Lời nói đầu
Hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Hội nhập kinh tế quốc tế là thách thức lớn nhưng đồng thời cũng là cơ hội lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nổ lực hơn nữa, tận dụng thời cơ vượt qua thách thức để tăng sức cạnh tranh, khẳng định vị trí của mình trên thương trường quốc tế, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Trong điều kiện
41 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1373 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp nhằm đẩy mạnh Xuất khẩu cà phê Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội nhập kinh tế quốc tế, xuất khẩu là một khâu rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân của một nước. Thực tiển những năm qua cho thấy nhờ thực hiện chủ trương đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, đặt biệt là chủ trương hướng mạnh vào xuất khẩu nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển khá mạnh.
Nhìn vào cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam mấy năm vừa qua, mặt hàng nông sản giữ một vị trí rất quan trọng, chiếm tới gần 40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Số mặt hàng nông sản đạt kim ngạch cao là gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, lạc … Các mặt hàng nông sản xuất khẩu đã phát huy được lợi thế cạnh tranh, tham gia tích cực vào chương trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi ở nước ta trong thời kỳ đổi mới kinh tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của xuất khẩu đối với sự thành công của đất nước, đặc biệt là đối với ngành cà phê. Trong thời gian thực tập tại Viện nghiên cứu Thương mại em đã chọn mặt hàng cà phê làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Đề tài luận văn : “ Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam”.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba chương:
Chương I : Một số vấn đề liên quan đến xuất khẩu cà phê Việt Nam.
Chương II : Thực trạng sản xuất và xuất khẩu cà phê thế giới và Việt Nam.
Chương III : Giải pháp và một số ý kiến đề xuất nhằm đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam.
Nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài rất rộng và do hạn chế về thời gian nên em chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu một vài vấn đề liên quan đến xuất khẩu, thực trạng sản xuất và xuất khẩu cà phê và đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam trong thời gian tới.
chương i
một số vấn đề liên quan đến xuất khẩu
cà phê VIệT NAM
I - Lợi thế của mặt hàng cà phê xuất khẩu Việt Nam
Mỗi quốc gia chỉ có những nguồn lực nhất định. Để sản xuất một mặt hàng này nhiều hơn, nền kinh tế phải từ bỏ một phần sản xuất mặt hàng khác. Để đạt được hiệu quả kinh tế cao, các nước cần phải thông qua thương mại quốc tế nhằm trao đổi hàng hoá, tận dụng mọi khả năng, ưu thế sẵn có của mình để sản xuất một hoặc một số mặt hàng có hiệu suất lớn.
1. Lý thuyết về lợi thế so sánh
Lợi thế tuyệt đối:
Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith cho rằng lợi ích của thương mại quốc tế thu được do thực hiện nguyên tắc phân công. Nguyên tắc phân công theo ông là mỗi quốc gia nên chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, thông qua đó cho phép họ sản xuất sản phẩm với chi phí thấp hơn các nước khác.Tức là nước đó sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực. Các nguồn lực đó là đội ngũ lao động có tay nghề và được đào tạo thích hợp, nguồn vốn, tiến bộ công nghệ và truyền thống kinh doanh. Như vậy các quốc gia sẽ tiến hành chuyên môn hoá việc sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, sau đó tiến hành trao đổi với các quốc gia khác cả hai bên đều có lợi. Trong thương mại quốc tế, các nguồn lực sản xuất của cả thế giới sẽ được sử dụng một cách hiệu quả nhất, tổng sản phẩm của cả thế giới sẽ gia tăng.
Tuy nhiên, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần nhỏ của thương mại quốc tế, đó là thương mại giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Phần lớn thương mại thế giới, đặt biệt là giữa các nước phát triển không thể giải thích được bằng lý thuyết tuyệt đối. Chính vì sự hạn chế đó của lợi thế tuyệt đối mà lợi thế so sánh ( lợi thế tương đối ra đời).
Lợi thế so sánh:
Theo nhà kinh tế học David Ricardo, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình. Khi tham gia thương mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá có lợi thế tương đối và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi nhất. Qúa trình trao đổi hàng hoá cho phép mỗi quốc gia sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực của mình, đồng thời mang lại lợi ích cho cả hai bên cũng như làm cho của cải của thế giới tăng lên.
Tác dụng cơ bản và chủ yếu của lý thuyết về lợi thế so sánh là việc vận dụng nó để xác định các lợi thế của mỗi quốc gia khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế sao cho thu được hiệu quả cao nhất.
2. Lợi thế so sánh của mặt hàng cà phê Việt Nam.
Cà phê của Việt Nam là mặt hàng có thế mạnh, tiềm năng lớn để cạnh tranh trên thị trường khu vực và thị trường thế giới hiện nay và lâu dài nhờ các lợi thế sau:
Về điều kiện tự nhiên: Với các điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thích hợp cho thấy nước ta có khả năng trồng cây cà phê tại nhiều địa phương trong cả nước, Việt Nam có nhiều lợi thế để sản xuất và xuất khẩu cà phê: Hương vị tự nhiên của cà phê Việt Nam thơm ngon.
Năng suất cao: Năng suất bình quân của thế giới là 5,5 tạ/ha, châu á là 7,7 tạ/ha, Việt Nam là 14 – 16 tạ/ha, chi phí sản xuất thấp hơn các nước trồng cà phê khác trên thế giới dẫn đến giá thành rẻ và chất lượng gốc (quả chưa sơ chế) cà phê của Việt Nam tốt. Việt Nam có thế mạnh về cà phê chè thơm, ngon.
Về lao động: Nguồn lực dồi dào, giá nhân công rẻ, dẫn đến chi phí sản xuất thấp hơn rất nhiều so với các nước cũng góp phần làm cho giá thành sản phẩm cà phê ở nước ta thấp hơn sản phẩm cà phê cùng loại trên thế giới. Đó là một lợi thế đáng kể trong việc sản xuất và xuất khẩu cà phê ở nước ta.
Về thị trường xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu đã có những bước phát triển nhưng chủ yếu vẫn xuất khẩu qua trung gian… Cà phê Việt Nam đã thâm nhập được các thị trường có sức mua lớn như thị trường Mỹ, Đức, Pháp, Bỉ, Italia, Anh …
Tóm lại: Phát triển cây cà phê là phát huy được lợi thế so sánh của nước ta trong thương mại quốc tế
3. Lợi thế và khó khăn của Việt Nam trong hoạt động Kinh tế đối ngoại.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày nay, muốn phát triển mỗi quốc gia không thể đóng kín cửa, mà ngược lại phải mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế thương mại, tham gia vào phân công quốc tế, trao đổi hàng hoá.
Nhưng để hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam cũng gặp phải những thách thức. Đó là sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước về mọi mặt, do Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới trong bối cảnh phân công lao động quốc tế đã được xác lập khá ổn định, thị trường thế giới đã được phân chia nhiều năm. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, phải cạnh tranh với các tập đoàn lớn có nhiều kinh nghiệm. Việt Nam chưa là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) làm cho thuế xuất nhập khẩu bị đánh cao cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Việt Nam.
Xuất khẩu là một khâu rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân của một nước, thực hiện một phần tổng sản phẩm trong nước nhờ bán ra nước ngoài những sản phẩm có lợi thế, có chất lượng cao. Kết quả xuất khẩu được sử dụng vào việc trang trải nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, góp phần cân đối, duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công nghệ mới, hoà nhập với sự tiến bộ không ngừng của nền kinh tế thế giới.
Đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những nước trong khu vực, thực tiễn phát triển trong những năm gần đây đã chứng minh rằng nhờ thực thi chính sách hướng về xuất khẩu đã nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu trở thành các quốc gia, vùng lãnh thổ công nghiệp mới, có nền kinh tế giàu mạnh, hiện đại, có khả năng tiến kịp các nước có nền kinh tế phát triển trong thập kỷ tới. Do vậy, đối với nhiều nước, xuất khẩu trở thành mũi nhọn của nền kinh tế, là đòn bẩy của tăng trưởng kinh tế – xã hội.
Đối với nước ta, thực tiễn những năm qua cho thấy nhờ thực hiện chủ trương đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là chủ trương hướng mạnh vào xuất khẩu, nền ngoại thương có bước phát triển khá mạnh. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, giai đoạn 1991 – 1995 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân hàng năm đạt 27% . Kim ngạch xuất khẩu các năm 1996, 1997, 1998 lần lượt là 7,3tỷ, 9,1tỷ và 9,3tỷ USD. Cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trường có sự chuyển dịch quan trọng góp phần thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài nhiều năm.
Một trong những nguyên nhân thành công của hoạt động xuất khẩu là do chúng ta biết phân tích, biết chọn ra các nguồn lực, lợi thế so sánh trong điều kiện cụ thể của nước ta đối với từng ngành hàng, nhóm hàng, mặt hàng và kết hợp các lợi thế so sánh này trong hoạt động xuất khẩu. Với những lợi thế về vị trí địa lý, lao động, tài nguyên thiên nhiên và đặc biệt là chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cho phép nước ta từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Để thực thi chính sách xuất khẩu có hiệu quả trước tiên phải xác định cho được những mặt hàng xuất khẩu chủ lực trên cơ sở phân tích lợi thế của nó là hết sức quan trọng. Muốn vậy, đối với từng ngành hàng, nhóm hàng, mặt hàng cần thiết phải nắm vững lý thuyết về lợi thế so sánh đồng thời biết tận dụng nó để đánh giá và tìm ra những lợi thế cơ bản, đảm bảo xuất khẩu có hiệu quả.
II- Khái niệm, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu cà phê việt nam.
1. Khái niệm
Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài dưới các hình thức khác nhau nhằm đạt mục đích lợi nhuận.
Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước và cho nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển kinh tế, là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các nền kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
2. Vai trò của xuất khẩu nói chung và mặt hàng cà phê nói riêng.
Hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng đóng một vai trò rrất quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới. Một nước phải có hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ và sôi động đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế mới tạo được khả năng phát triển kinh tế.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Hoạt động xuất khẩu làm tăng dự trữ ngoại tệ, ổn định cán cân thanh toán quốc tế.
Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, thể hiện ở chổ: Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi, tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất và nâng cao nguồn lực sản xuất trong nước.
Thông qua xuất khẩu, hàng hoá nước ta sẽ tham gia vào các cuộc cạnh tranh trên thế giới về chất lượng, giá cả, mặt hàng như cà phê. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy sản xuất mở rộng thị trường.
Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân, là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Hoạt động xuất khẩu (như xuất khẩu cà phê) có ảnh hưởng rất lớn đến những điều kiện kinh doanh chung của một nước. Cà phê nước ta sản xuất ra chủ yếu là để xuất khẩu (chiếm 95% sản lượng). Chính vì vậy, mà các nhà sản xuất cà phê phải phấn đấu nâng cao chất lượng để có khả năng cạnh tranh với sản phẩm cùng loại trên thế giới.
Tóm lại: Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu cà phê
3.1.Thị trường xuất khẩu.
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá - tiền tệ, là nơi hàng hoá thực hiện giá trị được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất.
Thị trường thế giới là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá - tiền tệ giữa các nước với nhau.
Thị trường thế giới là môi trường hoạt động của kinh tế quốc tế. Các mối quan hệ kinh tế quốc tế thực chất là quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất giữa các nước được thực hiện trên thị trường. Khi thị trường thế giới phát triển và ổn định, các hoạt động kinh tế quốc tế giữa các nước phát triển và thuận lợi. Ngược lại thị trường thế giới biến động mạnh làm hạn chế và gây khó khăn cho hoạt động kinh tế giữa các nước. Trên thực tế, thị trường thế giới biến động phức tạp. Sự biến động của thị trường thế giới tác động ảnh hưởng lớn đến các hoạt động kinh tế quốc tế, đến nền kinh tế các nước. Vì vậy, chính sách thị trường của một nước cần phải năng động, phù hợp với thực tế biến động của thị trường nhằm phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Thị trường vừa là điều kiện, vừa là phương tiện tiến hành quá trình sản xuất, đồng thời là nơi tập trung và phản hồi mọi quan hệ kinh tế giữa sản xuất và tiêu dùng. Thị trường và thông qua hoạt động của thị trường mà tác động trực tiếp đến sản xuất, trao đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xã hội phát triển. Vì vậy, các doanh nghiệp muốn tham gia sản xuất mua bán, đặt biệt là xuất khẩu thì phải nghiên cứu thị trường, tức là nghiên cứu nhu cầu của thị trường về sản phẩm và sự biến động của sản phẩm, sự biến động của nhu cầu thị trường trong mối quan hệ với giá, từ đó đưa ra những phương sách tiêu thụ hợp lý nhất nhằm giữ vững và phát triển thị phần của doanh nghiệp.
* Mức cung và cầu trên thị trường cà phê thế giới:
Hiện nay thị trường cà phê thế giới luôn biến động đặc biệt là lượng cung. Điều này làm cho tình trạng cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu cà phê trên thế giới trở nên gay gắt, rất bất lợi cho nước ta. Bởi vì cà phê của nước ta chất lượng thường thấp hơn các nước khác dẫn đến tính cạnh tranh thấp.
Theo đánh giá của Bộ Thương mại, hiện nay thị trường cà phê thế giới có mức cung lớn hơn mức cầu.
* Về chất lượng cà phê: Theo đánh giá của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO). Hương vị tự nhiên của cà phê Việt Nam thơm ngon so với cà phê cùng loại của thế giới. Nhưng trong xuất khẩu cà phê Việt Nam thường có chất lượng thấp, vì trong quá trình thu hoạch và chế biến không đảm bảo đúng kỹ thuật. Đẩy mạnh xuất khẩu và tăng uy tín của cà phê Việt Nam phải đi đôi với nâng cao chất lượng, là vấn đề rất quan trọng đối với ngành cà phê Việt Nam.
3.2. Hoạt động marketing xuất khẩu.
Marketing là làm việc với thị trường để thực hiện các cuộc trao đổi với mục đích thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của con người, là một dạng hoạt động của con người (bao gồm cả tổ chức) nhằm thoả mãn các nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi.
Ngày nay không một doanh nghiệp nào bắt tay vào kinh doanh mà lại không muốn gắn kinh doanh của mình với thị trường, có như vậy doanh nghiệp mới hy vọng tồn tại và phát triển được.
Doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh, một cơ thể sống của đời sống kinh tế. Cơ thể đó cần có sự trao đổi chất với môi trường bên ngoài – thị trường.
Nhiệm vụ cơ bản của hoạt động marketing là tạo ra khách hàng cho doanh nghiệp, giống như sản xuất tạo ra sản phẩm. Hoạt động marketing là rất cần thiết đối với doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu.
Hoạt động marketing thông qua các chiến lược cụ thể, để nhằm vào khách hàng – thị trường cụ thể. Nhưng nói chung, chức năng hoạt động marketing của doanh nghiệp luôn luôn chỉ cho doanh nghiệp biết rõ doanh nghiệp phải làm gì.
Rất nhiều nhà xuất khẩu lần đầu thường ở thế bị động. Nhưng điều tốt hơn là doanh nghiệp chủ động tìm người mua hàng, xác định một chiến lược marketing lâu dài, trong đó các biện pháp, phương pháp được xem xét cẩn thận. Trong công tác xuất khẩu, những công việc quan trọng nhất là bán hàng, thu tiền và mở rộng thị trường.
3.3. Nghiệp vụ và kỹ thuật đàm phán ký kết thực hiện hợp đồng xuất khẩu cà phê.
Đàm phán thương mại là một quá trình mặc cả và thuyết phục giữa hai bên mua - bán về các nội dung có liên quan đến giao dịch mua bán như số lượng, chất lượng, giá cả sản phẩm, phương thức thanh toán … nhằm đạt được sự nhất trí để ký kết hợp đồng thương mại.
Trước khi giao dịch đàm phán, các doanh nghiệp ngoại thương phải cố gắng làm tốt công tác chuẩn bị: Nghiên cứu thị trường, giá cả hàng hoá; chọn thị trường, chọn khách hàng; xây dựng và phát triển quan hệ với khách hàng để chuẩn bị giao dịch xuất khẩu, đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng.
Đàm phán để ký kết hợp đồng bán cà phê
Có 3 hình thức phổ biến về đàm phán giao dịch trực tiếp:
Bằng trao đổi thư từ, điện tín.
Qua điện thoại.
Bằng gặp mặt trực tiếp.
1. Đàm phán bằng trao đổi thư từ, điện tín
Là hình thức đàm phán thuận tiện, đỡ tốn kém nhất, thường được sử dụng rộng rãi và thường xuyên nhất. Có điều kiện suy xét, tính toán, tham khảo ý kiến người khác. Cùng một lúc có thể giao dịch với nhiều nơi, gửi thư, gửi điện tín cho nhiều người. Nội dung giao dịch rộng.
2. Đàm phán bằng điện thoại
Trong giao dịch quốc tế, điện thoại đường dài khá phổ biến. Ưu điểm của hình thức giao dịch này là nhanh, kịp thời nhưng tốn kém nhiều hơn so với thư từ.
Trao đổi đàm phán qua điện thoại là hình thức giao dịch miệng, không thể làm chứng cứ pháp lý như văn bản thư từ. Do đó chỉ dùng điện thoại khi việc khẩn trương, sợ lỡ thời cơ.
Trước khi giao dịch phải chuẩn bị kỹ nội dung trao đổi cho chính xác, cặn kẽ, ngắn gọn, dễ hiểu.
3. Đàm phán bằng giao dịch gặp mặt trực tiếp
Là hình thức giao dịch đối diện nhau trên cùng một bàn đàm phán như các hội nghị đàm phán, các nhóm chuyên viên đi thăm, khảo sát thị trường nước ngoài, khách mời đàm phán giao dịch chuẩn bị nội dung và thoả thuận để ký kết hợp đồng ở nước ta hay đoàn ta ra nước ngoài.
So với các hình thức khác tổ chức đàm phán đi nước ngoài hay đón tiếp đoàn nước ngoài vào làm việc ở nước ta rất tốn kém. Nhưng hình thức giao dịch này rất quan trọng, dễ tạo được điều kiện kết thúc đàm phán đi đến ký kết hợp đồng.
Sau khi đã ký được hợp đồng, dùng thư từ, điện tín để giao dịch tiếp tục với nhau.
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu cà phê
Việc thực hiện hợp đồng là nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên. Các sơ xuất khi thi hành hợp đồng sẽ gây thiệt hại về vật chất và tín nhiệm ở thị trường.
Người xuất khẩu phải kịp thời chuẩn bị hàng theo đúng hợp đồng về số lượng, chất lượng, thời hạn giao hàng, bao bì…, làm các chứng từ cần thiết theo hợp đồng để gửi hàng, nhận tiền thanh toán đúng lúc và đầy đủ.
Nghĩa vụ và trách nhiệm của người xuất khẩu quy tụ vào 4 khâu quan trọng nhất:
a. Hàng (chuẩn bị giao hàng)
b. Tiền (giục mở L/C, kiểm tra và yêu cầu sửa L/C đúng hợp đồng)
c. Thuê tàu (thuê tàu, lưu cước, đặt khoang tàu)
d. Kết toán (làm đúng và đủ các quyết định để nhận được tiền)
III - Các hình thức xuất khẩu cà phê của việt nam
Xuất khẩu là phương thức thâm nhập thị trường phổ biến mà các doanh nghiệp trên thế giới áp dụng. Trong thực tế có rất nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau, nhưng em chỉ nêu ra 3 hình thức xuất khẩu phổ biến của mặt hàng cà phê. Đó là các hình thức xuất khẩu cơ bản sau đây:
Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu uỷ thác
Xuất khẩu tại chổ
1. Xuất khẩu trực tiếp:
Là việc doanh nghiệp trực tiếp bán hàng ra thị trường nước ngoài, không thông qua các đơn vị trung gian, Doanh nghiệp trực tiếp ký hợp đồng xuất khẩu, tổ chức sản xuất giao hàng và thanh toán tiền hàng.
Lợi thế của hình thức này là doanh nghiệp có thể trực tiếp tiếp xúc với các khách hàng nước ngoài, hiểu được giá cả, sở thích, thói quen, tập quán, truyền thống văn hoá của người tiêu dùng và các đối thủ cạnh tranh.
Trở ngại của hình thức này là chi phí vận tải cao, sức cản của các hàng rào thương mại như thuế nhập khẩu, giấy phép, chính sách của chính phủ nước sở tại.
2. Xuất khẩu uỷ thác:
Là hình thức các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện xuất khẩu trực tiếp nên nhờ các doanh nghiệp khác xuất khẩu hộ, phù hợp với các doanh nghiệp mới thâm nhập thị trường nước ngoài.
Hạn chế của hình thức này là bị phụ thuộc vào trung gian, lợi nhuận bị chia sẻ, doanh nghiệp không nắm được các thông tin chính xác về thị trường như giá cả, sở thích, nhu cầu của khách hàng.
Ưu điểm của phương thức này là người đứng ra xuất khẩu chịu mọi rủi ro thấp và trách nhiệm ít.
3. Xuất khẩu tại chổ:
Là hình thức xuất khẩu hàng hoá về cơ bản không ra khỏi biên giới của một nước, là sự chuyển dịch quyền sở hữu và sử dụng hàng hoá đến tay người tiêu dùng không phải là quốc tịch Việt Nam. Đó là người nước ngoài làm việc trong các Đại sứ quán, các đoàn ngoại giao, các tổ chức kinh tế xã hội quốc tế đóng trên nước sở tại.
chương ii
thực trạng sản xuất và xuất khẩu cà phê
thế giới và việt nam
i - Khái quát tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê thế giới
Tình hình sản xuất cà phê thế giới
Cà phê là một loại hàng hoá có giá trị kinh tế cao chiếm một vị trí quan trọng trong thương mại thế giới với giá trị trao đổi toàn cầu đạt 5,26 tỷ USD năm 2002 và cũng là nguồn thu ngoại tệ quan trọng đối với nhiều nước đang phát triển. Cà phê là một ngành đã được nhiều quốc gia chọn làm mặt hàng xuất khẩu chủ lực cho đất nước.
Những nước sản xuất cà phê chủ yếu là Braxin và Côlômbia, chiếm 45% tổng lượng cà phê xuất khẩu trên thế giới. Hai nước này cùng với Việt Nam, Inđônêxia, Costa Rica, Mêhicô, Guatemala, Uganda, Bờ Biển Ngà, El Salvado, Ethiopia và Kenia, 12 nước thường chiếm 80% tổng lượng cà phê xuất khẩu trên toàn thế giới. Trong đó, Braxin là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới, có năm chiếm 26% tổng lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu, chủ yếu là cà phê Arabica. Côlômbia đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê Arabica toàn cầu, chủ yếu là loại cà phê Arabica dịu. Đứng thứ ba về xuất khẩu cà phê Arabica là Guatemala, chiếm khoảng 5% tổng lượng xuất khẩu toàn cầu. Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu cà phê Robusta, đứng thứ hai thế giới về loại cà phê này là Inđônêxia.
Đối với các nước đang phát triển, cà phê là một ngành hàng sản xuất quan trọng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia, ví dụ như ở nước ta, hàng năm cà phê cũng mang lại một nguồn thu rất lớn cho ngân sách nhà nước. Xuất khẩu cà phê chiếm 4 - 5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Năm 1998 chúng ta đã xuất khẩu 382.000 tấn cà phê nhân đạt 594 triệu USD. Mặc khác, sản xuất cà phê thực sự là ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta.
Theo Hiệp hội các nước sản xuất cà phê, sản lượng cà phê thế giới vụ 2000/2001 vượt mức kỷ lục 113.728 triệu bao (60kg/bao) tăng 0,4% so với niên vụ 1999/2000.
Trong khi sản lượng cà phê Arabica toàn cầu cố định ở mức 71.498 triệu bao niên vụ 1999/2000 thì sản lượng cà phê Robusta trong niên vụ 2000/2001 tăng lên 42.230 triệu bao, tăng hơn 4% so với sản xuất ở niên vụ trước. Việc tăng sản lượng cà phê Robusta là do sự tăng trưởng mạnh về cà phê ở châu á, đặc biệt là Việt Nam.
Niên vụ 2000/2001, sản lượng cà phê tăng mạnh ở ba nước là Braxin, Việt Nam và Colombia. Trong đó sản lượng cà phê của Việt Nam tăng kỷ lục 39% so với vụ 1999/2000 đạt 15,3 triệu bao, của Colombia tăng 21% lên 11,5 triệu bao và của Braxin tăng 10,7%, đạt 34,1 triệu bao.
Sản lượng cà phê thế giới vụ 2001/2002 giảm 2% so với vụ trước, còn 112,4 triêu bao. Trong đó sản lượng cà phê giảm chủ yếu là loại Arabica, giảm 6,6% so với vụ 2000/2001, còn 66,30 triệu bao, nhưng sản lượng cà phê Robusta sẽ tiếp tục tăng 5,4%, lên 46,10 triệu bao. Đây sẽ là vụ thứ tư liên tiếp sản lượng cà phê Robusta thế giới tăng.
Mười nước sản xuất cà phê lớn nhất năm 2000
Nước sản xuất cà phê
Đơn vị tính (triệu bao)
Braxin
32,353
Việt Nam
11,264
Côlômbia
9,336
Mêxicô
6,442
Inđônêxia
6,014
Costa Rica
5,463
Ân Độ
5,407
Guatemala
5,201
Etiopia
3,505
Uganda
3,097
Tổng sản lượng năm 2000
110,503
Nguồn: (Viện nghiên cứu Thương mại)
2. Xuất khẩu cà phê thế giới.
Cà phê phần lớn sản xuất ra để xuất khẩu, sản lượng cà phê dành để xuất khẩu chiếm 75 – 80% tổng sản lượng cà phê toàn cầu, nhưng tỷ lệ này khá khác biệt tại các nước sản xuất, tiêu dùng trong nước chỉ chiếm khoảng 25 – 30% sản lượng đối với các nước có truyền thống uống cà phê, còn đối với các nước như Việt Nam ta tỷ lệ đó chỉ khoảng 5%.
Sản lượng cà phê tăng mạnh đã đưa xuất khẩu cà phê thế giới vụ 2000/2001 tiếp tục tăng 4% so với mức cao của vụ trước.
Trong ba nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới, xuất khẩu cà phê vụ 2000/2001 của Việt Nam tăng mạnh nhất, tăng 36% so với vụ trước, lên 13,68 triệu bao, kế đó là của Braxin tăng 11,5% lên 18,98 triệu bao và của Colombia tăng 7% lên 9,87 triệu bao. Tuy nhiên, do giá cà phê thế giới giảm mạnh làm kim ngạch xuất khẩu cà phê các nước đều giảm.
Xuất khẩu cà phê thế giới vẫn duy trì ở mức tăng chậm khoảng 6%/năm. ở khu vực Châu á do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, xuất khẩu cà phê ở khu vực này trung bình là 10%/năm. Chất lượng cà phê xuất khẩu sẽ ngày càng được nâng cao. Braxin, Côlômbia, Việt Nam và Inđônêxia vẫn sẽ là những nước xuất khẩu lớn trên thế giới.
Về tiêu thụ: theo nhận định gần đây của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO) và các nhà phân tích kinh tế Pháp, thời gian tới tổng cầu có tăng (nhưng tăng ít) nhất là sau khi ICO quyết định dành 2 triệu USD để làm marketing cà phê ở Nga và Trung Quốc (năm 1998/1999). Mặc dù đây là hai thị trường tiềm năng song do ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng khu vực, khiến thu nhập giảm ở Đông á và kết quả sẽ làm giảm cầu khoảng 0,8 triệu bao/năm. Tuy vậy nhu cầu về cà phê Robusta sẽ tăng lên nhiều hơn so với cà phê Arabica. Dự kiến nhu cầu cà phê thế giới năm 2010 khoảng 7 triệu tấn.
Về giá cả: Theo dự báo của Mỹ và ICO, giá cà phê thế giới nhìn chung sẽ tăng do sự hạn chế cung cà phê của Hiệp hội các nước sản xuất cà phê thế giới và nhu cầu uống cà phê tăng. Bên cạnh đó, sự thay đổi của thời tiết như hạn hán, sương mù cũng ảnh hưởng xấu tới sản lượng và sản xuất cà phê. Gía cà phê sẽ tăng và ở mức bình quân từ 4200 – 4500 USD/tấn đối với cà phê Arabica và 1800 – 2200 USD/tấn đối với cà phê Robusta.
Dự báo tình hình thị trường cà phê thế giới.
Theo dự đoán của công ty phân tích hàng hoá - Commodity Expert sản lượng vụ cà phê 2002/2003 toàn thế giới đạt 124,03 triệu bao tăng 10,8 triệu bao so với 111,86 triệu bao vụ 2001/2002. Sự tăng trưởng này quyết định bởi sự tăng sản lượng của Braxin. Trong khi sản lượng giảm ở nước thứ nhì thế giới về cà phê là Việt Nam, cùng với việc giảm sản lượng ở ấn Độ và một số nước Trung Mỹ … thì sản lượng cà phê Braxin tăng từ 33 triệu bao vụ 2001/2002 lên 47,5 triệu bao vụ 2002/2003. Với sản lượng từ 45 – 50 triệu bao cà phê (2,7 – 3 triệu tấn) Braxin sẽ là một nhân tố rất quan trọng đẩy giá cà phê xuống thấp. Đây là một điểm phải tính đến khi hoạch định mục tiêu xuất khẩu cà phê.
Tình hình thị trường cà phê thế giới cho thấy ngành cà phê Việt Nam cần có một hướng đi đúng đắn để ra khỏi khó khăn, tiếp tục tồn tại và phát triển.
Theo dự đoán của Bộ nông nghiệp Mỹ, sản lượng cà phê thế giới niên vụ này sẽ đạt mức cao chưa từng thấy là 125,1 triệu bao, tăng gần 12% so với niên vụ 2001/2002. Dự đoán nguồn cung cà phê thế giới trong niên vụ 2002/2003 cũng sẽ tăng 9% so với niên vụ trước lên 148,9 triệu bao. Nguồn cung cao sẽ tiếp tục gây áp lực lên thị trường cà phê thế giới.
Dự đoán, sản lượng cà phê của Colombia và Việt Nam niên vụ này đạt mức tương ứng 11,25 và 10 triệu bao, đều giảm so với mức 12 và 12,25 triệu bao niên vụ 2001/2002.
Theo dự đoán của các nhà sản xuất Braxin, sản lượng cà phê của nước này niên vụ 2003/2004 sẽ giảm khoảng 50% so với dự đoán chính thức 45,69 triệu bao niên vụ này.
Ngoài ra, sản lượng cà phê của Colombia và Việt Nam – các nước sản xuất lớn thứ hai và ba thế giới cũng sẽ giảm đáng kể trong niên vụ tới, góp phần nâng đỡ thị trường sau 3 năm liên tục giá tụt giảm mạnh. Theo đó sản lượng cà phê của Colombia niên vụ 2002/2003 ước đạt 10,3 triệu bao (60 kg/bao), giảm khá nhiều so với 11,9 triệu bao niên vụ trước. Dự đoán của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO) cho thấy, sản lượng cà phê của Việt Nam – nước sản xuất cà phê Robusta hàng đầu thế giới niên vụ này cũng sẽ giảm khoảng 32,32% so với 14,77 triệu bao niên vụ 2001/2002. Sự suy yếu của ngành công nghiệp cà phê thuộc khu vực Châu Phi và Trung Mỹ là nhân tố đẩy giá cà phê thế giới lên các mức cao trong vài tháng qua.
Theo dự đoán của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO), sản lượng cà phê thế giới dự đoán tăng trung bình 1,3%/năm trong thời kỳ 2000 – 2010. Tuy vậy nhịp độ tăng trưởng sẽ khác nhau giữa các nước sản xuất. ở những nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai nhiều, lao động rẻ, tăng sản xuất và có những chính sách ưu đãi đối với cà phê, dự đoán diện tích và sản lượng sẽ tăng. Những nước này gồm: Côlômbia, Costa Rica, Inđônêxia … Sản lượng cà phê ở những nước có tỷ lệ thuế đánh vào cà phê nặng, năng suất thấp, dự đoán sẽ giảm như ở Cotdivoa, Camởun. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, sản xuất cà phê thế giới năm 2005 là 6,870 triệu tấn và năm 2010 sẽ là 7,21 triệu tấn.
II- tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam.
ở Việt Nam cây cà phê được các nhà truyền đạo công giáo đưa vào trồng đầu tiên ở hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị, sau đó lan sang các tỉnh khác. Trải qua nhiều năm thăng trầm, đến nay cây cà phê đă có mặt gần như khắp các vùng của đất nước, và trở thành một ngành sản xuất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cà phê luôn nằm trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Cà phê là cây trồng và mặt hàng chế biến xuất khẩu có ưu thế của Việt Nam. Cà phê Việt Nam có chất lượng khá cao và mùi vị thơm ngon, được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng. Hiện nay, cà phê Việt Nam được xuất khẩu đi trên 60 nước. Các thị trường của các nước nhập khẩu nhiều cà phê Việt Nam có Mỹ, các nước EU, trong đó đứng đầu là Đức, Thuỵ Sĩ, Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, Italia … ở châu á ngoài Nhật Bản hàng năm nhập một khối lượng lớn, còn có Singapore, Trung Quốc, Philippin, Malaysia và Inđônêsia.
Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh của cà phê trên thị trường thế giới là rất quan trọng và ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0690.doc