản thân các tế bào có phát triển thì xã hội mới tốt đẹp được. Do vậy, chúng ta đang hướng tới một xã hội công bằng, văn minh, ở đó mọi người đều được bình đẳng như nhau. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển cũng góp phần giảm bớt sự chênh lệch giữa nông thôn với thành thị.
Ngày nay khi nền kinh tế đã có sự phát triển trông thấy thì mức sống của của người dân cũng ngày càng được nâng cao hơn. Điều đó được thể hiện ở chỗ người ta chuyển từ nhu cầu hàng hoá cấp thấp sang hành hoá cấp cao như thịt, trứng, sữa, thuỷ sản… Và các sản phẩm thuỷ sản cũng đáp ứng một cách đa dạng nhu cầu của nhân dân từ những sản phẩm bình dân như cá, tôm đến những mặt hàng sa sỉ như ghẹ, cua biển, tôm hùm… Nó sẽ làm thoả mãn nhu cầu đa dạng trong tầng lớp dân cư.
2.5. Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thuỷ sản.
Các sản phẩm thuỷ sản ngoài phục vụ nhu cầu tiêu thụ trực tiếp của dân cư, thì một phần lớn được cung cấp cho các nhà máy chế biến làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Có một đặc điểm dễ dàng nhận thấy là thông qua hoạt động chế biến thì giá trị của các sản phẩm thuỷ sản được nâng tầm giá trị. Việc chế biến các sản phẩm thuỷ sản dùng công nghệ bao gói chủ yếu nhằm mục đích xuất khẩu sang thị trường thế giới. Để các sản phẩm này thực sự làm hài lòng người tiêu dùng ngoại quốc thì chất lượng sản phẩm phải được đặt lên hàng đầu. Do đó, vấn đề đặt ra là phải đảm bảo chất lượng thuỷ sản từ khâu nuôi trồng, chúng ta chỉ có đầu ra khi có sản phẩm sạch.
3. Đặc điểm của hoạt động nuôi trồng thuỷ sản.
3.1. Thuỷ vực là tư liệu sản xuất không thể thay thế được.
Đối tượng của nuôi trồng thuỷ sản là các sinh vật gắn với môi trường nước, nếu tách chúng ra khỏi môi trường này thì chúng không thể tồn tại được. Từ đặc điểm này cho ta thấy được nuôi trồng thuỷ sản là một ngành tương đối phức tạp so với các ngành khác. Cứ ở đâu có nước thì ở đó có khả năng nuôi trồng thuỷ sản. Do vậy nuôi trồng thuỷ sản có khả năng phát triển ở mọi nơi, mọi vùng địa lý. Tuỳ thuộc vào tính chất của từng loại thuỷ vực mà có đối tượng nuôi trồng phù hợp như nuôi thuỷ sản nước ngọt, mặn, lợ.
Thuỷ vực còn là tư liệu sản xuất đặc biệt bởi vì nó khác với các tư liệu sản xuất khác, nếu biết sử dụng cải tạo, bảo vệ và bồi dưỡng thì thuỷ vực không những không bị hao mòn, chất lượng không giảm đi qua quá trình sử dụng mà còn tốt lên.
3.2. Đối tượng hoạt động nuôi trồng thuỷ sản là các sinh vật thuỷ sinh.
Cũng giống như sản xuất nông nghiệp, đối tượng của nuôi trồng thuỷ sản là các cơ thể sống. Chúng phát triển theo quy luật sinh học nhất định (sinh trưởng, phát triển, diệt vong). Các cơ thể sống này rất nhạy cảm với những điều kiện ngoại cảnh, chỉ một sự biến động nhỏ của môi trường sống cũng dễ gây ảnh hưởng đến bản thân các vật nuôi này. Các ảnh hưởng của điều kiện bên ngoài như: gió, mưa, bão, lũ lụt, hạn hán… đều ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của chúng.
3.3. Nuôi trồng thuỷ sản mang tính thời vụ.
Dựa trên quy luật sinh trưởng và phát triển và phát triển của động vật thuỷ sinh mà con người tác động đến chúng thông qua quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ mục đích cuộc sống. Tuy nhiên, nuôi trồng thuỷ sản cũng phụ thuộc rất nhiều vào tác động của tự nhiên do đó mà thời gian lao động và thời gian sản xuất không trùng khít nhau dẫn đến tính thời vụ trong nuôi trồng thuỷ sản.
Tính thời vụ trong nuôi trồng thuỷ sản đã dẫn đến tình trạng người lao động có lúc rất bận rộn còn có những lúc lại nhàn rỗi. Đặc điểm này đòi hỏi trong nuôi trồng thuỷ sản một mặt phải tôn trọng tính thời vụ, mặt khác phải giảm bớt tính thời vụ bằng cách: Đối với nuôi trồng thuỷ sản phải cần tập trung nghiên cứu các giống loài thuỷ sản có thời gian sinh trưởng ngắn để có thể sản xuất nhiều vụ trong năm.
3.4. Nuôi trồng thuỷ sản mang tính vùng rõ rệt.
Nuôi trồng thuỷ sản được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt. Đặc điểm này cho thấy ở đâu có thuỷ vực và lao động thì ở đó khả năng nuôi trồng thuỷ sản. Tuy nhiên ở mỗi vùng, mỗi quốc gia đều có những điều kiện về nguồn nước và thời tiết khí hậu khác nhau nên đặc điểm nuôi trồng thuỷ sản cũng không giống nhau. Từ đặc điểm này đòi hỏi các vùng, các địa phương phải nắm bắt rõ điều kiện nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn để phát triển nuôi trồng hợp lý đem lại hiệu quả cao.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
1. Nhân tố tự nhiên.
Các nhân tố tự nhiên là tiền đề cơ bản để phát triển và phân bố thuỷ sản. Mỗi loại thuỷ sản chỉ có thể sinh trưởng và phát triển trong những điều kiện tự nhiên nhất định. Các điều kiện tự nhiên quan trọng hàng đầu là đất, nước, khí hậu. Chúng sẽ quyết định khả năng nuôi trồng các loài thuỷ sản trên từng lãnh thổ, khả năng áp dung các quy trình sản xuất, đồng thời có ảnh hưởng lớn đến năng suất và sản lượng nuôi trồng thuỷ sản.
1.1 Diện tích mặt nước.
Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là đất có mặt nước nội địa bao gồm ao, hồ, đầm, phá, sông ngòi, kênh rạch; đất có mặt nước ven biển; đất bãi bồi ven sông, ven biển; bãi cát, cồn cát ven biển; đất sử dụng cho kinh tế trang trại; đất phi nông nghiệp có mặt nước được giao, cho thuê để nuôi trồng thuỷ sản.
Đất đai để nuôi trồng thuỷ sản quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các loài động vật thuỷ sản vì nếu tách chúng ra khỏi môi trường nước thì chúng sẽ chỉ tồn tại đựơc trong một thời gian rất ngắn. Hơn thế nữa diện tích mặt nước còn quyết định tới quy mô phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Điều đó được thể hiện ở chỗ nếu diện tích có khả năng nuôi trồng lớn thì quy mô để phát triển nuôi trồng thuỷ sản cũng lớn.
1.2. Khí hâu, nguồn nước.
1.2.1. Khí hậu.
Các điều kiện thời tiết, khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, nó có thể thúc đẩy hay kìm hãm sự phát sinh và lan tràn dịch bệnh cho vật nuôi.
Việt Nam là một nước nằm trong vùng nhiệt đới pha trộn tính ôn đới, vì vậy mà điều kiện thời tiết, khí hậu có ảnh hưởng sâu sắc đến ngành nuôi trồng thuỷ sản. Những tác động có lợi của điều kiện thời tiết tác động đến nuôi trồng thuỷ sản như: Khả năng nuôi trồng thuỷ sản có thể được tiến hành quanh năm; các giống loài động thực vật thuỷ sinh rất phong phú, đa dạng và có nhiều loài có giá trị kinh tế cao.
Những tai biến thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán, bão…gây thiệt hại nghiêm trọng cho nuôi trồng thuỷ sản. Chính vì vậy ngành nuôi trồng thuỷ sản có tính bấp bênh, không ổn định.
Lũ lụt, nước biển dâng sẽ tác động mạnh đến hệ thống ao hồ nuôi trồng thuỷ sản, làm tăng những điều kiện bất lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản, làm tăng bất lợi cho việc nuôi tôm, cua, cá nước lợ do bờ đê, đập bị phá vỡ.
Đối với nuôi trồng thuỷ sản, có nhiều nhân tố như: gió, nhiệt độ, không khí, môi trường nước, chế độ mưa, độ mặn…đã ảnh hưởng đến điều kiện sống, khả năng sinh sản và di trú của đàn cá.
Nhiệt độ đóng một vai trò quan trọng cho quá trình sinh trưởng của sinh vật nói chung và các loài nuôi trồng thuỷ sản nói riêng. Mỗi loài có khoảng nhiệt độ thích ứng riêng. Khả năng chống chịu của chúng nằm trong khoảng giới hạn nhất định. Sự tăng nhiệt độ có thể làm suy giảm sản lượng thuỷ sản trong các ao hồ. Thay đổi nhiệt độ còng là điều kiện phát sinh của nhiều loài dịch bệnh xảy ra cho các loài nuôi. Nhiệt độ tăng cao làm cho sức khoẻ của các loài nuôi, môi trường nước bị xấu đi, là điều kiện thuận lợi cho các loài vi sinh vật gây hại.
Tác động của thời tiết cũng ảnh hưởng mạnh tới môi trường ao nuôi. Nếu thời tiết nắng nóng tạo điều kiện cho quá trình phân huỷ yếm khí các chất hữu cơ trong ao nuôi, đặc biệt ở đáy ao, tạo ra nhiều khí độc tích tụ ở đáy, gây ô nhiễm cho môi trường ao nuôi, ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng và phát triển của thuỷ sản.
Đối với nghề nuôi thuỷ sản mặn, lợ, độ mặn là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và phát triển của loài nuôi. Khi xảy ra mưa lớn, độ mặn trong các ao nuôi giảm đi đột ngột vượt ra khỏi khả năng chịu đựng làm cho tôm, cá bị sốc, chết hoặc chậm lớn.
1.2.2. Nguồn nước.
Có thể nói, nguồn nước là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
Tính chất mặt nước còn quyết định tới yếu tố giống loài thuỷ sản được nuôi trồng. Bởi vì mỗi một giống loài thuỷ sản đều có những đặc điểm sinh lý, sinh thái riêng, có một môi trường sống riêng mà không phải môi trường nước nào nó cũng tồn tại được. Môi trường nước được phân thành ba loại là: nước ngọt, nước mặn, nước lợ. Đối với mỗi loại mặt nước có một đối tượng nuôi trồng phù hợp.
Nguồn nước phục vụ nuôi trồng thuỷ sản yêu cầu về chất lượng khá nghiêm ngặt, nước không bị ô nhiễm, độ đục thấp, hàm lượng ôxi tan trong nước cao, hàm lượng chất hữu cơ trong nước thấp, hàm lượng các chất độc trong nước thấp hoặc không có ( Thuốc bảo vệ thực vật, H2S…). Để sử dụng nguồn nước mặt cho nuôi trồng thuỷ sản đạt hiệu quả cao và phát triển bền vững phải chú ý giải pháp quản lý, giải pháp kỹ thuật, giải pháp công cộng… làm cơ sở để hạn chế sự ô nhiễm nguồn nước mặt trên diện rộng, bảo vệ chất lượng môi trường nước.
2. Nhân tố kinh tế - xã hội.
2.1. Nhân tố xã hội.
Dân cư và nguồn lao động ảnh hưởng tới hoạt động nuôi trồng thủy sản ở hai mặt vừa là lực lượng sản xuất vừa là người tiêu thụ các nông sản. Bất kể một ngành sản xuất vật chất nào cũng nhằm mục đích tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Và ngành nuôi trồng thuỷ sản cũng thế, muốn tạo ra các sản phẩm thuỷ sản thì phải có lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất trong nuôi trồng thuỷ sản ở đây là các cá nhân, hộ gia đình làm việc trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản. Họ vừa là lực lượng sản xuất vừa là người tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản.
Chỉ có lao động của con người mới tạo ra được hoạt động nuôi trồng thuỷ sản. Con người tác động đến quá trình sinh trưởng và phát triển của vật nuôi thông qua quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng. Nếu lao động có trình độ kỹ thuật cao thì sẽ thúc đẩy nuôi trồng thuỷ sản phát triển.
Dân số là nguồn cung cấp lực lượng lao động cho mọi ngành kinh tế trong đó có nuôi trồng thuỷ sản. Đồng thời dân số cũng là lực lượng tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản.
2.2. Nhân tố tiến bộ khoa học - kỹ thuật.
Xã hội ngày càng phát triển và kèm theo đó là những tiến bộ khoa học kỹ thuật ra đời cùng với sự phát triển đó. Tiến bộ khoa học ra đời đã làm thay đổi đời sống con người trong mọi lĩnh vực.
Trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản cũng vậy, nhờ áp dụng những tiến bộ này mà người ta đã có thể sản xuất ra những giống thuỷ sản mới, chất lượng cao, sinh trưởng nhanh, có khả năng chống chịu với những điều kiện ngoại cảnh tốt… Ngoài ra nhờ áp dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà người ta có thể kiểm soát và phòng trừ dịch bệnh trong nuôi trồng thuỷ sản, phát triển và mở rộng ứng dụng các kỹ thuật hiện đại chẩn đoán và xử lý kịp thời bệnh nguy hiểm ở động vật thuỷ sản.
2.3. Nhân tố thị trường.
Bất kể một ngành sản xuất vật chất nào cũng nhằm mục đích là sử dụng các yếu tố đầu vào trong sản xuất để tạo ra sản phẩm đầu ra. Nhưng để có được lợi nhuận thì các nhà sản xuất phải tìm kiếm được đầu ra cho sản phẩm của mình. Muốn có được thị trường tiêu thụ cho sản phẩm của mình, điều đó không hề đơn giản chút nào trong giai đoạn cạnh tranh khốc liệt như ngày nay.
Nuôi trồng thuỷ sản cũng là một ngành sản xuất vật chất mà sản phẩm tạo ra là các sản phẩm thuỷ sản. Khi tạo ra sản phẩm từ hoạt động nuôi trồng, thì các hộ sản xuất phải tìm cho mình một đầu ra để tiêu thụ cho sản phẩm cho mình đó chính là thị trường. Thị trường tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản có vai trò quyết định đến việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hoá theo hướng sản xuất hàng hoá ngày càng cao. Do tính chất đa dạng của nhu cầu thị trường tác động làm cho hoạt động nuôi trồng thuỷ sản biến đổi về mặt cơ cấu sản phẩm nhằm phục vụ tính đa dạng của nhu cầu thị trường. Đồng thời thông qua việc trao đổi mua bán hàng hoá thuỷ sản trên thị trường, làm cho các vùng sản phẩm chuyên môn hoá ngày càng phát triển và liên kết với nhau để khai thác tốt lợi thế của từng vùng, sản xuất ra nhiều hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường. Thị trường quyết định lượng cung - cầu và giá cả các loại mặt hàng thuỷ sản. Vì vậy, thông qua thị trường mà người sản xuất mới biết được nên nuôi trồng loại thuỷ sản nào, số lượng là bao nhiêu mà thị trường đang cần để có được lợi nhuận cao.
IV. Tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia ven biển ở Đông Nam Á, trong suốt sự nghiệp hình thành, bảo vệ và xây dựng đất nước, biển đã đang và sẽ đóng vai trò hết sức to lớn. Chính vì vậy, phát triển, khai thác hợp lý một cách bền vững các nguồn lợi tự nhiên đã trở thành mục tiêu chiến lược lâu dài trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
Cùng với khai thác các nguồn lợi cá và hải sản, Việt Nam còn có tiềm năng phong phú về các nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt, lợ, nước biển, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân và làm giàu cho đất nước.
1. Về mặt nước.
Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng to lớn để phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
Với diện tích vùng nội thủy lãnh hải là 226.000 km2 và tổng diện tích vùng đặc quyền kinh tế trên biển khoảng trên một triệu km2, Việt Nam là nước có diện tích mặt biển lớn nhất trong các nước Đông nam Á lục địa. Việt Nam có một bờ biển dài hơn 3.260 km với 112 cửa sông, lạch và 12 đầm phá, eo vịnh có khả năng phong phú nuôi thủ sản nước lợ, mặn. Ngoài ra còn hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ nằm rải rác dọc theo đường biển là những khu vực có thể phát triển nuôi thuỷ sản quanh năm.
Việt Nam cũng rất phong phú về diện tích nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, lợ. Tổng diện tích mặt nước mặn, lợ có khả năng dựa vào nuôi trồng thuỷ sản khoảng 761.138 ha bao gồm vùng triều là 635.383 ha, eo vịnh là 125.755 ha. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch của Việt Nam rất đa dạng và chằng chịt, có 15 con sông có diện tích lưu vực từ 300 km2 trở lên. Riêng sông Mê Kông có lượng dòng chảy hàng năm trên 500 tỷ m3, sông Hồng đạt trên 12 tỷ m3. Đây l._.à nguồn cung cấp các loại thuỷ sản nước ngọt, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu nội địa và một phần cho chế biến xuất khẩu. Tuy nhiên lượng nước trên những sông này phân bố không đều theo không gian và theo các mùa trong năm. Vì vậy để phát huy tốt lợi thế này, ngành cần quy hoạch tốt hệ thống thuỷ lợi, góp phần khai thác tốt những tiềm năng về mặt nước phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản nước lợ và nước ngọt.
2. Về nguồn lợi giống loài thuỷ sản.
Nguồn lợi giống hải sản của Việt Nam cũng rất phong phú và đa dạng.
- Nguồn lợi cá nước ngọt: theo thống kê có 544 loài trong đó có 18 bộ, 57 họ, 228 giống.
- Nguồn lợi cá nước lợ, mặn: 186 loài chủ yếu. Một số loài có giá trị kinh tế như: Cá song, cá tráp, cá vược, cá măng, cá cam, cá bống, cá bớp, cá đối, cá dìa. Trong đó có một số loài được đưa vào nuôi như: cá vược, cá song, cá giò, cá măng, cá cam.
- Nguồn lợi tôm: đã thống kê được 16 loài chủ yếu có giá trị kinh tế và đưa vào nuôi như: Tôm sú ( p.monodon); tôm lớt ( p.merguíenis); tôm he Ấn Độ ( p.indicus); tôm rảo (Metapenaeus); tôm hùm bông ( panulius ornatus).
- Về nhuyễn thể: Có một số loài chủ yếu như: Trai, hầu, điệp, nghêu, sò, ốc…đang được dưa vào nuôi trai, nghêu sò.
3. Về điều kiện thời tiết - khí hậu.
Việt Nam là nước nhiệt đới gió mùa, lượng hoa trung bình hàng năm lớn từ 1500 - 2400 mm. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nhiều laòi thuỷ sản, đặc biệt là thuỷ sản nước ngọt. Khí hậu Việt Nam có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô tạo ra những dòng di cư của các loài thuỷ sản, đảm bảo sự đa dạng và sự giao lưu giống loài giữa các vùng. Chế độ thuỷ triều và bán nhật triều tạo nên nhiều đầm phá thích hợp để nuôi trồng thuỷ sản giá trị cao đặc biệt là tôm.
Như vậy có thể nói, chế độ khí hậu, thời tiết và các điều kiện tự nhiên đa dạng đã tạo điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản Việt Nam phát triển đa loài, phong phú về loại
V. Kinh nghiệm nuôi trồng thuỷ sản một số địa phương trong nước và bài học rút ra cho Việt nam.
1. Kinh nghiệm nuôi trồng thuỷ sản của Hải Phòng.
Hải Phòng là thành phố cảng lớn nhất miền Bắc, có cấu trúc địa hình dọc theo chiều dài 125 km bờ biển với nhiều cửa sông lớn được được phân bố khá dài và hàng trăm đảo lớn như đã được Bộ thuỷ sản xác định là một trong bốn ngư trường lớn của toàn quốc, là vùng trọng điểm phát triển kinh tế thuỷ sản của Việt Nam. Nhiều ngư trường tập trung ở hai huyện đảo Cát Bà và Bạch Long Vĩ. Hải Phòng có nhiều tài nguyên biển vô cùng phong phú mà hiếm ngư trường nào có được, đặc biệt là tầng cá đáy và cá nổi là nơi lý tưởng cho việc xây dựng các trọng điểm hậu cần chế biến - dịch vụ thương mại nghề cá; nuôi cá lồng bè và các hải sản quý hiếm như tu hài, bào ngư… Hải Phòng còn là nơi có diện tích nuôi trồng thuỷ sản khá lớn, trên 40.000 ha gồm mặt nước: mặn, lợ, ngọt với những đối tượng nuôi trồng phong phú có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, rau câu… Nghề cá Hải Phòng có từ lâu đời, có giai đoạn nhiều năm liền đứng đầu miền Bắc về sản lượng đánh bắt thuỷ sản, nhất là nghề cá khơi. Thực hiện phương châm của toàn ngành thuỷ sản “lấy khai thác thuỷ sản làm chiến lược lâu dài, lấy nuôi trồng thuỷ sản làm trọng tâm và lấy chế biến thuỷ sản làm mũi nhọn”.
Bên cạnh nghề đánh bắt vốn là nghề truyền thống của nhân dân miền biển , nuôi trồng thuỷ sản được xác định là có tiềm năng thế mạnh và được coi là hướng phát triển trọng yếu của dịa phương, vì thế trong thời gian qua Sở thuỷ sản Hải Phòng đã không ngừng nỗ lực chỉ đạo, vận động các hộ nuôi trồng tập trung vào một số loại giống mang lại hiệu quả kinh tế cao như tôm sú, tôm rảo, tôm he chân trắng, tôm càng xanh. Cá rô phi đỏ, cá chim trắng, cá song, cá giò… Tiềm năng vùng biển Hải Phòng bắt đầu được khai thác khi một số hộ nông dân hưởng ứng nuôi cá lồng bè trên biển Cát Bà do Sở thuỷ sản khởi xướng từ cuối những năm 90. Nguồn nuôi thả chủ yếu là các lọai cá song, cá hồng kết hợp thả một số loại giáp xác, nhuyễn thể như bề bề, tu hài, vẹm xanh, sò… Sản lượng hàng năm tăng khoảng 50 - 60%. Nuôi cá lồng bè trên biển đã tạo ra bước đột phá trong nghề nuôi thuỷ sản Hải Phòng, trở thành nghề mới của cuả dân ven biển, góp phần thúc đẩy loại hình dịch vụ du lịch phát triển, tạo nguồn hàng thuỷ sản xuất khẩu tại chỗ thông qua các loại hình dịch vụ du lịch.
2. Kinh nghiệm nuôi trồng thuỷ sản của Quảng Ngãi.
Nuôi trồng thuỷ sản ở Quảng Ngãi chiếm một vị trí không nhỏ trong kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi (30% GDP ngành nông nghiệp). Với 130 km bờ biển, 6 cửa lạch, 5 huyện có biển và một huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có đủ tiềm năng, thế mạnh về phát triển kinh tế thuỷ sản. Nghị quyết 04/NQ - TU ngày 14/01/2002 của Tỉnh xác định, đây là ngành kinh tế mũi nhọn. Dọc theo ven biển có khoảng 4000 ha đất đai, mặt nước, là điều kiện lý tưởng để phát triển nghề nuôi tôm. Trong nội địa có gần 2000 ao hồ, thuận lợi cho nuôi nước ngọt.
Theo thống kê Sở thuỷ sản Quảng Ninh toàn Tỉnh có khoảng 725 ha nuôi tôm trong đó có nuôi tôm vùng triều 549 ha, nuôi tôm trên cát 176 ha. Sản lượng thu hoạch ngày càng tăng, nếu như năm 2001 là 902 tấn, năm 2005 là 3000 tấn thì đến năm 2007 đạt 4.500 tấn. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển góp phần giải quyết việc làm cho 5000 lao động. Nuôi cá nước ngọt tiếp tục được duy trì và phát triển với nhiều hình thức đa dạng cả đồng bằng và miền núi. Đến nay diện tích thả nuôi toàn tỉnh là 690 ha, năm 2007 sản lượng đạt 1.000 tấn (104% kế hoạch). Xuất hiện nhiều mô hình nuôi thuỷ sản nước ngọt như nuôi cá trong ruộng lúa, cá rô phi trong lồng, cá lóc, cá chình, ếch góp phần cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho nhiều gia đình. Đây cũng là thành công trong công tác chỉ đạo về hoạt động nuôi trồng của toàn Tỉnh.
Tuy nhiên bên cạnh những thành công đạt được phải thẳng thắn nhìn nhận rằng ngành thuỷ sản Quảng Ngãi phát triển chưa bền vững. Đây là một hạn chế không phải chỉ riêng của ngành thuỷ sản Quảng Ngãi mà còn là hạn chế chung của toàn ngành thuỷ sản Việt Nam. Đó là việc nuôi trồng thuỷ sản thiếu đồng bộ, gây nên tình trạng phá rừng phòng hộ ven biển tác động xấu đến cân bằng sinh thái, môi trường bị ô nhiễm, kéo theo dịch bệnh thường xuyên xảy ra. Nuôi trồng thuỷ sản mới phát triển ở quy mô nhỏ chưa phát triển thành sản xuất hàng hoá. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học còn hạn chế, đặc biệt là vấn đề con giống. Các dự án đầu tư nuôi trồng thuỷ sản tốc độ xây dựng chậm, kết quả không như mong muốn.
Vì vậy, để phát triển bền vững nuôi trồng thuỷ sản, một bài học kinh nghiệm rút ra cho ngành thuỷ sản là phải làm tốt công tác quy hoạch, đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng - kỹ thuật vùng nuôi, tăng cường công tác quản lý, đảm bảo an toàn vệ sinh thuỷ sản từ khâu nuôi trồng, khai thác đến bảo quản, chế biến, giảm dần yếu tố tự phát, làm tốt công tác xúc tiến thương mại.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN Ở TỈNH QUẢNG NINH.
I. Những điều kiện về tự nhiên, tài nguyên môi trường và điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến nuôi trồng thuỷ sản ở Quảng Ninh.
1. Điều kiện tự nhiên.
1.1. Vị trí địa lý.
Tỉnh Quảng Ninh là tỉnh miền núi, nằm ở toạ độ địa lý 210- 220 40' vĩ độ bắc, 1060 26'- 1080 31’kinh độ đông, cách thủ đô Hà Nội 150 km. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc. Quảng Ninh có đường biên giới đất liền 132km từ Tràng Vĩ (Móng Cái) đến giáp huyện Đình Lập (Lạng Sơn); phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ với 250 km bờ biển kéo dài từ cửa Bắc Luân (Trà Cổ) đến đảo Cát Bà (Hải Phòng); phía Tây giáp thành phố Hải Phòng, tỉnh Hải Dương, tỉnh Bắc Giang và tỉnh Lạng Sơn. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 8.239,243 km2 trong đó diện tích đất liền 5.938 km2, vùng vịnh, biển ( nội thuỷ) chiếm 2.448,853 km2. chiếm 1,8 % diện tích cả nước.
Với vị trí địa lý như trên, nuôi trồng thuỷ sản Quảng Ninh có điều kiện để phát triển vì có một thị trường tiêu thụ rộng lớn cả trong nước và ngoài nước.
1.2. Địa hình.
Địa hình của tỉnh chủ yếu là núi đã chiếm 90% diện tích. Trong đó đất liền chiếm 87% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, hải đảo chiếm 13% diện tích; diện tích biển trên 6000 km2. Với diện tích biển 6000 km2 là điều kiện thuận lợi cho Quảng Ninh phát triển nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt là nuôi cá biển bằng lồng bè, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Các loại cá được nuôi như: cá song, cá hồng, cá tráp, cá mú, cá giò…
1.3. Khí hậu.
Khí hậu Quảng Ninh tiêu biểu cho khí hậu của các tỉnh miền Bắc nước ta, một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Đây là vùng nhiệt đới - gió mùa. Mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều, gió thịnh hành là gió đông nam. Mùa đông lạnh, khô hanh, ít mưa, gió đông bắc. Mưa bão tập trung vào các tháng tư đến tháng mười, với lượng mưa trung bình hàng năm 2000 mm- 2500 mm. Các hiện tượng gió lốc xảy ra thường vào tháng 6, 7, 8. Nhiệt độ trung bình hàng năm cao nhất là 280 C, thấp nhất là 160 C ; tháng lạnh nhất là tháng 11 và tháng 3; tần suất sương muối thường xảy ra vào tháng 12 và tháng 1.
Khí hậu ở Quảng Ninh cho phép nuôi trồng thuỷ sản quanh năm, với những giống, loài phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, khí hậu cũng tác động xấu đến nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt là hiện tượng mưa lũ, lốc xoáy ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động này, nó có thể làm suy giảm số lượng thuỷ sản nuôi trồng, dẫn đến giảm năng suất bị giảm sút.
2. Tài nguyên thiên nhiên.
2.1. Tài nguyên đất.
Tỉnh Quảng Ninh có 589.957 ha diện tích đất tự nhiên. Trong đó diện tích đất nông nghiệp là 56.550 ha chiếm 9,58 %; diện tích đất lâm nghiệp có rừng là 228.682 ha, chiếm 38,76 %; diện tích đất chuyên dùng là 23.798 ha, chiếm 4,03 %; diện tích đất ở là 6.444 ha, chiếm 1,09 %; diện tích đất chưa sử dụng và sông suối đá là 274.483 ha, chiếm 46,52 %.
Trong đất nông nghiệp diện tích đất trồng cây hàng năm là 34.287 ha, chiếm 60,63%, riêng đất lúa chiếm 49,8% gieo trồng hai vụ; diện tích đất tròng cây lâu năm là5.563 ha, chiếm 9,8%; đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 12.870 ha, chiếm 22,75%.
Diện tích đất trống đồi núi trọc cần phủ xanh là 195.559 ha; diện tích đất bằng chưa sử dụng là 26.968 ha; diện tích đất có mặt nước chưa sử dụng là 16.644 ha.
2.2. Tài nguyên rừng.
Tỉnh có 162 nghìn ha rừng, trong đó có 124 ha rừng tự nhiên. Một điều đặc biệt hơn là tất cả các địa phương trong tỉnh Quảng ninh đều có rừng. Ngoài những khu rừng quý như: Đinh, lim, sến, táu, sồi, dẻ, thì ở các huyện, thị xã Quảng Ninh còn có nhiều khu rừng đặc sản có hiệu quả cao, kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng. Điển hình như huyện Hải Ninh có rừng quế kể cả quế tự nhiên và quế do nhà nước và nhân dân cùng trồng. Huyện cao Bình Liêu có tới ba loài cây đặc sản: ngoài quế còn có sồi, và sở. Hoa hồi và tinh dầu hồi là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị và với cây sở từ hạt sở được ép thành dầu sở để sử dụng trong công nghiệp và chế biến thành dầu ăn rất tốt.
Ngoài gỗ, rừng Quảng Ninh còn có nhiều chim thú rừng, đó là tắc kè, ba kích và các dược liệu có giá trị ở Quảng Ninh.
2.3. Tài nguyên biển.
Quảng Ninh là một tỉnh miền núi, hải đảo, là miền mỏ và miền khoáng sản lớn, là miền rừng vàng cũng là miền biển bạc. Dường như tạo hoá có phần thiên vị chăng khi ban phát cho nơi đây nhiều thứ đến vậy.
Tỉnh có trên 6000 km2 bờ biển thuận lợi cho khai thác thuỷ sản và du lịch, nhiều ngư trường với nhiều loài thuỷ hải sản phong phú, trữ lượng có thể khai thác hàng năm 3 - 4 vạn tấn. Có thể nói nguồn lợi thủy sản của Quảng Ninh rất phong phú và đa dạng. Có rất nhiều giống loài có giá trị kinh tế cao mà hiện nay con người vẫn tiếp tục khai thác phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Trong tổng số 555 loài động vật vùng biển Quảng Ninh, nhiều loài có sản lượng rất lớn và giá trị kinh tế cao như: cá song, cá mú, cá hồng, vược… Nguồn lợi nhuyễn thể như bào ngư, hầu, trai ngoc, vẹm xanh, ngán, tu hài, ốc hương, sò huyết… phát triển tập trung nhiều ở vùng bãi triều ven biển và quanh các đảo. Về nguồn lợi giáp xác: giống loài rất phong phú và nhiều giống loài có giá trị cao như tôm he, cua biển, ghẹ xanh. Ngoài ra biển Quảng Ninh còn có nhiều hải sản quý hiếm có giá trị trị dinh dưỡng cao đã được nhân dân khai thác từ lâu như: cá ghim, sá sùng, hải sâm…
Để có thể nắm bắt một cách rõ hơn nguồn lợi thuỷ sản hiện có tại tỉnh Quảng Ninh. Sau đây em xin liệt kê một số nguồn lợi thuỷ sản điển hình tại biển Quảng Ninh thông qua bảng biểu dưới đây:
Bảng 1: Nguồn lợi hải sản ở tỉnh Quảng Ninh.
STT
Nguồn lợi thuỷ sản
Cá
Nhuyễn thể
Giáp xác
1
Cá song
Trai ngọc
Tôm he
2
Cá mú
Tu hài
Tôm sú
3
Cá hồng
Hầu biển
Tôm chân trắng
4
Cá vược
Hầu cửa sông
Tôm hùm
5
Cá giò
Vẹm xanh
Tôm càng xanh
6
Cá tráp vàng
Ngao
Tôm rảo
7
Cá bống bớp
Ngán
Cua biển
8
Cá hồng
Nghêu
Ghẹ xanh
9
Cá chim trắng
Ốc hương
Sá sùng
10
Cá Hồng Mỹ
Ốc đá
Hải sâm
11
Cá nốt
Ốc nhảy
Baba
12
Cá trê
Ốc màu
Mực
13
Cá Đù Mỹ
Sò huyết
Bề bề
14
Cá chim
Sò lông
15
Cá thu
Bông thùa
16
Cá nhụ
Điệp quạt
17
Cá đé
Bào ngư
Nguồn: www.ema.gov.vn.
Biển Quảng Ninh có các yếu tố môi trường đặc trưng, biển lặng, ít bị ảnh hưởng của gió bão, môi trường sạch, nước có độ muối cao, ổn định, độ trong lớn, nhiệt độ không xuống thấp, thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của hầu hết nhóm sinh vật. Tổng diện tích vùng triều và vùng nước biển có khả năng nuôi thuỷ sản biển trên 20.000 ha, gồm các eo vịnh kín gió xen kẽ các đảo nhỏ. Quảng Ninh có cửa khẩu Quốc tế và Quốc gia, có cảng biển và nhiều đầu mối giao thông thuỷ bộ, nằm cạnh thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn là Trung Quốc, Hồng Kông ngư dân đã bước đầu tích luỹ được nhiều kinh nghiệm nuôi trồng thuỷ sản… tạo cho Quảng Ninh trở thành tỉnh có tiềm năng rất lớn để phát triển nuôi trồng các loại thuỷ, đặc sản trên biển.
Nguồn lợi thuỷ sản không phải là vô tận, trong điều kiện nguồn nguyên liệu thuỷ sản tự nhiên bị khai thác ngày một cạn kiệt thì việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở Quảng Ninh đang trở thành ngành sản xuất hàng hoá lớn có hướng lâu dài về chiến lược giúp ngành thuỷ sản Quảng Ninh phát triển ổn định.
2.4. Tài nguyên khoáng sản.
Quảng Ninh là một vùng tài nguyên lớn của tổ quốc. Tuyến mỏ than Quảng Ninh dài 150 km từ đảo Kế Bào (Vân Đồn) đến Mạo Khê (Đông Triều). Chiều uốn đó giống như một cánh cung đồ sộ hướng bề lõm ra biển - cánh cung " vàng đen". Mạch than chạy từ đông sang tây có cả than lộ thiên và than ngầm sâu độ dày của lớp trầm tích từ 300 m đến 1800 m. Tổng trữ lượng than của Quảng Ninh là 3,5 tỷ tấn trong đó có gần 200 triệu tấn là than lộ thiên. Tỷ lệ than đá ở Quảng Ninh ổn định ở mức 80 - 90%, chất lượng than ở Quảng Ninh từ lâu đã có tiếng vang trên thị trường quốc tế.
Cát trắng là loại nguyên liệu quý đối với công nghiệp thuỷ tinh ở nước ta và các nước khác. Quảng Ninh là miền "vàng đen'' và cũng là miền cát trắng. Cả vùng quần đảo Vân Hải rộng lớn và khu đảo Vĩnh Thực là khu vực cát trắng của tỉnh Quảng Ninh. Nơi đây cát trắng dải thành bãi, cồn sáng lấp lánh, có chỗ cát trắng .
Gạch ngói Giếng Đáy đã góp phần đáng kể trong việc tạo lập bao miền đất, thành phố, thị xã trong và ngoài nước với những công trình đẹp, có chất lượng. Đến nay vùng đồi Giếng Đáy vẫn là trung tâm sản xuất gạch ngói của Quảng Ninh bởi trữ lượng của nó còn hàng trăm triệu tấn. Gạch ngói Giếng Đáy đã xuất khẩu sang Pháp, Hồng Kông và các nước khác.
Đá cổ Tấn Mài ( huyện Quảng Hà) là loại đá quý. Đây là loại đá kết tinh từng khối lớn, màu trắng nhờ, rất nhiều vân đẹp. Quy mô và trữ lượng đá cổ Tấn Mài hết sức lớn, chưa đánh giá hết. Đá Tấn Mài do có tính chất ký, hoá tốt nên được dùng để làm vật liệu cách điện, trang trí các công trình xây dựng, dùng trong mỹ thuật điêu khắc… Đá Tấn Mài là nguyên liệu sản xuất hàng trong nước và cũng là mặt hàng xuất khẩu có giá trị sang Nhật Bản, cộng hoà Séc, xlo-va-ki-a.
2.5. Tài nguyên du lịch.
Với thế mạnh của vịnh Hạ Long di sản thiên nhiên thế giới, năm 2001 được đón nhận bằng di sản thế giới lần thứ hai về giá trị địa mạo - địa chất của vịnh Hạ Long. Bên cạnh đó, Quảng Ninh cũng là nơi hội tụ nhiều di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng như khu di tích Yên Tử, đền Cửa Ông, di tích chiến thắng Bạch Đằng, thương cảng Vân Đồn và nhiều lễ hội truyền thống, giàu bản sắc văn hoá dân tộc.
3. Điều kiện về kinh tế - xã hội.
3.1. Về cơ cấu kinh tế.
Quảng Ninh là một tỉnh có vị trí quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ ( Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh), được xem như một phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế ở phía Bắc. Hướng phát triển của Quảng Ninh được chính phủ xác định: “ Hình thành các trung tâm lớn có ý nghĩa tạo vùng và giao lưu quốc tế hỗ trợ cho các tỉnh Nam vùng ĐBSH, hình thành các trung tâm công nghiệp lớn, phát triển các ngành công nghệ cao thuộc các lĩnh vực điện tử, tin học, sản xuất vật liệu mới, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến thực phẩm, phát triển kinh tế cảng biển và đi đầu trong hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài.
Để phát triển kinh tế, xã hội, Quảng Ninh đã tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ - du lịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và giảm dần tỷ trọng các ngành nông - lâm - ngư nghiệp. Nhờ đó mà tăng trưởng kinh tế toàn tỉnh đã ngày càng tăng lên.
Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2005 là 12,5%, năm 2006 là 13% và năm 2007 tăng 13,17%, trong đó nông - lâm - ngư nghiệp tăng 3,8%, công nghiệp xây dựng tăng 18%, dịch vụ tăng 11%. GDP bình quân đầu người đạt 1.040 USD. Tỉnh đã tăng cường các hoạt động đối ngoại, hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi để huy động các nguồn lực về vốn, công nghệ góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu.
Bảng 2: Cơ cấu GDP của tỉnh Quảng Ninh (%).
Ngành
2005
2006
2007
1. Công nghiệp - Xây dựng
46,5
50,9
53,46
2. Dịch vụ
45,38
41,3
39,58
3. Nông - lâm - ngư nghiệp
8,12
7,8
6,96
Nguồn:www.mpi.gov.vn
Nhìn vào cơ cấu GDP của Tỉnh ta có thể thấy được sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá, giảm tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đây cũng là một xu thế chuyển dịch tất yếu của đất nước nói chung và của tỉnh Quảng Ninh nói riêng trong giai đoạn hội nhập như hiện nay.
Trên thực tế thì Quảng Ninh là một tỉnh công nghiệp với những ngành kinh tế mũi nhọn như: công nghiệp khai thác than, công nghiệp vật liệu xây dựng, và cũng là một tỉnh có ngành du lịch phát triển. Ngành nông nghiệp chiếm một tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu GDP của Tỉnh, tuy nhiên cũng không kém phần quan trọng trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhu cầu tiêu thụ của dân cư. Và đặc biệt ngành thuỷ sản chiếm một tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu của ngành nông nghiệp. Ngay trong bản thân ngành nông nghiệp cũng có sự chuyển dịch mạnh mẽ đó là tỷ trọng của ngành ngư nghiệp ngày càng tăng lên. Điều đó có thể thấy rằng Quảng Ninh đã biết tận dụng lợi thế về biển của mình để phát triển ngành thuỷ sản từ khai thác đến nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản.
3.2. Cơ sở hạ tầng.
Hệ thống đường thuỷ cùng mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt và cảng biển đã tạo cho Quảng Ninh trở thành cửa mở quan trọng có điều kiện để chuyên tải hàng hoá cho miền Bắc Việt Nam, Tây Nam - Trung Quốc và Bắc Lào. Quảng Ninh được nhà nước định hướng tập trung phát triển trong tam giác phát triển kinh tế Bắc Bộ.
3.2.1 Giao thông vận tải.
Quảng Ninh có tổng chiều dài hệ thống giao thông đường bộ ở Quảng Ninh hiện nay là 3.688 km, trong đó:
- Quốc lộ: Gồm bốn tuyến với chiều dài 338 km
- Tỉnh lộ: Gồm tám tuyến với tổng chiều dài là 507 km.
- Đường huyện quản lý với tổng chiều dài là: 356 km.
- Đường xã quản lý với tổng chiều dài là: 2.809 km.
- Đường sắt kép - Bãi Cháy, trong tương lai không xa sẽ nối liền với cảng Cái Lân, hoà mình cùng mạng lưới đường sắt quốc gia tạo điều kiện tăng khối lượng hàng hoá vận chuyển, hạ giá thành vận tải, và góp phần giải toả nhanh hàng hoá thông qua cảng.
Quảng Ninh là một tỉnh ven biển có nhiều sông suối, có ưu thế về đường thuỷ. Trong 13 huyện, thị xã trong tỉnh chỉ có huyện Bình Liêu là không có đường thuỷ. Trong số các nhánh sông đã có 17 nhánh được khai thác cho vận tải với tổng chiều dài 218 km cùng với 250 km bờ biển tạo thành mạng giao thông với hệ thống cảng chuyên dùng.
3.2.2. Hệ thống cấp thoát nước.
Là một tỉnh miền núi, địa hình bị chia cắt mạnh nên Quảng Ninh có nguồn nước mặt rất hạn chế. Toàn tỉnh không có hệ thống sông lớn nào chảy qua, chỉ có một số sông nhỏ phát sinh trong tỉnh, lưu lượng từ vài chục đến trên dưới 100 m3 /s không đủ cấp nước cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội nhất là về mùa khô. Hệ thống thoát nước nói chung ở mức độ kém, không đáp ứng được yêu cầu thoát nước tại các đô thị. Hiện nay, một số khu vực quan trọng như Bãi Cháy, Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái đang có nguy cơ ô nhiễm nặng do chưa có phương pháp xử lý nước thải cả tự nhiên và nước thải công nghiệp.
3.2.3. Hệ thống điện.
Quảng Ninh được cung cấp điện chủ yếu từ hệ thống điện miền Bắc, từ Phả Lại thông qua các nhà máy điên Uông Bí và bảy trạm áp 110 KV. Nhà máy điên Uông Bí đang được đầu tư nâng cấp mở rộng giai đoạn II để nâng công suất lên 300 MV. Hiện nay, đã có tuyến 220 KV từ Phả Lại về trạm 220/110/35 KV tại Hoành Bồ. Trong số 14 huyện, thị xã, thành phố của Tỉnh có 13 đơn vị dùng điện lưới và huyện Cô Tô dùng điện diezel. 100% xã, hơn 80% hộ dân đã được sử dụng điện.
Mạng truyền tải có 515 km tuyến đường dây 110 KV, hai trạm thuỷ điện công suất khoảng 200 KW và một số trạm thuỷ điện nhỏ rải rác tại các huyện miền núi của Tỉnh. Tuy nhiên lưới điện hạ thế ở một số nơi trong Tỉnh còn tồn tại nhiều khó khăn như ở nhiều khu vực đường điện đã cũ, chắp vá gây tổn thất điện lưới và chi phí, giá thành điện cao.
3.2.4. Thông tin.
Hệ thống thông tin liện lạc và viễn thông của Tỉnh tương đối hoàn chỉnh, được hiện đại hoá với tốc độ cao, công nghệ tiên tiến nối kết được mọi nơi trong Tỉnh. Số lượng thuê bao điện thoại tính đến hết năm 2003 là 120.871 ( Bao gồm cả điện thoại cố định và di động, không tính đến các số máy điện thoại di động không thuê bao dùng card trả trước). Các dịch vụ thông tin liên lạc như thư điện tử, internet cũng phát triển rất nhanh.
3.3. Dân số và lao động.
Quảng Ninh là một tỉnh có mức tăng dân số thấp hơn mức tăng dân số toàn quốc. Năm 2005 dân số toàn tỉnh là 1.078.000 người; năm 2006 là 1.091.000 người, đến năm 2007 dân số tỉnh Quảng Ninh có trên 1.112.450 người trong đó tổng số lao động làm nghề thuỷ sản là 31.500 người, trong đó có 8000 người làm nghề nuôi trồng thuỷ sản. Dân số Quảng Ninh có mật độ bình quân là 160 người/km2 nhưng phân bố không đều. Có một đặc điểm của dân số Quảng Ninh đó là kết cấu dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động chiếm một tỷ lệ lớn hơn 76%.
Với kết cấu dân số trẻ như vậy, thì hàng năm tỉnh có thêm một đội ngũ lao động trẻ, khoẻ, có trình độ kỹ thuật phục vụ cho các ngành sản xuất và dịch vụ trong tỉnh. Đây là một nguồn lao động dồi dào, luôn luôn được bổ sung vào các ngành kinh tế trong Tỉnh trong đó có ngành thuỷ sản nói chung và nuôi trồng thuỷ sản nói riêng.
4. Đánh giá chung về điều kiện kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Quảng Ninh.
4.1. Những điều kiện thuận thuận lợi nhằm phát triển nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh.
Quảng Ninh là một tỉnh biên giới - hải đảo phía Đông bắc Tổ quốc, có đường bờ biển dài 250 km là nơi tập trung nhiều cửa sông ven biển. Có thể nói Quảng Ninh là nơi hội tụ rất nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế thuỷ sản. Quảng Ninh có hơn 6000km2 biển, có vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long được tạo thành bởi gần 2000 hòn đảo lớn nhỏ cùng với nhiều vụng, vịnh nhỏ kín sóng gió, là điều kiện lý tưởng để phát triển nuôi trồng thuỷ sản có giá trị kinh tế cao như ngọc trai, cá song, cá mú, cá tráp, cá hồng…
Quảng Ninh có cửa khẩu quốc tế Móng Cái và nhiều bến cảng, có đầu mối giao thông thuỷ bộ rất thuận tiện, có những khu đô thị công nghiệp thương mại lớn, những vùng du lịch và dịch vụ là thị trường có nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản không ngừng tăng. Biển Quảng Ninh là nơi hội tụ của nghề cá vịnh Bắc Bộ, lại có các chợ cá trên biển, liền kề thị trường Trung Quốc, Hồng Kông nên sản phẩm thuỷ sản có thể xuất ngay tại ngư trường với số lượng lớn, đồng thời là nơi tập kết và tiêu thụ sản phẩm hải sản từ các tỉnh phía Nam.
Tổng diện tích đất đai của Quảng Ninh là 611.091 ha, diện tích có khả năng nuôi thuỷ sản nước ngọt là 12.990 ha, diện tích rừng ngập mặn ven biển là 43.093 ha trong đó diện tích có khả năng nuôi trồng thuỷ sản trên 20.000 ha, có 21.000 ha chương bãi để phát triển nuôi các loài nhuyễn thể và trên 20.000 ha có vịnh kín gió xen kẽ các đảo nhỏ có điều kện thuận lợi, môi trường sạch có thể nuôi trồng được quanh năm với nhiều loại hải sản quý hiếm.
Với diện tích 43.093 ha rừng ngập mặn phân bố ở tuyến trung triều và khoảng 5.300 ha nằm ở tuyến cao triều phân bố dọc theo bờ biển từ huyện Yên Hưng đến thị xã Móng Cái có hệ sinh thái phong phú và đa dạng sinh học, nơi cư trú và sinh sản của nhiều giống loài hải sản đã tạo cho Quảng Ninh tiềm năng nuôi đê cống rất lớn, tại đây đã hình thành nên 9 vùng nuôi thuỷ sản trong đê cống tập trung với diện tích tiềm năng là 22.300 ha.
Với diện tích nước biển trên 6.000 km2 là thế mạnh để Quảng Ninh phát triển nuôi trồng thuỷ sản bằng lồng bè trên biển.
4.2. Những khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh.
Hiện nay, chất lượng môi trường các vùng nuôi trồng thuỷ sản ở Quảng Ninh đang chịu những áp lực, tác động lớn từ điều kiện tự nhiên, hoạt động phát triển kinh tế - xã hội ven bờ và các tác động do hoạt động nuôi trồng thuỷ sản nội tại gây nên.
Do đặc điểm địa hình trên 79% là đồi núi, các triền núi có độ cao trên 100 đến 500m chạy sát biển có độ dốc lớn, trung bình 300 và đặc điểm khí hậu phân thành mùa mưa kèm theo bão vào mùa khô nên ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là biến động môi trường do tác động của thời tiết như khả năng chuyển tải các nguồn gây ô nhiễm, sự ngọt hoá sau mưa vùng ven.
Việc phát triển nhiều hoạt động kinh tế - xã hội đồng thời như khai thác than, sản xuất vật liệu xây dựng hạ tầng đô thị và khu công nghiệp, phát triển hệ thống giao thông thuỷ, bộ và cảng biển, nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thuỷ sản, du lịch, dịch vụ… trên địa bàn hẹp đã làm nảy sinh nhiều vấn đề môi trưòng từ các hoạt động kinh tế, làm gia tăng sức ép lên môi trường sinh thái và các hệ tài nguyên sinh vật và làm suy giảm chất lượng nước vùng ven biển, gây ảnh hưởng đến hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ven biển.
II. Thực trạng phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
1. Lao động nuôi trồng thuỷ sản của Quảng Ninh.
Lao động phục vụ ngành thuỷ sản Quảng Ninh bao gồm lao động khai thác, nuôi trồng và lao động chế biến thuỷ sản. Trong đó lao động khai thác chiếm một số lượng lớn trong tổng số lao động.
Bảng 3: Lao động phục vụ cho ngành thủy sản Quảng Ninh.
LAO ĐỘNG
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng lao động
31.700
34.800
36.400
37.500
42.900
1. Lao động khai thác thủy sản
18.000
18.500
19.100
19.700
20.800
2. Lao động nuôi trồng
8.400
12.400
12.390
14.390
17.300
3. Lao động chế biến, DVTS
5.300
5.700
4.500
3.410
4.800
Nguồn: Phòng kế hoạch - Sở thuỷ sản Quảng Ninh.
Từ bảng số liệu trên ta thấy được lao động phục vụ ngành thuỷ sản Quảng Ninh liên tục tăng lên qua các năm. Điều này chứng tỏ rằng ngành thuỷ sản luôn có nhu cầu về lao động không ngừng tăng qua các năm. Trong đó lao động hoạt động trong ngành khai thác thuỷ sản là lớn nhất, là lao động không cần qua đào tạo. Lao động này bắt nguồn từ nhu cầu mưu sinh của cuộc sống, phần lớn là các hộ ngư dân sinh sống luôn trên biển và có trình độ văn hoá thấp. Cuộc sống mưu sinh của họ phụ thuộc hầu hết vào những mẻ cá đi biển để nuôi sống gia đình và còn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết. Nhìn chung là nghề khai thác thuỷ sản trên biển rất bấp bênh và không ổn định. Năm 2003 lao động khai thác thủy sản chiếm 56,8% trong tổng số lao động; lao động nuôi trồng chiếm 26,5%; lao động dịch vụ chiếm 16,7%. Đến năm 2007 lao động khai thác chiếm 48,5%; lao động nuôi trồng chiếm 40,3%; lao động dịch vụ chiếm 11,2%. Như vậy, lao động khai thác và lao động chế biến, dịch vụ giảm, còn lao động nuôi trồng vẫn tiếp tục tăng.
Lao động nuôi trồng tăng qua các năm, năm 2004 chiếm 35,6%; năm 2005 là 34%; năm 2006 là 38,4%; năm 2007 là 40,3%. Như vậy có thể thấy được lao động nuôi trồng thuỷ sản không ngừng tăng lên, đây là một xu thế phát triển tất yếu khi mà tiềm năng về nuôi trồng thuỷ sản của Quảng Ninh rất lớn.
Tuy nhiên có một thực tế là trình độ học vấn của lao động thuỷ sản Quảng Ninh còn ở trình độ thấp so với mặt bằng chung của cả nước. Theo báo cáo điều tra năm 2001, 2002 trong số lao động làm nghề thuỷ sản ở Quảng Ninh có: Trên 10% lao động chưa biết chữ, 69,8% người có trình độ cấp I, 14,8% có trình độ hết cấp II, 5,3% có trình độ cấp III. Đây là một khó khăn trong việc đào tạo nâng cao trình độ để tiếp nhận khoa hoc, kỹ thuật trong quá trình phát triển kinh tế thuỷ sản. Do vậy ngành thuỷ sản đang quan tâm đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động. Trong năm 2002 Sở thuỷ sản đã triển khai xây dựng đề án điều tra khảo sát nguồn nhân lực và phương hướng đào tạo phát triển nguồn nhân lực và phương hướng đào tạo phát triển nguồn nhân lực ngành Thuỷ sản Quảng Ninh đến năm 2010 để đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật và đào tạo lại đội ngũ cán bộ chuyên ngành về quản lý nhà nước, tin hoc, chính trị.
2. Thực trạng phát triển diện tích nuôi trồng thuỷ sản của Quảng Ninh.
2.1. Khả năng về diện tích nuôi trồng thuỷ sản.
Quảng Ninh là tỉnh có tiềm năng lớn để phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Diện tích đất, mặt nước phong phú, có nhiều hệ sinh thái đặc trưng như hệ sinh thái nước mặn, nước lợ, cửa sông, vùng triều, rừng ngập mặn ven biển… có các yếu tố môi trường thuận lợi để phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
Cụ thể là:
- Diện tích nước ngọt có khả năng nuôi trồng thuỷ sản là: 12.990 ha
- Diện tích rừng ngập mặn ven biển là: 43.093 ha; trong đó diện tích có khả năng nuôi trồng thuỷ sản là: 20.000 ha
- Diện tích eo biển kín gió xen kẽ các đảo nhỏ của vịnh có trên 20.000 ha, môi trường sạch có thể phát triển nuôi cá lồng bè trên biển quanh năm với nhiều loài hải sản quý hiếm.
- Các vùng cao triều có ._. triển khai các chương trình khuyến ngư: tập huấn, thông tin tuyên truyền, trình diễn các mô hình… còn chậm, lực lượng cán bộ khuyến ngư còn mỏng, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trên địa bàn rộng khắp toàn Tỉnh.
+ Về sản xuất và cung ứng con giống thì chưa tạo được tính chủ động trong sản xuất giống cá biển và nhuyễn thể, hầu như chỉ dựa vào khai thác tự nhiên, nhập từ tỉnh ngoài. Việc sản xuất một số đối tượng nuôi như: cá giò, vẹm xanh, cá song, tu hài... hầu như mới được triển khai, số lượng cung ứng còn hạn chế. Sản xuất tôm giống tuy đã có những thành công nhất định song việc cung ứng còn nhiều bất cập, khả năng đáp ứng kịp thời nuôi trong Tỉnh chưa cao, do thiếu các trại ương giống quy mô vừa và nhỏ.
+ Việc xây dựng quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản tại các địa phương còn chậm. Nhiều địa phương sau khi đã có quy hoạch nhưng việc giám sát thực hiện quy hoạch còn hạn chế, tình trạng cơ sở nuôi đào đắp ao, đầm chưa theo quy hoạch, không có thiết kế kỹ thuật diễn ra phổ biến. Diện tích nuôi thâm canh, bán thâm canh còn thấp so với tổng diện tích nuôi dẫn tới năng suất, sản lượng chưa cao.
2.2. Nguyên nhân
- Việc triển khai các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế thuỷ sản nhà nước còn hạn chế: Công tác xây dựng và triển khai quy hoạch phát triển kinh tế thuỷ sản ở các địa phương còn chậm; cơ chế chuyển dịch cơ cấu ngành nghề từ nông nghiệp, khia thác sang nuôi trồng thuỷ sản còn hạn chế; việc sử dụng diện tích nuôi trồng thuỷ sản ơ rmột số địa phương còn chưa hợp lý
- Công tác ứng dung tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nuôi trồng thuỷ sản còn chưa được quan tâm đầu tư nhiều.
- Nguồn nhân lực trong nhiều năm qua ít đwocj qaun tâm đào tạo, tình độ chuyên môn, kỹ thuật của nông, ngư dân còn thấp.
- Thị trường thuỷ sản bấp bệnh, những rào cản về kỹ thuật đã trực tiếp ảnh hưởng đến phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN CỦA TỈNH QUẢNG NINH.
I. Quan điểm về phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
Trong xu thế đất nước hòa nhập vào nền kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam cũng đang có những sự chuyển biến mạnh mẽ. Đặc biệt trong ngành nông nghiệp thì ngành thuỷ sản ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn. Ngành thuỷ sản ngày càng đóng một một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của nước ta. Tuy nhiên, có một vấn đề cần đựơc quan tâm hơn nữa là phát triển ngành thuỷ sản nói chung và ngành nuôi trồng thuỷ sản nói riêng như thế nào để xứng đáng với tiềm năng hiện có.
Quảng Ninh là một tỉnh có tiềm năng về nuôi trồng thuỷ sản rất lớn, tuy nhiên hoạt động nuôi trồng thuỷ sản chưa phát huy được tối đa những tiềm năng đó. Việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản còn ồ ạt, thiếu đồng bộ… Do vây, phát triển nhanh và bền vững, đây là một nhiệm vụ không đơn giản chút nào.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thuỷ sản luôn phải gắn liền với công nghiệp hoá - hiện đại hoá trên cơ sở tăng cường đổi mới và đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sau thu hoạch. Cùng với việc duy trì và phục hồi nguồn giống thuỷ sản tự nhiện, cần phát triển ổn định và chủ động sản xuất giống thuỷ sản đối với các loài nuôi chủ lực. Đảm bảo cân bằng, sử dụng hợp lý và bảo vệ các hệ sinh thái quan trọng đối với phát triển ngành thuỷ sản, ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ tiên tiến trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất, phát triển và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, khuyến khích chuyển đổi cơ cấu kinh tế thuỷ sản và mở rộng hình thức nuôi sinh thái.
Phát triển bền vững và hiệu quả không chỉ là hướng đi của riêng ngành thuỷ sản mà là nhiệm vụ trọng tâm của tất cả các ngành nghề. Một khi làm được điều này nó sẽ giúp cho toàn ngành thuỷ sản phát triển ổn định, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, đưa nền kinh tế trong nước bắt kịp với sự phát triển của thế giới. Tuy nhiên để làm được điều này đòi hỏi toàn ngành thuỷ sản phải nỗ lực vượt bậc, đặc biệt phải chú ý đến yếu tố con người trong mục tiêu phát triển và quản lý ngành, có như vậy nhận thức mới ngày càng được nâng cao và đảm bảo cho ngành ngày càng phát triển có hiệu quả và bền vững trong bối cảnh hội nhập.
II. Phương hướng và mục tiêu phát triển nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
1. Định hướng phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
Định hướng phát triển nuôi trồng thuỷ sản của Tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 là:
+ Phát huy các lợi thế về địa lý, ưu thế về tiềm năng thuỷ sản trên địa bàn Tỉnh để phát triển kinh tế thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá và xuất khẩu đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
+ Tăng cường công tác hướng dẫn, quản lý, chỉ đạo đối với các hoạt động sản xuất cung ứng giống, nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là các đối tượng nuôi nhuyễn thể trên biển, nuôi thuỷ sản trong ao, đầm nước mặn. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước lợ trong đó có tôm Sú, tôm Chân trắng và nhuyễn thể là chủ lực. Gắn phát triển nuôi trồng thuỷ sản với việc thực hiện đẩy mạnh các hoạt động thị trường xuất khẩu, nhằm nâng cao giá trị kim ngạch. Sử dụng hợp lý, tổng hợp các vùng nước hồ chứa để phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
+ Khuyến khích tạo điều kiện để phát triển dịch vụ thuỷ sản, trong đó chú trọng sản xuất con giống tại chỗ và sản xuất các đối tượng nhuyễn thể, cá biển, các đối tượng nuôi mới; dịch vụ về thức ăn, hoá chất, chế phẩm sinh học…tạo điều kiện cho nông dân, ngư dân có nhiều sự lựa chọn về sản phẩm.
+ Nâng cao hiệu quả nuôi trồng bằng các hình thức tăng sản lượng nuôi theo hướng tăng năng suất nuôi trồng, tăng chất lượng sản phẩm, tăng các đối tượng có giá trị kinh tế cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, hạ giá thành sản phẩm. Phát triển các hình thức và phương thức nuôi phù hợp với điều kiện sinh thái cụ thể của từng địa phương theo hướng tạo sản phẩm sạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, tạo sản phẩm hàng hoá đủ sức cạnh tranh hội nhập.
+ Ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ nuôi phù hợp theo phương thức nuôi công nghiệp tạo sản phẩm hàng hoá lớn đủ sức cạnh tranh hội nhập.
+Tiếp tục chỉ đạo, đôn đốc, rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể, chi tiết vùng nuôi trồng thuỷ sản tại các địa phương theo hướng ổn định va fpáht triển bền vững, gắn chặt với bảo vệ rừng ngập mặn, bảo vệ môi trường sinh thái và nguồn lợi thuỷ sản.
2. Mục tiêu phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
Để thực hiện thắng lợi nghị quyết Nghị quyết số: 17 - NQ/ TU ngày 28/7/2003 của ban Thường vụ Tỉnh uỷ về “ phát triển kinh tế thuỷ sản đến năm 2010”, phấn đấu đưa ngành Thuỷ sản tở thành ngành kinh tế quan trọng của Tỉnh, năm 2010 ngành thuỷ sản Quảng Ninh phấn đấu thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
Tổng sản lượng thuỷ sản đạt 71.000 tấn; trong đó
+ Sản lượng nuôi trồng: 33.000 tấn
+ Sản lượng khai thác đạt: 38.000 tấn
- Giá trị kim ngạch thuỷ sản xuất khẩu đạt 70 - 80 triệu USD.
3. Nhiệm vụ.
Để đạt được kết quả trên, tỉnh Quảng Ninh phải đưa 21.670 ha diện tích vào nuôi trồng thuỷ sản các loại; đồng thời phải tập trung triển khai một số nhiệm vụ chủ yếu như sau:
- Điều chỉnh quy hoạch phát triển tổng thể ngành thuỷ sản Quảng Ninh đến năm 2010 cho phù hợp; đồng thời chỉ đạo xây dựng xong quy hoạch phát triển kinh tế thuỷ sản của các địa phương.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu đối tượng, mùa vụ trong nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt cần tập trung phát triển một số đối tượng nuôi phục vụ mục tiêu xuất khẩu như: tôm Sú, tôm Chân trắng, cá Song, cá Giò…
- Hướng dẫn, chỉ đạo việc xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế thuỷ sản tại các địa phương: Hải Hà, Đầm Hà, Cẩm Phả, Cô Tô. Bên cạnh đó cần chỉ đạo các địa phương đã có quy hoạch rà soát, đánh giá, điều chỉnh và đôn đốc triển khai thực hiện các dự án đầu tư nuôi trồng thuỷ sản, dự án chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả, trên cơ sở đó tìm ra những tồn tại, khó khăn và bàn biện pháp khắc phục.
- Điều chỉnh quy hoạch phát triển tổng thể ngành thuỷ sản Quảng Ninh đến năm 2010 cho phù hợp; đồng thời chỉ đạo xây dựng xong quy hoạch phát triển kinh tế thuỷ sản của các địa phương.
- Đề xuất các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển kinh tế thuỷ sản Quảng Ninh; xây dựng chương trình xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu và đặc biệt quan tâm phát triển thị trường nội địa.
III. Một số giải pháp phát triển nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Quảng Ninh.
1. Nhóm giải pháp về kinh tế - kỹ thuật.
1.1. Giải pháp về quy hoạch.
Quy hoạch đóng một vai trò quan trọng đối với hoạt động nuôi trồng thuỷ sản. Nó có ý nghĩa như kim chỉ nam mở đường cho sự phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Tuy nhiên, một thực tế xảy ra là ở tỉnh Quảng Ninh là tình trạng phát triển nuôi trồng thuỷ sản chưa theo quy hoạch. Đó là tình trạng nuôi trồng thuỷ sản phát triển trước còn quy hoạch lại được xây dựng và triển khai sau. Điều này đã làm cho quy hoạch không phát huy được vai trò dẫn đường của mình, làm cho nuôi trồng thuỷ sản tại một số địa phưong trên địa bàn Tỉnh phát triển một cách tự phát, ảnh hưởng nhiều đến kinh tế, xã hội, môi trường. Do vậy, Tỉnh cần có những giải pháp hợp lý về quy hoạch để phục vụ cho nuôi trông thuỷ sản phát triển một cách bền vững.
- Phối hợp với Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh và đôn đốc các dự án đầu tư nuôi trồng thuỷ sản, dự án chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả. Trên cơ sở đó tìm ra những tồn tại, khó khăn và bàn biện pháp khắc phục.
- Trên cơ sở định hướng mục tiêu phát triển cần xác định cụ thể đối tượng nuôi cho từng vùng, kết hợp việc quan trắc môi trường, bảo tồn rừng ngập mặn, phân bổ và thiết kế trại sản xuất giống có quy mô nhỏ trên các điạ bàn phù hợp với từng vùng nuôi.
1.2. Giải pháp về thị trường.
Nuôi trồng thuỷ sản là một ngành sản xuất mà thị trường đầu vào và thị trường đầu ra là những yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển. Thị trường đầu vào bao gồm các nhân tố: giống, thức ăn, công nghệ, kỹ thuật nuôi. Thị trường đầu ra là các nhà máy chế biến, các chợ tiêu thụ sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản tươi sống trong và ngoài nước. Muốn phát triển nghề nuôi trông thuỷ sản, Tỉnh Quảng Ninh không chỉ quan tâm tới việc đầu tư cho hoạt động nuôi trồng thuỷ sản mà cần phải có những chiến lược và hướng đầu tư đúng đắn để mở rộng và phát triển thị trường đầu ra này. Đó là việc đầu tư vào các trại sản xuất giống có công nghệ sinh sản giống nhân tạo hiện đại, sạch bệnh, quá trình sinh trưởng và phát triển nhanh làm tăng năng suất, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản cũng cần được quan tâm chú ý đầu tư để đảm bảo nhu cầu về số lượng và chất lượng thức ăn sản xuất, giá thành hợp lý.
Do vậy, một số giải pháp để mở rộng thị trường đầu ra cho nuôi trồng thuỷ sản của tỉnh Quảng Ninh là:
- Nâng cao chất lượng sản phẩm nuôi trồng, thực hiện tốt quy trình nuôi cá sạch, chỉ đạo phát triển đối tượng nuôi trồng có giá trị, nhất là những giống loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu.
- Xây dựng một cơ cấu vật nuôi hợp lý, đa dạng, đạt hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với nhu cầu của ngành chế biến thuỷ sản. Cần có sự liên kết chặt chẽ giữa nuôi trồng thuỷ sản và chế biến thuỷ sản để có sự phát triển đồng bộ, hợp lý giữa hai khâu này. Thông qua chế biến, nuôi trồng thuỷ sản sẽ có được những thông tin về xu thế thị trường, từ đó có những kế hoạch nuôi trồng thuỷ sản cho phù hợp.
- Để mở rộng và phát triển thị trường tốt, việc cần thiết là tìm kiếm lợi thế cạnh tranh tên thị trường trong nước cũng như thi trường nước ngoài cho từng chủng loại mặt hàng. Đối với mặt hàng tươi sống, để tiêu thị nhanh với chất lượng và giá trị dinh dưỡng không bị thất thoát, cần có hướng đầu tư vào các nhà hàng thuỷ sản đặc sản nhằm giới thiệu các đặc sản thuỷ sản trong Tỉnh, đặc biệt là phát riển các nhà hàng thuỷ sản ở các khu du lịch nổi tiếng của tỉnh Quảng Ninh như: khu nghỉ mát Bãi Cháy, Trà Cổ.
- Thiết lập mạng lưới tiêu thụ sản phẩm trên toàn Tỉnh và đồng thời mở rộng việc tìm kiếm, khai thác thị trường mới.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm nuôi trồng, thực hiện tốt quy trình nuôi cá sạch, chỉ đạo phát triển đối tượng nuôi trồng có giá trị, nhất là những giống loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu.
1.3. Giải pháp về giống.
Có thể khẳng định giống đóng một vai trò hết sức quan trọng quyết định đến năng suất, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản. Để phát triển mạnh hoạt động nuôi trồng thuỷ sản trong Tỉnh, công tác giống trong thời gian tới cần đảm bảo đủ về số lượng cho nhu cầu nuôi trồng, mặt khác chất lượng giống phải đảm bảo để có thể đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Các giải pháp cụ thể là:
Đẩy mạnh việc bảo vệ và phát triển các nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên, các hệ sinh thái và sự đa dạng sinh học nhằm duy trì nguồn vốn gen đa dạng, phục vụ cho việc cung cấp các giống thuỷ sản ổn định, chất lượng cho sự phát triển nuôi trồng thuỷ sản bền vững của Tỉnh.
Tập trung chỉ đạo hướng dẫn các đơn vị sản xuất và cung ứng giống trên địa bàn Tỉnh hoàn thiện hoàn thiện hệ thống trại sản xuất giống, tăng cường trang thiết bị hiện đại, tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến nhằm đáp ứng nhu cầu con giống về số lượng, chất lượng kịp thời vụ.
Xây dựng các trại sản xuất giống có công suất nhỏ, bố trí đồng đều ở các đại phương, tập trung sản xuất đảm bảo chất lượng, sạch bệnh, sức đề kháng cao. Tăng cường nhập giống bố mẹ đạt tiêu chuẩn để sản xuất giống tại chỗ, hạn chế nhập ấu trùng từ Trung Quốc. Con giống trước lúc xuất ra khỏi trại phải được kiểm dịch đầy đủ.
Trên cơ sở nhu cầu tiêu thụ giống của các địa phương lớn hơn so với khả năng sản xuất, cung ứng giống của các trại. Uỷ ban nhân dân của các huyện, thị xã, thành phố, Chi cục bảo vệ nguồn lợi và thú y thuỷ sản cần tập trung hướng dẫn, tạo điều kiện cho các hộ mua giống ở các tỉnh ngoài đạt kết quả tốt.
1.4. Giải pháp về thức ăn.
Ngoài giống thì thức ăn cũng đóng một vai trò quan trọng trong nuôi trồng thuỷ sản. Thức ăn cung cấp chất dinh dưỡng giúp cho quá trình sinh trưởng và phát triển đối tượng nuôi. Khi sản lượng nuôi trồng thuỷ sản của Tỉnh tăng lên qua các năm, thì vấn đề về thức ăn lại càng được đạt ra một cách cấp thiết. Để đáp ứng đủ lượng thức ăn huyện cần có những giải pháp cụ thể như:
- Các huyện, thị xã cần tập trung chỉ đạo hướng dẫn các đơn vị sản xuất và cung ứng trên địa bàn tỉnh hoàn thiện hệ thống trại sản xuất, tăng cường trang thiết bị hiện đại, tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sản xuất giống tiên tiến nhầm đáp ứng nhu cầu con giống về số lượng, chất lượng và kịp thời vụ.
- Xây dựng các trại sản xuất giống có công suất nhỏ, bố trí đồng đều ở các địa phương, tập trung sản xuất giống đảm bảo chất lượng, sạch bệnh, sức đề kháng cao. Tăng cường nhập giống bố mẹ đạt tiêu chuẩn để sản xuất giống tại chỗ, hạn chế nhập ấu trùng từ Trung Quốc. Con giống trước lúc xuất ra khỏi trại phải được kiểm dịch đầy đủ.
Trên cơ sở nhu cầu tiêu thụ giống của các địa phương lớn hơn so với khả khả năng sản xuất, cung ứng giống của các trại. UBND các huyện, thị xã, thành phố , chi cục BVNL và thú y thuỷ sản tập trung hướng dẫn, tạo điều kiện cho các hộ mua giống ở các tỉnh ngoài đạt kết quả tốt.
1.5. Giải pháp về khoa học, công nghệ.
Xã hội ngày càng phát triển, kéo theo đó là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà khoa học và công nghệ đang phát triển không ngừng. Và nó đang, đã, và sẽ được áp dụng vào bất cứ một ngành, một lĩnh vực nào trong cuộc sống. Sự ra đời của khoa học và công nghệ đã làm thay đổi cuộc sống của con người Nhờ việc ứng dung những tiến bộ này mà các ngành sản xuất vật chất ngày càng phát triển hơn. Trong họat động nuôi trồng thuỷ sản, khoa học công nghệ cũng đóng vai trò quan trọng, nhờ đó mà người ta tạo ra được những giống loaì thuỷ sản có chất lượng tốt, có khả năng đem lại giá trị kinh tế cao. Vì vậy một số giải pháp để nuôi trồng thuỷ sản của Tỉnh ngày cang phát triển hơn nữa là:
- Tập trung nghiên cứu ứng dụng công nghệ sản xuất giống chất lượng cao, sản xuất giống sinh trưởng nhanh, kháng bệnh tốt… Nghiên cứu hoàn thiện những mô hình nuôi đối tượng mới, mô hình nuôi an toàn, sạch bệnh, loại bỏ được dư lượng hoá chất kháng sinh bị cấm ử dụng trong sản xuất htuỷ sản, từ đó xây dựng côngnghệ tiên tiến cho nuôi trồng thuỷ sản mang tính sản xuất hàng hoá một số đối tượng chủ lực nhu hiện nay.
- Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật tổng hợp nhằm kiểm soát và phòng trừ dịch bệnh trong nuôi trồng thuỷ sản , phát triển và mở rộng ứng dụng các kỹ thuật hiện đại chẩn đoán và xử lý kịp thời bệnh nguy hiểm ở động vật thuỷ sản.
- Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ xử lý nước thải, môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản.
- Nghiên cứu ứng dụng công nghệ bảo quản sau thu hoạch các sản phẩm nuôi.
- Nghiên cứu, xây dựng các định mức kinh tế - kỹ thuật, tiêu chuẩn, quy chế phục vụ cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
1.6. Giải pháp về công tác khuyến ngư.
Công tác khuyến ngư được coi là chiếc cầu nối giữa tiến bộ khoa học kỹ thuật, chính sách, thị trường với những ngưòi tham gia nuôi trồng thuỷ sản. Đẩy mạnh đầu tư cho công tác khuyến ngư được coi nhu là một tong những giải pháp quan trọng trong nuôi trồng thuỷ sản của Tỉnh. Một số giải pháp là:
Tăng cường hình thức khuyến ngư thông qua xây dựng các mô hình trình diễn về công nghệ nuôi tạo sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, các mô hình về quản lý cộng đồng, các mô hình sản xuất và nuôi giống mới. Mô hình về tổ chức, quản lý sản xuất, chính sách, thị trường, mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Tiếp tục chuyển giao công nghệ sản xuất nuôi giống mới, có giá trị kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước cho các thành phần kinh tế để góp phần đảm bảo cung cấp đủ giống với chất lượng cao, giá cả hợp lý cho nhu cầu nuôi các loại mặt nước.
Tăng cường phối hợp với các địa phương tổng kết, đánh giá kết quả các mô hình sản xuất giống và nuôi thuỷ sản thương phẩm có hiệu quả nhằm phổ biến và nhân rộng.
Quan hệ, khuyến khích các tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước tham gia vào hoạt động khuyến ngư rộng khắp, thông tin nhanh, kịp thời những kiến thức khoa học kỹ năng sản xuất đến từng đơn vị sản xuất nuôi trồng thuỷ sản.
2. Nhóm giải pháp về xã hội, môi trường.
2.1. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực.
Trong bất cứ ngành sản xuất vật chất nào, nguồn nhân lực cũng đóng một vai trò quan trọng. Nguồn nhân lực ở đây bao gồm: Các cán bộ khoa học làm việc trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản và những người nông dân trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực này. Muốn phát triển nuôi trồng thuỷ sản có hiệu quả đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực gồm các cán bộ khoa học có trình độ cao và đội ngũ kỹ thuật viên thực hành giỏi làm nòng cốt hướng dẫn cách thức nuôi trồng thuỷ sản tới các hộ nông dân.
Mặt khác cần phải nâng cao trình độ kỹ thuật cho người nuôi trồng thuỷ sản thông qua các lớp tập huấn ngắn hạn tại đơn vị, giúp họ có thể hiểu được cơ bản kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản. Đồng thời phải thường xuyên mở các lớp đào tạo ngắn hạn, phục vụ cho nhu cầu học tập của dân cư, giúp họ tiếp thu những tiến bộ khoa học và công nghệ đang từng ngày, từng ngày thay đổi để có thể ứng dụng nó vào hoạt động nuôi trồng thuỷ sản của mình. Điều đó giúp những người nuôi trồng thuỷ sản tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình mình.
2.2. Giải pháp về môi trường.
Việc phát triển các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã làm nảy sinh những vấn đề về ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng đến môi trường nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn Tỉnh. Các hoạt động như khai thác than, sản xuất vật liệu xây dựng gạch,ngói, xi măng… đã làm cho môi trường nước phục vụ nuôi trồng thuỷ sản ảnh hưởng không nhỏ.
Ở một cách tiếp cận khác,việc nuôi trồng thuỷ sản trong Tỉnh đặc biệt là nuôi trồng thuỷ sản ven biển không theo quy hoạch khiến cho dịch bệnh bùng phát và tác động ngược trở lại môi trường như làm thay đổi bãi triều, đầm phá hoang hoá hay bãi cát ven biển. Việc thực hiện chuyển diạch cơ cấu kinh tế đưa diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản, phát triển nuôi trồng thuỷ sản dẫn đến mất rừng ngập mặn, mất bãi đẻ tự nhiên của các thuỷ sản và phá vỡ cảnh quan vùng ven biển.
Hơn thế nữa, chính việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản một cách ồ ạt , thiếu bền vững trong nuôi trồng thuỷ sản là một vấn đề hiện nay đang được các ngành các cấp có liên quan cần quan tâm xem xét. Chính sự phát triển này đã tự bản thân nó là huỷ hoại môi trường, ảnh hưởng nghiêm trong đến chất lượng nước phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản.
Vì vậy, một số giải pháp về môi trường được đặt ra giúp cho nuôi trồng thuỷ sản phát triển một cách ổn định và bền vững là:
- Chỉ đạo, động viên các doanh nghiệp chế biến có chính sách gắn bó trong việc xây dựng vùng nguyên liệu, tích cực tham gia đầu tư, hỗ trợ đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản. Thúc đẩy tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa người chế biến và người nuôi trên cơ sở cam kết, chia sẻ quyền lợi. Nâng cao năng lực, đổi mới dây chuyền công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm, áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, ổn định và đi sâu vào các thị trường truyền thống, tăng cường các biện pháp xúc tiến thương mại, mở rộng các thị trường trong và ngoài nước.
- Đa dạng hoá hình thức và đối tượng nuôi trồng thuỷ sản.
- Quản lý chặt chẽ hơn trong việc sản xuất, buôn bán và sử dụng các đầu vào cho nuôi trồng thuỷ sản như: thức ăn, thuốc phòng bệnh, chất bảo quản để giảm bớt ảnh hưởng tới nguồn nước.
- Tăng cường nhận thức cho người dân về môi trường và các phương thức bảo vệ môi trường. Bởi chính họ là những người đã, đang và sẽ tác động trực tiếp đến môi trường, gây ảnh hưởng đến chinh hoạt động nuôi trồng của họ. vì vậy, cần phải gắn trách nhiệm của hộ nuôi trồng thuỷ sản, người dân, chủ trang trại, doanh nghiệp vào quản lý môi trường.
- Cải tiến quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản ven biển. Để định hướng phát triển nuôi trồng thuỷ sản ven biển bền vững, quy hoạch phát riển nuôi trồng thuỷ sản ven biển thường được xây dựng cho từng giai đoạn cụ thể.
- Nâng cao năng lực nhận thức cho các bên tham gia. Để đảm bảo phát triển bền vững, sớm tháo gỡ các thử thách đang đặt ra phía trước đòi hỏi phải huy động và tạo điều kiện để các bên được tham gia và đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng, cũng như thực hiện và đánh giá hoạt đông nuôi trồng thuỷ sản ven biển. Đặc biệt, việc nâng cao năng lực quản lý môi trường, chuyển tải thông tin liên quan cho cán bộ quản lý các cấp, cộng đồng địa phương và người dân trở nên rất cần thiết. Việc phát riển nuôi trồng thuỷ sản cần được quan tâm cân nhắc chu đáo, không đơn thuần chỉ mở rộng diện tích và sản lượng nuôi. Cần hướng tới nhiều biện pháp đồng bộ như giảm thiểu các tác động môi trường, sản xuất theo quy trình sạch, giữ vững thị trường quốc tế.
3. Về công tác chỉ đạo.
Công tác chỉ đạo đóng vai trò dẫn đường, là kim chỉ nam cho hoạt động nuôi trồng thuỷ sản diễn ra ổn định và phát triển bền vững. Về công tác chỉ đạo cần thực hiện một số công tác như:
+ Chỉ đạo rà soát tình hình hiệu quả nuôi sau chuyển đổi để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Với những diện tích trong quy hoạch xây dựng sẽ chuển đổi nếu xét thấy hiệu quả chưa cao, hệ thống thuỷ lợi, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng thì điều chỉnh lại tiến độ hoặc tạm dừng chuyển đổi, để tiếp tục sản xuất nông nghiệp. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng nâng cao năng lực cạnh trnah trong nước va fhội nhập.
+ Chỉ đạo phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng mạnh vào các đối tượng nước lợ và nuôi biển, đồng thời phát triển nuôi thuỷ sản nước ngọt, phát triển đa loài, đa phương thức nuôi và các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao và có khả năng xuất khẩu.
+ Chỉ đạo chặt chẽ mùa vụ sản xuất giống, mùa vụ thả nuôi nhất là đối với tôm nước lợ để giảm thiểu áp lực về nhu cầu con giống, giảm thiểu diện tích nuôi tôm bị chết thả lại.
+ Chỉ đạo tăng cường công tác quản lý chất lượng con giống, an toàn vệ sinh thú y thuỷ sản.
+ Tăng cường công tác khuyến ngư về tuyên truyền, tập huấn phổ biến kiến thức về kỹ thuật nuôi, sản xuất giống, bảo quản sản phẩm, mô hình trình diễn để phổ biến nhân rộng.
4. Về công tác nuôi trồng thuỷ sản.
a. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu đối tượng, mùa vụ trong nuôiỦCồng thuỷ sản, đặc biệt cần tập phát triển một số đối tượng nuôi phục vụ mục tiêu xuất khẩu như: hầu biển, cá rô phi, tôm sú, tôm chân trắng, tôm hùm…
b. Tiếp tục chuyển đổi vùng sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản. Đồng thời hướng dẫn, chỉ đạo việc triển khai kỹ thuật nuôi, xây dựng mô hình điểm, mô hình nuôi các đối tượng mới phù hợp với các vùng mới chuyển đổi đạt năng suất cao, hiệu quả kinh tế lớn.
c. Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản bằng giàn bè, lồng lưới, ao đầm, rào chắn, lưới chắn tên các eo vịnh kín sóng gió: nuôi cá nước ngọt ở các vùng chuyển đổi Đông Triều, Uông Bí,Yên Hưng; phát triển nuôi tôm hùm ở Cô Tô; nuôi Tu hài, Điệp quạt, Hầu biển, Trai ngọc ở Vân Đồn… nhằm tận dụng và phát huy hiệu quả diện tích mặt nước để tạo ra nguyên liệu phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu
d. Huy động và sử dụng tối đa các yếu tố nguồn lực để phát triển nuôi trông thuỷ sản, ưu tiên đầu tư thuỷ lợi cho các vùng nuôi thuỷ sản tập trung, tăng diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh hợp lý. Đa dạng hoá loại hình nuôi và đối tượng nuôi theo hướng bền vững phù hợp với điều kiện tự nhiên, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
e. Chỉ đạo, động viên các doanh nghiệp chế biến có chính sách gắn bó trong việc xây dựng vùng nguyên liệu, tích cực tham gia đầu tư, hỗ trợ đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản. Thúc đẩy tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa người chế biến và người nuôi trồng.
IV. Đề xuất và kiến nghị.
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản là lưọi thế của Quảng Ninh. Để nuôi trồng thuỷ sản phát triển nhanh và bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu thì:
Đề nghị Bộ thuỷ sản chuyển giao các công nghệ về sản xuất giống nhuyễn thể, giống cá biển, giống cá biển và một số đối tượng khác nuôi mới. Ban hành quy định kiểm dịch con giống không rõ nguồn gốc. Xây dựng trại giống cấp một tại tỉnh Quảng Ninh để nhằm đáp ứng nhu cầu con giống hiện nay đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng. Đồng thời sản xuất ra nhiều giống nuôi mới phục vụ và đẩy mạnh nghề nuôi trồng thuỷ sản ở Quảng ninh.
Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh quan tâm bố bố trí vốn ngân sách của Tỉnh cho các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng các vùng nuôi thuỷ sản tập trung, vùng chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản,các dự án đầu tư xây dựng trại sản xuất giống, thức ăn, chế phẩm sinh học phục vụ cho nuôi thuỷ sản. Kinh phí cho cac shoạt động khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực của ngành.
KẾT LUẬN
Nuôi trồng thuỷ sản ở Tỉnh Quảng Ninh đã mang lại những hiệu quả rất lớn đối với cuộc sống của người dân trên địa bàn Tỉnh. Việc phát triển và mở rộng diện tích đất nuôi trồng thuỷ sản thông qua việc chuyển đổi diện tích làm tăng năng suất và sản lượng nuôi trồng. Đây là một thành công trong hoạt động nuôi trồng thuỷ sản của Tỉnh. Nuôi trồng thuỷ sản tận dụng được những diện tích đất không sử dụng được cho hoạt động sản xuất nông nghiệp hoặc sản xuất không có hiệu quả, tạo điều kiện phát triển nền kinh tế một cách toàn diện trên địa bàn Tỉnh. Tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích, nâng cao đời sống nhân dân. Ngoài ra nuôi trồng thuỷ sản còn góp phần nâng cao trình độ tổ chức và quản lý kinh tế, trình độ khoa học kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản. Nuôi trồng thuỷ sản ở tỉnh Quảng Ninh trong những năm qua rất phát triển và thu được những thành quả đáng khích lệ. Song hiệu quả thu được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Để nuôi trồng thuỷ sản của Tỉnh phát triển thật sự phát huy được tiềm năng, trở thành mũi nhọn kinh tế của vùng, trong thời gian tới huyện cần có những chính sách cụ thể hơn nữa trong việc khuyến khích phát triển hoạt động nuôi trồng. Hơn nữa việc nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường trong hoạt động nuôi trồng thuỷ sản cũng cần phải được quan tâm hơn nữa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình kinh tế nông nghiệp - NXB đại học kinh tế quốc dân.
2. Giáo trình kinh tế thuỷ sản - NXB lao động xã hội.
3. Góp phần phát triển bền vững nông thôn Việt Nam - NXB chính trị quốc gia.
4. Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn só tháng 7/2007.
5. Trang web : + www. Cema.gov.vn.
+ vietnamfood.com.vn.
+ www.mpi.gov.vn.
+ vst.vista.gov.vn.
+ www.monrenet.gov.vn.
+ www. Fistnet.gov.vn
+ www. Baoquangninh.com.vn.
6. Tạp chí kinh tế phát triển tháng 2/2005.
7. Báo cáo tổng hợp công tác nuôi trồng thuỷ sản năm 2004, phương hướng và nhiệm vụ năm 2005.
8 Báo các tổng kết công tác nuôi trồng thuỷ sản năm 2005, phương hướng và nhiệm vụ năm 2006.
9. Báo cáo tổng kết công tác nuôi trồng và sản xuất cung ứng giốg thuỷ sản năm 2006, phương hướng và nhiệm vụ năm 2007.
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Nguồn lợi hải sản ở tỉnh Quảng Ninh. 26
Bảng 2: Cơ cấu GDP của tỉnh Quảng Ninh (%). 29
Bảng 3: Lao động phục vụ cho ngành thủy sản Quảng Ninh. 35
Bảng 4: Các giống loài thuỷ sản được nuôi trồng tại Quảng Ninh. 37
Bảng 5 : Biến động diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản của Tỉnh. 38
Bảng 6: Diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn tỉnh 40
Bảng 7: Diện tích nuôi tôm của Tỉnh từ năm 2003 - 2007. 42
Bảng 8: Diện tích nuôi nhuyễn thể. 43
Bảng 9 : Diện tích nuôi trồng thuỷ sản của các huyện, thị xã trong tỉnh năm 2007 44
Bảng10: Biến động sản lượng nuôi trồng thuỷ sản của Tỉnh qua các năm. 45
Bảng 11: Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản chung của toàn tỉnh giai đoạn 2003-2007 46
Bảng 12: Sản lượng nuôi trồng tôm của toàn Tỉnh giai đoạn 2003 - 2007. 47
Bảng 13: Sản lượng nuôi trồng của các huyện, thị xã trong tỉnh năm 2007 48
Bảng 14: Năng suất nuôi trồng một số đối tượng thuỷ sản của Tỉnh 49
Bảng 15: Cơ cấu sản lượng sản phẩm thuỷ sản tỉnh Quảng Ninh 2003 - 2007 50
Bảng 16: Tình hình sản xuất giống thuỷ sản ở Quảng Ninh. 52
Bảng 17: Số ô lồng nuôi cá biển của tỉnh 55
Bảng 18: Các chỉ tiêu kết quả và hiệu quả đạt được. 56
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11323.doc