A.Lời mở đầu
Vấn đề nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà kinh tế trong nhiều năm qua . Vì vậy ở nước ta đang trong thời kì đổi mới ,việc nghiên cứu vấn đề trên là rất cần thiết , nó giúp nhà nước tìm được một mô hình quản lí kinh tế vĩ mô thích hợp và có hiệu quả hơn
Trong đại hội khoá x của đảng có đề câp tới vấn đề cho đảng viên làm kinh tế tư nhân , lần lượt cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Những điều đó chứng tỏ đảng đã đề cao va
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i trò nền kinh tế thị trường trong sự nghiệp phát triển đất nước , có sự thay đổi hợp lí phù hợp với sự vận động của nền kinh tế thế giới.
Xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yếu tố cơ bản của quá trình đổi mới quản lí kinh tế ở nước ta .trong nhiều năm qua nhờ có sự đổi mới đúng đắn của đảng nước ta từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường dịnh hướng XHCN đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đói nghèo , đời sống nhân dân được nâng cao .Với tốc độ tăng trưởng kinh tế đứng thứ nhì thế giới chỉ sau Trung Quốc đã khảng định dường đi đúng đắn của đảng và vai trò quan trọng của viêc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
Như vậy việc nhận thức điều đó là rất cần thiết em muốn dùng những kiến thức đã học của mình để phân tích vấn đề nêu trên nhằm đưa ra ý kiến của mình để cô xem xét , đánh giá phê bình giúp em đưa ra được những nhận thức và suy nghĩ đúng đắn có khoa ợnc hơn . Mặc dù đã cố gắng tìm tòi tài liệu ,nghiên cứu bài giảng nhưng không thể tránh khỏi những sai sót . Em mong cô chỉ bảo tận tình cho em để em có những bài nghiên cứu tốt hơn về sự phát triển kinh tế xã hội trong những năm tiếp theo.
Em xin chân thành cảm ơn.
B.Nội dung
I- Những lí luận chung về sự hình thành phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
1.Sự cần thiết khách quan về phát triển kinh tế thị truờng ở Việt Nam .
a.Kinh tế thị trường và những đặc điểm của kinh tế thị trường
Như đã biết vào cuối thời kì công xã nguyên thuỷ,đầu thời kì xã hội nô lệ loài người đã có một bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất . Trong sản xuất bắt đầu có sản xuất giá trị thặng dư , tức là phần sản phẩm sản xuất được vượt quá phần sản phẩm tất yếu do người sản xuất tạo ra . Những sản phẩm dư thừa ấy được người lao động tích luỹ và khi cần những sản phẩm khác họ lấy ra để trao đổi với nhau từ đó đã làm xuất hiện thị trường sơ khai.
Tuy nhiên , phải trải qua quá trìng phát triển lâu dài , mãi đến giai đoạn cuối xã hội phong kiến đầu xã hội TBCN kinh tế thị trường mới được xác lập , và phảI đến cuối giai đoạn phát triển của CNTB tự do cạnh tranh thì kinh tế thị trường mới được xác lập hoàn toàn . kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá trongđó toàn bộ yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường lấy tiền tệ làm môi giới . ở đâu có kinh tế hàng hoá thì ở đó có kinh tế thị trường
Như vậy kinh tế thị trường phát triển từ sơ khai đến hiện đại , là một công trình sáng tạo của loài người trong quá trình sản xuất và trao đổi , đó là trình độ văn minh mà nhân loại đạt được . Do đó mọi quan điểm cho rằng kinh tế thị trường là phát minh riêng của CNTB là không có căn cứ . Ngay trong vă kiện đại hội VIII của đảng ta đã khẳng định “Sản xuất hàng hoá là thành tựu văn minh chung của nhân loại “ chúng ta không chỉ kiên định “không bỏ qua kinh tế hàng hoá mà còn khẳng định kinh tế hàng hoá tồn tại khách quan cho đến khi CNXH được xây dựng . Và lần này trong dự thảo văn kiện đại hội X tiếp tục khẳng định “Dảng và nhà nước ta chủ trương thưc hiện nhất quán và lau dàI chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sư quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN .
b.Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
Sự phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi , mà tráI lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu . phân công lao động trong từng khu vực , từng địa phương cũng ngày càng phát triển . Sự phát triển của phân công lao động đươc thể hiện ở tính phong phú , đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra thị trường.
Trong nền kinh tế nước ta , tồn tại nhiều hình thức sở hữu , đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể , sở hữu tư nhân , sở hữu hỗn hợp . Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập , lợi ích riêng , nên quan hệ giữa họ chỉ có quan hệ hàng hoá tiền tệ .
Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể , tuy cùng dựa trên chế độ cônh hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định,có quyền tự chủ trong kinh doanh, có lợi ích riêng.mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có khác nhau về trình độ kỹ thuật - công nghệ ,về trình độ tổ chức quản lí , nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau .
Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong nền quan hệ kinh tế đối ngoại , đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế dang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt , là người chủ sở hữu đối với hàng hoá đưa
ra trao đổi trên thị trường thế giới . Sự trao đổi ở đây phải dựa trên nguyên tắc trao đổi ngang giá.
Như vậy , khi kinh tế thị trường nước ta tồn tại tất yếu , khách quan , thì không thể lấy ý kiến chủ quan mà xoá bỏ nó được .
2.Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH còn mang nặng tính tự cung tư cấp ,vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tư nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá , thúc đẩy xã hội hoá sản xuất.
Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá , buộc chủ thể hàng hoá phải cải tiến kĩ thuật , áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất tới mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được giá cả đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội .
Trong nền kinh tế hàng hoá , người sản xuất phảI căn cứ vào nhu cầu người tiêu dùng của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì , với khối lượng bao nhiêu , chất lượng như thế nào. Do đó kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng , cải tiến mẫu mã, cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ .
Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá, đến lược nó sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy đươc tiềm năng, lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh với nước ngoài.
Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất , đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao; đồng thời chọn được người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lí có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của phát triển đất nước.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả vào tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Thực tiễn trong những năm đổi mới đã chứng minh ràng, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và vốn, kĩ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất góp phần vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.còn
Hiện nay nền kinh tế thj trường nước ta còn ở trình độ kém phát triển, kinh tế thị trường phát triển chưa đồng bộ bởi lẽ cơ sở vật chất kĩ thuật còn lạc hậu, thấp kém, nền kinh tế ít nhiều mang tính tự cung tự cấp ,cho nên với một thế giới phát triển như hiện nay để phát triển đất nước thì cần phải có một chính sách hợp lí và một trong những chính sách hợp lí đó là việc phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam, điều này là hết sức quan trọng và là một tất yếu ở nước ta.
3. Các loại thị trường ở Việt Nam
Cũng như ở nhiều nền kinh tế thị trường khác, cho đến nay các loại thị trường chính trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta được xác định gồm có:
vThị trường hàng hoá và dịch vụ
vThị trường tài chính
vThị trường lao động
vThị trường đất đai- bất động sản
vThị trường khoa học công nghệ
Ngoài ra theo thời gian, sẽ còn tiếp tục phát triển thêm các loại thị trường khác nữa.
4. Tính tất yếu phải phát triển đồng bộ các loại thị trường
Trong điều kiện kinh tế xã hội ở nước ta đang trong thời kì đổi mới, vào năm nay chúng ta sẽ gia nhập tổ chức thương mại WTO, khi đó nền kinh tế đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách mới, để đứng vững được trong cạnh tranh với những tập đoàn kinh tế lớn của thế giới đổ bộ vào Việt Nam thì không còn cách nào khác là chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường một cách đồng bộ, có như thế mới tạo được tiền đề vững chắc cho nền kinh tế của đất nước phát triển.
II. Thực trạng và giải pháp phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam
1. Thực trạng
a. Thực trạng chung về kinh tế thị trường ở Việt Nam
a.1. Giai đoạn trước năm 1986.
Từ năm 1975 đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất.cách mạng việt nam hoàn toàn chuyển sang giai đoạn mới,cả nước xây dựng CNXH. Đất nước ta đI lên CNXH từ điểm xuất phát rất thấp lại chịu ảnh hưởng nặng nề do chiến tranh lâu dài. Trong 15 năm nhân dân ta không ngừng phấn đấu vượt qua bao khó khăn thử thách , chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH, phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục y tế thiết lâp củng cố chính quyền nhân dân trong cả nước. Tuy nhiên nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng thấp kém, sản xuất nhỏ là chủ yếu và nặng nề tính tự cung tự cấp. Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như kết cấu hạ tầng kinh tế văn
hoá xã hội lạc hậu, mất cân đối, chưa tạo được tích luỹ trong nước trong nước và lệ thuộc nhiều vào bên ngoài. Cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả tiêu cực.Nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp.
Khủng khoảng kinh tế xã hội diễn ra nhiều năm với đặc trưng sản xuất chậm và không ổn định, lạm phát lên đến 774,7% năm 1986. Tài nguyên thiết bị lao động và tài năng được sử dụng thấp. đời sống nhân dân thiếu thốn, nếp sống văn hoá tinh hần và đạo đức kém lành mạnh, trật tự an toàn xã hội không được bảo đảm, tham nhũng nhiều, tệ nạn ngày một gia tăng.
Trên thực tế nước ta từ nghị quyết hội nghị lần thứ 6 ban chấp hành trung ương khoá IV (năm 1979) các quan hệ hàng hoá và tiền tệ đã được chấp nhận nhưng chỉ ở mức độ thứ yếu. Đó là do quá nhiều thập kỉ, qua tư tưởng kinh tế xã hội chủ nghĩa mang nặng thành kiến, quan hệ hàng hoá và cơ chế thị trường .Coi nó là biểu hiện thuộc tính của chế độ tư hữu và tư bản. Mặt khác là do chúng ta xây dựng CNXH theo mô hình rập khuôn giáo điều chủ quan duy ý chí các măt bố chí cơ cấu kinh tế thiếu về phát triển công nghiệp nặng, quy mô lớn, với xoá bỏ các hình thức kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, nặng hình thức phủ nhận nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường, bộ máy quan liêu cồng kềnh kém hiệu quả. Những sai lầm đó đã kìm hãm lực lượng sản xuất và nhiều động lực phát triển. Cuộc cải cách kinh tế bị đẩy lùi. Tư tưởng Lênin trong chính sách kinh tế Mac bị xem như bước lùi tạm thời bất đắc dĩ.
a.2. Giai đoạn năm 1986-1990
trước tình hình đó, đại hội VI đã có những tư tưởng đổi mới nhưng chưa đI nhanh vào cuộc sống, còn có lực cản, nền kinh tế tiếp tục gặp khó khăn trong những năm đầu, nhưng từ năm 1989 các biện pháp đổi mới như áp dụng chính sách lãi suất dươnh, xoá bỏ chế độ tem phiếu, loạibỏ một số khoản chi ngân sách bao cấp, mở rộng quan hệ thị trường… Đã thục sự đI vào cuộc sống và tạo chuyển biến rõ rệt làm cho nền kinh tế có nhiều khởi sắc. Ví dụ :như giai đoạn 1986-1990 đầu tư cho toàn xã hội tư bản là 12,5% GDP tăng trưởng trung bình là 3,9% , kim ngạch suất khẩu đạt 23tỷUSD/năm. Về mặt lạm phát thì năm 12986 là 774,7% đến năm 1990 giảm xuống còn 67,1%.
a.3. Giai đoạn từ 1991-2000:
Do mới có một số biện pháp đươc áp dụng vào cuối kì kế hoạch 1989-1990 nên kết quả thời kì này còn hạn chế. Song cáI được của thời kì này là chúng ta đã thực hiện chuyển đổi cơ chế mạnh mẽ, đến giai đoạn 1991-1995 sự chuyển đổi đó đã phát huy tác dụng và tạo nên thời phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Đại hội đảng VII (6\1991) với những quyết sách quan trọng như phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN có sự quản lí của nhà nước. Tiếp tục đổi mới cả về bề rộng lẫn chiều sâu kìm chế đẩy lùi lạm phát giữ vững và phát triển sản xuất, bắt tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Những quyết sách ấy được đưa ra trong thời điểm “ngàn cân treo sợi tóc “ trong bối cảnh quốc tế không thuận lợi, nguồn lực phát triển bị thiếu hụt … dường như đã tiếp thêm sức mạnh cho quá trình chuyển đổi nền kinh tế để góp phần đất nước thoát khỏi khủng khoảng .
tốc độ tăng trưởng GDP hàn năm đạt 2,8% (mục tiêu là 5-6,5%) trong đó nông nghiệp tăng 4,5%, công nghiệp và xây dựng cơ bản tăng 13,6% và dịch vụ tăng 8,8% lạm phát hạn chế ổn định ở mức thấp (bình quân 23,4%/năm)/.
b. Thực trạng về các loại thị trường
1.Thị trường hàng hoá và dịch vụ
Thị trường hàng hoá và dịch vụ được hình thành sơ khai ngay trong thời kì kế hoạch hoá tập trung và đến nay nó đã phát triển khá tốt. Thị trường này hoạt động ngày càng sôi động, lượng hàng hoá đưa vào lưu thông tăng liên tục, tốc dộ cao, đáp ứng được yêu cầu cơ bản của sản xuất và đời sống dân cư. Đã hình thành được thị trường thống nhất và thông suất trong cả nước, mở rộng và phát triển thị trường quốc tế, từng bước đưa thị trường trong nước hội nhập khu vực và quốc tế.
Thị trường này dã có đủ các thành phần kinh tế góp mặt và sự vân hành của nó, về cơ bản được tuân thủ theo các quy luật khách quan.
Tuy nhiên thị trường hàng hoá và dịch vụ cung đang đứng trước những thách thức về chất lượng và hiệu quả trong thế cạnh tranh với các nước, nó vẫn còn phân tán, manh mún, quy mô nhỏ, chất lượng hàng hoá kém,tính cạnh tranh cưa cao, sức mua còn thấp, hàng hoá ứ đọng khó tiêu thụ, trong khi hàng hoá nước ngoài tràn vào làm cho các doanh nghiẹp trong nước ngày càng khó khăn trong thế cạnh tranh.
Thị trường và sức mua phát triển không đồng đều trong phạm vi của nước ta. Sức mua thấp, đặc biệt là ở nông thôn vùng núi,vùng xa. Trong khi hàng hoá nước ta sản xuất khó tiêu thụ, thì tình trạng buôn lậu, hàng giả, hàng lậu lưu thông trên thị trường đang làm tổn hại đến lợi ích của người tiêu dùng và các doanh nghiệp.
Vấn đề quản lý của Nhà nước đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ còn nhiều bất cập. Việc quản lý thị trường hàng hoá và dịch vụ đang gặp khó khăn. Hệ thống chính sách pháp luật đã có nhiều tiến bộ nhưng tính đồng bộ còn yếu, việc phân tích dự báo thị trường chưa đi vào nề nếp và chưa thật chính xác.
2. Thị trường tài chính
Thị trường tiền tệ: Trước những năm 1990, hoạt động của tiền tệ, tín dụng va ngân hàng còn mang nặng tính bao cấp, gắn với biện pháp quản lý hành chính, pháp lệnh
Từ khi pháp lệnh ngân hàng ra đời năm 1990, các luật Ngân hàng Nhà nước và các luật tổ chức tín dụng năm 1997 có hiệu lực thì nó đã có những tác động tích cực tới sự phát triển của thị trường tiền tệ. Cùng với sự hình thành của các loại thị trường tiền tệ, một số công cụ trên thị trường tiền tệ Việt Nam cũng được hình thành đó là: Tín phiếu kho bạc , Tín phiếu ngân hàng Nhà nước, Thương phiếu, Kỳ phiếu ngân hàng thương mại( chứng chỉ tiền tệ).
Bên cạnh thị trường tiền tệ chính thức, thị trường ngoại tệ ngầm cũng phát triển. Hoạt động của thị trường ngoại tệ ngầm có một số tác động tích cực như đáp ứng nhu cầu giao dịch bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp một cách nhanh chóng trong điều kiện thị trường ngoại tệ chính thức chưa phát triển. Tuy nhiên hoạt động của thị trường tiền tệ ngầm nằm ngoài sự kiểm soát kiểm soát của Nhà nước, vì vậy làm giảm hiệu lực của việc thi hành chính sách tiền tệ, tạo điều kiện cho các hoạt động bất hợp pháp như tham nhũng, buôn lậu và chảy máu ngoại tệ.
Thị trường vốn:
Thị trường tín dụng trung và dài hạn đã có bước chuyển biến tích cực. Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng thương mại đã tăng lên đáng kể. Các công ty chứng khoán đều đã hoạt động ổn định, cơ cấu doanh thu của các công ty chứng khoán đã chuyển biến theo chiều hướng tích cực, nếu ngân hàng trước đây phần lớn doanh thu là từ lãi trên vốn kinh doanh thì hiện nay phàn lớn doanh thu từ trên nghiệp vụ môi giới.
Trong thời gian qua, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp quản lý thị trường khá hiệu quả, phù hợp với đặc điểm giai đoạn đầu của thị trường. Tuy nhiên một số quyết định còn mang tính hành chính, vì vậy trong nhiều trường hợp chưa theo kịp và điều chỉnh thị trường một cách hiệu quả
Nhìn chung thị trường chứng khoán VN còn quá nhỏ bé, hoạt động còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay. Việc phát hành và niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán bộc lộ không ít những bất cập như số lượng các chứng khoán niêm yết trên trung tâm giao dich chứng khoán còn quá ít so với nhu cầu và so với số lượng các công ty cổ phần, khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành hàng năm còn thấp.
3. Thị trường hàng hoá sức lao động
Thị trường lao động là một bộ phận hữu cơ của hệ thống các loại thị trường trong nền kinh tế. Thị trường lao động tồn tại và phát triển liên quan và tác động qua lại với các thị trường khác. Trong những năm qua thị trường lao động cũng đã được hình thành và phát triển, giao dịch trên thị trường lao động đã sôi động hơn, xuất hiện nhiều trung tâm xúc tiến việc làm, các hình thức giao dịch trên thị trường lao động cũng đã bước đầu được chính thức hoá thông qua " hợp đồng lao động ", "Thoả ước lao động tập thể ". Lực lượng lao động đã bước đầu được phân bổ xuất phát từ nhu cầu thị trường
Ơ nước ta, thị trường lao động phổ thông khá phát triển nhưng thị trường lao động có trình độ cao, đặc biệt thị trường lao động chất xám còn nhỏ bé. Bên cạnh đó, chúng ta còn có những khó khăn về cư trú, hộ khẩu, sự chuẩn bị trình độ cho ngừơi lao động, các công ty cung ứng dịch vụ lao động đồng bộ đã làm chậm sự phát triển và đang chia cắt thị trường lao động. Trên thị trường lao động cái giá phải trả cho người lao động (tiền lương, tiền công) thấp; hệ thống thông tin, thống kê về thị trường lao động không động bộ và có độ tin cậy thấp đã làm cản trở sự phát triển của thị trường này. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở nước ta vẫn còn cao. Thị trường lao động lại có sự phân mảng lớn giũa lao động ở thành thị với lao động nông thôn, giữa lao động chính quy và lao động không chính quy, giữa lao động trong các DNNN với lao động trong khu vực dân doanh, giữa lao động hiện đại với lao động truyền thống, giữa lao động trong các ngành và lĩnh vực kinh tế. Điều này đã cản trở mạnh tính linh hoạt của thị trường lao động, các nhóm dân cư thường bị bó buộc ở các mảng đó.
4. Thị trường đất đai.
Thị trường bất động sản là một trong những thị trường rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Việc phát triển thị trường bất động sản có tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua các kênh như: tạo ra kich thích đầu tư vào đất đai, nhà xưởng, chuyển bất động sản thành tài sản tài chính để phát triển kinh tế.
Đặc điểm chung nhất của loại bất động sản là gắn liền với đất, tuy nhiên không phải tất cả các loại bất động sản đều là bất động sản hàng hoá và tham gia vào thị trường bất động sản. ở nước ta đất thuộc sở hữu toàn dân và pháp luật không cho phép mua bán đất , do đó đất không phải là hàng hoá, chỉ quyền sử dụng đất mới được công nhận là hàng hoá. Như vậy thị trường bất động sản ở nước ta mới được chính thức thừa nhậnvề mặt pháp lý trong một số năm gần đây khi Nhà nước xác định quyền sử dụng đất có giá và cho phép chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê và cho thuê lại giá trị quyền sử dụng đất và từ khi nhà nước có chính sách bán nhà thuộc quyền sở hữu nhà nước. Tuy mới hình thành và hiện còn rất sơ khai nhưng ngay từ đầu hoạt động trên thị trường này đã rất sôi động, đặc biệt là vào những thời kì " sốt đất", "sốt nhà". Sự hình thành và phát triển loại thị trường này đã có những tác động mạnh mẽ tới phát triển kinh tế-xã hội.
Tuy nhiên thị trường bất động sản ở nước ta còn nhiều khiếm khuyết và tác động tiêu cực do đất đai chưa đượcthừa nhận chính thức là hàng hoá nên đã hình thành một thị trường "ngầm" về đất đai và thị trường này đã bị méo mó. Theo số liệu của tổng cục Địa chính năm 2003thì Nhà nước chỉ kiểm soát được 30% thị trường đất đai, còn 70% là mua bán trao tay thoả thuận trực tiếp giữa người mua và người bán và nằm ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. Kết quả là Nhà nước không kiểm soát được sự hoạt động của thị trường này, ngân sách Nhà nước bị thất thu lớn.
Hơn nữa, trên thị trường cung - cầu về bất động sản mất cân đối nghiêm trọng, giá cả dễ biến động do thị trường "nóng , lạnh" thất thường. Quy trình mua bán bất động sản quá phức tạp, qua nhiều khâu trung gian không cần thiết, gây tốn kém về thời gian và chi phí. Thông tin về các loại bất động sản và giao dịch bất động sản trên thị trường không đầy đủ, thiếu minh bạch.
Những yếu kém nói trên của thị trường bất động sản làm cho không ít diện tích đất và nhà bị sử dụng kém hiệu quả, gây lãng phí, hiện tượng đất bỏ hoang vẫn còn nhiều.
Việc Nhà nước ta đã ban hành luầt đất đai , sửa đổi bổ sung trong thời gian qua đã đáp ứng được nhiều vấn đề bức xúc của xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, tuy nhiên trên thực tế trong quá trình áp dụng nó còn bộc lộ nhiều bất cập cần phải tiếp tục nghiên cứu tổng kết để có một môi trường pháp lý ổn định lâu dài phát triển đồng bộ các thị trường ở nước ta.
5. Thị trường khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ là lĩnh vực rất quan trọng trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta. Khoa học -công nghệ được thị trường chấp nhận và thị trường khoa học công nghệ đã phát triển mạnh ở các nước có nền công nghệ đã phát triển, còn ở nước ta Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm và nhận rõ tầm quan trọng của khoa học công nghệ , tuy nhiên sự chú ý dành cho thị trường khoa học công nghệ mới được thể hiện rõ trong một số năm gần đây.Do đó thị trường này đang còn ở mức độ manh nha, các yếu tố cấu thành của thị trường chưa được hình thành đầy đủ.
sự phát triển thị trường khoa học và công nghệ
Luật khoa học và công nghệ đã có điều khoản quy định về quyền sở hữu , quyền tác giả đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nhưng chưa có văn bản dưới luật nào quy định cụ thể diều này. Đây có lẽ là một trong những cản trở lớn cho sựphát triển thị trường khoa học và công nghệ.
Một vấn đề nữa là nền kinh tế thị trường ở nước ta chưa phát triển đủ mức để có được một thị trường khoa học công nghệ sôi động, hàng hoá cung cấp cho thị trường khoa học và công nghệ, nhất là những công nghệ mới phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta, phù hợp với khả năng tài chính của nhiều doanh nghiệp chưa nhiều do khả năng tài chính của các tổ chức phía cung còn nhiều hạn chế. Hơn nữa ở nước ta các tổ chức tư vấn chuyển giao công nghệ nhìn chung còn thiếu và yếu cả về năng lực lẫn tổ chức , các hội chợ triển lãm KH- CN chưa phải là hội chợ giao dich mua bán hàng hoá khoa học và công nghệ , thông tin mua bán loại hàng hoá này còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của cả phía cung lẫn phía cầu
Như vậy trong lĩnh vực khoa học - công nghệ ở nước ta đã tồn tại quan hệ mua - bán (chuyển giao) giữa các cá nhân, tổ chức nghiên cứu với người sản xuất và doanh nghiệp nhưng càn mang tính cục bộ, tự phát và trong phạm vi hẹp, không có cơ quan quản lý thống nhất, chưa hình thành mạng lưới giao dịch, liên kết giữa người mua và người bán. Hiện vãn còn thiếu một hệ thống pháp luật và hệ thống tổ chức quản lý để có thể hình thành thị trường KHCN sôi động, phát triển
2. Giải pháp
a. Đổi mới tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện từ đổi mới kinh tế là trọng tâm, đến đổi mới chính trị văn hoá xã hội, từ đổi mới tư duy nhận thức tư tưởng đến hoặt động thực tiễn của đảng nhà nước và nhân dân vấn đề có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp đổi mới là đảng phải đổi mới trên cả ba lĩnh vực : đổi mới tư duy là đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan điển hình. PhảI tiến hành loại bỏ những quan điểm sai trái khắc phục những quan điểm lạc hậu về CNXH. đổi mới tư duy nhằm quán triệt phương pháp tư duy biện chứng duy vật, hình thành nên những quan điểm mới về xã hội,và con đường đI lên CNXH ở Việt Nảmtên nền tảng lí luận Mác_lênin và tư tưỏng Hồ Chí Minh.
Từ đại hội đảng VI đến nay đã gần 15 năm, đã qua các kì đại hội VII, VIII đường lối đổi mới đã được cụ thể hoá và phát triển,đem lại những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam trước sau như một vẫn khẳng định mục tiêu CNXH của cách mạng Việt Nam. Nhưng trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta đã xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại hội đảng VII đã khẳng định “ trong cách mạng XHCN đảng ta đã cố gắng tìm tòi, nghiên cứu xây dựng đường lối, mục tiêu và phương hướng XHCN. Nhưng đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí vi phạm qui luật khách quan nóng vội trong việc cải tạo XHCN, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc thúc đẩy việc xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương, công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng, quán triệt nguyên tắc khách quan khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí là nhiệm vụ của toàn đảng toàn dân.
b. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.
Trên cơ sỏ đa dạng hoá các hình thứ sở hữu, thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo tinh thần đó, tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều được khuyến khích phát triển
c. Thực hiện tốt vai trò, chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế
Tạo điều kiện, môi trường cho các quy luật kinh tế hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.Tập trung vào xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách tạo môi trường bình đẳng cho sự hoạt động của các thành phần kinh tế. Luôn bổ xung và hoàn thiện hệ thống pháp luật.Tập trung phát triển hệ thống giáo dục- đào tạo, phát triển tiềm năng khoa học-công nghệ và xây dựng kêt cấu hạ tầng.
d. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp
Chỉ có thể mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới mới thu hút được vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, để khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất
nước nhằm phát triển kinh tế
Sự ổn định về chính trịi bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển, là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước yên tâm đầu tư cho sản xuất.Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nó tạo ra hành lang pháp luật cho mọi hoạt động kinh tế, buộc các doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết của Nhà nước.
2.2.1.Thị trường hàng hoá và dịch vụ
Nghị quyết Đại hôi IX đã nhấn mạnh " phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ, phát huy vai trò nồng cốt định hướng và điều tiết của kinh tế Nhà nước trên thị trường ", "hạn chế và kiểm soát đọc quyền kinh doanh".Đây là những định hướng cơ bản đối với sự phát triển của thị trường hàng hoá dịch vụ. Kinh tế Nhà nước chỉ nên giữ vai trò nòng cốt và định hướng đối với đời sống kinh tế xã hội như an ninh, quốc phòng, điện nước, giáo dục. Những laọi hàng hoá dịch vụ khác nên để cho thị trường tự quyết định. Biện pháp quan trọng để phát triển nhanh và lành mạnh thị trường hàng hoá là hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh thị trường này, ban hành các bộ luật cạnh tranh và kiểm soát đọc quyền trong kinh doanh, bổ sung cá luật hiện hành và ban hành luật mới hướng tới việc tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng và có tính cạnh tranh cao. Đồng thời quán triệt thực thi các chính sách của Nhà nước
Một yếu tố quan trọng để phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ và cũng là mục tiêu hướng tới của thị trường này là hướng tới thị trường quốc tế mở cửa thị trường trong nước hơn nữa tạo áp lực nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Đồng thời phải tiến hành kiểm tra chất lương hàng hoá trên thị trường.
2.2.2 Thị trường tài chính
Trong văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng, Đảng ta đã xác định " chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, xoá bỏ bao cấp thông qua tín dụng đầu tư…". Với định hướng như vậy thì Đảng và Nhà nước ta đã đề ra các biện pháp như: Đẩy mạnh việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước , tiến tới cho phép cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cần tăng cơ hội cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại Nhà nước và quỹ hỗ trrợ phát triển, đồng thời tăng thu hút đầu tư từ nước ngoài.
Phát triển hệ thống ngân hàng cũng như các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính có đủ năng lực cạnh tranh trong điều kiện hôi nhập. Cân đề cao vai trò của NHNN trong việc giám sát hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung và sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ như chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá hối đoái, kiểm soát lạm phát.
Xây dựng và phát triển hệ thống thể ché đảm bảo được khả năng hội nhập quốc tế. Các tổ ch._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0343.doc