A. Lời nói đầu
Đất đai là nguồn lực tự nhiên có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của mỗi một quốc gia. Từ xa xưa loài người đã biết tới nguồn lực này để chinh phục khai thác dần dần chuyển sang quan hệ kinh tế – xã hội đó là sở hữu và sử dụng đất đai như một tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng, là một trong 4 yếu tố sản xuất (lao động, vốn, đất đai, công nghệ) – nguồn lực đầu vào cơ bản cho mọi nền sản xuất xã hội. Mối quan hệ đất đai nó còn ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia,
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác hồ sơ địa chính ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cộng đồng và cá nhân. Do đó, mối quan hệ đất đai được quan tâm. ở nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước thì vai trò, vị trí đất đai càng được nâng lên. Có những mối quan hệ đất đai mới nảy sinh phức tạp. Vì vậy, cần có sự quản lý Nhà nước đối với nguồn tài nguyên này để phát huy nguồn lực đất đai, khai thác và sử dụng có hiệu quả bảo vệ lợi ích quốc gia, cộng đồng và cá nhân. Và một trong các công cụ để Nhà nước và các cấp chính quyền thực hiện công tác quản lý Nhà nước về đất đai đó là công tác hồ sơ địa chính. Thật vậy, hồ sơ địa chính là hệ thống tài liệu, sổ sách ghi nhận thông tin về đất đai để phục vụ công tác quản lý Nhà nước về đất đai. Nhìn vào hồ sơ địa chính ta có thể biết được mọi thông tin về đất đai. Do hồ sơ địa chính có vai trò quan trọng như vậy nên từ xa xưa Nhà nước ta đã tiến hành công tác lập hồ sơ địa chính bằng hình thức đi từ đo đạc thủ công đến sử dụng các phương tiện hiện đại là máy móc để đo đạc lập bản đồ địa chính để thiết lập lên hồ sơ địa chính. Song trong tình hình hiện nay đất đai tham gia tích cực vào hoạt động kinh tế xã hội, thị trường bất động sản hình thành, Do đó, đất đai cũng như các mối quan hệ đất đai có nhiều thay đổi. Vì vậy để phản ánh đúng hiện trạng đất đai, những biến đổi đất đai cần làm tốt công tác đăng kí thống kê đất đai, đo đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính. Việc làm tốt công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính cho phép Nhà nước quản lý chặt chẽ toàn bộ đất đai theo pháp luật, xác lập mối quan hệ pháp lý đầy đủ giữa Nhà nước và người sử dụng đất, tạo điều kiện cho việc sử dụng đất đai một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả. Do vai trò quan trọng của công tác này do vậy những năm qua Nhà nước chú trọng vào thực hiện công tác này, nhưng đến nay trên cả nước chưa có bộ hồ sơ địa chính hoàn chỉnh nào đó là yêu cầu bức xúc trong việc quản lý Nhà nước về đất đai. Vì vậy em chọn đề tài
“Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác hồ sơ địa chính ở nước ta”.
Mục đích nghiên cứu: tìm hiểu vai trò, mục đích ý nghĩa của công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai đồng thời tìm hiểu thực hiện công tác này từ đó tìm ra giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và công tác hồ sơ địa chính nói riêng.
Để đáp ứng mục đích nghiên cứu trên thì đối tượng nghiên cứu: các quan hệ đất đai, đặc điểm, nội dung hồ sơ địa chính, yếu tố ảnh hưởng đến công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính để biết được các đặc điểm, yếu tố này ảnh hưởng như thế nào tới việc lập và quản lý hồ sơ địa chính đồng thời nghiên cứu quá trình lập và quản lý hồ sơ địa chính để tìm ra biện pháp nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình. Thông qua nghiên cứu nhữnh thuận lợi, khó khăn trong công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính của thành phố Hà Nội về việc thực hiện thí điểm tại 12 phường, xã, thị trấn tại Hà Nội từ đó rút ra kinh nghiệm để triển khai công tác này trên toàn thành phố tiếp đến thực hiện trên cả nước
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử – tức là đặt việc xây dựng hồ sơ địa chính trong mối quan hệ của đất đai cũng như nội dung khác của quản lý Nhà nước về đất đai và các mối quan hệ giữa các nội dung của hồ sơ địa chính. Ngoài ra sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ lý luận.
Nội dung gồm 3 phần:
+ Phần I: Cơ sở lý luận của công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính
+ Phần II : Thực trạng công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính ở nước ta
+ Phần III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hồ sơ địa chính.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của GS.TSKH Lê Đình Thắng và các cô chú phòng Đăng ký thống kê của Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội đã hướng dẫn em hoàn thành tốt đề tài này.
B. Nội dung
Phần I: Cơ sở lí luận của công tác lập và
quản lý hồ sơ địa chính
I. Khái quát về công tác quản lý Nhà nước về đất đai
Đất đai là tặng vật của thiên nhiên cho không loài người thông qua lao động và trí tuệ của chính bản thân mình mà con người tác động vào đất làm ra sản phẩm nuôi sống mình.
Đất đai là tài nguyên, tài sản quý giá thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý và là một trong những điều kiện không thể thiếu được trong tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế- xã hội. Do đó quản lý và sử dụng đất đai một cách hợp lý, có hiệu quả đòi hỏi cần thực hiện công tác quản lý Nhà nước về đất đai
Để thấy được rõ sự cần thiết của công tác này ta đi tìm hiểu vai trò đất đai
trong sự nghiệp phát triển đất nước.
1. Vai trò đất đai trong phát triển kinh tế – xã hội
1.1. Vai trò đất đai trong sản xuất, đời sống.
Con người sinh ra đã gắn liền với đất, tồn tại được là nhờ vào sản phẩm từ đất và đế khi nhắm mắt xuôi tay con người lại trở về với đất. Đất gắn bó với sự tồn tại và phát triển của con người. Không chỉ có vậy mà trên phương diện kinh tế xã hội thì đất đai là tài nguyên, tài sản của mỗi quốc gia tạo nên của cải vật chất cho xã hội. Thật vậy, đất đai là tặng vật của thiên nhiên cho không loài người, không phải do con người làm ra. Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người, con người và đất đai ngày càng gắn bó với nhau. Con người khai thác nguồn của cải vô tận này để tạo lên sản phẩm nuôi sống mình. Đất đai là sản phẩm cuả tự nhiên, con người khai phá chiếm hữu nó do vậy đất đai chứa đựng yếu tố lao động. Như vậy, đất đai từ nguồn tài nguyên trở thành tài sản của xã hội. Không chỉ có vậy xét trong đời sống và sản xuất thì đất đai là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, là tư liệu sản xuất đặc biệt đối với nông, lâm, ngư nghiệp.
Luật đất đai 1993 của nước CHXHCN Việt Nam có ghi: “ Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay!”.
1.2. Vai trò đất đai trong sự nghiệp phát triển đất nước
Trong xã hội phong kiến thì đinh (lao động) và điền (đất đai) là hai yếu tố được nhà vua quản lý chặt chẽ bởi đó là hai yếu tố cơ bản đầu vào của nền sản xuất xã hội. Khi chuyển sang hình thái kinh tế tư bản, thì nền sản xuất xã hội chuyển trọng tâm từ khu vực sản xuất nông nghiệp sang khu vực công nghiệp lúc đó đòi hỏi một yếu tố đầu vào mới đó là tư bản (vốn). Và khi công nghiệp phát triển nên trình độ cao hơn, con người đã sử dụng công nghệ thông tin vào trong sản xuất, lúc đó công nghệ trở thành yếu tố đầu vào mới cho nên sản xuất xã hội. Như vậy bốn yếu tố : con người, đất đai, vốn, công nghệ là bốn nguồn lực đầu vào cơ bản cho mọi nền sản xuất xã hội, tuỳ theo trình độ lực lượng sản xuất mà tầm quan trọng của các yếu tố này có mức độ khác nhau.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu chúng ta đang xây dựng một xã hội công nghiệp hiện đại. Đây chính là nội dung của công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Tỉ trọng kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp nước ta năm 1995 là chiếm 29%, hơn nữa nông dân nước ta chiếm tới hơn 80% dân số. Vì thế nông nghiệp nước ta vẫn đóng vai trò quan trọng. Do đó công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp là mục tiêu hàng đầu. Mà ta biết đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng đối với sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Nó không chỉ là tư liệu lao động mà còn là đối tượng lao động. Thông qua phương tiện đất đai con người đã khai thác sản phẩm từ đất và còn hơn thế nữa khi con người biết khai thác hợp lý biết bảo vệ đất sản xuất. Thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp là làm sao để tăng sản xuất nông nghiệp trong quỹ đất hạn hẹp do quá trình đô thị hoá. Muốn vậy cần phải có chính sách đất đai hợp lý để tác động trực tiếp vào lực lượng sản xuất nông nghiệp. Để có chính sách đất đai hợp lý cần nhanh chóng thực hiện tốt công tác điều tra khảo sát, đo đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính.
Trong vấn đề bảo vệ môi trường của cả nước và khu vực thì việc bảo đảm diện tích rừng có vai trò quan trọng đặc biệt. Do vậy bên cạnh chính sách khai thác rừng cần thực hiện quy hoạch, phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Có như vậy mới phát triển bền vững được như vậy đất đai có vai trò quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ môi trường.
Trong giai đoạn hiện nay đô thị hoá đang là xu thế tất yếu do đó các khu công nghiệp tập trung được hình thành. Vấn đề đặt ra là cần quy hoạch các khu công nghiệp ở đâu và với quy mô như thế nào cho có lợi nhất trên mặt bằng phân tích tổng hợp kinh tế – xã hội của tỉnh, vùng, cả nước. Điều này bắt nguồn tù việc cân đối kinh tế trong quy hoạch sử dụng đất. Để thực hiện quy hoạch sử dụng đất cần điều tra, khảo sát đo đạc bản đồ, tìm hiểu hiện trạng sử dụng đất như vậy cần làm tốt công tác đo đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính bởi nó là căn cứ pháp lý và khoa học thực hiện quy hoạch sử dụng đất.
Trong mọi thời đại thì vấn đề nhà ở và đất ở luôn được quan tâm, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay dân số tăng lên đất chặt người đông, đất ở trở thành nhu cầu bức xúc. Nhà ở không chỉ là tài sản quan trọng đặc biệt đối với mỗi gia đình mà còn là một trong những tiêu chuẩn làm thước đo phản ánh trình độ phát triển kinh tế –xã hội của mỗi nước và đánh giá mức độ công bằng và trình độ văn minh của xã hội. Do vậy cần có chính sách đất đai hợp lý cho việc xây dựng nhà ở, nhanh chóng thực hiện công tác đăng kí đất, lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở để bảo vệ cho người dân.
Ơ nước ta, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì một hệ thống các loại thị trương được hình thành và phát triển, trong đó có thị trường bất động sản – một lĩnh vực nhạy cảm và phức tạ. Thị trường tuy mới được hình thành nhưnh đã thu hút lượng vốn không nhỏ vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp hành hoá thiết yếu cho nhân dân, đáp ứng nhu cầu kinh doanh bất động sản của các thành phần kinh tế... Nó được coi như lĩnh vực kinh tế quan trọng do đó cần phát triển thị trường này. Muốn vậy cần có chính sách đất đai hợp lý, cần nhanh chóng hoàn thiện công tác hồ sơ địa chính để cung cấp thông tin xác thực về hàng hoá bất động sản để lành mạnh hoá thị trường bất động sản và Nhà nước có thể kiểm soát được thị trường này. Việc phát triển thị trường này góp phần hình thành đồng bộ các loại thị trường là điều kiện để thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Nếu xét trên bình diện kinh tế xã hội, mặt bằng tổng thể của toàn bộ nền kinh tế, để phát triển một xã hội công nghiệp trên cơ sở một xã hội nông nghiệp thì chúng ta phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Và công cụ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động đó chính là quy hoạch sử dụng đất, các chính sách đất đai và các chính sách xã hội. Như vậy, quản lý đất đai lúc này có thể phát huy tác dụng là động lực thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Trong kinh tế, thì đất đai là nguồn vốn to lớn của đất nước. Nhà nước có thể tạo nguồn thu đáng kể từ hoạt động kinh tế trên đất vì đó là đầu vào không thể thiếu được của mọi hoạt động kinh tế. Nó là nguồn vốn không bao giờ cạn mà trong quá trình khai thác sử dụng có thể làm cho giá trị tăng lên. Trong tình thế cơ sở hạ tầng không ngừng được cải thiện và dân số tăng lên thì giá trị bằng tiền của đất tăng lên không ngừng. Điều này minh chứng cho sự to lớn của nguồn vốn đất đai. Như vậy, đất đai có ý nghĩa tạo nguồn thu cho ngân sách. Để có thể tạo nguồn thu hơn nữa cần có hệ thống quản lý đất đai chặt chẽ, hồ sơ quản lý đầy đủ và chính sách đất đai từng bước ổn định.
Tóm lại, đất đai có vai trò hết sức quan trọng trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế –xã hội của đất nước. Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất xã hội như tư liệu sản xuất đặc biệt. Thực hiện công tác quản lý Nhà nước về đất đai sẽ cho phép ta giải quyết vấn đề: Tăng sản lượng kinh tế nông nghiệp, đổi mới bộ mặt nông thôn,cải thiện đời sống nhân dân; đảm bảo an toàn lương thực quốc gia; bảo vệ tài nguyên đất và môi trường sinh thái; quy hoạch hợp lý các khu công nghiệp và kiểm soát quá trình đô thị hoá; chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trên cơ sở quy hoạch đất hợp lý; xây dựng xã hội công bằng trên cơ sở thực hiện chính sách nhà ở và đất ở; phát triển thị trường bất động sản; tăng cường nguồn thu cho ngân sách quốc gia.
Do đất đai có vai trò quan trọng như trên vì thế mà công tác quản lý Nhà nướcvề đất đai ở nước ta đã được chú ý từ lâu nhưng do điều kiện hoàn cảnh ở mỗi thời kỳ khác nhau mà công tác quản lý Nhà nước có nhiệm vụ cụ thể khác nhau. Vì vậy ta cần tìm hiểu quan hệ đất đai trong lịch sử Việt Nam để thấy được công tác quản lý Nhà nước về đất đai qua các thời kỳ. Từ đó nhận thức quan hệ đất đai trong thời đại ngày nay.
2. Quan hệ đất đai trong lịch sử Việt Nam
Bất kỳ một quốc gia nào, Nhà nước nào cũng có một quỹ đất đai nhất định được giới hạn bởi biên giớ quốc gia mà thiên nhiên ban tặng.
Đất đai là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia vì vậy Nhà nước muốn tồn tại và phát triển được thì phải quản lý chặt, nắm chắc tài nguyên đất đai. Mỗi thời kỳ với chế độ chính trị khác nhau đều có chính sách quản lý đất đai đặc trưng của thời kỳ đó.
2.1) Thời kỳ đầu lập nước
Trong thời kỳ này đất đai là của chung và đó chính là khởi thuỷ của ruộng đất công.
Khi nhà nước Văn Lang ra đời thì toàn bộ ruộng đất trong đó là của chung và cũng là của nhà vua. Sau khi đất đai bị xâm chiếm thì các vua Hùng tổ chức chống cự dần dần hình thành khái niệm sơ khai đất đai là sở hữu của nhà vua.
2.2) Thời kỳ phong kiến
Trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, hình thức sở hữu tối cao phong kiến về ruộng đất chi phối xã hội Việt Nam. Nhà Đường đã áp dụng nhiều chính sách về đất đai để tạo nguồn thu cho nhà nước đô hộ.
Khi giành được độc lập tự chủ, Đinh Bộ Lĩnh làm vua xây dựng nhà nước Đại Cồ Việt – quyền sở hữu tối cao về nhà vua được xác lập.
Dưới thời Lý – Trần, nhà vua chấp nhận ba hình thức sở hữu: sở hữu nhà vua, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Nhưng tất cả người sử dụng đất đều phải nộp công quỹ cho nhà vua.
Đến thời nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã ban hành chính sách cải cách ruộng đất (1397) thực hiện chế độ hạn điền (mỗi người không quá 10 mẫu ruộng) để thu hồi đất đai cho nhà nước.
Vào năm 1428 Lê Lợi lên ngôi đã phong đất cho các quần thần và thực hiện kiểm kê đất đai để lập sổ sách (địa bạ) từ đó có chính sách phân phối lại ruộng công bỏ hoang cho binh lính và nông dân. Trong giai đoạn này bộ luật đầu tiên ở nước ta được ban hành gọi là Luật Hồng Đức trong đó có 60 điều nói về đất đai. Các điều luật nói về đất đai thể hiện tính nhân đạo và triệt để để bảo vệ đất công. Tuy nhiên, công việc đo đạc từ khi Lê Lợi lên ngôi đến hết đời hậu Lê vẫn chưa được hoàn thành.
Sau khi Nguyễn ánh lên ngôi, từ năm 1805 đến năm 1836 suốt 31 năm nhà Nguyễn hoàn tất bộ địa bạ của 18 nghìn xã từ Mục Quan Nam đến Múi Cà Mau gồm 10044 tập. Trong địa bạ ghi rõ thửa đất của ai, sử dụng làm gì, kích thức bao nhiêu trên cơ sở đo đạc thực địa, đo đạc cụ thể có sự nhất trí chủ sở hữu và quan đạc điền. Trong thời kỳ này nhà Nguyễn đã ban hành bộ luật thứ hai của nước ta mang tên Hoàng Việt Luật Lệ (gọi là Luật Gia Long). Trong bộ luật này có 14 điều nhằm điều chỉnh quan hệ về nhà đất và thuế lúa. Tinh thần là xác định quyền tối thượng của nhà vua đối với ruộng đất cả nước, trong đó chia ra đất công quản và tư quản. Trên cơ sở này thuế lúa được thu rất triệt để cho ngân khố quốc gia. Và cũng trong thời kỳ này chế độ hạn điền được thực hiện lần thứ hai và nhà Nguyễn đã thực hiện thành công việc khai khẩn đất hoang.
Như vậy, tuỳ theo chế độ chính trị và hoàn cảnh lịch sử ở mỗi thời kỳ mà quan hệ đất đai có sự khác nhau và ta thấy rằng đất đai ngày càng được quan tâm hơn, các mối quan hệ đất đai, công tác quản lý đất đai ngày một rõ ràng cụ thể hơn, chi tiết hơn.
2.3) Chế độ thực dân phong kiến (thời Pháp thuộc 1883-1945)
Thực dân Pháp vừa bình định xong đã lo ngay đến vấn đề ruộng đất. Họ cấp đất cho bọn tay sai và bán đất với giá rẻ mặt (10frăng/1 ha) vì thế đã tạo lên chế độ đại địa chủ ở nước ta. Thực hiện chính sách chia để trị, Pháp chia nước ta thành 3 kỳ, lập Sở địa chính ở các kỳ, Ty địa chính ở các tỉnh và trưởng bạ ở các xã để phụ trách điền địa.
Pháp đã tiến hành thành lập bản đồ địa chính với tỷ lệ 1/1000-1/4000 đối với ruộng đất và dùng tỉ lệ 1/200-1/1000 ở đô thị.
Pháp đã thực hiện chế độ cai trị về đất đai khác nhau ở mỗi kỳ.
Nam kỳ: Thành lập Sở địa chính, tiền hành làm bao đạc và lập biểu tính thuế. Đến năm1930 đã đo đạc xong bản đồ giải thửa. Thực hiện tu chỉnh địa bộ thời Minh Mạng và thực hiện lưu trữ ở phong quản lý địa bộ.
Trung kỳ: Tiến hành đo đạc giản đơn để có căn cứ tính thuế. Ngày 26/4/1930 Khâm sứ Trung kỳ ban hành Nghị định số 1385 lập sổ bảo tồn điền trạch sau đổi thành Sở quản thủ địa chính.
Bắc kỳ: Tiến hành lập bản đồ bao đạc và thành lập bản đồ địa chính chính quy. Đồng thời lập lược đồ giản đơn nhanh chóng nắm bắt được diện tích đất đai. Mở lớp đào tạo trên 6000 thư ký đạc điền đồng thời quy định chuyển dịch ruộng đất phải nộp lệ phí theo quy định.
Như vậy, có thể nói dưới chế độ thực dân phong kiến, các mối quan hệ đất đai ở nước ta được xác lập chỉ nhằm mục đích khai thác nguồn tài nguyên này của thực dân Pháp. Việc lập bản đồ, thành lập Sở địa chính, Ty địa chính là phục vụ cho việc thu thếu đất và nắm bắt nguồn tài nguyên này.
2.4) Chính sách đất đai ở miền Nam thời kỳ Mỹ Nguỵ (1954-1975)
Trong thời kỳ này tồn tại hai chính sách ruộng đất đó là chính sách ruộng đất của chính quyền cách mạng và chính sách ruộng đất của Mỹ- Ngụy.
Chính sách ruộng đất của chính quyền cách mạng mà nội dung xuyên suốt trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc là: Ruộng đất về tay người cày song điều này chỉ thực hiện được ở vùng giải phóng.
Còn chính sách ruộng đất ruộng đất của Mỹ –Ngụy nằm trong chính sách xâm lược vì vậy thực hiện chính sách “cải cách điền địa ” của chính quyền Ngô Đình Diệm và luật “người cày có ruộng ”của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu nhằm lôi kéo, giành giật nông dân. Luật người cày có ruộng bao gồm 6 chương 22 điều trong đó việc cấp “chứng khoán ” ruộng đất cho nông dân khẳng định quyền sở hữu ruộng đất của nông dân nhưng chính quyền Thiệu lại ép nông dân nhận “chứng khoán ”.
2.5) Quan hệ đất đai ở nước ta từ sau cách mạng tháng 8/ 1945.
Đất đai là một trong hai mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”. Vì vậy ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công Nhà nước ta đã ban hành thông tư, chỉ thị nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Quốc hội thông qua luật cải cách ruộng đất, ruộng đất được chia đều cho dân cày, người cày được canh tác trên thửa đất của mình.
Trong giai đoạn từ năm 1955- 1959, cơ quan quản lý đất đai được thành lập đó là Sở địa chính nằm trong Bộ tài chính với chức năng là quản lý ruộng đất và thu thuế nông nghiệp .
Hiến pháp năm 1960 đã xác định quyền sở hữu toàn dân về đất đai, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.
Từ năm 1980- 1991: Thực hiện quyết định 201/ CP (01/17/1980); Chỉ thị 299/TTG(10/11/1980); Chỉ thị 100/CT_TW (13/01/1981); Nghị quyết 10/NQ-TW (05/04/1988) về khoán ruộng đất lâu dài.
Hiến pháp 1992 xác định “đất đai sở hữu toàn dân”( điều 17). Như vậy, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và quản lý đất đai được ghi nhận trong hiến pháp 1992. Tiếp đó luật đất đai ban hành 9/1993 đã quy định rõ hơn các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Chính sách đất đai nước ta hiện nay thể hiện nội dung chủ chủ yếu sau:
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý bằng pháp luật và quy hoạch, các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao quyền sử dụng đất hoặc cho thuê đất.
Nhà nước có chính sách ưu tiên đối với sử dụng đất nông, lâm, ngư nghiệp nhằm bảo đảm an toàn lương thực và bảo vệ môi trường
Nhà nước có chính sách hợp lý để bảo đảm nhà ở cho mọi người.
Hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao đất nông, lâm nghiệp để sử dụng ổn định lâu dài thì được hưởng các quyền quy định ở Luật đất đai.
Nhà nước quản đất đai bằng bản đồ địa chính có toạ độ và hồ sơ đăng kí đất đai, chủ sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Việc giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất được thực hiện khi có quy hoạch sử dụng đất được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét quyệt.
Nhà nước định giá đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất, cho thuê đất, tính giá tài sản khi giao đất và bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất.
Tuỳ theo mục đích sử dụng, loại đất, đối tượng sử dụng đất mà Nhà nước quy định hạn mức, thời hạn sử dụng.
Nhà nước khuyến khích khai hoang vỡ hoá mở rộng diện tích sử dụng đất, sử dụng bãi bồi đất trống đồi núi trọc và sử dụng đất phải đi đôi với cải tạo bồi bổ đất.
Như vậy, chính sách đất đai hiện nay ở nước ta thể hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, bảo đảm quyền lợi của người sử dụng đất, đồng thời tạo điều kiện cho việc sử dụng đất hợp lý có hiệu quả, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội.
Trên đây ta đi nghiên cứu quan hệ đất đai qua các thời kỳ, ta thấy rằng đất đai ở mọi thời kỳ đều được quan tâm, tất cả các chế độ khác nhau đều muốn nắm giữ nguồn tài nguyên này, quản lý và sử dụng triệt để nguồn tài nguyên này để phục vụ mục tiêu của các thời kỳ.
Việc đi sâu nghiên cứu vai trò của đất đai cũng như những quan hệ đất đai qua các thời kỳ để ta nhận thức rằng luôn luôn và cần thiết phải có quản lý Nhà nước về đất đai và tuỳ theo từng thời kỳ, từng điều kiện hoàn cảnh khác nhau mà ta thực hiện quản lý sao cho có lợi nhất phục vụ được mục tiêu của từng thời kỳ.
Trong tình hình hiện nay để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước thì nội dung quản lý Nhà nước về đất đai như sau.
3)Nội dung quản lý Nhà nước về đất đai.
Chế độ quản lý Nhà nước về đất đai là toàn bộ các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý Nhà nước đối với đất đai.
Chế độ quản lý Nhà nước về đất đai bắt nguồn từ nội dung quản lý Nhà nước về đất đai. Nội dung quản lý Nhà nước về đất đai bao gồm các hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện quyền sở hữu Nhà nước và bảo đảm quyền sở hữu đó về đất đai. Nó bao gồm các hoạt động của Nhà nước trong việc nắm chắc tình hình sử dụng đất đai, hoạt động của Nhà nước về phân phối lại quỹ đất trên cơ sở quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất các hoạt động của Nhà nước về kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng đất đai.
Điều 13 Luật đất đai năm 1993 nêu 7 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai như sau:
3.1) Điều tra, khảo sát, đo đạc đánh giá và phân hạng đất.
Điều tra, khảo sát, đo đạc đánh giá và phân hạng đất là những công việc hết sức quan trọng bởi qua đó Nhà nước mới nắm được toàn bộ quỹ đất đai cả về số lượng và chất lượng, mới có khả năng phát hiện năng lực đất đai ở mỗi vùng, từng địa phương. Qua đó, Nhà nước có những chính sách và biện pháp sử dụng đất có hệ thống, có căn cứ khoa học trên phạm vi cả nước, từng vùng, từng địa phương.
Như vậy, qua tài liệu này ta biết được đất đai đang sử dụng làm gì và sử dụng vào việc gì là tốt nhất để phát huy tiềm năng ở mỗi vùng.
Để nắm được số lượng, chất lượng đất đai Nhà nước phải tiến hành điều tra, khảo sát đo đạc và nghiên cứu, điều tra thực địa nắm được tổng diện tích tự nhiên, diện tích từng loại đất như đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất dân cư nông thôn, đất chuyên dùng, đất chưa sử dụng… Từ đó mà thực hiện quy hoạch đất đai.
Việc đánh giá phân hạng đất là công tác khoa học và rất phức tạp nhằm xác định tác dụng sử dụng đất cụ thể cho từng vùng, từng diện tích đất. Đây là việc làm hết sức cần thiết trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm góp phần đảm bảo cho thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, sản xuất phát triển và ổn định đời sống của nhân dân.
Việc xác định giá các loại đất phải xem xét cụ thể vị trí, địa hình, mục đích sử dụng cũng như xem xét quan hệ cung cầu được hình thành trên thị trường bất động sản và xu hướng biến động của chúng. Đó là cơ sở để tính thuế chuyền quyền sử dụng đất, tính tiền khi giao đất, bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất, tính giá trị quyền sử dụng đất khi góp vốn liên doanh.
Bản đồ địa chính là cơ sở để thể hiện số liệu về điều tra khảo sát, đo đạc. Mặt khác, bản đồ địa chính còn là một thành phần của hệ thống hồ sơ địa chính để phục vụ quản lý từng thửa đất. Vì vậy, Luật đất đai quy định việc tổ chức chỉ đạo lập bản đồ địa chính như sau:
+ Chính phủ chỉ đạo việc tổ chức lập bản đồ địa chính thống nhất trên phạm vi cả nước. Cơ quan quản lý đất đai ở Trung ương ban hành quy trình kỹ thuật, quy phạm xây dựng bản đồ địa chính.
+ ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo tổ chức việc lập bản đồ địa chính ở địa phương mình.
+ Bản đồ địa chính được lập theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
+ Bản đồ địa chính gốc được lưu trữ tại cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh, huyện, quận, thị xã và UBND phường, thị trấn.
3.2) Quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất.
Quy hoạch đất đai là sự tính toán, phân bổ đất đai một cách cụ thể về số lượng, chất lượng, vị trí, không gian trên cơ sở khoa học nhằm phục vụ cho các mục đích kinh tế, xã hội. Kế hoạch hoá đất đai là sự xác định các chỉ tiêu về sử dụng đất đai thông qua việc khoanh định mục tiêu sử dụng từng vùng đất cho từng thời kỳ nhỏ trong thời gian quy hoạch. Kế hoạch còn điều chỉnh mục đích sử dụng đất cho phù hợp với phương án quy hoạch và điều kiện thực tế của đất đai.
Công tác quản lý đất đai theo quy hoạch, kế hoạch có ý nghĩa to lớn. Nó giúp việc sử dụng đất đai đúng mục đích đạt hiệu quả cao và tiết kiệm, giúp Nhà nước quản lý chặt chẽ đất đai. Chính vì vai trò quan trọng vậy Luật đất đai năm 1993 đã có những điều khoản quy định về nội dung quy hoạch đất đai (điều 17); quy định về nội dung lập và xét duyệt quy hoạch đất đai (điều 16); quy định về thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
3.3) Ban hành các văn bản pháp luật về quản lý sử dụng đất và tổ chức thực hiện các văn bản đó.
Các văn bản quản lý Nhà nước nói riêng và các tài liệu khác nói chung luôn luôn được sản sinh do nhu cầu cầu của xã hội nhất định. Từ các hiện tượng kinh tế – xã hội có liên quan tới quan hệ đất đai, các cơ quan địa chính cần tổng hợp lại thành quy luật trong các địa phương mình đề nghị xây dựng các văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh pháp luật đất đai và các chính sách đất đai.
Ban hành các văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó là trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ quan quản lý đất đai ở các cấp. Trách nhiệm của cơ quan quản lý đất đai ở trung ương là soạn thảo các văn bản pháp luật về quản lý sử dụng đất để trình chính phủ quyết định chính sách đất đai.
Các cơ quan chuyên môn ở địa phương căn cứ vào quyền hạn và chức năng nhiệm vụ của mình giúp UBND các cấp ban hành văn bản hướng dẫn và tổ chức thực hiện đầy đủ chính sách ruộng đất của Đảng và Nhà nước. Để có chính sách đất đai phù hợp cần phải nhận thức đầy đủ các quy luật tự nhiên đồng thời căn cứ vào số liệu điều tra đo đạc, đánh giá, phân hạng đất và căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có như vậy việc quản lý, sử dụng đất mới thực hiện tốt.
3.4) Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất.
Đất đai là một tài nguyên vô cùng quý giá. Quỹ đất đai có hạn trong khi nhu cầu đất đai để phát triển sản xuất, phục vụ nhu cầu xây dựng và đời sống hàng ngày tăng. Do đó, việc phân phối đất phải đảm bảo công bằng và hợp lý, tạo điều kiện khai thác tốt đúng quỹ đất “chọn mặt gửi vàng”. Đây cũng là việc thực hiện quyền năng về đất đai mà Nhà nước giao cho các tổ chức, cá nhân tuỳ theo mức độ giao quyền năng này mà nảy sinh hình thức giao, cho thuê, thu hồi
*Nguyên tắc khi giao đất, cho thuê đất.
Việc giao đất phải căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan Nhà nước xét duyệt.
Việc giao đất phải đúng đối tượng và phải có nhu cầu sử dụng đất
Yêu cầu sử dụng đất đai phải được ghi trong luận chứng kinh tế kỹ thuật và trong thiết kế đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt
Phải có đơn xin giao đất hoặc cho thuê đất
* Thẩm quyền giao đất
Điều 23 và 24 Luật đất đai có quy định thẩm quyền giao đất của các cấp: Chính Phủ, UBND tỉnh và thành phố trực thuộc TW và UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Chính Phủ là cơ quan có thẩm quyền cao nhất quyết định những vấn đề quan trọng, quyết định giao đất và sử dụng đất vào mọi mục đích trong trường hợp cần thiết. Cụ thể:
+Chính Phủ xét duyệt kế hoạch hằng năm của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW về việc giao đất nông nghiệp, lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào mục đích khác.
+Chính Phủ quyết định cho các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê đất
+Chính Phủ giao đất trên diện tích quy định cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW theo quy định ở khoản 3 điều 23.
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW được giao thẩm quyền quyết định giao đất để sử dụng vào mục đích không phải là sản xuất nông, lâm nghiệp. Cụ thể:
+ Từ 1ha trở xuống đối với đất nông nghhiệp, đất lâm nghiệp có rừng, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị và từ 2 ha trở xuống đối với đất trống đồi núi trọc cho mỗi công trình không theo tuyến.
+ Từ 3 ha trở xuống đối với đất ông nghhiệp, đất lâm nghiệp có rừng, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị và từ 5 ha trở xuống đối với đất trống đồi núi trọc cho mỗi công trình đường bộ, đường sắt, đường điện, đê điều và từ 10 ha trở xuống đối với đất trống, đồi núi trọc cho mỗi công trình xây dựng hồ chứa nước
Giao đất nông nghiệp, lâm nghiệp có rừng để hộ gia đình, cá nhân làm nhà ở, đất chuyên dùng để sử dụng vào mục đích chuyên dùng khác hoặc để làm nhà ở, đất ở đô thị theo định mức do Chính Phủ quy định.
+ Giao đất khu dân cư nông thôn để UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giao đất cho hộ gia đình, cá nhân làm nhà ở
+ Giao đất để sử dụng vào mục đích nông, lâm nghiệp cho các tổ chức
+ Quyết định mức đất giao cho mỗi hộ gia đình sử dụng để làm nhà ở theo quyết định của Chính Phủ đối với từng vùng
+ Quyết định giao đất cho các nhà thờ, ._.nhà chùa, thành thất đang sử dụng
UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có các thẩm quyền sau:
+ Giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng vào mục đích nông, lâm nghiệp
+ Giao đất khu dân cư nông thôn cho hộ gia đình và cá nhân làm nhà ở trên cơ sở quy hoạch đã được xét duyệt của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW
+ Giao đất chưa sử dụng cho cá tổ chức và cá nhân có thời hạn hoặc tạm chia
* Những quy định về việc cho thuê đất
Điều 29 Luất đất đai quy định:”Chính Phủ, UBND các cấp thực hiện việc cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân thuê đất để sản xuất kinh doanh ” theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật.
Điều 80-84 của Luật đất đai quy định về việc tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế thuê đất
Việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tuân thủ theo pháp lệnh ngày 14/10/1994 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội và Nghị định số 11/CP ngày 24/01/1994 của Chính Phủ
* Những quy định về thu hồi đất
Điều 26 Luật đất đai 1993 quy định: Nhà nước thu hồi toàn bộ hoặc một phần đất đã giao sử dụng trong những trường hợp sau:
-Tổ chức sử dụng đất bị giải thể, phá sản chuyển đi nơi khác giảm nhu cầu sử dụng đất
Cá nhân sử dụng đất bị chết mà không có người được quyền tiếp tục sử dụng đất
Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất được giao
Đất không được sử dụng trong 12 tháng liền mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thẩm quyền giao đất cho phép
Người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước
Đất sử dụng không đúng mục đích được giao
Đất được giao không đúng thẩm quyền
Trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng bị thu hồi được đền bù thiệt hại.
Cơ quan Nhà nước nào có thẩm quyền giao loại đất nào thì có thẩm quyền thu hồi loại đất đó
2.5) Đăng kí đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, quản lý các hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đăng kí đất đai là việc cung cấp thông tin về quan hệ đối với đất đai để thiết lập lên hồ sơ địa chính nhằm xác lập mối quan hệ giữa người sử dụng đất với Nhà nước và Nhà nước bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người sử dụng đất.
Lí do để thực hiện đăng kí đó là thông tin đất đai luôn thay đổi dẫn đến quan hệ đất đai thay đổi vậy cần thực hiện nghĩa vụ đăng kí để xác lập quan hệ thường xuyên tương ứng loại thông tin đó.
Đăng kí lần đầu là việc đăng kí lần đầu tiên thực hiện một cách thống nhất trên toàn q uốc kết quả tạo hồ sơ ban đầu.
Khi thông tin thay đổi thì tiến hành đăng kí biến động đất đai. Khi phát sinh thay đổi thông tin về đất đai thì chủ sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ đăng kí những thay đổi này với cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai kết quả hình thành hồ sơ cập nhật về các biến động của đất đai.
Đăng kí đất đai là nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ sử dụng đất và của cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai.
Điều 33 Luật đất đai quy định.
“Khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho phép thay đổi mục đích sử dụng đất phải đăng kí tại UBND xã, phường, thị trấn”. Người đang sử dụng đất tại xã, phường, thị trấn nào thì phải đăng kí tại xã, phường, thị trấn đó
UBND xã, phường, thị trấn lập và quản lý sổ địa chính, đăng kí vào sổ địa chính đất chưa sử dụng và sự biến động về sử dụng đất
Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý xác nhận quan hệ hợp pháp giữa Nhà nước với người sử dụng đất trong quá trình quản lý và sử dụng đất
Điều 36 Luật đất đai quy định
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan quản lý đất đai ở TW phát hành
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất thì có thẩm quyền quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp Chính Phủ giao đất thì UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Thống kê đất đai:
Thống kê đất đai là công việc hết sức quan trọng nhằm nắm chính xác, kịp thời những biến động về đất đa, cung cấp thông tin cần thiết cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
Điều 35 Luật đất đai quy định : UBND các cấp có trách nhiệm tổ chức việc thống kê, kiểm kê đất đai tại địa phương mình. Cơ quan quản lý đất đai có trách nhiệm báo cáo kết quả thống kê đất đai lên cơ quan quản lý đất đai cấp trên trực tiếp. Việc thống kê đất đai thực hiện mỗi năm một lần, việc kiểm kê đất đai được tiến hành năm năm một lần. Đơn vị thống kê, kiểm kê đất đai là đơn vị lập sổ địa chính: UBND xã, phường, thị trấn.
Như vậy, nội dung quản lý Nhà nước về đất đai này gồm ba phần công việc: Kết hợp với bản đồ địa chính, tổ chức đăng kí và thành lập các hồ sơ đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để hình thành hệ thống hồ sơ địa chính ban đầu; Quản lí hồ sơ địa chính, thực hiện các thủ tục pháp lý trong biến động đất đai(giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp…), cập nhật hồ sơ địa chính; Thực hiện thống kê đất đai hàng năm và kiểm kê đất đai năm năm một lần để nắm lại quỹ đất và phát hiện quy luật kinh tế – xã hội có liên quan tới quan hệ đất đai
2.6) Thanh tra việc chấp hành các chế độ thể lệ về quản lý sử dụng đất.
Mục tiều của công tác này nhằm đảm bảo cho các quy định về chế độ quản lý sử dụng đất được thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ đồng thời phát hiện và đề xuất những bất hợp lý, những phương hướng xử lý sai phạm trong thay đổi quan hệ sử dụng đất. Có như vậy đất đai mới sử dụng tốt và có hiệu quả.
Nội dung của công việc này thanh tra người sử dụng đất xem việc sử dụng đất có đúng mục đích, chế độ không và thanh tra trong hoạt động quản lý đất đai: thanh tra bộ phận thực hiện chức năng, nghiệp vụ quản lý đất đai như xác định có đúng nghĩa vụ không? đúng chế độ quản lý không?
Như vậy có thể nói thanh tra kiểm tra việc quản lý và sử dụng đất đai là một trong những nội dung quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
Điều 37 Luật đất đai quy định:
Chính Phủ tổ chức thanh tra đất đai trong cả nước, UBND các cấp tổ chức thanh tra đất đai trong địa phương mình
Cơ quan quản lý đất đai ở TW giúp Chính Phủ, cơ quan quản lý đất đai ở địa phương giúp UBND cùng cấp trong việc thực hiện thanh tra đất đai.
Thanh tra đất đai phải được thực hiện thường xuyên, đều khắp, phải lưu ý cả điểm và diện, phải lưu ý cả lý và tình bởi quan hệ đất đai thường rất nhạy cảm và phức tạp.
2.7) Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai.
Giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai là một công việc khó khăn bởi tranh chấp đất đai thường tranh chấp về quyền sử dụng và quyền chiếm giữ đất đai giữa các bên sử dụng đất đòi hỏi khi giải quyết phải nắm được hồ sơ ban đầu và hồ sơ biến động đất đai để từ đó đi đến kết luận đúng đắn trong việc giải quyết tranh chấp đất đai. Còn kiếu nại là việc các đương sự sử dụng và quản lý đất đai nhận thấy bị sai phạm về quyền lợi của mình do cơ quan Nhà nước gây ra và đề nghị giải quyết các quyền lợi vi phạm. Còn tố cáo là hành vi của cá nhân hoặc tổ chức phát hiện ra những sai trái trong việc quản lý và sử dụng đất đai và những sai phạm này gây ra hậu quả bất lợi.
Nhà nước khuyến khích việc hoà giải tranh chấp đất đai trong nhân dân. Trong trường hợp tranh chấp về quyền sử dụng đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chính quyền UBND và cơ quan địa chính có trách nhiệm giải quyết. Trường hợp đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền cấp theo quy định của Luật đất đai thì do hệ thống toàn án giải quyết. Hiện nay ở nước ta tranh chấp và khiếu tố về đất đai đều do ngành điạ chính và các cấp chính quyền xử lý. Hơn nữa khi lập hồ sơ địa chính ban đầu chúng ta đã phải giải quyết hàng loạt những vấn đề do lịch sử để lại, những vấn đề này liên quan tới tranh chấp và khiếu tố về đất đai. Do đó để giải quyết tốt công việc này đòi hỏi cần nắm vững pháp luật đồng thời tuỳ điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà xử lý các tình huống cho thấu tình đạt lý.
Trên đây là những nội dung quản lý Nhà nước về đất đai, nó phản ánh được vai trò đất đai trong bức tranh hoạt động vĩ mô của nền kinh tế- xã hội. Thật vậy, khi kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn công nghiệp con người đã ý thức rõ hơn ý nghĩa quan hệ đất đai ở tầm vĩ mô từ đó xuất hiện khái niệm “ quản lý đất đai hiện đại”. Quản lý đất đai hiện đại bao gồm những nội dung trên. Tuy nhiên, tuỳ từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể và mục tiêu của các thời kỳ thì mối quan hệ đất đai có nhiều thay đổi phù hợp với thay đổi khách quan của nền kinh tế- xã hộ. Do đó nội dung quản lý Nhà nước đã nảy sinh nhiều vấn đề mới bảo đảm nhận thực đây đủ hơn, khoa học hơn vai trò đất đai đối với phát triển kinh tế- xã hội. Chính vì vậy Luật đất đai sẽ ban hành 01/07/2004 đã có nội dung quản lý Nhà nước về đất đai mới như sau: Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản; quản lý tài chính về đất đai; quản lý hoạt động dịch vụ công về đất đai; quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Những nội dung quản lý Nhà nước trên đây có mối quan hệ khăng khít với nhau. Để thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước vê đất đai cần làm tốt tất cả các nội dung trên. Trong các nội dung trên thì công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính hết sức quan trọng không thể thiếu được trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai bởi nó là hồ sơ pháp lý cao nhất và nếu thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ là cơ sở điều kiện để thực hiện các nội dung khác của quản lý Nhà nước về đất đai. Hơn nữa hồ sơ địa chính giúp các cấp chính quyền sử dụng tài liệu quản lý cập nhật thông tin đất đai.
Trong tình hình hiện nay công tác này đang là yêu cầu bức xúc và là một nhiệm vụ chiến lược của toàn ngành địa chính nhằm hoàn thiện hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm cơ sở triển khai thi hành luật, đưa hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai ở các cấp thành nề nếp thường xuyên. Để từng bước hoàn thiện công tác này thì ta cần tìm hiểu hồ sơ địa chính là gì? đặc điểm ra sao? Tại sao lại thực hiện công tác này?nội dung của nó gồm những gì?
II. Sự cần thiết phải xây dựng hồ sơ địa chính trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai
Cho đến nay trên thế giới có hai hệ thống hồ sơ quản lý đất đai: hệ thống địa bạ (deed system) và hệ thống bằng khoán(title system). Hệ thống địa bạ thì áp dụng từ tất lâu đời bao gồm: các sổ sách địa chính mô tả thửa đất theo kiểu sơ đồ do chính quyền quản lý và các giấy tờ pháp lý trên các khế ước, văn tự được pháp luật thừa nhận. Khi mà các mối quan hệ đất đai trở lên phức tạp thì một bộ hồ sơ hiện đại hơn đó là hệ thống bằng khoán. Hệ thống này bao gồm: bản đồ địa chính, các hồ sơ đăng kí đất đai, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, so với hệ thống địa bạ thì hệ thống bằng khoán cho phép chính quyền quản lý cụ thể hơn, chặt chẽ hơn, thống nhất hơn. Tuy nhiên tuỳ từng hoàn cảnh, điều kiện mà sử dụng hệ thống quản lý nào tốt hơn .
Trên đây đã nói về hệ thống hồ sơ quản lý đất đai. Nó phản ánh rằng việc quản lý đất đai chỉ quan tâm tới việc điều chỉnh các quan hệ đất đai trong phạm vi dân sự và hành chính, không chú ý tới vai trò đất đai trong bức trang hoạt động vĩ mô của nền kinh tế- xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, đất đai đang tham gia tích cực vào hoạt động kinh tế- xã hội do đó đòi hỏi phải xây dựng cho được hệ thống hồ sơ quản lý đất đai hiện đại. Muốn vậy ta cần tìm hiểu khái niệm hồ sơ địa chính cũng như đặc điểm và các loại hồ sơ địa chính ở nước ta.
1. Khái niệm, phân loại và đặc điểm hồ sơ địa chính
*Hồ sơ địa chính là hệ thống tài liệu, số liệu, bản đồ, sổ sách vv… phản ánh yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, pháp lý của đất đai tính cho từng đơn vị đất. Rõ ràng hồ sơ địa chính phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai bởi nó chứa đựng thông tin về đất đai. Tất cả các thông tin về tự nhiên của đất đai được lấy thông qua đo đạc khảo sát; còn các yếu tố kinh tế của đất đai lấy thông tin từ việc phân loại, đánh giá, phân hạng đất đai là điều kiệu để xác định giá đất và thu thuế. Yếu tố xã hội về đất đai lấy từ hoạt động của Nhà nước về quy định quyền sở hữu, quyền sử dụng, các quan hệ về chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp…Còn yếu tố pháp luật của đất đai thì căn cứ vào quyết định
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ví dụ như quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, các quy định pháp luật về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất vv…
Như vậy, để có tất cẩ thông tin đất đai ở trong hồ sơ địa chính như trên thì cần thực hiện được tất cả nội dung của công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
Hồ sơ địa chính nói chung bao gồm các tài liệu, số liệu, bản đồ, sổ sách … chứa đựng toàn bộ thông tin về đất đai. Nó là sản phẩm do người quản lý lập lên và mỗi bộ máy địa chính lập các loại hồ sơ địa chính khác nhau. Vì thế phân loại hồ sơ địa chính theo cách này ta có các loại hồ sơ địa chính như sau:
Hệ thống địa bạ: hệ thống này dùng để ghi chép thông tin yếu tố về đất đai, là hệ thống các loại sổ sách dùng trong đăng kí và quản lý đất đai. Nó chứa đựng đầy đủ các thông tin về vị trí, hình thể, kích thức, loại, hạng đất, cũng như chủ sở hữu và chủ sử dụng đất.
Nội dung của sổ địa bạ bao gồm: Sổ đăng ký đất (sổ địa bạ) do cơ quan quản lý đất đai cấp xã (cấp cơ sở) cấp và quản lý; thứ hai là các loại giấy tờ khác, nó xác định quan hệ sở hữu và pháp lý về đất đai. Việc sử dụng hệ thống địa bạ có ưu điểm đơn giản, dễ dàng thực hiện, dễ làm và dễ sử dụng. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm nó có nhược điểm đó là việc quản lý đất đai không an toàn, không chặt chẽ bởi việc quản lý chỉ sử dụng ở đơn vị hành chính nhỏ và quản lý trên từng lô đất, mảnh đất, không thể thể hiện đầy đủ thông tin của cả một vùng. Do vậy, nếu vượt khỏi vùng thì nó không còn giá trị.
Hệ thống hồ sơ địa chính tiếp theo là hệ thống bằng khoán (bằng khoán điền thổ): là hệ thống giấy tờ trong hồ sơ quản lý đất đai nó được xác định một cách thống nhất, trên cơ sở đó hệ thống bản đồ địa chính cùng với hệ thống quản lý hoàn chỉnh và đồng bộ
Hệ thống này ra đời sau khi hệ thống địa bạ ra đời. Sự ra đời của hệ thống này là khách quan bởi cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội các quan hệ đất đai phát triển đặc biệt là quan hệ hàng hoá tiền tệ (mua – bán) cho thuê, chuyển nhượng…Do đó mà hệ thống thông tin về quản lý đất đai phát triển đó là việc xác lập bản đồ địa chính.
Nội dung của hệ thống bằng khoán bao gồm: Hệ thống bản đồ địa chính quy định thống nhất trong cả nước; Thứ hai là hồ sơ, sổ sách để quản lý thông tin về mảnh đất đó vì một bản đồ không thể ghi đầy đủ thông tin về đất đai. Do vậy, dựa trên bản đồ mà thực hiện việc đăng ký lần đầu như đăng ký về diện tích, tính chất, mục đích sử dụng, chủ sử dụng đất…và khi có thông tin thay đổi thì thực hiện đăng ký lại trong hồ sơ gọi là đăng ký biến động; thứ ba là hệ thống Giấy chứng nhận quyền sử dụng (do người sở hữu quản lý).
Với nội dung trên thì hệ thống bằng khoán giúp người quản lý đất đai một cách chặt chẽ, thống nhất, việc quản lý này không những chỉ ở địa phương, vùng mà quản lý liên vùng, cả nước. Việc sử dụng hệ thống này tạo điều kiện cơ bản để phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ về đất đai một cách đầy đủ và chính xác sẽ ngăn chặn tình trạng thông tin ngầm tạo điều kiện co thông tin bất động sản phát triển lành mạnh. Không chỉ có vậy nếu tạo được hệ thống bằng khoán đầy đủ sẽ cho phép ta quản lý mục đích sử dụng được thực hiện một cách thống nhất và cho phép điều chỉnh quy hoạch, thay đổi mục đích sử dụng đất đai một cách linh hoạt và phù hợp.
Tuy nhiên, để tạo được hệ thống bằng khoán đầy đủ chính xác đòi hỏi vốn đầu tư lớn, đòi hỏi công nghệ cao, đòi hỏi phải có cán bộ có trình chuyên môn nghiệp vụ cao.
Bên cạnh việc sử dụng hệ thống địa bạ, hệ thống bằng khoán thì hệ thống hỗn hợp tức là sử dụng đồng thời cả hai loại hồ sơ địa chính trên cũng được sử dụng.
Việc kết hợp sử dụng 2 loại hồ sơ địa bạ và bằng khoán không có nghĩa là sử dụng 2 thông tin hệ thống trên một mảnh đất mà có loại đất thì sử dụng thông tin địa bạ sẽ tốt, đơn giản, dễ làm, dễ thực hiện, tiết kiệm. Còn có loại đất thì phải sử dụng thông tin đất đai. Thật vậy, bởi khi đất đai ít biến động thì nên sử dụng hệ thống địa bạ vì giản đơn, dễ làm mà vẫn đảm bảo quản lý thông tin một cách đầy đủ. Còn với đất đô thị, công nghiệp, sử dụng như một yếu tố để kinh doanh cộng với nhiều biến đổi do quá trình đô hoá đòi hỏi các thông tin phải chính xác do vậy cần sử dụng hệ thống bằng khoán vì đất đai ở khu vực này mang nhiều yếu tố kinh tế nó chứa đựng yếu tố tạo vốn và sử dụng vốn do đó tất cả các thông tin về đất đai cần phải được cập nhật đầy đủ, chính xác có như vậy mới tạo ra công bằng trong trong sử dụng, kinh doanh bất động sản giữa các thành phần kinh tế đồng thời thể hiện được vai trò của Nhà nước trong việc quản lý tài nguyên đất đai. Là cơ sở để đất đai tham gia tất cả các hoạt động kinh tế- xã hội như một nguồn lực thực sự, đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội theo đúng vai trò của nó và hơn thế nữa.
Như vậy, qua đây ta có thể thấy rằng việc lập và quản lý hồ sơ địa chính có vai trò và ý nghĩa rất to lớn trong việc quản lý đất đai nói chung.
Trên đây ta đi tìm hiểu các loại hồ sơ địa chính, và vấn đề đặt ra là ta nên sử dụng hồ sơ địa chính nào cho mục đích nào là tốt nhất và cần thiết phải hoàn thiện các loại hồ sơ địa chính như thế nào? để phục vụ tốt cho các công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
Hồ sơ địa chính là hệ thống tài liệu, số liệu, bản đồ, sổ sách vv… chứa đựng đầy đủ các thông tin về đất đai do đó các loại giấy tờ này luôn được sử dụng và tuỳ vào mục đích sử dụng của các loại giấy tờ này mà ta có cách phân loại hồ sơ địa chính như sau:
Các tài liệu sử dụng thường xuyên. Các tài liệu này bao gồm:
+ Bản đồ địa chính: Tuỳ theo điều kiện hiện nay ở từng địa phương bản đồ này có mức độ khác nhau về chất lượng:bản đồ địa chính có tạo độ theo hệ toạ độ thống nhất; bản đồ giải thửa toàn xã đo vẽ bằng nhiều phương pháp khác nhau ; hồ sơ kỹ thuật thửa đất đối với đất đô thị hoặc sơ đồ trích thửa đối với thửa đất nông, lâm nghiệp nhiều chủ sử dụng nhưng ranh giới giữa các chủ chưa thể hiện bằng bờ cố định; bản đồ trích lục ô phố, xứ đồng, thôn ấp, bản hoặc từng thửa đất trong trường hợp chưa có bản đồ địa chính mà có nhu cầu cần đăng kí lập hồ sơ, cấp giấy chứng nhận đến từng nhóm hộ, cá nhân, từng tổ chức trên từng thửa đất.
+ Sổ địa chính bao gồm cả nông thôn và thành thị. Sổ địa chính và bản đồ địa chính là hai tài liệu chứa đựng thông tin mang tính pháp lý của đất đai.
+ Sổ mục kê: dùng cho khu vực nông thôn được dùng để thống kê, kiểm kê đất đai rất tiện lợi
+ Sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
+ Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở(đối với đất đô thị)- đây là tài liệu chứa đựng thông tin pháp lý về đất đai.
+ Sổ theo dõi biến động đất đai
+ Biểu số liệu thống kê diện tích: cho biết diện tích từng đơn vị… giúp cho nhà quản lý có được thông tin cụ thể.
Tất cả các tài liệu trên phục vụ cho công tác trực tiềp quản lý đất đai, đây là hồ sơ thường trực, hồ sơ này thường được sử dụng thường xuyên. hiện đưới dạng như thế nào? ta còn phải tìm hiểu đặc điểm của nó để từ đó có thể phân tích tìm ra cách tác động đến sự vật, hiện tượng đó theo hướng tích cực và
Bên cạnh các tài liệu được sử dụng thường xuyên thì có tài liệu chỉ được sử dụng khi cần thiết đó là các tài liệu gốc lưu trữ.
Tài liệu gốc lưu trữ: Các tài liệu này dùng xác nhận thông tin đảm bảo hệ thống hồ sơ trên mang tính pháp lý và dùng để thẩm tra, kiểm tra.
Các tài liệu này hình thành trong quá trình đo đạc, lập bản đồ địa chính gồm toàn bộ thành quả giao nộp theo luận chứng kinh tế kỹ thuật đã được duyệt của mỗi công trình đo vẽ, lập bản đồ địa chính và các thông tin, tư liệu hình thành trong quá trình đăng kí lần đầu và đăng kí biến động đất đai gồm: các giấy tờ do chủ sử dụng đất nộp khi kê khai đăng kí; đơn kê khai đăng kí, cấp giấy tờ pháp lý về nguồn gốc đất đai; hồ sơ, tài liệu được hình thành trong quá trình thẩm tra, xét duyệt đơn của cấp xã, huyện; các văn bản pháp lý của cấp có thẩm quyền trong việc thực hiện đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: quyết định thành lập hội đồng đăng kí đất, quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyết định xử lý các vi phạm pháp luật đất đai vv…; Hồ sơ về kiểm tra kỹ thuật, nghiệp thu sản phẩm đăng kí đất đai xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Khi xem xét bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào ngoài việc hiểu nó là gì và được thể hồ sơ địa chính cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trên đây ta cũng phần nào hiểu được thế nào là hồ sơ địa chính và các loại hồ sơ địa chính giờ ta tìm hiểu xem nó có đặc điểm gì?
Hồ sơ địa chính bao gồm nhiều tài liệu chứa đựng nhiều thông tin về đất đai. Thật vậy, không một tài liệu riêng lẻ nào chứa đựng được toàn bộ thông tin về đất đai, chỉ có hồ sơ địa chính mới có được toàn bộ thông tin về đất đai bởi nó là tập hợp của tất cả các tài liệu chứa đựng các thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, pháp lý của đất đai. Nhìn vào hồ sơ địa chính ta có thể biết được toàn bộ thông tin về đất đai.Các loại tài liệu trong hồ sơ địa chính chứa đựng các thông tin về đất đai một cách chính xác và thống nhất. Với đặc điểm này yêu cầu đặt ra cần biết phân loại và quản lý các tài liệu sao cho tiện lợi nhất.
Đặc điểm thứ hai là việc lập và quản lý hồ sơ địa chính là một nội dung mang tính đặc thù của cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai và nó có quan hệ mật thiết với các nội dung khác của quản lý Nhà nước vê đất đai. Đúng vậy, việc lập và quản lý hồ sơ địa chính không phải cấp nào, ngành nào cũng làm được mà phải có cơ quan chuyên trách thực hiện như phải thực hiện một số nghĩa vụ đặc thù của ngành địa chính như đo đạc bản đồ, lưu trữ thông tin vv…. Đây là nhiệm vụ hoàn thành chức năng quản lý của Nhà nước, bắt buộc Nhà nước phải hoàn thành đăng kí đất đai lập hồ sơ địa chính do đó phải có những bộ phân, những người thực hiện nhiệm vụ này, đồng thời bảo đảm quyền lợi, nhu cầu của Nhà nước. Để hoàn thành công tác lập hồ sơ địa chính đòi hỏi phải thực hiện đồng thời các nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất đai. Vấn đề đặt ra là cần đào tạo cán bộ có chuyên môn trong việc thực hiện công tác đăng kí đất đai, lập hồ sơ địa chính đồng thời phối hợp với các cấp, các ngành để làm tốt nội dung quản lý Nhà nước về dất đai.
Đặc điểm thứ ba là các tài liệu, số liệu trong hồ sơ mang tính pháp lý cao. Các tài liệu này có ý nghĩa pháp lý chặt chẽ ở chỗ nó là căn cứ để hoạch định các chủ trương, kế hoạch phăt triển kinh tế- xã hội, làm cơ sở xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý của đối tượng sử dụn. Việc thực hiện tốt công tác đo đạc bản đồ, đăng kí đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… thì các tài liệu hồ sơ địa chính càng có giá trị pháp lý cao.
Với các đặc điểm trên làm cho việc thực hiện công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính cần phải có một số lượng lao động, vật tư kỹ thuật, thời gian, kinh phí nhất định và người làm công tác lập hồ sơ địa chính phải được đào tạo có trình độ kỹ thuật chuyên môn đầy đủ mới có thể thực hiện được. Cũng do đặc điểm trên nên chỉ ngành địa chính mới thực hiện công tác này một cách chính xác và đầy đủ trở thành nội dung quản lý Nhà nước về đất đai.
2. Yêu cầu, phân cấp lập và quản lý hồ sơ địa chính.
Với mỗi một công tác quản lý Nhà nước về đất đai thì đều có yêu cầu riêng phù hợp với đặc điểm cũng như bản chất của từng nội dung. Và việc lập hồ sơ địa chính phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Phải đầy đủ các loại tư liệu. Bởi nếu không đầy đủ thì những thông tin về đất đai sẽ không đầy đủ, tính chất pháp lý không đầy đủ dẫn đến khai thác và sử dụng các tài liệu khác bị hạn chế.
Bên cạnh việc lập đầy đủ các loại tư liệu thì mỗi loại tư liệu phải đảm bảo tính pháp lý. Tính pháp lý ở mỗi tư liệu làm cơ sở để có hồ sơ địa chính có tính pháp lý. Bởi cái hình thành nên hồ sơ địa chính mà không chính xác, không đảm bảo tính pháp lý dẫn đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không có tính pháp lý và hồ sơ không có tính pháp lý.
Song song với hai yêu cầu trên thì công tác lập hồ sơ địa chính đòi hỏi các nội dung thông tin phải thể hiện chính xác, thống nhất trên tất cả các tài liệu của hồ sơ địa chính. Với yêu cầu này đòi hỏi các thông tin đưa vào phải chính xác dựa vào thông tin do chính người đứng ra kê khai đăng kí và trên cơ sở đó phải thẩm tra đồng thời thực hiện một loạt biện pháp kỹ thuật cần thiết xem kê khai đúng chưa? chính xác chưa?. Và khi phê duyệt phải dựa trên kê khai và thẩm tra có như vậy thông tin đảm bảo tính chính xác. Sau mỗi một bước thực hiện cần tiến hành thẩm tra lại ngay. Các thông tin còn phải đảm bảo tính thống nhất tức là toàn bộ dữ liệu đưa vào trong hồ sơ phải nhất quán thống nhất với nhau. Thông tin mảnh đất nó không chỉ nằm một loại sổ mà nằm nhiều sổ nếu không thống nhất sẽ rất khó cho việc quản lý.
Một yêu cầu nữa của công tác lập hồ sơ địa chính đó là hình thức trình bày các tài liệu hồ sơ phải rõ ràng, không được cạo, tẩy hoặc dùng bút phủ nội dung đã viết, việc chỉnh lý biến động trên tài liệu hồ sơ phải theo đúng quy định đối với mỗi tài liệu. Như vậy, đáp ứng yêu cầu này là đảm bảo thông tin đưa vào rõ ràng, tiện tra cứu, quản lý, các ngôn từ sử dụng đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, đúng các kí hiệu, đảm bảo đúng quy định về sử chữa.
Để đảm bảo các yêu cầu trên được thực hiện thì cần thực hiện phân cấp trong việc lập và quản lý hồ sơ địa chính.
Về lập hồ sơ
Cấp xã, phường thực hiện lập; sổ địa chính thông qua đăng kí đất ở cấp xã; lập sổ mục kê; biểu số liệu thống kê đất đai; sổ theo dõi biến động đất đai.
Cấp huyện: lập biểu số liệu thống kê đất đai; thực hiện kiểm tra, nghiệm thu, xác định công tác lập sổ của cấp xã, phường; tiến hành lập sổ theo dõi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đấ: cá nhân, hộ gia đình.
Cấp tỉnh: tiến hành lập sổ theo dõi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cấp tỉnh quản lý, thuộc thẩm quyền cấp tỉnh; đồng thời thành lập văn bản, hệ thống hồ sơ xác định, kiểm tra công tác đăng kí, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cấp huyện; lập biểu số liệu thống kê; bản đồ địa chính; thành lập tài liệu liên quan đến quyết định hành chính trong công tác thanh tra, phúc tra
Như vậy, công tác đăng kí đất đai, lập hồ sơ địa chính được tiến hành ngay từ cấp cơ sở đồng thời có sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát cũng như hướng dẫn của cấp trên do đó muốn công tác lập hồ sơ địa chính được tiến hành nhanh cần có sự phối hợp chỉ đạo giữa các ngành và các cấp chính quyền.
Về phân cấp quản lý hồ sơ địa chính:
Cấp xã: quản lý hồ sơ do mình lập ra và bản đồ địa chính
Cấp huyện: quản lý hồ sơ do mình lập ra; bản đồ địa chính và toàn bộ hồ sơ do cấp xã thành lập.
Cấp tỉnh: quản lý hồ sơ do mình lập và hồ sơ cấp huyện thành lập
Về phân cấp lưu trữ:
Cấp nào hình thành và phê duyệt loại tài liệu nào thì có quyền lưu trữ tài liệu đó. Như vậy, hồ sơ địa chính được lưu tại hai nơi, nơi hình thành và nơi tiến hành phê duyệt. Với phân cấp lưu trữ thế này cho phép tra cứu thông tin dễ dàng là tài liệu cho việc thanh tra, kiểm tra.
Trên đây ta đi tìm hiểu về yêu cầu và phân cấp trong việc lập và quản lý hồ sơ địa chính và vấn đề đặt ra cho công tác quản lý đất đai nói chung và công tác lập hồ sơ địa chính nói riêng là cần làm tốt các yêu cầu đặt ra và trong việc phân cấp cần quy định rõ ràng, cụ thể hơn nhiệm vụ của từng cấp tránh chồng chéo và tình trạng “cha chung không ai khóc”.
3. Vai trò của việc xác lập hồ sơ địa chính(xây dựng hồ sơ địa chính là yêu cầu khách quan).
Như chúng ta đã biết đất đai có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội và Nhà nước nào cũng muốn nắm giữ quyền lực này để phục vụ cho việc phát triển kinh tế- xã hội do đó cần có quản lý Nhà nước về đất đai. ở nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý nhằm đảm bảo sử dụng đất một cách đầy đủ, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao nhất. Và công tác lập hồ sơ địa chính là nội dung quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai nó là cơ sở để bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, là điều kiện để Nhà nước quản lý chặt chẽ toàn bộ quỹ đất trong phạm vi lãnh thổ đảm bảo cho đất đai được sử dụng một cách triệt để. Việc thực hiện tốt công tác này là điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ khác của công tác quản lý Nhà nước về đất đai. Cụ thể như sau:
Thực hiện lập hồ sơ địa chính là cơ sở để bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Thật vậy, chế độ sở hữu bao gồm ba quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đất đai. Quyền chiếm hữu thể hiện Nhà nước chiếm giữ toàn bộ đất đai muốn vậy Nhà nước phải nắm được toàn bộ thông tin về đất đai. Do vậy, Nhà nước phải thực hiện nhiệm vụ đăng kí đất đai, lập hồ sơ địa chính. Bởi tất cả tài liệu hồ sơ địa chính nó chứa đựng toàn bộ thông tin về đất đai. Còn về phía người sử dụng quyền chiếm giữ đất đai chỉ giới hạn trong phạm vi Nhà nước giao nhưng người sử dụng phải có thông tin về đất đai thông qua đăng kí đất đaivà nhằm thiết lập lên hồ sơ địa chính. Hồ sơ địa chính là tài liệu khẳng định quyền chiếm giữ đất đai hợp pháp của người được Nhà nước giao quyền sử dụng. Còn quyền sử dụng thể hiện ở Nhà nước quyết định vê mục đích sử dụng, và người sử dụng khai thác công dụng lợi ích của đất đai phải phụ thuộc vào quy định của Nhà nước. Mà để có quyết định về mục đích sử dụng thì phải nắm được toàn bộ thông tin về đất đai phải dựa vào hồ sơ địa chính. Nếu không có hồ sơ địa chính thì dẫn đến không quản lý được mục đích sử dụng. Còn đối với người sử dụng đất nếu không thực hiện đăng kí đất đai để xác lập nên hồ sơ địa chính thì họ không yên tâm đầu tư khai thác bởi thành quả của việc sử dụng đất không được thừa nhận, không bảo vệ quyền năng trong việc khai thác. Nếu đăng kí xác lập hồ sơ địa chính đầy đủ thì tất cả các quan hệ đều được Nhà nước đứng ra bảo vệ. Xét về quyền định đoạt, đây là quyền tối cao của Nhà nước đó là Nhà nước thực hiện mục đích sử dụng đất thông qua quy hoạch đất đai và Nhà nước định đoạt quan hệ đất đai như giao, cho thuê, thu hôi, mua bán…Để có thể đưa ra quyết định này Nhà nước cần căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất mà tất cả điều này được phản ánh trong hồ sơ ._.h lý, chỉnh lý theo từng tờ bản đồ theo đúng quy phạm của Nhà nước trong quá trình thực hiện đã có lúc phải xin cho.
Tóm lại, công tác lập hồ sơ địa chính là công việc phức tạp liên quan đến nhiều đơn vị công tác: Công ty ảnh địa chính của Bộ Tài nguyên Môi trường, công ty ảnh địa chính của Sở, các công ty đo đạc; công tác này huy động tất cả các phòng ban của Sở vì vậy ta mới chỉ thực hiện thí điểm. Hơn nữa kinh phí cho việc thực hiện công tác này là rất lớn: Riêng đối với kinh phí cho việc mua sắm sổ sách từ năm 2003 đã là: 700 triệu đồng, bao gồm vốn của ban quản lý dự án (vốn sự nghiệp) vốn hành chính hỗ trợ ngân sách; đây là công việc đòi hỏi chuyên môn cao trong việc đo đạc bản đồ, lập sổ sách, giải quyết những tồn tại do lịch sử để lại, lưu trữ tài liệu hồ sơ địa chính. Đồng thời là công việc có tính pháp lý cao thể hiện ở việc nâng cao trách nhiệm của các bên trong thực hiện.
Để công tác thí điểm hồ sơ địa chính sớm hoàn thành đi vào thực hiện đại trà trên toàn thành phố và cả nước thì qua việc thực hiện thí điểm trên cần giải quyết những tồn tại và có một số kiến nghị đề xuất như sau:
Sau khi nghiệm thu, đề nghị Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất sớm phê duyệt hồ sơ giao cho địa phương quản lý.
Lập hồ sơ kỹ thuật cho 100% số thửa đất trên địa bàn đã được đăng ký sử dụng.
Cần có sự chỉ đạo hướng dẫn sát sao hơn nữa của Sở, các cấp chính quyền và sự phối hợp giữa các ngành liên quan.
Cấp kinh phí phục vụ cho công tác hồ sơ địa chính.
Như vậy, qua việc phân tích, đánh giá trên ta có thể thấy được tính chất phức tạp và khó khăn trong công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính. Hồ sơ địa chính giúp chính quyền các cấp sử dụng tài liệu quản lý, cập nhật thông tin đất đai vì vậy lập hồ sơ địa chính không phải để trưng bày, để tủ làm mất đi giá trị của nó, bởi quyền lợi của dân và của Nhà nước là ở đây. Do đó, trong quá trình thực hiện công việc cần hết sức cẩn thận và cân nhắc, xác định đây là công tác quan trọng và thường xuyên phải thực hiện.
Phần III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác hồ sơ địa chính
I. Phương hướng, nhiệm vụ công tác quản lý đất đai nói chung và công tác hồ sơ địa chính nói riêng.
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận cho ta thấy cần thiết phải thực hiện công tác quản lý Nhà nước về đất đai đặc biệt là công tác hồ sơ địa chính, hơn thế nữa thực trạng công tác quản lý Nhà nước về đất đai trong thời gian vừa qua có nhiều bất cập:
Hệ thống pháp luật đất đai đã qua hai lần sửa đổi, bổ sung đã điều chỉnh được quan hệ đất đai, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế song hệ thống pháp luật đất đai chưa đủ sức giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay; chưa đồng bộ, đổi mới chưa toàn diện vì vậy cần tiếp tục đổi mới để phục vụ nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Hệ thống quản lý đất đai bằng công cụ kinh tế thông qua các văn bản pháp quy về giá đất, thuế đất, đề bù thiệt hại khi thu hồi đất song giá đất biến động và kiếu nại, tố cáo, về đền bù khi thu hồi đất vẫn tiếp tục tăng nhanh. Vì vậy, phải nhất thiết xây dựng hệ thống tài chính hợp lý về đất đai .
Công việc giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất là công việc đặc thù của Nhà nước khi Nhà nước đại diện cho toàn dân thực hiện quyền năng của chủ sở hữu. Nói chung, đến nay công việc này cũng đi vào nề nếp, thực hiện đúng trình tự thủ tục và đảm bảo tính pháp lý. Nhưng vấn đề nan giải được đặt ra không phải là những phát sinh hiện tại mà là việc giải quyết những bất cập và sai phạm trong đã qua. Vì trong quá khứ có nhiều trường hợp giao đất không làm thủ tục thu hồi đất của chủ cũ, giao đất trái thẩm quyền, giao sai đối tượng sử dụng, giao đất sai mục đích sử dụng … Và những sai phạm này là một trong những nguyên nhân gây tình trạng kiếu nại quá nhiều hiện nay.
Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp cho các hộ gia đình còn chậm. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đô thị theo Nghị định 60/CP của Chính phủ mới thực hiện được ít.
Việc tổ chức quản lý thị trường bất động sản vừa bị buông lỏng, vừa bị chồng chéo về chức năng., nhiệm vụ thiếu sự quản lý thống nhất, giao dịch ngoài tầm kiểm soát. Nhà nước cũng chưa có văn bản cụ thể nào để tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho việc vận hành thị trường bất động sản chính thức- thị trường có sự quản lý của Nhà nước .
Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo của dân về đất đai hiện nay đang là khâu yếu nhất. Công tác thanh tra hầu như chưa thực hiện được là bao, vì thế mà các sai phạm về quản lý và sử dụng đất đai đang là hiện tượng phổ biến. Công việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đang là công việc bề bộn nhất hiện nay. Vì những tồn tại lịch sử để lại, vì quyết định quản lý chưa tốt, vì việc phân phối lợi ích chưa thoả đáng do vậy, tình trạng này có xu hướng tăng hơn về mức độ và khó khăn hơn về chất. Nguyên nhân chính là chưa thiết lập đầy đủ hồ sơ địa chính để làm cơ sở giải quyết các sự kiện trê. Để giải quyết tình trạng trên bên cạnh xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính hoàn chỉnh còn thực hiện các giải pháp đồng bộ khác.
Bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai chưa ổn định, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành địa chính từ TW đến địa phương chưa rõ ràng. Sự phối hợp giữa cơ quan địa chính với các cấp chính quyền chưa được nhịp nhàng. Do đó giải quyết công việc chậm và kém hiệu quả.
Đội ngũ cán bộ địa chính là nhân tố quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai song lại chưa đủ cả về số lượng lẫn chất lượng. Đối với cán bộ cấp xã có trách nhiệm rất lớn trong thực hiện quản lý đất đai thì trình độ chuyên môn có hạn lại ít được sự chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp trên vì thế quản lý Nhà nước về đất đai chưa tốt. Vì vậy, cán bộ địa chính cần được đào tạo một cách có hệ thống.
Còn xét về công tác đo đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính đã được nghiên cứu ở phần II song có thể có một vài kết luận sau:
Công tác đo đạc bản đồ cơ bản phục vụ điều tra cơ bản và quản lý đất đai có những bước tiến vững chắc. Việc ứng dụng công nghệ tin học và công nghệ vũ trụ chúng ta đã hoàn thành hệ quy chiếu quốc gia với độ chính xác cao đã phủ kín vùng đất liền và vùng biển; hệ thống ảnh hành không, ảnh vệ tinh đã phủ kín cả nước; hệ thống lưới tạo độ địa chính cơ sở với gần 20.000 điểm phủ kín cả nước; hệ thống bản đồ địa chính cơ bản ở tỉ lệ 1/50.000 và 1/25.000…. Công nghệ 3S (GPS, GIS, RS) đã được phổ biến ở nước ta. Mặc dù đã đạt được kết quả trên song đến nay chúng ta vẫn chưa có thông tin đầy đủ được cập nhật kịp thời để trả lời mọi câu hỏi của quản lý Nhà nước. Hơn thế nữa công tác này tốn kém rất nhiều mà kết quả thu lại chưa được là bao. Thể hiện: bản đồ địa chính chính quy được sử dụng để đăng ký, cấp Giấy chứng nhận , lập hồ sơ địa chính chiếm tỉ lệ thấp so với tổng diện tích đã đăng ký cấp Giấy chứng nhận .
Hồ sơ địa chính còn nhiều loại, nhiều dạng và chưa được cập nhật, chỉnh lý biến động thường xuyên sau khi cấp Giấy chứng nhận.
Công tác quản lý, lưu trữ, bảo quản bản đồ, hồ sơ địa chính chưa tốt và chưa đạt yêu cầu.
Trước tình hình công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và công tác lập hồ sơ địa chính nói riêng như trên thì phương hướng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất đai và công tác hồ sơ địa chính một mặt phải đi vào giải quyết những tồn tại đã và đang nảy sinh trong mối quan hệ về đất đai và những tồn tại trong công tác quản lý, mặt khác cần tập trung lực lượng vào xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính hoàn chỉnh. Cụ thể như sau:
1. Tăng cường pháp chế trong quản lý Nhà nước về đất đai
Xây dựng Luật đất đai với nội dung đáp ứng cho được nhu cầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá: một là tiếp tục xác lập chế độ sở hữu toàn dân về đất đai; hai là, tiếp tục xác lập chế độ sử dụng đất; ba là, xây dựng hệ thống tài chính đất đai hợp lý tạo cơ sở để xây dựng và phát triển thị trường bất động sản lành mạnh, tạo cơ chế tốt để phát triển cơ sở hạ tầng cho thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu về quỹ nhà ở cho người có thu nhập thấp. Luật đất đai mới ban hành cũng như ban hành các văn bản để thực hiện Luật đất đai phải nhang chóng và sớm đưa vào thực hiện nhằm chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất, phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư, nhằm xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
Tăng cường công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất cần tăng cường ở bề rộng và chiều sâu ở tất cả các địa phương.
Chuẩn bị tốt kế hoạch sử dụng đất cả nước giai đoạn 2001-2005 và quy hoạch sử dụng đất cả nước giai đoạn 2001-2010, đồng thời phải đôn đốc các địa phương tiếp tục triển khai quy hoạch sử dụng đất cấp huyện và cấp xã. Bên cạnh việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch cần rà soát lại quy trình xây dựng quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất để có được tính khả thi, dân chủ vàđủ công cụ để đảm bảo tính thực thi. Như vậy, cần xây dựng một lực lượng có kinh nghiệp và trình độ cao để thực hiện công tác kiểm tra phương án quy hoạch đồng thời kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp.
2. Thúc đẩy việc hình thành và quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản.
Việc xây dựng thị trường bất động sản được xuất phát từ mục tiêUBND phát triển kinh tế của đất nước được đề ra trong Đại hội của Đảng và xuất phát từ yêu cầu của thực tế đó là việc giao dịch, mua bán kinh doanh bất động sản đang là nhu cầu của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, thị trường bất động sản lại thiếu văn bản pháp quy, thiếu quản lý ngành dọc. Vì vậy, thị trường này đang thả nổi, phát triển theo hướng tự phát không có sự quản lý Nhà nước. Vì thế Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành TW Đảng khoá IX đã chủ trương về xây dựng và quản lý thị trường bất động sản “ chủ động xây dựng và phát triển thị trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất, trước hết là ở các đô thị và ở các vùng sẽ phát triển đô thị…”.
Để quản lý thị trường bất động sản trước hết quản lý các chuyển dịch đ mà để quản lý quá trình chuyển dịch cần hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính để cung cấp một cách chính xác các biến động về đất đai.
3. Tăng cường thanh tra đất đai, giải quyết khiếu nại tố cáo của dân về đất đai.
Trong những năm vừa qua, công tác thanh tra đất đai hầu như bị lờ đi, tiêu cực đã xuất hiện trong công tác này. Tình trạng giao đất nhiều nhưng không sử dụng xảy ra nhiều gây tình trạng lãng phí đất đai. Vì vậy tăng cường thanh tra đất đai bằng cách giao nhiệm vụ cụ thể cho các cấp, ngành đồng thời cấp kinh phí cho người làm công tác này. Còn việc giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai được hợp tình, hợp lý thì cần sử dụng biện pháp tổng hợp bởi đây là những vấn đề do lịch sử để lại và những bất cập ở hiện tại mang tới. Cần nhanh chóng hoàn thiện công tác hồ sơ địa chính để làm cơ sở pháp lý giải quyết các tranh chấp, kiếu kiện về đất đai đồng thời sử dụng biện pháp giáo dụng, dân vận trong việc giải quyết vấn đề này.
4. Tổ chức đổi mới bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai theo hướng tinh giảm. gọn nhẹ và thực hiện cải cách hành chính.
Để đổi mới bộ máy quản lý Nhà nước thì cần thực hiện chuyên môn hoá, hợp tác hoá giữa các cấp, các ngành quản lý đất đai. Cần phân công rõ ràng nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các cấp trách chồng chéo, trách tình trạng “cha chung không ai khóc”. Bên cạnh việc phân công rõ ràng cần có sự phối hợp trong hoạt động đảm bảo sự điều hành tập trung thống nhất, thông suốt, kỷ luật cao. Đặc biệt đối với công tác phức tạp là xây dựng hồ sơ địa chính đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong bộ máy quản lý Nhà nước cùng những các nghành có liên quan trong việc thực hiện.
Để bộ máy quản lý Nhà nước hoạt động có hiệu quả cần tăng cường công tác đào tạo và tu nghiệp đội ngũ cán bộ địa chính. Trước hết phải làm cho họ nhận thức được vai trò của đất đai trong thời đại mới- Quản lý đất đai đặt trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Đào tạo nhằm năng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận và thực tiễn.
5. Xúc tiến công tác đo vẽ bản đồ, hoàn thành công tác đăng ký đất đai , lập hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
áp dụng khoa học kỹ thuật trong công tác đo vẽ bản đồ, xây dựng hệ toạ độ quốc gia, xúc tiến chương trình thành lập bản đồ bao trùm toàn quốc tỉ lệ 1/50.000, điều chỉnh triển khai đo vẽ ở các địa phươn. Trong những năm tới cần sớm hoàn thành công trình xây dựng hệ thống bản đồ địa hình bao trùm toàn lãnh thổ, hệ thống lưới địa chính của cả nước; xây dựng hệ thống thu nhận ảnh hàng không- vệ tinh cung cấp đủ thông tin cho quản lý; xây dựng hệ thống ảnh kết nối với bản đồ nền tạo nên cơ sở dữ liệu địa lý cơ bản phục vụ quản lý ở các địa phương bằng công nghệ thông tin; xây dựng hệ thống phần mền chuẩn, thống nhất thành lập, quản lý bản đồ, hồ sơ địa chính .
Đối với công tác đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: trong những năm tới cần tập trung đầu tư, hướng dẫn để cơ bản hoàn thành công tác đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính , cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đấ; đưa công việc này cho đất đô thị đạt được 50% vào năm 2994 và cơ bản hoàn thành vào năm 2005. Để quản lý chặt chẽ đất đai, chúng ta cần sớm nhất có được hệ thống hồ sơ địa chính, bản đồ địa chính hoàn chỉnh. Vì vậy, đây là nhiệm vụ thường xuyên nhưng có tầm quan trọng đặc biệt. Trong quá trình xây dựng hồ sơ địa chính ban đầu, chúng ta cần triển khai, chỉnh lý biến động. Chậm chỉnh ly biến động như nhiện nay sẽ làm cho quá trình quản lý diễn ra phức tạp hơn và lãng phí nhiều hơn. Quá trình đăng ký, lập hồ sơ địa chính phải kết hợp chặt chẽ với quá trình tin học hoá hệ thống quản lý bằng việc xây dựng hệ thống thông tin đất đai (LIS). Thực hiện công tác đăng ký, thống kê đất đai, lập hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chuyển biến cách mạng về quản lý đất đai. Vì vậy, cần đẩy nhanh tiến độ và sớm hoàn thành công tác này. Đẩy nhanh việc cấp Giấy chứng nhận và quyền sở hữu trên cả nước và đặc biệt ở đô thị và phải coi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là khâu đột phá trong quản lý đất đai.
Việc tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới và sự nghiệp phát triển kinh tế –xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá mà trọng tâm của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đó là việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp dịch vụ thì yêu cầu đặt ra phải bắt đầu từ từ chuyển đổi cơ cấu sử dụng các nguồn đầu vào bao gồm lao động , đất đai, vốn, khoa học công nghệ …Để thực hiện chuyêủ dịch đất đai phù hợp cần khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý Nhà nước, xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính hoàn chỉnh để quản lý chặt chẽ đất đai. Và cần thực hiện được phương hướng và nhiệm vụ nêu trên.
II. Một số giải pháp hoàn thiện công tác hồ sơ địa chính
Bản đồ và hồ sơ địa chính là tài liệu cơ bản để quản lý đất đai. Trong những năm vừa qua Nhà nước đã chú trọng đầu tư kinh phí cho các địa phương triển khai công tác đo đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính . Kết quả là các loại tài liệu này đã sử dụng có hiệu quả trong việc đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp và cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở; giải quyết tranh chấp đất đai có liên quan đến ranh giới hành chính các cấp, ranh giới giữa các thửa đất; lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị, giao thông, thuỷ lợi, xây dựng các công trình ; phục vụ các dự án của Nhà nước về xoá đói giảm nghèo, đa dạng hoá nông nghiệp, phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác đo đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính còn nhiều tồn tại. Bản đồ địa chính mặc dù phục vụ công tác đăng ký, cấp Giấy chứng nhận song mới chỉ làm được ở tỉ lệ thấp so với tổng diện tích đã đăng ký, cấp Giấy chứng nhận đặc biệt là khu vực đô thị do biến động đất đai lớn và hậu quả lịch sử để lại. Hồ sơ địa chính còn nhiều loại, nhiều dạng và chưa được chỉnh lý biến động thường xuyên sau khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mẫu sổ sách địa chính liên tục thay đổi khi chưa hoàn thành mẫu này thì lại sử đổi theo mẫu khác song các mẫu này chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất đai hiện nay. Biến động đất đai diễn ra thường xuyê, liên tục phức tạp dưới nhiều hình thức mà công tác hồ sơ địa chính chưa hoàn thiện vì thế việc cập biến động là khó khăn, hơn thế nữa công tác này chưa thật sự được chú ý đúng mức nên thực hiện chậm chạp.
Qua ví dụ về thí điểm công tác chỉnh lý bản đồ, lập hồ sơ địa chính ở Hà Nội ta thấy đây là công việc rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi huy động toàn bộ lực lượng vào công tác này, cần có sự chỉ đạo sát sao của các cấp chính quyền, Sở, ban, nghành. Và trong quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn vì nguồn gốc đất đai phức tạp, tình trạng sử dụng đất manh mún dẫn đến việc chậm trong quá trình phân loại hồ sơ để xét cấp Giấy chứng nhận.
Từ thực trạng của công tác lập hồ sơ địa chính ở nước ta và qua kết quả công tác lập hồ sơ địa chính thí điểm của thành phố Hà Nội ta có thể đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính .
1. Giải pháp vĩ mô.
Đây là giải pháp quan trọng bởi nó không chỉ có ý nghĩa đối với riêng công tác hồ sơ địa chính mà nó là giải pháp nhằm tăng cường quản lý Nhà nước về đất đai. Nội dung của giải pháp này là nghiên cứu hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay.
Trước mắt là xem xét và phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước liên quan đến đất đai giữa Bộ Tài nguyên Môi trường và Nhà đất, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn và Bộ Xây dựng. Nhằm tập trung việc quản lý đất đai thống nhất về một đầu mối trách chồng chéo trong quản lý, muốn vậy bên cạnh việc phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp, các ngành thì cần có chính sách đảm bảo ổn định kinh phí hoạt động của ngành địa chính, đảm bảo cho các tỉnh cùng có điều kiện phát triển công tác địa chính như nhau.
Tiếp đến cần xây dựng và hoàn thiện các văn bản làm cơ sở pháp lý để thực hiện công tác đo đồ, lập hồ sơ địa chính được thuận lợi. Trước hết cần ban hành các văn bản quản lý Nhà nước để thực hiện Nghị định 12/2002/NĐ-CP về hoạt động đo đạc bản đồ . Đồng thời rà soát bổ sung và hoàn thiện các quy định về đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất.
Trong giải pháp này thì việc xây dựng, hoàn thiện chính sách đất đai cần được mọi người biết đến, không chỉ các cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất đai mà người dân cũng phải biết đến để tiến hành công tác hồ sơ địa chính được dễ dàng hơn. Như vậy, phải tăng cường công tác tuyên truyền về pháp luật đất đai đồng thời đẩy mạnh kiểm tra và xử lý nghiêm minh dứt điểm những trường hợp vi phạm pháp luật nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của mọi người trong thi hành Luật đất đai.
2. Cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý đất đai.
Bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai là một hệ thống các cơ quan quyền lực của Nhà nước gồm các cấp từ trung ương đến địa phương, chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về đất đai trên tầm vĩ mô.
Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai là bao gồm quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của bộ máy và mối liên hệ giữa các bộ phận để bộ máy hoạt động có hiệu quả. Xây dựng bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai nhằm quản lý chặt chẽ toàn bộ đất đai trên phạm vi lãnh thổ từ đó có chiến lược, kế hoạch, các dự án phân bổ sử dụng đất cho các bộ phận, các thành phần đảm bảo công bằng và hiệu quả; đảm bảo việc tổ chức thực hiện các quy định về pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế ta thấy rằng bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai còn cồng kềnh, kém hiệu quả, cơ cấu tổ chức bộ máy chưa gọn nhẹ, linh hoạt dẫn đến chậm trong quá trình tổ chức thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước về đất đai. Do vậy cần cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai.
Trước hết, cần rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của cơ quan địa chính các cấp theo hướng gọn nhẹ, quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp, phối hợp chặt chẽ và đồng bộ đảm bảo sự điều hành tập trung, thống nhất, thông suốt đảm bảo bộ máy hoạt động nhịp nhàng có hiệu quả.
Chú ý trong việc phân công nhiệm vụ cần tập trung nhiệm vụ, thẩm quyền đăng ký biến động, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở về một đầu mối theo hướng thành lập cơ quan đăng ký đất đai trực thuộc Sở Địa chính có đầy đủ vai trò, trách nhiệm, thực hiện các thủ tục đăng ký biến động đất đai, chỉnh lý và lưu trữ hồ sơ địa chính và cần tính đến việc hình thành các đơn vị dịch vụ địa chính công ở các địa phương hỗ trợ cho cơ quan đăng ký đất đai thực hiện hoàn thành công tác hồ sơ địa chính.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý đất đai bên cạnh việc tổ chức lại bộ máy cần tổ chức đào tạo lại nghiệp vụ cho toàn bộ đội ngũ cán bộ địa chính làm công tác đo đạc bản đồ và đăng ký đất đai ở tất cả các cấp, nhất là cán bộ cấp xã, phường, những người mang trách nhiệm và nhiệm vụ rất nặng nề. Đồng thời, xây dựng cho một đội ngũ cán bộ ổn định am hiểu tình hình địa phương, nâng cao chế độ đãi ngộ giám sát việc bổ nhiệm cán bộ địa chính xã theo đúng tiêu chuẩn quy định của Tổng cục Địa chính. Tăng cường giám sát, xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
Một điều quan trọng nữa trong cải cách bộ máy quản lý Nhà nước được rút ra từ việc thực hiện thí điểm công tác hồ sơ địa chính đó là phải có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của cơ quan cấp trên như thành phố, Sở Địa chính đối với công tác hoàn thiện hồ sơ địa chính. Đây là điều quan trọng bởi công tác hồ sơ địa chính rất phức tạp liên quan nhiều cấp, nhiều ngành, không là nhiệm vụ cụ thể của một cơ quan nào, cá nhân nào. Do vậy rất dễ dẫn đến việc sao nhãng hoặc thực hiện theo những hướng khác nhau vì vậy, cần có sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn của cấp trên để công tác này được thông suốt, vướng mắc ở đâu được nhanh chóng giải quyết ở đó. Đồng thời qua thực hiện công việc này đảm bảo tiếng nói của ngành địa chính là một. Khi cơ quan quản lý đất đai cấp trên quan tâm, hướng dẫn việc thực hiện còn cơ quan địa phương tích cực thực hiện nhiệm vụ của mình thì công tác hồ sơ địa chính nhanh chóng được hoàn thiện. Việc tổ chức cơ cấu bộ máy quản lý đất đai sẽ tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận trong việc thực hiện công tác trên.
3. Kế hoạch triển khai và đầu tư đo vẽ bản đồ và lập hồ sơ địa chính.
Như ta đã biết, công tác đo vẽ bản đồ đòi hỏi rất nhiều kinh phí trong việc thực hiện bởi nó liên quan đến công nghệ hiện đại và trình độ của người thực hiện công việc này. Đất đai thường xuyên biến động liên tục dẫn đến sự thay đổi rất nhiều vì vậy xây dựng bản đồ cần thực hiện chỉnh lý bản đồ, đây là công việc đòi hỏi thời gian và chi phí song công tác đo đạc, chỉnh lý bản đồ là công cụ để Nhà nước thực hiện quản lý đất đai vì thế Nhà nước tăng cường đầu tư kinh phí cho công tác khảo sát đo đạc, lập bản đồ và hồ sơ địa chính tương ứng với yêu cầu, nhiệm vụ theo mô hình.
Trong công tác trên thì Sở địa chính cấp tỉnh tiếp tục tiến hành bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện dự án tổng thể xây dựng một hệ thống bản đồ và hồ sơ địa chính cho phù hợp với tình hình hiện tại của địa phương.
Công tác đo vẽ bản đồ địa chính phải được thực hiện đồng thời với công tác đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lập hồ sơ địa chính. Ngay sau khi đo vẽ xong bản đồ địa chính gốc cần nhanh chóng tổ chức thực hiện đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lập hồ sơ địa chính ban đầu. Trong công tác này cần xử lý dứt điểm tính pháp lý và hợp pháp về quyền sử dụng đất, giải quyết các tranh chấp về đất đai. Sau đó tiến hành chỉnh lý bản đồ cho phù hợp với tình hình thực tế.
Bên cạnh xây dựng bản đồ địa chính cần có chính sách trong việc quản lý chất lượng đo vẽ, tăng cường kiểm tra, kiểm soát chất lượng đo đạc của tất cả các lực lượng tham gia vào công tác này.
4. Giải pháp về công nghệ thành lập bản đồ địa chính.
Đây là giải pháp cụ thể về thành lập bản đồ địa chính. Cụ thể là đối với đất lâm nghiệp, nông nghiệp áp dụng quy trình công nghệ hai bước: Thành lập bản đồ ảnh cơ sở (do Tổng cục Địa chính thực hiện) và thành lập bản đồ địa chính từ bản đồ ảnh cơ sở (do địa phương thực hiện). Còn đối với khu vực đô thị, khu vực nông thôn, áp dụng phương pháp toàn đạc để đo vẽ bản đồ địa chính dạng số. Sau khi đo vẽ cần áp dụng khoa học kỹ thuật trong việc cập nhật chỉnh lý bản đồ đồng thời tổ chức triển khai đăng ký, xử lý tính pháp lý của chủ sử dụng đất, lập hồ sơ địa chính; hoàn chỉnh bản đồ địa chính; cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
5. Quản lý, cập nhật, chỉnh lý biến động bản đồ địa chính và hồ sơ địa chính.
Đây là giải pháp nhằm tăng cường giá trị các tài liệu của hồ sơ địa chính trong công tác quản lý đất đai. Việc tổ chức cập nhật biến động bản đồ và hồ sơ địa chính cần được thực hiện một cách có hệ thống bằng cách hướng cán bộ địa chính cấp cơ sở theo dõi, phát hiện, đăng ký biến động, hàng tháng báo cáo cho cơ quan địa chính cấp trên về tình hình biến động đất đai bằng văn bản. Sau đó cơ quan địa chính cấp trên tổ chức chỉnh lý biến động nếu biến động quá 30% thì tổ chức đo vẽ lại; tổ chức chỉnh lý hồ sơ địa chính trong cơ sở dữ liệu.
Sở Địa chính chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra định kỳ việc thực hiện đăng ký biến động đất đai, chỉnh lý bản đồ và hồ sơ địa chính ở các Quận, huyện, xã, phường, thị trấn theo đúng quy định hiện hành.
Để tài liệu hồ sơ địa chính phản ánh đúng hiện trạng sử dụng đất đai thì chúng ta cần tổ chức kiểm tra biến động thường xuyên, rà soát lại hệ thống hồ sơ địa chính đã lập và tổ chức đăng ký biến động dứt điểm những trường hợp phát sinh chưa đăng ký. Đồng thời có kế hoạch chỉnh lý các sai sót, tồn tại và hoàn thiện hệ thống bản đồ và hồ sơ địa chính đã thiết lập theo đúng quy định của Tổng cục Địa chính. Đây là việc làm cần thiết để giải quyết tồn đọng và đưa dần việc đăng ký biến động vào nề nếp thường xuyên.
6. Kinh phí và cán bộ.
Qua công tác hồ sơ địa chính thí điểm ta thấy rằng, kinh phí là điều rất quan trọng dẫn đến tiến độ thực hiện công tác này. Nếu như có được kinh phí sớm thì có thể công việc sẽ được tiến hành xong sớm. Nhưng đây là điều rất khó khăn bởi nó đòi hỏi rất nhiều kinh phí không chỉ đối với việc đo đạc bản đồ, mua sắm sổ sách mà nó còn là kinh phí hỗ trợ cho cán bộ, những người làm công tác này. Nó là tổng hợp của rất nhiều công việc vì vậy rất tốn kém. Có kinh phí thì hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai sẽ có hiệu quả hơn, khuyến khích những người làm công tác này, nâng cao trách nhiệm của những người có liên quan. Do vây, cần nhanh chóng huy động nguồn vốn vào thực hiện công tác này. Có thể huy động vốn hành chính sự nghiệp trong việc thực hiện công tác này.
Công tác hồ sơ địa chính cũng là công tác đòi hỏi chuyên môn cao và trách nhiệm lớn của những người làm công tác này. Để có được đội ngũ cán bộ làm tốt công tác trên thì ta phải có được chính sách đối với cán bộ địa chính mà trước hết phải tạo ra sự chuyển biến về nhận thức của họ về mối quan hệ đất đai trong nền kinh tế thị trường, hiểu được vai trò của đất đai, ý nghĩa, tác dụng của công tác lập hồ sơ địa chính để thay đổi tư duy làm việc và ý thức hơn trách nhiệm làm việc của mình. Tiếp đến cần đào tạo một cách có hệ thống đội ngũ cán bộ địa chính để nâng cao trình độ chuyên môn; có chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích động viên để họ làm việc hiệu quả, sáng tạo.
Trên đây là một số giải pháp để hoàn thành hồ sơ địa chính để công tác này sớm được hoàn thành, đưa vào phục vụ công tác quản lý đất đai thường xuyên thì cần đồng thời thực hiện các giải pháp trên. Để thực hiện được giải pháp trên một cách thuận lợi em có một số kiến nghị sau:
Nhà nước cần chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện Luật đất đai; hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai; tiếp tục phân công mạnh mẽ về chức năng, nhiệm vụ cho chính quyền các cấp, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của các cấp, ngành trong lĩnh vực quản lý đất đai; tập trung công tác quản lý đất đai về một đầu mối, có cơ chế đầu tư hợp lý cho công tác đo đạc bản đồ, đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lập hồ sơ địa chính và chỉnh lý biến động đất đai. Đặc biệt cần giải quyết triệt để cơ chế phân cấp tài chính.
Bộ Tài nguyên Môi trường cần phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ địa chính, đáp ứng yêu cầu của hệ thống quản lý địa chính mới; tăng cường giám sát việc thực hiện quy chế giao nộp, cấp, khai thác, sử dụng và lưu trữ bản đồ và hồ sơ địa chính.
UBND các cấp cần quan tâm hơn nữa và đầu tư kịp thời cho công tác địa chính; cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cấp, các ngành trong việc thực hiện công tác trên.
Tóm lại, với sự quan tâm của Chính phủ và sự nỗ lực của các cấp chính quyền, các ngành trong công tác hồ sơ địa chính thì công tác này sẽ sớm hoàn thành, phục vụ công tác quản lý Nhà nước về đất đai, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện nay của đất nước.
C. phần kết luận
Đất đai có vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Quản lý chặt chẽ đất đai, hướng việc sử dụng đất đai vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước là đòi hỏi khách quan.
Trong điều kiện ngày nay, đất đai đang tham gia tích cực vào mọi hoạt động đời sống xã hội song nó là vấn đề hết sức “nhạy cảm” đặc biệt là trong cơ chế thị trường gây nên những bức xúc cho xã hội. Trong những biến động gây nên bức xúc, một phần là do thiếu sót của công tác quản lý vì vậy cần tăng cường hiệu quả hoạt động công tác quản lý Nhà nước về đất đai. Để tăng cường quản lý đất đai cần tập trung nghiên cứu, xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính hoàn chỉnh bởi nó là tài liệu đầu tiên cũng là tài liệu cuối cùng trong công tác quản lý đất đai. Nhìn vào hồ sơ địa chính ta biết được toàn bộ thông tin về đất đai từ đó có thể giải quyết những “bức xúc” hiện nay. Song công tác hồ sơ địa chính là công tác phức tạp để hoàn thành nó thì phải sử dụng các biện pháp tổng hợp, cần được sự quan tâm của Chính phủ cũng như các cấp các ngành. Có như vậy quản lý đất đai mới có hiệu quả, mới phát huy tiềm lực đất đai, mới góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0037.doc