Thực trạng & Giải pháp nâng cao năng lực kinh doanh tại Ngân hàng thương Mại chi nhánh Láng Hạ

Danh mục bảng biểu Bảng 1.1: Bảng cân đối tài sản ngân hàng và công ty (dạng đơn giản) trang 9 Bảng 2.1: Kết quả kinh doanh từ 2002 đến 2006 trang 36 Bảng 2.2: Tình hình doanh số TTQT qua các năm 2002-2006 trang 42 Sơ đồ: Mô hình tổ chức chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ trang 35 Đồ thị 1.1: Các luồng vốn luân chuyển trong một thế giới mà hệ thống ngân hàng tồn tại và phát triển trang 8 Đồ thị 1.2: Mục tiêu hoạt động kinh doanh thoả mãn 3 đối tượng trang 13 Đ

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp nâng cao năng lực kinh doanh tại Ngân hàng thương Mại chi nhánh Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồ thị 1.3: Cách nhìn thực hiện dịch vụ trang 14 Đồ thị 1.4: Cách nhìn thực hiện dịch vụ xuất phát từ khách hàng trang 15 Đồ thị 2.1: Kế hoạch huy động nguồn vốn giai đoạn 2006-2010 trang 30 Đồ thị 2.2: Kế hoạch dư nợ giai đoạn 2006-2010 trang 31 Đồ thị 2.3: Tình hình nguồn vốn tại chi nhánh Láng Hạ 2002-2006 trang 37 Đồ thị 2.4: Tình hình dư nợ tại chi nhánh Láng Hạ 2002-2006 trang 38 Đồ thị 2.5: Tình hình nợ quá hạn tại chi nhánh Láng Hạ 2002-2006 trang 39 Đồ thị 2.6: Tình hình lợi nhuận tại chi nhánh Láng Hạ 2002-2006 trang 39 MỤC LỤC PHẦN GIỚI THIỆU 1. Lý do chọn đề tài - Hoạt động của ngân hàng phát triển chậm so với nhu cầu hoạt động kinh tế. - Cạnh tranh giữa các ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO. 2. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ. - Đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực kinh doanh tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu hoạt động kinh doanh của của chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ. - Tập trung vào các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực kinh doanh của chi nhánh như tiềm lực vốn, sản phẩm dịch vụ, nghiệp vụ, marketing ngân hàng, kênh phân phối, chất lượng nhân sự, quản lý rủi ro, khách hàng. 4. Quan điểm nghiên cứu - Năng lực kinh doanh của chi nhánh Láng Hạ có liên quan đến + Phần cứng: cơ sở vật chất, công nghệ , thuê chuyên gia, ... + Phần mềm: chiến lược kinh doanh, đào tạo cán bộ, cơ cấu tổ chức - quản lý, sự phát triển các loại hình dịch vụ và sản phẩm mới, cơ cấu tổ chức mạng lưới, … - Đề tài này chỉ giới hạn ở phần mềm và dựa trên giả định phần cứng đã có sẵn hoặc ít nhiều có thể thay đổi để thích ứng với sự thay đổi của phần mềm. - Viết về năng lực kinh doanh thì có thể là một phạm trù khá rộng. Do đó trong quá trình phân tích thực trạng và giải pháp cần cố gắng nhấn mạnh vào những những vấn đề được coi là thiết yếu nhất. 5. Phương pháp nghiên cứu - Xoay quanh vấn đề tiền tệ - nguyên liệu kinh doanh của các ngân hàng thương mại, từ đó rút ra các đặc trưng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng và lấy đó làm cơ sở phân tích năng lực của ngân hàng. - Các lý thuyết về khoa học quản lý như cơ cấu tổ chức, chiến lược vấn đề lợi ích, ... và các mô hình phân tích, lý thuyết quản lý trong các lĩnh vực như marketing, tài chính, nhân lực, ... 6. Nội dung nghiên cứu - Khái quát cơ bản sự ra đời và phát triển các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. - Nghiên cứu tỉ mỉ, chi tiết hoạt động của chi nhánh Láng Hạ, đánh giá, chỉ ra các tồn tại để tìm ra biện pháp khắc phục. - Đưa ra các giải pháp khả thi khắc phục tồn tại đó nhằm nâng cao năng lực kinh doanh của chi nhánh Láng Hạ. 7. Kết cấu của chuyên đề - CHƯƠNG I, HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. - CHƯƠNG II, THỰC TRẠNG KINH DOANH TẠI CHI NHÁNH LÁNG HẠ. - CHƯƠNG III, GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC KINH DOANH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG LÁNG HẠ. CHƯƠNG I, HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG I. Chức năng và hoạt động của ngân hàng thương mại 1. Ngân hàng thương mại - Một trung gian tài chính Mục này tóm tắt từ: Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Học viện Ngân hàng, nhà xuất bản Thống Kê 1999, tr.13-17 và tr.21. Đồ thị 1.1: Các luồng vốn luân chuyển trong một thế giới mà hệ thống ngân hàng tồn tại và phát triển. Dân chúng Ngân hàng (nhà trung gian) Ngân hàng (nhà luân chuyển tài sản) Các công ty Vốn Vốn CP & TP Chứng chỉ tiền gửi (Nguồn: Quản trị rủi ro ngân hàng, Học viện Ngân hàng, nhà xuất bản Thống kê 1999, trang 16) Mô hình trên thể hiện cuộc sống thực tế mà ở đó hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ và được coi là xương sống của nền kinh tế. Đồ thị biểu diễn các dòng tiền luân chuyển trong nền kinh tế, qua đó thấy được vai trò một trung gian tài chính của ngân hàng. Nhìn vào mô hình có thể thấy ngân hàng thực hiện hai chức năng cơ bản, đó là: chức năng luân chuyển tài sản và chức năng cung cấp các dịch vụ thanh toán, môi giới và tư vấn. Về các dịch vụ thanh toán, môi giới và tư vấn: ngân hàng hoạt động như một đại lý của khách hàng trong việc cung cấp dịch vụ thanh toán và thông tin cho khách hàng. Ngân hàng cung cấp rất đa dạng và phong phú các loại hình dịch vụ như các loại thẻ thanh toán, hướng dẫn mua bán tiền tệ, chứng khoán, nghiên cứu và tư vấn đầu tư cho khách hàng. Ngân hàng đóng một vai trò rất tích cực trong việc môi giới các hoạt động thị trường nhằm tìm kiếm đầu vào và đầu ra thuận lợi, giúp đem lại hiệu quả kinh doanh cho khách hàng và tăng cường lợi ích cho ngân hàng. Thông qua chức năng tư vấn và cung cấp dịch vụ thanh toán làm cho chi phí đầu tư của khách hàng giảm xuống và người đầu tư có thể nắm bắt được tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh của công ty một cách chính xác và toàn diện hơn. Về chức năng luân chuyển tài sản: ngân hàng đồng thời tiến hành hai hoạt động. Thứ nhất, ngân hàng huy động vốn bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi. Các chứng chỉ tiền gửi có ưu điểm hơn so với các chứng khoán phát hành trực tiếp từ công ty cho dân chúng và giảm đáng kể các chi phí giám sát, chi phí thanh khoản và rủi ro giá cả. Thứ hai, ngân hàng cấp tín dụng và mua cổ phiếu, trái phiếu do các công ty phát hành. Hoạt động đầu tư chứng khoán của ngân hàng tạo tiền đề cho những chứng chỉ tiền gửi đó có tính chất như những chứng khoán thứ cấp. Có thể thấy sự khác biệt trong chức năng luân chuyển tài sản giữa ngân hàng với các loại hình kinh doanh khác được thể hiện trong bảng dưới đây. Bảng 1.1: Bảng cân đối tài sản ngân hàng và công ty (dạng đơn giản) Các công ty Ngân hàng Tài sản có TS hữu hình: - Nhà xưởng. - Máy móc. - Thiết bị. Tài sản nợ CK sơ cấp: - Trái phiếu. - Cổ phiếu. - Tín dụng. Tài sản có CK sơ cấp: - Trái phiếu. - Cổ phiếu. - Tín dụng. Tài sản nợ CK thứ cấp: - Chứng chỉ tiền gửi. - Tiền gửi tiết kiệm. - Tiền gửi thanh toán. (Nguồn: Quản trị rủi ro ngân hàng, Học viện Ngân hàng, nhà xuất bản Thống kê 1999, trang 17) Trong thực tế những nhà hoạch định chính sách còn đưa ra một số lĩnh vực thuộc về đặc trưng của ngân hàng. Ngân hàng là đối tượng đồng thời là trung gian chuyển tải chính sách tiền tệ. Thông qua hoạt động có tính chất đặc thù của mình, các ngân hàng đã thực hiện chức năng chuyển tải chính sách tiền tệ từ ngân hàng trung ương đến toàn bộ nền kinh tế. Thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, chính sách tiền tệ đã chi phối và điều chỉnh toàn bộ hoạt động của ngân hàng cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Ngân hàng còn là một kênh phân bổ tín dụng. Ngân hàng là nguồn chính tài trợ, cung cấp tín dụng cho một số lĩnh vực nhất định được xác định có nhu cầu đặc biệt về vốn. Ngân hàng cũng là kênh điều chỉnh mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Ở hầu hết các quốc gia, những nhà làm chính sách luôn xác định các lĩnh vực cần được trợ giúp về vốn như đối với người nghèo, hoặc một số ngành nghề thuộc các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Dịch vụ thanh toán cũng là đặc thù của ngân hàng. Tính hiệu quả của các dịch vụ thanh toán của ngân hàng đem lại những lợi ích trực tiếp cho nền kinh tế. Dịch vụ thanh toán của ngân hàng tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế nối tiếp nhau, thông suốt và hiệu quả. Bất kỳ một trục trặc nào trong hệ thống thanh toán của ngân hàng cũng sẽ gây ra những bế tắc và thiệt hại cho nền kinh tế. Như vậy, qua những trình bày về chức năng và vai trò, có thể kết luận rằng ngân hàng là một trong gian tài chính đặc biệt trong nền kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Do đó hoạt động kinh doanh của ngân hàng có rất nhiều điểm khác biệt so với các hoạt động kinh doanh khác. 2. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Mục này được tóm tắt từ: Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Học viện Ngân hàng, nhà xuất bản Thống kê 1999, tr.17-21. Sự khác biệt trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng còn bởi vì các sản phẩm dịch vụ của nó tồn tại và phát triển xoay quanh một loại hàng hoá đặc biệt - tiền tệ. Đây là loại hàng hoá có tính xã hội hoá rất ca. Tiền được coi là vật ngang giá chung do vậy sự biến động của tiền có ảnh hưởng tới sự lưu thông của rất nhiều hàng hoá, tới những tính toán của các nhà đầu tư và người tiêu dùng. Mối quan hệ hàng tiền đó đã được thể hiện nhiều trong nhiều lý luận về kinh tế. Với đặc điểm dựa trên nền tảng hàng hoá tiền tệ, hoạt động kinh doanh của ngân hàng trở thành một loại hình kinh doanh sản phẩm dịch vụ tổng hợp hết sức đa dạng, phong phú mang lại lợi ích cho rất nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. Tuy nhiên bên cạnh ngân hàng còn rất nhiều tổ chức khác cũng kinh doanh tiền tệ. Vậy ngân hàng làm thế nào để tạo ra lợi thế so sánh với vai trò một trung gian tài chính đặc biệt. Làm thế nào để ngân hàng kinh doanh có lãi với hoạt động kinh doanh tài chính tiền tệ. Với vai trò trung gian tài chính đặc biệt, ngân hàng đã xử lý tốt hơn và giảm đáng kể ba loại chi phí. Đó là chi phí giám sát, chi phí thanh khoản và rủi ro giá cả mà từng nhà đầu tư riêng rẽ không thể đạt được. Cụ thể hơn là giảm được các chi phí điều tra khách hàng, chi phí đại lý và chi phí luân chuyển tài sản. Một ngân hàng lớn sẽ có đủ uy tín, thời gian, tiền bạc và nhân sự hơn nhiều so với nhà đầu tư riêng lẻ khi thực hiện việc điều tra và giám sát các hoạt động của khách hàng, đối tác, các công ty, ... Tính hiệu quả trong việc thu thập và xử lý thông tin tạo ra lợi thế so sánh của ngân hàng. Trên cơ sở giám sát có hiệu quả và giảm được chi phí, ngân hàng tạo lòng tin phát hành các chứng chỉ tiền gửi, các phương tiện thanh toán, các dịch vụ tư vấn và môi giới. Thanh khoản và rủi ro giá cả: ngân hàng có khả năng cung cấp các dịch vụ tiền gửi và chuyển tiền có khả năng thanh khoản cao hơn hẳn so với cổ phiếu và trái phiếu. Ngân hàng cho phép mở các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, phát hành các chứng chỉ tiền gửi với kỳ hạn linh hoạt, có thể rút trước hạn, trả lãi trước, thanh toán, chuyển tiền trong ngày, ... Ngân hàng có thể quản trị và thu lợi nhuận từ các dịch vụ tiền gửi và chuyển tiền dựa trên khả năng đa dạng hoá danh mục đầu tư của chính ngân hàng. Ngân hàng luôn đảm bảo được tính thanh khoản đối với vốn huy động và bảo toàn được giá trị tiền gửi, hấp dẫn khách hàng tham gia vào các sản phẩm dịch vụ được ngân hàng cung ứng. Giảm chi phí giao dịch: cũng như các thị trường khác, người mua lẻ bao giờ cũng chịu một chi phí lớn so với người mua buôn. Ngân hàng trên cơ sở nguồn vốn lớn sẽ đầu tư những khoản lớn, nhờ đó chi phí giao dịch sẽ giảm xuống. Ngoài ra do giao dịch với khối lượng lớn, chuyên biệt nên sẽ hiệu quả hơn nhiều so với những giao dịch nhỏ, làm tăng hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Ngân hàng còn thực hiện được sự chuyển hoá linh hoạt kỳ hạn của tài sản. Với vai trò trung gian tài chính đặc biệt, không những ngân hàng quản lý tốt rủi ro mà còn xử lý được sự không cân xứng trong kỳ hạn của tài sản nợ và tài sản có trong nền kinh tế một cách rất hiệu quả. Qua đó ngân hàng đã góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế diễn ra liên tục. Qua những phân tích trên, quan niệm chung cho rằng ngân hàng là một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ với vai trò trung gian tài chính đặc biệt. Nhưng một cách gián tiếp, ngân hàng có thể tham gia vào tất cả công đoạn trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp và hành vi giữ tiền hay tiêu tiền của dân cư. Từ quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho kinh doanh - ngân hàng có thể cho vay vốn để mua sắm tài sản cố định, phát triển công nghệ; đến khi sản xuất sản phẩm - ngân hàng có thể cho vay vốn để trang trải các chi phí; đến khâu thanh toán tiền hàng - ngân hàng có thể cung ứng các sản phẩm dịch vụ thu nợ... Ngân hàng đưa ra những dịch vụ gửi tiền, cho vay, thanh toán, chuyển tiền nhanh, chi phí thấp khuyến khích người dân rút ngắn khoảng cách địa lý, phương tiện, mua bán nhiều hàng hoá hơn, nắm được nhiều thông tin thị trường hơn, ... Như vậy với những lợi thế đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh tài chính tiền tệ, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng ngày càng đa dạng, sâu rộng, hiện đại hơn, chi phí thấp hơn, hoàn hảo hơn nhằm đem lại các thu nhập dưới nhiều hình thức khác nhau và đảm bảo lợi ích của các chủ sở hữu. 3. Khái niệm năng lực kinh doanh của ngân hàng thương mại Mục này được tóm tắt từ: Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ quản trị marketing ngân hàng, Trung tâm đào tạo, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn 2003, tr. 92-97. Từ những phân tích vai trò và những hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, có thể quan niệm rằng năng lực kinh doanh của ngân hàng thương mại là khả năng kết hợp các nguồn lực với các quá trình phân tích, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra giám sát các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại nhằm đạt mục tiêu thoả mãn ba đối tượng: thị trường, cán bộ ngân hàng và ngân hàng. Đồ thị 1.2: Mục tiêu hoạt động kinh doanh thoả mãn 3 đối tượng. Thỏa mãn thị trường Hoạt động kinh doanh ngân hàng Thỏa mãn nhân viên ngân hàng Lợi nhuận ngân hàng (Trích Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ quản trị marketing ngân hàng, Trung tâm đào tạo, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam 2003, tr. 96) Theo cách nhìn thực hiện dịch vụ ngân hàng, mô hình trên có thể được cụ thể hoá như mô hình dưới đây. Đồ thị 1.3: Cách nhìn thực hiện dịch vụ. Ban giám đốc Trưởng phòng Chi nhánh Nhân viên giao dịch tại quầy Nhân viên giao dịch với khách hàng Chuyên viên ngân hàng KHÁCH HÀNG (Trích Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ quản trị marketing ngân hàng, Trung tâm đào tạo, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam 2003, tr. 93) Theo cách nhìn hiện đại Đồ thị 1.4: Cách nhìn thực hiện dịch vụ xuất phát từ khách hàng. Ban giám đốc Trưởng phòng Chi nhánh Nhân viên giao dịch tại quầy Nhân viên giao dịch với khách hàng Chuyên viên ngân hàng KHÁCH HÀNG (Nguồn: Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ quản trị marketing ngân hàng, Trung tâm đào tạo, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam 2003, tr. 94) Qua các mô hình có thể thấy hoạt động ngân hàng không chỉ đáp ứng tốt nhất những nhu cầu của khách hàng mà còn đáp ứng cớ lợi cho cán bộ và chính ngân hàng. Thực ra mục đích cuối cùng của hoạt động kinh doanh là lợi nhuận nhưng có thể cảm tưởng ngược lại khi ngân hàng liên tục khuyến mãi, quảng cáo, tư vấn miễn phí, ... Cần nhận thức chung rằng, hoạt động kinh doanh của ngân hàng có hiệu quả, năng lực kinh doanh được khẳng định, không pảhi do một cá nhân riêng lẻ, một bộ phận hay một sản phẩm dịch vụ riêng lẻ. Điều này được thể hiện ở nhiều khía cạnh. Trước hết toàn ngân hàng phải nhận thức được vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng là khách hàng. Ngân hàng sống được là vì khách hàng. Ngân hàng phải là một thể thống nhất giữ các bộ phận, không có sự sai lệch trong bất kỳ bộ phận nào, tất cả đều hướng tới thị trường, phục vụ thị trường, tăng lợi nhuận cho ngân hàng và tăng thu nhập cho cán bộ. Với những đòi hỏi như vậy, hoạt động kinh doanh của ngân hàng phải có sự sáng tạo của tất cả thành viên, những ý kiến đóng góp xây dựng, phản hồi của khách hàng, tạo nên những sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa năng, hiện đại, dáng tin cậy, hấp dẫn và khai thác tối đa nhu cầu thị trường. I. Những nhân tố ảnh hưởng tới năng lực kinh doanh của ngân hàng thương mại 1. Sự phát triển của nền kinh tế mở Mục này được tóm tắt từ: Những thuận lợi, khó khăn và thách thức của ngành ngân hàng khi gia nhập WTO, Tạp chí Tài chính tiền tệ, số 7, 1/4/2007, tr.18-19. Hoạt động ngân hàng luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của nền kinh tế. Bởi vì hoạt động kinh doanh ngân hàng là một trong những hoạt động có tính xã hội hoá cũng như tính quốc tế hoá rất cao và luôn luôn gắn bó với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và hành vi tiêu dùng của người dân. Những tác động từ sự phát triển của nền kinh tế mở đối với hoạt động ngân hàng là rất rõ ràng, đặc biệt đối với các nền kinh tế chuyển đổi. Gia nhập WTO sẽ làm tăng nhu cầu về dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng quốc tế do các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận với thị trường hàng hoá quốc tế và đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Đồng thời các nhà đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài cũng có nhiều cơ hội thâm nhập, xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Việt Nam, sẽ làm cho các luồng vốn chu chuyển qua hệ thống ngân hàng cũng gia tăng. Hội nhập quốc tế buộc các doanh nghiệp phải đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh và tính minh bạch nên thị trường tài chính tiền tệ sẽ phát triển sôi động hơn, tạo môi trường kinh doanh ngân hàng có mức độ rủi ro thấp hơn và hoạt động ngân hàng sẽ an toàn, lành mạnh và hiệu quả hơn. Thị trường sản phẩm dịch vụ ngân hàng mở cửa sẽ là điều kiện tốt thu hút đầu tư trực tiếp, các công nghệ ngân hàng, các kỹ năng quản lý tiên tiến được ngân hàng trong nước tiếp thu thông qua các hoạt động liên kết hợp tác kinh doanh. Các ngân hàng trong nước có nhiều cơ hội nhận được sự hỗ trợ về tư vấn, đào tạo và bồi dưỡng kiến thức mới từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài. Tuy nhiên gia nhập WTO đồng nghĩa với sự gia tăng áp lực cạnh tranh từ phía các ngân hàng nước ngoài với năng lực tài chính tốt hơn, công nghệ, trình độ quản lý và hệ thống sản phẩm đa dạng,có chất lượng cao hơn và có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Việc mở cửa thị trường đặt các doanh nghiệp này trước nguy cơ bị cạnh tranh, có thể dẫn tới mất thị phần, kinh doanh thua lỗ và phá sản. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, tăng cường mở cửa để hội nhập là bước đi cần thiết và tất yếu đối với các ngân hàng. Luôn có những cơ hội và thách thức nhưng các ngân hàng cần nhận dạng đúng, đầy lùi những thách thức, khó khăn, cạnh tranh một cách chủ động trong thời kỳ mở cửa. 2. Yếu tố pháp lý Mục này được tóm tắt từ: Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Học viện Ngân hàng, nhà xuất bản Thống kê 1999, tr. 22-25. Kinh doanh kém hiệu quả của ngân hàng luôn có hiệu ứng lan lan, mang tính chất dây chuyền và có thể tạo ra sự náo loạn trong xã hội. Do ảnh hưởng của ngân hàng đến hoạt động của nền kinh tế là rất lớn nên hoạt động kinh doanh của ngân hàng phải được điều chỉnh bằng luật định. Những hoạt động kinh doanh của ngân hàng được pháp luật kiếm soát rất chặt chẽ. Việc kinh doanh ở các lĩnh vực khác thông thường chỉ lệ thuộc vào pháp lý ở hai điểm: thuế, luật doanh nghiệp và một số qui định khác về môi trường, bảo hiểm ... Nhưng đối với hoạt động ngân hàng, ngoài các qui định đó còn có hàng loạt các qui phạm pháp luật qui định giới hạn hoạt động. Đó là các qui định về mức vốn ban đầu, lượng vốn được huy động, các dịch vụ, lãi suất, khối lượng tín dụng, cơ cấu đầu tư, ... Mọi hoạt động của ngân hàng gần như đều có những qui phạm riêng do pháp luật qui định. Các hoạt động đó gần như hạn chế các hoạt động "tự do" và bó hẹp Ngân hàng hơn nhiều so với các ngành kinh tế khác. Những tác động của chính sách nhà nước Mục này được tham khảo từ: - Tình hình thực hiện lãi suất thỏa thuận, Website Hiệp hội ngân hàng Việt Nam - Nhìn lại lộ trình tự do hóa lãi suất của Việt Nam, TS.Nguyễn Kim Anh, ThS.Nguyễn Hồng Thắng , Học viện Ngân hàng ( Ảnh hưởng lớn nhất từ chính sách của chính phủ đến hoạt động của Chi nhánh có lẽ là chính sách lãi suất. Với việc xoay quanh mức lãi suất cơ bản (biên độ do NHNN quy định) nhưng các ngân hàng thương mại được thoả thuận mức lãi suất khác nhau đối với từng đối tượng khách hàng, các ngân hàng và khách hàng đã có một khung lãi suất tương đối rộng cho việc thoả thuận lãi suất vay vốn, tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng cho vay, góp phần thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản kết hợp với lãi suất thoả thuận góp phần hình thành cung – cầu vốn trên thị trường, nâng cao hiệu quả phân bổ hiệu quả nguồn lực, giúp hệ thống ngân hàng Việt Nam thực hiện tốt vai trò trung gian tài chính trong nền kinh tế. Chính sách tiền lương cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNO và PTNT Láng Hạ. Các hệ số lương, thưởng bắt buộc theo những quy định của Nhà nước và của Ngành, chưa được quyết định trả lương theo hiệu quả kinh doanh nên chưa thực sự thúc đẩy đầy đủ năng lực kinh doanh của Chi nhánh. 3. Nhân tố cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Mục này được tóm tắt từ: Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ quản trị Marketing ngân hàng, Trung tâm đào tạo, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam 2003, tr.102-103. Nhìn bề ngoài, chúng ta thấy dường như hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại rất dễ chịu. Nhiều người thấy các ngân hàng đơn giản chỉ việc treo biển lãi suất, biểu phí là có thể thu hút khách hàng. Trong thực tế, lĩnh vực Ngân hàng có tính cạnh tranh rất cao. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng luôn liên quan tới tiền. Đó là loại hàng hoá có tính xã hội hoá và có tính nhạy cảm rất cao. Trong hoạt động của Ngân hàng Thương mại, chỉ cần có sự thay đổi một chút về lãi suất hay giá cả dịch vụ là khách hàng có thể lập tức thay đổi quan hệ với Ngân hàng và chuyển qua Ngân hàng khác. Nếu tiền làm tăng tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì đặc điểm dịch vụ của nó cũng làm cho tính cạnh tranh giữa các Ngân hàng càng được thể hiện rõ nét hơn. Nếu một ngân hàng nào đó tạo ra một dịch vụ được xã hội ưa chuộng thì gần như ngay lập tức trong một khoảng thời gian rất ngắn các Ngân hàng khác có thể thực hiện dịch vụ đó, làm phân tán mức độ ưa chuộng của xã hội với dịch vụ và làm phân tán lợi nhuận của ngân hàng. Tính nhậy cảm của tiền, tính dễ bắt chước của dịch vụ Ngân hàng đã thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự cạnh tranh của hoạt động Ngân hàng. Đó là một ngành kinh doanh có hoạt động cạnh tranh mãnh liệt ngoài những đặc điểm cạnh tranh thuần tuý khác. 4. Nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng Mục này được tóm tắt từ: Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ quản trị Marketing ngân hàng, Trung tâm đào tạo, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam 2003, tr.98-107 4.1. Tiềm lực vốn của ngân hàng Tiềm lực vốn của Ngân hàng tạo ra tiềm lực dịch vụ trực tiếp. Nguồn vốn của ngân hàng phần lớn là nguồn vốn đi vay để cho vay. Nhưng nguồn vốn huy động của Ngân hàng không phải là vô hạn, bởi lẽ việc huy động vốn của Ngân hàng bị giới hạn trực tiếp bởi tiềm lực vốn, điều này có liên quan trực tiếp đến độ an toàn tiền gửi của dân cư. Chính vì vậy, thông thường Nhà nước thông qua các qui định của pháp luật để ấn định một mức vốn huy động nhất định theo số vốn tự có của Ngân hàng. Rõ ràng tiềm lực vốn càng lớn các Ngân hàng càng có thể huy động nhiều vốn và tiến hành đầu tư các sản phẩm dịch vụ ngân hàng để thu được nhiều lợi nhuận hơn lên. Tiềm lực vốn tạo ra khách hàng. Như đã nói tiềm lực vốn của Ngân hàng càng lớn càng có điều kiện tạo ra nhiều dịch vụ trực tiếp. Có nhiều nguồn vốn là cơ sở để Ngân hàng có thể thu hút được nhiều khách hàng đến với mình. Hơn thế, với tiềm lực vốn lớn các Ngân hàng có điều kiện hiện đại hoá Ngân hàng đó cũng là điều kiện để mở rộng hoạt động của Ngân hàng, thu hút đông đảo khách hàng đến với Ngân hàng. Tiềm lực vốn tạo ra uy tín. Khách hàng thường nhìn vào các Ngân hàng lớn (cả về vốn kinh doanh và cơ sở vật chất cố định) để đầu tư vốn hay thực hiện các quan hệ làm ăn với Ngân hàng, nhiều vốn Ngân hàng càng thu hút được nhiều khách hàng, điều đó trở lại càng làm tăng thêm uy tín của Ngân hàng. Như vậy, tiềm lực vốn của Ngân hàng không những tạo ra dịch vụ trực tiếp cho Ngân hàng, tạo ra khách hàng mà còn tạo ra cả uy tín cho nó hoạt động. 4.2. Về sản phẩm dịch vụ Mục này được tham khảo từ: Một số ý kiến về phát triển dịch vụ ngân hàng trong xu hướng hội nhập quốc tế, Trần Hoàng Vũ - Sở kinh doanh hối đoái Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 19, 10/2006, tr. 24-26. Dịch vụ ngân hàng có thể hiểu chung nhất đó là các công việc trung gian về tiền tệ của các tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng về sinh lời, đầu tư, giữ hộ hay bảo đảm an toàn, đem lại nguồn thu phí cho tổ chức cung ứng dịch vụ. Dịch vụ ngân hàng rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên với quá trình kinh doanh lâu năm, cũng như tính dễ bắt chước, các dịch vụ của Ngân hàng trên thương trường đề đã "cũ" cả về nội dung lẫn kỹ thuật nghiệp vụ. Những dịch vụ "mới" của ngân hàng không có nghĩa là trước đó chưa có ngân hàng nào cũng cấp mà là dịch vụ mà Ngân hàng đó có thể lựa chọn đưa ra thị trường trước các đối thủ cạnh tranh. Các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng gắn chặt chẽ với yếu tố thời gian. Trong nhiều dịch vụ chính của ngân hàng, yếu tố thời gian lại thực chất là yếu tố thực hiện giá trị của sản phẩm. Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay tiền có nghĩa là Ngân hàng đã bán quyền sử dụng số lượng tiền vay đó cho doanh nghiệp nhưng không bán quyền sở hữu chúng. Khi Ngân hàng nhận tiền gửi của dân cư cũng có nghĩa đã được trao quyền sử dụng và Ngân hàng phải gánh chịu những giá trị phải trả cho khách hàng theo thời gian. Giá cả bán quyền sử dụng của tiền liên quan trực tiếp đến quyền sử dụng chúng, chính vì vậy yếu tố thời gian thực sự là yếu tố vật chất gắn liền với việc thực hiện giá trị dịch vụ của Ngân hàng. Sản phẩm dịch vụ Ngân hàng là tổng hợp các yếu tố: + Chất lượng phục vụ của nhân viên: qui trình ngắn gọn, tốc độ xử lý nhanh, trình độ giao tiếp và thái độ giao tiếp ảnh hưởng đến thái độ của khách hàng. + Kỹ thuật và công nghệ hiện đại và có tính liên kết cao. + Uy tín hình ảnh của Ngân hàng. + Khung cảnh giao dịch ấn tượng tạo ra cho khách hàng cảm giác thoải mái, không khí chia sẻ. + Sản phẩm trọn gói, tiện ích và lợi ích. 4.3. Về nghiệp vụ và kỹ thuật nghiệp vụ So với các ngành kinh tế khác thì nghiệp vụ ngân hàng ít thay đổi. Vẫn là các nghiệp vụ cho vay, thu nợ trong hoạt động tín dụng; séc, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng... trong thanh toán. Nhưng về kỹ thuật nghiệp vụ hay còn gọi là công nghệ của Ngân hàng lại luôn là vấn đề thời sự nóng bỏng trong sự mong muốn vươn lên của các Ngân hàng. Đây được xem như là điều kiện sống còn của các Ngân hàng thương mại trong quá trình tồn tại và phát triển. Tuy nhiên thay đổi công nghệ Ngân hàng thường khá tốn kém. Việc đa dạng các nghiệp vụ và đổi mới kỹ thuật nghiệp vụ phải được xem xét trong một quá trình lâu dài và phù hợp với khả năng tài chính của Ngân hàng, tránh tình trạng tuổi thọ của công nghệ được phát huy tác dụng ngắn hoặc không tương thích với trình độ nhân lực hiện tại. 4.4. Về khách hàng của ngân hàng Khách hàng của ngân hàng rất đông đảo và có nhiều nhu cầu khác nhau cần được phục vụ. Hầu như mọi người đều phải qua Ngân hàng thực hiện việc gửi và rút tiền như tiền lương, tiền bảo hiểm xã hội, thanh toán các dịch vụ, đến việc thanh toán các khoản tiêu dùng thông qua tiền điện tử. Khối lượng khách hàng của Ngân hàng thương mại là rất lớn. Những nhu cầu, mong muốn và những yếu tố hài lòng hay thất vọng của khách hàng luôn được các ngân hàng chú ý ghi nhận nhằm đưa ra những giải pháp hợp lý nhất. Nhu cầu của khách hàng về sản phẩm dịch vụ ngân hàng: Đoạn này trích từ: Xác định danh mục sản phẩm dịch vụ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, Trần Thị Vân Trà - Học viện ngân hàng, Tạp chí khoa học đào tạo ngân hàng, số 54, 11/2006, tr.87-90. + Cất trữ, sinh lời. + Cần sự tài trợ. + Quản lý rủi ro. + Di chuyển tiền tệ. + Tư vấn chuyên môn. + Thông tin. Mong muốn của khách hàng về sản phẩm dịch vụ Ngân hàng: + An toàn. + Thuận tiện. + Hiệu quả. + Tiết kiệm chi phí. + Danh tiếng, hình ảnh. + Được tôn trọng. 4.5. Quản lý rủi ro Trong hoạt động của mình, một ngân hàng thường phải đối mặt với các loại rủi ro cơ bản sau: + Rủi ro lãi suất. + Rủi ro tín dụng. + Rủi ro tỷ giá. + Rủi ro thanh khoản. + Rủi ro công nghệ và hoạt động. Hoạt động của ngân hàng luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn, có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Rủi ro có thể xảy ra ngoài ý muốn và gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Trong quá trình tăng trưởng của ngân hàng, cần phải điều chỉnh để đảm bảo cho sự phát triển ổn định lâu dài về nhiều mặt như chất lượng tín dụng, ổn định công nghệ, bảo đảm khả năng thanh khoản, ... 4.6. Hoạt động quản trị marketing Mục này được tham khảo từ: Đôi điều bàn luận về việc xây dựng thương hiệu của ngân hàng Việt nam trong tiến trình hội nhập, Lê Thị Huyền Diệu - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, Số 17, 9/2006, tr. 20 - 23. Xã hội ngày càng đòi hỏi cao hơn cao hơn cả về số lượng và chất lượng của dịch vụ ngân hàng. Trong bối cảnh đó, việc sử dụng công nghệ mới và việc ứng dụng Mareting vào hoạt động Ngân hàng đã trở thành một nhu cầu bức xúc. Marketing thực sự trở thành công cụ đắc lực trong việc thực hiện các chiến lược ngắn và dài hạn, lập kế hoạch, xác định vị thế và là cầu nối các bộ phận trong ngân hàng. Quản trị marketing trong hoạt động ngân hàng bao gồm rất nhiều công việc. Hoạt động quản trị marketing điều phối các hoạt động tuyên truyền, khuyến mãi, tài trợ, marketing trực tiếp, phương châm hoạt động, chiến lược marketing, ... Cạnh tranh diễn ra ngày càng mãnh liệt đòi hỏi đối mới công nghệ, kỹ thuật nghiệp vụ đa năng, liên tục và hoạt động quản trị marketing cũng phải theo kịp với những đòi hỏi đó. Đồng thời qua quá trình lịch sử phát triển của ngân hàng, khi theo đuổi những yêu cầu khắt khe của thị trường, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng được xem xét dưới những chuẩn mực mang tính hệ thống. Trong quá trình đó, các ngân hàng toàn năng chuyển dần sang phục vụ những thị trường mục tiêu mà ngân hàng có lợi thế cạnh tranh trên thị trường đó. Hoạt động marketing được vận dụng hướng vào những thị trường mục tiêu đó. Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, khách hàng không chỉ xem xét riêng một chuẩn mực quan hệ với Ngân hàng là giá cả dịch vụ mà tính đến cả cách thức phục vụ. Tình hình đó ngân hàng buộc phải xem xét lại hoạt động của mình, tăng cường quản lý nội bộ và phân quyền. Điều đó đòi hỏi sự thay đổi cơ cấu hoạt động của ngân hàng, đặc biệt đối với chức năng quản lý nội bộ của Marketing ngân hàng. Việc ứng dụng và._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0059.doc
Tài liệu liên quan