Lời mở đầu
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các quan hệ tín dụng ngày càng được mở rộng và phát triển thì hoạt động tín dụng trung dài hạn cũng góp phần quan trọng trong việc thức đẩy sản xuất phát triển, góp phần ổn định tiền tệ và giá cả, ổn định đời sống, trật tự xã hội tạo ra công ăn việc làm cho người lao động làm tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất chiếm lĩnh thị trường. Để hoạt động tín dụng làm được điều đó thì khâu thẩm định tài chính dự
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1567 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
án đóng một vai trò quan trọng.
Đặc biệt trong những năm gần đây, tình trạng nợ khê đọng, nợ quá hạn...của ngân hàng đã trở nên báo động và thu hút được sự quan tâm của mọi đối tượng như chủ đầu tư, các cấp các ngành có liên quan...Các vấn đề này đã được nêu ra rất nhiều lần và đã có biết bao nhiêu những đề xuất, kiến nghị, giải pháp nhưng những rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại vẫn xảy ra, vẫn tồn tại và có chiều hướng gia tăng. Đối với các ngân hàng thương mại, đây là một bài toán cực kỳ nan giải: ngân hàng phải làm gì, phải làm như thế nào để có thể nâng cao chất lượng cho vay, hạn chế rủi ro. đây là những câu hỏi mà các ngân hàng thương mại đang trăn trở để tìm câu trả lời.
Trong một vài năm gần đây, hoạt động cho vay trung và dài hạn đang trở thành một hoạt động kinh doanh chính của NHNTVN. Chất lượng của khoản vay phụ thuộc rất lớn vào chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án song công tác này vẫn còn nhiều bất cập. Xuất phát từ thực tế đó em đã lựa chọn đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp:
"Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam".
Với mong muốn có thể tìm tòi, phát hiện được một số hạn chế, đưa ra được một số giải pháp góp phần nhằm khắc phục những tồn tại, qua đó nâng cao hiệu quả của hoạt động Ngân hàng.
Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản liên quan tới thẩm định tài chính dự án, đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam để đưa ra giải pháp, chuyên đề được trình bày theo 3 chương:
Chương I: Tổng quan về thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Do trình độ, khả năng và tài liệu hạn chế, thời gian thực tập tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam còn ít nên những vấn đề nêu ra không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp, sửa chữa để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I
Tổng quan về thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại
I-/ Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế.
Theo cách hiểu chung nhất thì ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.
ở Việt Nam, Ngân hàng thương mại được coi là một tổ chức mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi trên nguyên tắc hoàn trả, tiến hành cho vay, chiết khấu và thanh toán. Như vậy, Ngân hàng thương mại sẽ tiến hành hoạt động huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức cá nhân chuyển đến những người có nhu cầu về vốn cho đầu tư sản xuất.
Sự tồn tại của Ngân hàng thương mại được đảm bảo bởi sự kết hợp hữu cơ hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và hoạt động trung gian. Ba hoạt động này là một thể thống nhất có quan hệ mật thiêt với nhau, coi nhẹ hoạt động nào thì đều làm cho ngân hàng không phát huy được hết sức mạnh tổng hợp.
1-/ Hoạt động huy động vốn.
Ngân hàng thương mại huy động, tập trung để hình thành nên nguồn vốn phục vụ cho hoạt động của mình. Tuy nhiên, để có thể hoạt động được theo đúng pháp luật của Nhà nước mỗi Ngân hàng thương mại đều phải có nguồn vốn tự có, đảm bảo nguyên tắc vốn tự có lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định hoặc vốn điều lệ. Nguồn này do Nhà nước cấp, do sự tích luỹ hoặc do đóng góp.
Bên cạnh nguồn vốn tự có thì vốn huy động trong toàn xã hội là nguồn chủ yếu hình thành nên quỹ hoạt động của Ngân hàng thương mại dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng.
2-/ Hoạt động cho vay, đầu tư.
Cho vay là hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng thương mại, với mục tiêu kiếm đươc lợi nhuận trên cơ sở đảm bảo thu hồi cả gốc lẫn lãi. ngân hàng cho các doanh nghiệp vay dưới 3 hình thức: Chiết khấu, thế chấp, tín chấp. Ngoài hoạt động cho vay thì các Ngân hàng còn sử dụng một phần nguồn vốn của mình đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp thông qua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp hay đầu tư vào các trái phiếu Chính Phủ.
Một hình thức cho vay của Ngân hàng thương mại là cho vay theo dự án. Đây chính là hình thức cho vay trung dài hạn với đặc điểm là có số vốn cho vay lớn, thời gian cho vay dài, chịu nhiều biến động và do đó có độ rủi ro cao. Tuy nhiên, nếu là một dự án tốt thì sẽ đem lại cho Ngân hàng một khoản thu nhập xứng đáng và bảo đảm an toàn vốn. Và để đạt được mục tiêu này, Ngân hàng thương mại phải làm tốt công tác thẩm định tài chính dự án trước khi đi đến một quyết định cho vay.
3-/ Hoạt động trung gian.
Các Ngân hàng thương mại còn thực hiện các nghiệp vụ trung gian theo yêu cầu của khách hàng như chuyển tiền, thanh toán không dùng tiền mặt, cung cấp dịch vụ. ..Nghiệp vụ này không những mang lại thu nhập cho Ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy hỗ trợ các nghiệp vụ nói trên.
II-/ Các vấn đề về dự án và thẩm định tài chính dự án.
1-/ Các vấn đề về dự án.
Trước hết chúng ta có thể hiểu đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung của địa phương, của ngành và của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng.
Đầu tư có một số đặc điểm:
- Thời gian thực hiện đầu tư tương đối dài.
- Khoản vốn đầu tư phải bỏ ra rất lớn.
- Thời gian thu hồi vốn đầu tư tương đối dài, tuỳ vào từng ngành mà thời gian thu hồi vốn sẽ khác nhau.
- Thành quả của hoạt động đầu tư sẽ phát huy tác dụng trong một thời gian tương đối dài ngay tại nơi mà chúng được thực hiện đầu tư.
Nói tóm lại, hoạt động đầu tư là việc bỏ vốn đầu tư nhằm tạo ra những sản phẩm với hy vọng đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với chi phí phải bỏ ra.
Vốn bao gồm: Vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay, các nguồn vốn khác nhau như vốn ngân sách cấp, vốn góp liên doanh.
Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả, nhưng ở những góc độ khác nhau, người ta nhìn nhận vấn đề hiệu quả khác nhau. Doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả tài chính, tối đa hoá lợi nhuận. Nhà nước lại chú trọng xem xét hoạt động đầu tư sẽ đóng góp như thế nào vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển của đất nước, có mâu thuẫn gì với lợi ích của nền kinh tế xã hội không. Như vậy để đạt được mục tiêu mong đợi thì các doanh nghiệp với cương vị là chủ đầu tư cũng như các Ngân hàng là người cho vay vốn phải làm tốt công tác thẩm định trước khi cho vay. Vậy ta cần hiểu dự án đầu tư là gì ?
Xét về nội dung cơ bản thì dự án đầu tư là một bản kế hoạch trong đó tập hợp các hoạt động với nhau để đạt được những mục tiêu nhất định bằng việc tạo ra những kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử dụng các nguồn lực nhất định.
Các nguồn lực bao gồm: Tài chính, vật lực, nhân lực, tài sản vô hình...các nguồn lực được kết hợp với nhau thông qua hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định để tạo ra kết quả nhằm đạt được mục tiêu của dự án.
Quá trình hình thành và phát triển một dự án đầu tư trải qua 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư.
Các giai đoạn trên được thể hiện qua sơ đồ sau:
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư
Nghiên cứu tiền khả thi
Nghiên cứu khả thi
Thẩm định dự án, ra quyết định đầu tư
Giai đoạn thực hiện đầu tư
Đàm phán ký kết hợp đồng
Thiết kế và xây dựng công trình
Lắp đặt thiết bị máy móc
Vận hành chạy thử
Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư
Sử dụng chưa hết công suất
Sử dụng hết công suất
Công suất giảm dần và thanh lý
Trong 3 giai đoạn trên đây, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở 2 giai đoạn sau, đặc biệt là đối với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư.
2-/ Các vấn đề về thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của Ngân hàng.
2.1 Khái niệm về thẩm định dự án tài chính.
* Khái niệm.
Thẩm định dự án là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến khả thi của dự án để rs quyết định về cho vay. Thẩm định dự án là một khâu quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị cho vay, có ý nghĩa quyết định tới các giai đoạn sau của chu kỳ dự án. Nó đánh giá và quyết định dự án có được thực hiện hay không và tất nhiên, nó cũng kiểm tra lại toàn bộ các nghiên cứu, lựa chọn của các khâu trước đó.
Mục đích của việc thẩm định dự án là giúp cho các Ngân hàng, các cấp ra quyết định đầu tư, các định chế tài chính lựa chọn được phương án đầu tư tốt nhất, quyết định đầu tư đúng huớng, đạt được lợi ích kinh tế, xã hội mong đợi.
Đối với Ngân hàng thì lợi nhuận, tăng trưởng, an toàn luôn là mục tiêu mong đợi trong hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì thế mà thẩm định dự án là một trong những nghiệp vụ quan trọng hàng đầu.
Ngân hàng thu lợi chủ yếu nhờ hoạt động cho vay. Chính vì vậy mỗi một khoản tín dụng được cấp ra nhất thiết phải mang lại hiệu quả, điều đó đồng nghĩa với việc đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng được an toàn và hiệu quả. Vì vậy, điều ngân hàng quan tâm nhất là khả năng hoàn trả khoản vay cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn. Do đó việc Ngân hàng phải tiến hành thẩm định mức dự án trên mọi phương diện kỹ thuật, thị trường, tổ chức quản lý, tài chính... là rất quan trọng.
2.2 Sự cần thiết của công tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của Ngân hàng.
Với phương châm hoạt động hiệu quả và an toàn, công tác thẩm định tài chính dự án của Ngân hàng giúp cho:
- Ngân hàng có cơ sở tương đối vững chắc để xác định được hiệu quả đầu tư vốn cũng như khả năng hoàn vốn của dự án, quan trọng hơn cả là xác định khả năng trả nợ của chủ đầu tư.
- Ngân hàng có thể dự đoán được những rủi ro có thể xảy ra, ảnh hưởng tới quá trình triển khai thực hiện dự án. Trên cơ sở này, phát hiện và bổ sung thêm các biện pháp khắc phục hoặc hạn chế rủi ro, đảm bảo tính khả thi của dự án đồng thời tham gia ý kiến với các cơ quan quản lý Nhà nước và chủ đầu tư để có quyết định đầu tư đúng đắn.
- Ngân hàng có phuơng án hạn chế rủi ro tín dụng đến mức thấp nhất khi xác định giá trị khoản vay thời hạn, lãi suất, mức thu nợ và hình thức thu nợ hợp lý, tạo điều kiện cho dự án hoạt động có hiệu quả.
. Ngân hàng tạo ra các căn cứ để kiểm tra việc sử dụng vốn đúng mục đích, đúng đối tượng và tiết kiệm vốn đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư dự án.
. Ngân hàng rút ra kinh nghiệm trong cho vay để thực hiện và phát triển có chất lượng hơn. Xuất phát từ tính cần thiết, tính thực tế, tính hiệu quả của công tác thẩm định tài chính dự án bản thân nó đã và đang tiếp tục trở thành một bộ phận quan trọng mang tính quyết định trong hoạt động cho vay của mỗi ngân hàng.
III-/ Quy trình thẩm định dự án.
Thẩm định dự án bao gồm cả thẩm định tính khả thi hiệu quả của dự án và kiểm tra đánh giá doanh nghiệp xin vay vốn về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính cũng như uy tín của doanh nghiệp.
Cán bộ thẩm định không làm lại toàn bộ công tác của người soạn thảo dự án và chủ dự án nhưng cần đi sâu tìm hiểu chính xác những đặc điểm, tồn tại của dự án. Cách làm của cán bộ thẩm định có thể là đặt câu hỏi đối với những điều còn nghi vấn để chủ đầu tư giải trình thêm, trực tiếp tính toán các chỉ tiêu kinh tế, tài chính để kiểm nghiệm tính đúng đắn, chính xác và đánh giá chúng theo tiêu thức của Ngân hàng.
Đối với Ngân hàng, thẩm định dự án phải được hiểu là thẩm định hồ sơ xin vay bao gồm: hồ sơ doanh nghiệp và hồ sơ dự án, trên cơ sở đó Ngân hàng tiến hành phân tích một cách khách quan và toàn diện, khẳng định tính khả thi và hiệu quả của dự án, khả năng đảm bảo trả nợ của doanh nghiệp để từ đó quyết định cho vay dự án.
1. Phân tích Hồ sơ doanh nghiệp.
1.1 Kiểm tra tính đầy đủ hợp pháp, hợp lệ của Hồ sơ doanh nghiệp bao gồm:
- Quyết định thành lập doanh nghiệp công ty, điều lệ của công ty.
- Giấy phép đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề (nếu có).
- Quyết định bổ nhiệm Giám đốc, Kế toán trưởng.
- Các báo cáo tài chính đã được quyết toán.
1.2 Thẩm định tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc đánh giá doanh nghiệp có thể thông qua các mặt chủ yếu sau:
- Sự bảo toàn, phát triển vốn qua các năm: một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì vốn sẽ được giữ vững và tăng trưởng.
- Tình hình sản xuất kinh doanh: có ổn định không, xu hướng biến động trong tương lai ra sao ?
- Tình trạng kho tàng, nhà xưởng, máy móc thiết bị.
- Đánh giá hàng tồn kho và khả năng giải quyết.
- Uy tín của doanh nghiệp trong các quan hệ vay trả.
- Đánh giá khả năng tài chính của doanh nghiệp thông qua việc tính toán một số chỉ tiêu tài chính, so sánh qua các năm và so sánh với mức chung của ngành.
+ Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn địnhvà tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. Các Ngân hàng sẽ nhìn vào đây để đánh giá khả năng bảo đảm an toàn cho các món vay:
Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản =
Nếu doanh nghiệp đã có tỷ lệ này quá cao (so với mức trung bình của ngành) thì Ngân hàng nên cân nhắc vì nếu tiếp tục cho vay, doanh nghiệp có thể sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
=
Nếu hệ số này thấp hơn mức trung bình của ngành thì doanh nghiệp sẽ không thể vay tiếp được nữa, khả năng trả lãi vay của doanh nghiệp kém, khả năng sinh lợi của tài sản thấp, hiệu quả sử dụng nguồn vốn kém.
+ Tỷ lệ về khả năng thanh toán.
=
Đây là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Khả năng thanh toán nhanh =
Tỷ lệ này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho)
=
Tỷ lệ này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn bằng tiền tại quỹ, tiền gửi Ngân hàng...
+Các tỷ lệ về khả năng hoạt động:
Vòng quay hàng tồn kho =
Vòng quay VLĐ =
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Kỳ thu tiền bình quân =
+ Các tỷ lệ về khả năng sinh lãi.
=
Doanh lợi vốn tự có =
Doanh lợi vốn =
Trên đây là những chỉ tiêu cơ bản phản ánh được tình hình tài chính ở một mức độ nào đó. Việc đánh giá được tình trạng tài chính của doanh nghiệp là lành mạnh hay không phụ thuộc vào khả năng phân tích của cán bộ thẩm định. Thông qua việc phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh tài chính của doanh nghiệp ta nắm được tình hình tài chính khả quan hay khó khăn, năng lực đến đâu, xu hướng phát triển của đơn vị như thế nào trong tương lai...để có thể ra quyết định cho vay đúng đắn, tin vào khả năng của doanh nghiệp có thể sử dụng hiệu quả vốn vay.
2-/ Phân tích hồ sơ dự án.
2.1 Kiểm tra tính đầy đủ hợp pháp hợp lệ của hồ sơ dự án.
* Giai đoạn xin xét duyệt vay vốn đầu tư.
- Đơn xin vay.
- Luận chứng kinh tế - kỹ thuật.
- Giải trình hiệu quả kinh tế dự án của doanh nghiệp.
- Văn bản quyết định đầu tư hoặc giấy phép đầu tư của cấp có thẩm quyền.
- Văn bản phê duyệt thiết kế mỹ thuật và tổng dự toán.
- Các hợp đồng kinh tế ký kết giữa chủ đầu tư và các bên liên quan...
* Bổ sung thêm khi ký kết hợp đồng.
- Văn bản phê duyệt kết quả đấu thầu xây lắp, mua thiết bị của cấp có thẩm quyền.
- Hợp đồng giao nhận thầu về xây lắp, cung câp thiết bị.
- Hợp đồng mua bảo hiểm công trình xây dựng.
- Lịch trả nợ và cam kết uỷ nhiệm trích tài khoản tiền gửi để trả nợ.
Sau khi đã kiểm tra tính đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ dự án cán bộ thẩm định tiến hành thẩm định các nội dung sau (Đặc biệt quan tâm đến nội dung kinh tế tài chính của dự án).
2.2 Thẩm định luận chứng kinh tế - kỹ thuật.
* Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư.
- Thẩm định mục tiêu của dự án.
- Thẩm định về phương diện thị trường của dự án.
* Thẩm định về phương diện kỹ thuật.
- Về quy mô dự án.
- Về công nghệ và trang thiết bi.
- Cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào khác.
- Về địa điểm và giải pháp xây dựng dự án.
- Về tiến độ thực hiện dự án.
- Về phương diện tổ chức, quản lý thực hiện vận hành dự án.
* Thẩm định nội dung kinh tế tài chính của dự án:
Trong phần này cán bộ thẩm định tập trung đi sâu xem xét:
+ Nhu cầu vốn đầu tư của dự án.
+ Phương án vốn của mỗi dự án.
+ Tính toán hiệu quả tài chính của dự án.
+ Kế hoạch trả nợ của doanh nghiệp.
- Xác định nhu cầu vốn cần thiết cho dự án:
Tổng vốn đầu tư tập là tập hợp toàn bộ chi phí góp phần tạo nên thực thể công trình sẵn sàng đưa vào khai thác sử dụng.
Thành phần vốn bao gồm Vốn cố định và vốn lưư động.
- Vốn cố định: Nhằm tạo ra năng lực mới tăng thêm để đạt mục tiêu dự án.
+ Vốn chuẩn bị đầu tư: gồm các chi phí điều tra, khảo sát, lập và thẩm định dự án.
+ Vốn chuẩn bị xây dựng:
. Chi phí ban đầu về đất đai.
. Chi phí khảo sát thiết kế và thẩm định thiết kế.
. Chi phí đấu thầu, hoàn tất các thủ tục đầu tư.
. Chi phí xây dựng đường điện nước, thi công..
+ Vốn thực hiện đầu tư:
. Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo các hạng mục công trình xây dựng lắp đặt thiết bị.
. Chi phí thiết bị: Chi phí mua sắm thiết bị vận chuyển về chân công trình, bảo quản thiết bị.
. Chi phí quản lý, giám sát thực hiện đầu tư.
. Chi phí sản xuất thử và nghiệm thu bàn giao.
. Chi phí huy động vốn: các khoản lãi vay vốn đầu tư và các chi phí phải trả trong thời gian thực hiện đầu tư.
- Vốn lưu động: là khoản vốn đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên sau khi kết thúc giai đoạn đầu tư. Gồm:
+ Vốn sản xuất: Tiền nguyên vật liệu, nhiên liệu...
+ Vốn lưu thông: Sản phẩm dở dang, thành phẩm tồn kho.
- Vốn dự phòng: Để xác định đuợc nhu cầu vốn đầu tư Ngân hàng ước tính chi phí từng loại dựa trên khối lượng công việc, đơn giá định mức hay căn cứ giá cả thị trường. Việc xác định tổng mức đầu tư có ý nghĩa đối với Ngân hàng ở cả 2 trườg hợp: nếu xác định tổng mức đầu tư thấp hơn so với thực tiễn thì khi thực hiện đầu tư sẽ phát sinh thiếu vốn, dự án không hoạt động được. Trường hợp xác định mức đầu tư lớn hơn sẽ cấp thừa cho doanh nghiệp. gây thừa vốn không cần thiết và doanh nghiệp phải chịu chi phí lãi suất cao.
* Phương án vốn của doanh nghiệp và tiến độ bỏ vốn.
- Doanh nghiệp có thể xác định tài trợ dự án của mình từ các nguồn vốn:
+ Vốn tự có.
+ Vốn ngân sách cấp.
+ Vốn vay.
- Tiến độ bỏ vốn được thực hiện theo tiến độ thực hiện đầu tư.
* Tính toán hiệu quả tài chính của dự án.
- Xem xét các biểu tính toán của doanh nghiệp.
+ Biểu tính vốn đầu tư theo các khoản mục xây lắp (khối lượng, đơn giá và chi phí).
+ Chi phí mua sắm thiết bị (loại thiết bị, số lượng, đơn giá).
+ Chi phí khác.
+ Biểu tính vốn lưu động.
+ Tổng chi phí sản xuất.
+ Doanh thu.
+ Dự trù lỗ lãi.
+ Thời gian hoàn vốn.
- Các kết luận cần rút ra:
+ Dự án đã đủ các yếu tố chi phí vào giá thành chưa ?
+ Sự hợp lý các định mức tiêu hao nguyên nhiên vật liệu ?
+ Tỷ lệ trích khấu hao đã hợp lý chưa ?
+ Các chi phí khác có điểm nào chưa phù hợp ?
+ Tỷ lệ đạt công suất qua các năm ?
+ Doanh thu và khả năng thực tế đạt được ?
Sau khi các số liệu trên bảng tính toán đã được kiểm định là hợp lý, cán bộ thẩm định tài chính dự án giúp lượng hoá hiệu quả tài chính của dự án, giúp cho các nhận định về dự án có tính chính xác và khoa học.
V-/ Phương pháp thẩm định tài chính dự án.
Để đánh giá tính khả thi về mặt tài chính của một dự án, về lý thuyết cũng như trong thực tiễn, người ta thường sử dụng 4 phương pháp sau:
- Phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV).
- Phương pháp tỷ suất nội hoàn (IRR).
- Thời gian hoàn vốn (PP).
- Chỉ số doanh lợi (PI).
1-/ Phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV).
Giá trị hiện tại ròng của một dự án là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền ròng kỳ vọng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu tư.
NPV = - C0 +
= - C0 +
C1, C2...Cn là các luồng tiền ròng dự tính trong tương lai.
C0là vốn đầu tư ban đầu.
r là tỷ lệ chiết khấu.
n là số năm hoạt động của dự án.
Có 1 dự án hoặc dự án độc lập nhau lựa chọn khi NPV > 0
NPV < 0 : Loại bỏ dự án.
NPV = 0 : Tuỳ từng hoàn cảnh mà ra quyết định cụ thể.
Nếu có 2 hoặc nhiều dự án loại trừ nhau thì ta chọn dự án có NPV max và dương.
* Ưu điểm.
- Tính đến giá trị thời gian của tiền.
- Cơ sở để lựa chọn các dự án là lợi nhuận giúp chúng ta lựa chọn được các dự án phù hợp với mục tiêu hoạt động của các nhà đầu tư.
* Nhược điểm.
- Không mang tính thực tiễn (nằm trong giá trị quy mô vốn không hạn chế, ở các nước đang phát triển nhất là trong điều kiện nước ta các nhà đầu tư bị hạn chế bởi khả năng vốn tự có và khả năng vay nợ)
- Phương pháp này các dự án có thời gian hoàn trả và quy mô vốn khác nhau nên lợi nhuận không phản ánh chính xác mức độ tốt hơn hay kém hơn của các dự án hay nói cách khác là chưa cho ta biết mức độ sinh lời của bản thân dự án.
- Hai dự án có mức độ rủi ro khác nhau nhưng lại sử dụng chung một tỷ lệ chiết khấu là không phù hợp.
- Lãi suất đo lường chi phí cơ hội của vốn bằng lãi suất thị trường, cho nên việc giữ nguyên một tỷ lệ chiết khấu cho cả thời kỳ hoạt động của dự án là không hợp lý.
2-/ Phương pháp tỷ lệ nội hoàn. (IRR)
Tỷ lệ nội hoàn (còn gọi là tỷ lệ hoàn vốn nội bộ) đo lường tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của dự án. Về kỹ thuật tính toán IRR của một dự án là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó NPV = 0.
2.1 Trường hợp dự án đầu tư có những luồng tiền kỳ hạn bằng nhau. IRR được tính như sau khi cho NPV = 0
C0 =
Từ đó ta ước tính giá trị IRR
2.2 Trường hợp dự án có những luồng tiền trong tương lai không bằng nhau: Để tìm IRR trông trường hợp này ta áp dụng phương pháp nội suy tuyến tính.
Chọn 2 lãi suất bất kỳ i1 và i2 : i1 < i2
Tương ứng với i1 tìm NPV1
Tương ứng với i2 tìm NPV2
IRR = i1 +
+ Nếu 2 dự án độc lập nhau thì dự án có IRR ³ chi phí cơ hội sẽ được lựa chọn.
+ Nếu 2 dự án loại trừ nhau ta chọn dự án có IRR max.
* Ưu điểm.
- Tính đến giá trị thời gian của tiền.
- Đo bằng tỷ lệ % là tỷ lệ quen thuộc với các nhà đầu tư.
* Nhược điểm.
- Không cho biết giá trị tuyệt đối về lợi nhuận của các dự án dẫn đến nhà đầu tư nhiều khi nhà đầu tư sẽ bỏ qua dự án có lợi nhuận lớn nhưng tỷ lệ sinh lời thấp.
- IRR chỉ cho biết được tỷ lệ sinh lời trung bình dài hạn mà không cho biết dao động của tỷ lệ sinh lời trong thời kỳ ngắn hạn.
- Trong nhiều trường hợp nó cho nhiều giá trị IRR cùng thoả mãn lớn hơn chi phí cơ hội do dòng tiền đổi dấu nhiều lần, điều đó sẽ khó lựa chọn IRR hiệu quả nhất.
* Lưu ý: Trong trường hợp có sự xung đột giữa 2 phương pháp NPV và IRR thì việc lựa chọn dự án theo NPV cần được coi trọng hơn để đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của dự án vì phương pháp NPV ưu việt hơn phương pháp IRR.
3-/ Phương pháp chỉ số doanh lợi (PI)
PI được tính dựa vào mối quan hệ tỷ số giữa thu nhập ròng hiện tại so với vốn đầu tư ban đầu.
Công thức xác định như sau:
PI =
PV: Thu nhập ròng hiện tại.
P : Vốn đầu tư ban đầu.
với PV = NPV + P
Về nguyên tắc, dự án khả thi phải là dự án có PI > 1 tức là giá trị hiện tại của các khoản thu nhập trong thời kỳ phân tích tại thời điểm bắt đầu vận hành dự án phải lớn hơn số vốn đầu tư ban đầu đã bỏ ra. Tuy nhiên thực tế người ta chỉ chấp nhận những dự án có PI nào đó mà chỉ số này đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng thương mại đối với chủ đầu tư (chỉ số doanh lợi chấp nhận được).
Chỉ tiêu PI phản ánh khả năng sinh lời của dự án trên mỗi đơn vị tiền tệ đầu tư nhưng vẫn phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu áp dụng được. Phương pháp này có nhiều ưu điểm hơn phương pháp IRR.
4-/ Phương pháp thời gian hoàn vốn. (PP)
Thời gian hoàn vốn của một dự án là độ dài thời gian để thu hồi đủ vốn đầu tư ban đầu.
Công thức:
t = +
Theo phương pháp này thì thời gian hoàn trả càng thấp thì dự án càng hấp dẫn hơn.
* Ưu điểm:
- Đơn giản dễ áp dụng, dễ hiểu.
- Giúp chúng ta chọn ra dự án ít rủi ro nhất trong các dự án loại trừ nhau vì các dòng tiến càng xa thời điểm hiện tại thì càng nhiều rủi ro hơn do đó chọn dự án nào có thời gian hoàn vốn nhanh nhất cũng có nghĩa là chọn dự án ít rủi do nhất.
- Tiết kiệm được chi phí do không phải dự đoán dòng tiền của cả chu kỳ hoạt động của dự án.
- Trong điều kiện hạn chế về vốn đầu tư thì chọn dự án có thời gian hoàn trả nhanh nhất sẽ góp phần làm tăng vòng quay của vốn và không bị bỏ qua các cơ hội đầu tư khác.
Phương pháp này được áp dụng cho những dự án có thời gian hoạt động ngắn, quy mô vốn nhỏ, có hao mòn lớn. Tuy nhiên, phương pháp này có nhiều nhược điểm hơn so với 3 phương pháp trên.
* Nhược điểm:
- Không tính đến giá trị thời gian của tiền.
- Bỏ qua các dòng tiền tương lai sau thời gian tiêu chuẩn.
- Quy tắc lựa chọn dự án rất mơ hồ, thiếu rõ ràng : không cho biết thời điểm bắt đầu tính là bắt đầu đầu tư hay kết thúc đầu tư dẫn đến sai lệch sau khi ra quyết định.
- Xếp hạng các dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của chủ đầu tư.
Tóm lại: Mỗi phương pháp thẩm định tài chính dự án đều có nhữg ưu nhược điểm nhất định để có thể đưa ra được một kết quả thẩm định chính xác và hiệu quả thì cần kết hợp tất cả các phương pháp trên vì chúng bổ sung hỗ trợ cho nhau giúp người thẩm định đưa ra được kết luận khách quan và chính xác nhất.
VI-/ Chất lượng thẩm định tài chính dự án và các nhân tố ảnh hưởng.
1-/ Chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Như chúng ta đã biết hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại là nhận tiền gửi và cho vay, trong đó cho vay là hoạt động tạo nên lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Vì vậy phương châm hoạt động an toàn hiệu quả luôn được các ngân hàng thương mại đặt lên hàng đầu. Nhất là trong điều kiện hiện nay khi khê đọng, nợ quá hạn...đã trở thành vấn đề bức xúc không chỉ cho mỗi ngân hàng mà còn cho toàn xã hội. Tình trạng hàng loạt các ngân hàng trên thế giới bị phá sản do tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi ở mức cao đã là tiếng chuông cảnh tỉnh cho mỗi ngân hàng phải nâng cao hiệu quả hoạt động mà cụ thể ở đây là nâng cao chất lượng tín dụng. Để có được điều đó thì việc nâng cao hiệu quả thẩm định dự án mà quan trọng nhất là thẩm định tài chính phải được đặt lên hàng đầu.
Thẩm định dự án nhằm giúp ngân hàng đưa ra một quyết định cho vay có chất lượng cao. Hoạt động thẩm định được coi là có chất lượng khi nó giúp Ngân hàng tìm ra được những dự án có hiệu quả tài chính để cho vay nhằm bảo đảm mục tiêu lợi nhuận và an toàn. Mỗi Ngân hàng đều dựa trên quy trình thẩm định chung nhất mà đưa ra quy trình thẩm định phù hợp với đặc điểm hoạt động của mình và ở mỗi dự án khác nhau, trong từng lĩnh vực khác nhau sẽ có những phương pháp thẩm định khác nhau nhằm đạt được chất lượng thẩm định cao nhất. Bất cứ một Ngân hàng nào cũng muốn nâng cao chất lượng thẩm định dự án nhưng trong quá trình thực hiện công tác thẩm định lại có rất nhiều các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính cả chủ quan và khách quan.
2-/ Các nhân tố ảnh hưởng.
2.1 Thông tin.
* Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp:
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi đến vay vốn Ngân hàng đều phải có phương án hoạt động sản xuất kinh doanh đã được soạn thảo kỹ. Để nhận được các khoản vay từ phía ngân hàng, không chỉ đòi hỏi dự án phải đạt hiệu quả cao, ít rủi ro tiềm ẩn mà còn cần thiết doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính vững mạnh trong quá khứ và hiện tại. Mọi yếu tố trên không ít nhiều đã ảnh hưởng đến các số liệu, các nội dung trong các báo cáo tài chính, thuyết minh giải trình dự án và những thông tin khác mà bản thâ doanh nghiệp, dự án cung cấp là không đầy đủ, thiếu trung thực.
* Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
Quy trình ngân hàng thẩm định dự án bao gồm 2 giai đoạn: Thu thập các tài liệu, thông tin cần thiết cho phân tích, đánh giá doanh nghiệp, dự án; tiến hành sắp xếp thông tin theo các nội dung thẩm định. Hai công đoạn này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại và trên thực tế thường xuyên đem lại kết quả, thông tin không cân xứng phiến diện, không đảm bảo độ tin cậy.
Hiện nay, việc thu nhập thông tin, thành lập hồ sơ khách hàng đều do cán bộ thẩm định ngân hàng đảm nhiệm. Mọi nguồn thông tin ngân hàng có được phần lớn dựa vào các tài liệu mà người vay gửi đến. Đồng thời, ngân hàng dựa vào nguồn thông tin đại chúng về doanh nghiệp mà các thông tin này không mang tính pháp lý, chỉ có ý nghĩa tham khảo khi phân tích đánh giá. Bên cạnh đó, việc sàng lọc, xử lý thông tin của ngân hàng nhiều khi chưa cẩn thận, do vậy chưa phát hiện ra được những méo mó trong các dự án mà doanh nghiệp gửi đến. Vấn đề này dẫn đến sự tính toán thiếu chính xác mức hiệu quả dự án của các ngân hàng.
* Nguyên nhân khách quan.
Một lĩnh vực thông tin khác cũng hết sức quan trọng và cần thiết đối với công tác thẩm định là thông tin về chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, ngành, địa phương, thông tin về lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh, môi trường kinh doanh của dự án, thông tin mang tính pháp luật có liên quan tới quản lý, đầu tư dự án như luật đầu tư, thương mại, hợp đồng kinh tế, đất đai. ..Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn chưa phát triển như hiện nay, mạng lưới phương tiện, trang thiết bị thu thập thông tin, phìng ngừa rủi ro để trợ giúp cho các ngân hàng. Thêm vào đó, sự sửa đổi, bổ sung các loại thông tin này hầu như chưa được cập nhật liên tục.
Mọi nguyên nhân trên quy tụ lại đều dẫn tới vấn đề thiếu hụt thông tin, thông tin kém trung thực, thông tin không đầy đủ. Thực tế này dẫn đến các báo cáo thẩm định dự án của ngân hàng trên nhiều phương diện còn phiến diện, thiếu chuẩn xác.
2.2 Kiến thức chuyên môn, năng lực thẩm định, phẩm chất đạo đức của cán bộ thẩm định.
Ngân hàng với tư cách là người cho vay, đồng thời là người phân tích tín dụng sẽ phải chịu trách nhiệm chính về chất lượng các khoản tín dụng. Tất nhiên không một ngân hàng nào mong muốn đương đầu với các món vay quá hạn, có vấn đề. Song thẩm định tài chính không phải đơn giản, đòi hỏi cán bộ thẩm định không những phải có kiến thức sâu rộng về nghiệp vụ, phải am hiểu các lĩnh vực cho vay, đầu tư của ngân hàng mà còn phải biết vận dụng những kiến thức bổ trợ khác luật, thuế môi trường...phục vụ cho quá trình thẩm định. Thực tế cho thấy, có những cán bộ thẩm định ngân hàng khá bối rối khi phải phân tích đánh giá dự án trên các vấn đề không thuộc phạm vi, lĩnh vực mình phụ trách. Điều này khiến cho cán bộ thẩm định dự án chưa đưa ra ._.được những lời nhận xét, đánh giá sắc bén, chưa có quan sát toàn diện, tổng hợp về mọi mặt của dự án, chưa có khả năng dự đoán những rủi ro tiềm tàng.
Ngoài ra, cán bộ thẩm định còn bị chi phối bởi tư tưởng truyền thống, rất cổ điển của ngân hàng, sẽ dễ dàng hơn, tin cậy hơn khi phát tiền vay cho khách hàng lâu năm và đã từng vay vốn của ngân hàng trứoc đó, nên nhiều khi không xem xét một cách kỹ càng tính khả thi của các dự án vay vốn. Kết quả là ngân hàng chỉ dựa vào mối quan hệ sự tín nhiệm đối với doanh nghiệp mà thẩm định dự án một cách qua loa, thiếu tinh thần trách nhiệm.
2.3 Phương pháp và chỉ tiêu thẩm định.
Các ngân hàng thường hay sử dụng phương pháp so sánh rất phổ biến và đơn giản trong khi thẩm định. Một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế tài chính chủ yếu của dự án như khả năng thanh toán, thời gian hoàn vốn, cơ cấu vốn...sau khi phân tích và tính toán sẽ được đem so sánh. Vấn đề cốt lõi khi áp dụng phương pháp này là ngân hàng dựa vào mức chuẩn nào để đánh giá mặt tài chính của dự án vay vốn. Trên thực tế, được đem ra làm chuẩn để so sánh là các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của các dự án tương tự đã và đang được thực hiện. Nhưng hiện nay ở nước ta, các dự án đang hoạt động phần lớn có hiệu qủa thấp do đó nếu so sánh như trên thì mức hiệu quả của dự án chưa chắc đã đạt được như mong muốn.
Một trong những yếu tố quan trọng để xác định hiệu quả kinh tế tài chính khi thẩm định các dự án là tỷ lệ chiết khấu được chọn để tính toán. Nếu tỷ lệ này quá thấp sẽ khuyến khích đầu tư vào các dự án kém hiệu quả, nếu tỷ lệ này quá cao nhiều khi sẽ hạn chế đầu tư.
2.4 Tổ chức quản lý, điều hành.
Thẩm định tài chính dự án là tập hợp rất nhiều hoạt động có liên quan với nhau và có quan hệ mật thiết với các hoạt động khác. Kết quả thẩm định sẽ phụ thuộc rất nhiều vào công tác tổ chức, quản lý, điều hành, sự phối hợp nhip nhàng của các bên.
Công tác thẩm định tài chính dự án được tổ chức một cách khoa học chặt chẽ sẽ phát huy được sứcmạnh tổng hợp, liên kết được các cá nhân, bộ phận trong toàn ngân hàng, sử dụng hợp lý có hiệu quả trang thiết bị. Việc sắp xếp, phân bổ chức năng, nhiệm vụ cho mỗi cá nhân, loại bỏ được các rủi ro đạo đức và rút ngắn thời gian thẩm định.
Như vậy, tổ chức thẩm định dự án khoa học sẽ góp phần khai thác tối đa mọi nguồn lực của ngân hàng từ đó nâng cao rất nhiều chất lượng thẩm định tài chính dự án.
2.5 Những biến động của môi trường.
Đây là yếu tố khách quan tác động đến công tác thẩm định của Ngân hàng. Nhận định của Ngân hàng có thể bị sai lệch do yếu tố môi trường. ở đây tiềm ẩn những rủi ro có thể xảy ra cho việc thực hiện đầu tư của doanh nghiệp mà nếu không có biện pháp chống đỡ, Ngân hàng có thể mất vốn và công tác thẩm định được coi là kém hiệu quả. Song những biến động của thị trường rất phức tạp và không lường trước được những chính sách gì của Nhà nước sẽ thay đổi (chính sách đầu tư, chính sách thuế...) sẽ là những rủi ro rất lớn, vượt ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp và Ngân hàng. Thêm vào đó là các rủi ro thiên tai ngân hàng không thể dự đoán trước được mà vẫn quyết định cho vay, rủi ro này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến dự án và là nguyên nhân của những khoản vay quá hạn, khó đòi thậm chí không thu hồi được.
Nói tóm lại, để công tác thẩm định đạt được mục tiêu nó phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố tác động. Đó có thể là những yêu tố thuộc về bản thân Ngân hàng hay còn phụ thuộc vào những nhân tố khác thuộc về phía doanh nghiệp, phía Nhà nước và các cơ quan hữu quan, chính quyền địa phương, các ngành các cấp.
Chương II
Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN)
I-/ Giới thiệu về NHNTVN.
1-/ Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển.
NHNTVN là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt, bao gồm các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin đào tạo, nghiên cứu tiếp thị trong hoạt động kinh doanh. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ liên quan đến hoạt động tài chính, tiền tệ, ngân hàng.
NHNTVN được thành lập theo Nghị định số 115 - CP ngày 30/ 12/ 1962 của Hội đồng Chính phủ và chính thức thành lập ngày 1/ 4/ / 1963 mà tiền thân là cục quản lý ngoại hối của Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Trong thời kỳ đó, nước ta áp dụng hệ thống Ngân hàng một cấp - Ngân hàng Nhà nước vừa đóng vai trò quản lý vĩ mô theo chủ trương chính sách của Chính phủ, vừa đảm nhiệm vai trò kinh doanh nên cục quản lý ngoại hối được coi như là bộ phận phục vụ kinh tế đối ngoại duy nhất của Việt Nam.
Ngay từ khi được thành lập NHNTVN đã phải đối mặt với những thách thức lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giành độc lập dân tộc. Trong suốt cuộc kháng chiến, Ngân hàng ngoại thương đã làm tròn nhiệm vụ chống Mỹ, làm tốt chức năng trung tâm thanh toán quốc tế duy nhất ở Việt Nam và tham gia trực tiếp vào công tác tổ chức chi viện tài chính cho chiến trường Miền Nam. Sau khi hoà bình lập lại, trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, Ngân hàng ngoại thương không chỉ thực hiện chức năng là Ngân hàng đối ngoại duy nhất của đất nước mà còn thực hiện vai trò quản lý toàn bộ vốn ngoại tệ của quốc gia. Toàn bộ các hoạt động xuất nhập khẩu, mọi đồng vốn ngoại tệ đã được Ngân hàng ngoại thương thực hiện và sử dụng để phục vụ cho công cuộc kiến thiết và hàn gắn vết thương chiến tranh trong điều kiện khó khăn, bó buộc do hậu quả của chính sách cấm vận kinh tế.
Sau khi hai pháp lệnh ngân hàng ra đời, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ký quyết định số 286/ QĐ - NH5 ngày 21 tháng 9 năm 1998 thành lập lại theo mô hình của Tổng công ty Nhà nước quy định tại quyết định số 90/ TTg ngày 07/ 03/ 1996 theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ, nhằm tăng cường tích tụ, phân công chuyên môn hoá và hợp tác kinh doanh để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Ngân hàng ngoại thương đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Bước vào nền kinh tế thị trường, Ngân hàng ngoại thương đã từng bước thay đổi, thích nghi dần với cơ chế mới và đã có những đóng góp tích cực cho quá trình phát triển đất nước bằng việc huy động vốn trong xã hội để phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, thực thi chính sách tiền tệ theo định hướng của Nhà nước.
Hiện nay Ngân hàng ngoại thương Việt Nam luôn được biết đến như một Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín nhất. NHNTVN được Nhà nước xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt là thành viên Hiệp hôi Ngân hàng Việt Nam, thành viên hiệp hội NHNTVN Châu á. Với phương châm luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt NHNTVN trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường. Phát triển mạng lưới chi nhánh tại tất cả các thành phố chính, hải cảng quan trọng và trung tâm thương mại phát triển, duy trì quan hệ đại lý với hơn 1000 ngân hàng tại 85 nước trên thế giới, trang bị hệ thống máy vi tính hiện đại trong ngành ngân hàng, được nối mạng Swift quốc tế và nhất là có một đội ngũ cán bộ luôn nhiệt tình và được đào tạo lành nghề. Nhờ vậy, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam có khả năng cung cấp cho khách hàng các loại sản phẩm ngân hàng với chất lượng cao nhất, giữ vững niềm tin với đông đảo bạn hàng trong và ngoài nước.
Trong thời gian vừa qua NHNTVN đã triển khai mô hình tổ chức mới theo loại DNNN đặc biệt và sắp xếp lại tổ chức nội bộ để thực hiện các đề án hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng. Dưới đây là sơ đồ tổ chức mới của NHNTVN.
Hội đồng quản trị
Tổng Giám đốc
Ban Kiểm soát
HĐ tín dụng
Trụ sở chính
Phòng kiểm tra và kiểm toán nội bộ
Phòng quản lý tín dụng
Phòng thẩm định đầu tư và chứng khoán
Phòng công nợ
Phòng khách hàng
Phòng kế toán - tài chính
Phòng kế toán quốc tế
Phòng quản lý thẻ
Trung tâm thanh toán
Trung tâm tin học
Phòng QL các đề án công nghệ
Phòng Tổng hợp thanh toán
Phòng TH và phân tích kinh tế
Phòng vốn
Phòng quan hệ quốc tế
Phòng QL liên doanh và VP đại diện
Phòng tín dụng quốc tế
Phòng Tổ chức cán bộ và đào tạo
Văn phòng
Phòng quản trị
Phòng báo chí
Phòng pháp chế
Mạng lưới trong nước
Sở Giao dịch
Các chi nhánh
Các công ty con
TT đào tạo và BD nghiệp vụ
Mạng lưới ngoài nước
VPĐD (tại Paris, Moscow, Singapore)
Công ty tài chính (tại Hồng Kông)
Sơ đồ tổ chức
2-/ Tình hình huy động và sử dụng vốn.
2.1 Tình hình huy động vốn.
Trong những năm gần đây, kể từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, nguồn vốn huy động của NHNTVN liên tục tăng trưởng qua các năm. Tuy hoạt động của ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1999 và tiếp tục ảnh hưởng các năm tiếp theo, ngoài ra môi trường kinh tế vĩ mô đã nổi lên những vấn đề ảnh hưởng đến hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân hàng ngoại thương nói riêng như tốc độ tăng trưởng kinh tế chững lại, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế yếu, chất lượng tín dụng kém. Nhưng NHNTVN đã biết tận dụng những thuận lợi, kiềm chế, khắc phục những yếu kém của bản thân cũng như khó khăn của môi trường để tiếp tục củng cố ổn định đi lên.
Bên cạnh việc tiếp tục mở rộng mạng lưới hoạt động. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã áp dụng cơ chế lãi suất phù hợp và dịch vụ đa dạng nên đã đạt được mức tăng trưởng cao về nguồn vốn huy động.
Tổng nguồn vốn (Tính đến ngày 31/ 12 hàng năm)
Trong năm 2001, tổng nguồn vốn của NHNTVN tăng trưởng liên tục và đạt 46272 tỷ quy VND tại thời điểm 31/ 12/ 2001 tăng 31,7% so với cuối năm trước. Nếu loại trừ yếu tố tỷ giá thì tổng nguồn vốn tăng 24,7%, vượt chỉ tiêu kế hoạch (15%) đề ra từ đầu năm.
Tỷ giá USD/ VND = 14016 (12/ 2001); 12985 (12/ 2000)
biểu 1 - Tổng quan nguồn vốn
Đơn vị: Tỷ VNĐ, Triệu USD.
Chỉ tiêu
31. 12. 2000
31. 12. 2001
Tăng/ Giảm
%
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
1. Việt Nam Đồng
11456
32,6%
13154
28,4%
14,8%
2. Ngoại tệ
1824
2363
Ngoại tệ quy VND
23687
67,4%
33118
71,6%
29,5%
Tổng (Quy VND)
35143
100%
46272
100%
31,7%
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2001 của NHNTVN.
Nguồn vốn ngoại tệ đạt 2363 triệu USD (tương đương 33118 tỷ VND), chiếm 71,6% tổng nguồn vốn, tăng 29,5% so với cuối năm trước.
- Nguồn vốn VND đạt 13154 tỷ đồng, chiếm 28,4% tổng vốn, tăng 14,8%.
So với 31/ 12/ 2000 cơ cấu nguồn vốn ngoại tệ và VND trong tổng nguồn thay đổi như sau: tỷ trọng vốn ngoại tệ tăng từ 67,4% lên 71,6%; ngược lại tỷ trọng vốn VND giảm từ 32,6% xuống còn 28,4%.
Vốn huy động: năm 2001
Vốn huy động từ thị trường I và thị trường II đạt 40409 tỷ quy VND chiếm 87,3% tổng nguồn vốn, tăng 44% so với cuối năm 2000. Nếu loại trừ yếu tố tỷ giá thì tốc độ tăng là 36,1%.
+ Vốn huy động từ thị trường I:
Trong năm 2001 Ngân hàng Nhà nước 5 lần hạ giá trần lãi suất cho vay vì vậy lãi suất huy động của Ngân hàng ngoại thương cũng liên tiếp hạ thấp nhưng nguồn vốn từ thị trường I vẫn tăng liên tục ở mức cao. Tổng nguồn vốn huy động trên thị trường này đạt 33532 tỷ quy VND, tăng 45% so với năm 2000. So với 31/ 12/ 2000 tỷ trọng vốn trên thị trường I trong tổng nguồn vốn tăng lên đáng kể từ 65,8% lên 72,5%. Nguồn vốn ngoại tệ đạt 1735 triệu USD, tăng 47%. Nguồn vốn VND đạt 9217 tỷ, tăng 18,2%.
biểu 2 - Cơ cấu nguồn vốn
Đơn vị: Tỷ VND.
Chỉ tiêu
31. 12. 2000
31. 12. 2001
Tăng/ giảm
%
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Tổng nguồn vốn
35143
100%
46272
100%
31,7%
I- Vốn điều lệ & các quỹ
1604
4,6%
1874
4,1%
16,9%
II- Vốn huy động
28057
79,8%
40409
87,3%
44,0%
1. Từ thị trường I
23119
65,8%
33532
72,5%
45,0%
- Tiền gửi các tổ chức
12989
37,0%
19957
43,1%
53,5%
- Tiết kiệm và kỳ phiếu
10130
28,8%
13595
29,4%
34,2%
2. Từ thị trường II
4920
14%
6848
14,8%
39,3%
- NHNN
1054
3%
1620
3,5%
53,7%
- NSNN
771
2,2%
833
1,8%
8%
- TCTD
3092
8,8%
4395
9,5%
42,1%
III- Vốn khác
5483
15,6%
3989
8,6%
-27,2%
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2001 của NHNTVN.
* Tiền gửi của các tổ chức: (chủ yếu của các tổ chức kinh tế) đạt 19957 tỷ quy VND chiếm 43,1% trong tổng nguồn vốn - tương đối cao so với mức 37% năm 2000. Vì đây là nguồn vốn có chi phí rẻ nên việc tăng tỷ trọng nguồn vốn này trong tổng nguồn vốn làm giảm tương đối chi phí huy động của NHNT. So với năm 2000 nguồn vốn này tăng 53,5%.
Tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn tiền gửi bằng ngoại tệ là 71,8%, nhanh hơn rất nhiều so với nguồn tiền gửi bằng VND (16,9%). Nguyên nhân là do xuất khẩu được đẩy mạnh, nhập khẩu có phần hạn chế trong năm 2001 nên các tổng công ty và doanh nghiệp xuất nhập khẩu thu tiền ngoại tệ, tăng số dư tiền gửi tại ngân hàng.
* Vốn huy động tiết kiệm và kỳ phiếu, trái phiếu.
Đạt 13595 tỷ quy VND. Mặc dù lãi suất hạ liên tục nhưng nguồn huy động tiết kiệm từ dân cư vẫn tăng 34,2%. Tuy nhiên. tốc độ tăng năm nay chậm hơn so với tốc độ tăng trong năm 2000 (96%).
Nguồn vốn huy động tiết kiệm ngoại tệ đạt 817 triệu USD (bằng 11454 tỷ quy VND). Huy động tiết kiệm VND đạt 2141 tỷ đồng. Trong những tháng cuối năm 2001 do tốc độ hạ lãi suất tiền gửi VND nhanh hơn so với ngoại tệ nên dân cư có xu hướng chuyển hoá tiền đồng sang gửi bằng ngoại tệ.
+ Vốn huy động từ thị trường II:
Nguồn vốn huy động từ thị trường II là 6848 tỷ quy VND, chiếm 14,8% tổng nguồn vốn tăng 39,3% so với năm 2000.
Ngược với xu hướng của vốn huy động từ thị trường I, trên thị trường II nguồn vốn ngoại tệ tăng chậm hơn nhiều so với VND. Cụ thể như sau:
Nguồn vốn VND đạt 1128 tỷ đồng, gấp 2 lần so với cùng kỳ năm ngoái, muốn vốn ngoại tệ đạt 408 triệu USD tăng 22,1%.
2.2 Sử dụng vốn.
2.2.1 Cơ cấu sử dụng vốn.
biểu 3 - Cơ cấu sử dụng vốn của NHNT tại thời điểm 31/ 12/ 2001
Tỷ giá: 14016 Đơn vị: Triệu USD; Tỷ VND
Chỉ tiêu
VND
Ngoại tệ
Quy VND
Tổng số
Tỷ trọng
+/- so 2000
I. Tiền mặt và tiền gửi NHNN
2588
99
3975
8,6%
57,55%
II. Thị trường I
5959
395
11498
24,8%
0,8%
1. Tín dụng thông thường
5660
317
10102
21,8%
- 2,3%
2. nợ khoanh
298
78
1396
3%
30,5%
III. Thị trường II
3627
1792
28743
62,1%
61,7%
1. Quan hệ với NHNN & NSNN
1180
76
2242
4,8%
24,1%
2. Quan hệ với TCTD
2447
1716
26500
57,3%
66,0%
- Quan hệ với TCTD nước ngoài
1690
23690
51,2%
65%
- Quan hệ với TCTD trong nước
2447
26
2810
6,1%
74,6%
IV. Sử dụng vốn khác
980
77
2057
4,4%
- 40,2%
Trong đó: Liên doạnh
Tổng sử dụng vốn
13154
2363
46272
100%
31,7%
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2001 của NHNTVN.
Số dư tiền mặt và tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước năm 2001 đạt 3975 tỷ quy VND, chiếm 8,6% trong tổng sử dụng vốn, tăng 57,5% so với năm 2000. Đây là bộ phận sinh lợi thấp( Lãi suất tiền gửi tại NHNN là 0,1%/ tháng) tuy nhiên một mặt do khó khăn trong việc đầu tư, mặt khác để đối phó với các tình huống do sự cố Y2K có thể xảy ra nên NHNT đã duy trì bộ phận vốn này (có tính thanh khoản cao) lớn hơn mức bình thường.
Sử dụng vốn trên thị trường I: (Cho vay đối với các tổ chức và cá nhân) đạt mức 11498 tỷ quy đồng, chiếm 24,8% tổng vốn sử dụng, trong đó tín dụng thông thường là 10102 tỷ đồng và nợ thanh khoản là 1396 tỷ.
Sử dụng vốn trên thị trường II: là 28743 tỷ quy đồng chiếm tỷ trọng 62,1% tổng vốn sử dụng, trong đó gửi tại các tỏ chức nước ngoài là 1690 triệu USD (tương đương 23690 tỷ đồng) chiếm đến 82,4% vốn sử dụng trên thị trường II. Sử dụng vốn khác (bao gồm cả TSCĐ, vốn góp liên doanh mua cổ phần, tài sản xiết nợ...) là 2057 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 4,4% tổng vốn sử dụng.
2.2.2 Hoạt động tín dụng (Cho vay trên thị trường I)
* Tổng quan.
Tỷ giá: 14016 (31/ 12/ 2001) Đơn vị: Tỷ VND. triệu USD
Chỉ tiêu
31. 12. 2000
31. 12. 2001
+/- (%) so T12/2000
Số dư
Q. hạn
%Q hạn
Số dư
Q. hạn
%Q hạn
Tổng dư nợ
11408
564
4,9%
11498
464
4.0%
0,8
I. Tín dụng thông thường
10338
564
5,4
10102
464
4,6
- 2,3
* Phân theo thời hạn vay
- Dự nợ ngắn hạn
7234
444
6,1
7586
348
4,6
4,9
Trong đó: - Việt NamĐ
4837
198
4,1
4817
163
3,4
-0,4
- Ngoại tệ (USD)
185
19
10
198
13
6,7
7,0
- Dư nợ trung dài hạn
3104
120
3,9
2516
116
4,6
-19
Trong đó: - VNĐ
658
41
6,3
844
46
5,4
28,2
- Ngoại tệ (USD)
188
6
3,3
119
5
4,2
-36,7
* Phân theo VNĐ và ngoại tệ
Trong đó: - VNĐ
5495
240
4,4
5660
209
3,7
3
- Ngoại tệ (USD)
373
25
6,6
317
18
5,7
-15
II - Nợ khoanh
1070
1396
30,5
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của NHNTVN năm 2001
Trong năm 2001 dư nợ tín dụng của NHNT tăng trưởng chậm do việc đầu tư tín dụng gặp nhiều khó khăn. Một mặt, nhiều loại hàng hoá bị ứ đọng do khó tiêu thụ trên thị trường làm giảm nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp, mặt khác, để hạn chế rủi ro ngân hàng cũng thận trọng hơn trong việc thẩm định và xét duyệt cho vay. Ngoài ra cũng phải kể đến tiến độ thực hiện các dự án trong nước chậm, một số hợp đồng tín dụng lớn (Đường dẫn khí Nam Côn Sơn, nhiệt điện đuôi hơi Phú Mỹ 21) chưa được rút vốn mặc dù đã ký từ giữa năm 2001. Cuối tháng 12/ 2001, tổng dư nợ cho vay trực tiếp nền kinh tế đạt 11498 tỷ, tăng 0,8% so với cuối năm 2000. Đặc biệt trong tháng 12 là tháng cuối năm, theo quy luật thì tín dụng thường tăng mạnh do các doanh nghiệp nhập hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong dịp Tết, song dư nợ tín dụng chỉ tăng 0,3% trong tháng 12/ 2001.
Tuy nhiên so với năm 2000 thì cả doanh số cho vay và thu nợ đều tăng. Doanh số cho vay năm 2001 đạt 28395 tỷ quy VND, tăng 9,8% so với năm 2000. Doanh số thu nợ đạt 27831 tỷ quy VND, tăng 7,0%. Đặc biệt cho vay trung dài hạn có tốc độ tăng cao cả về doanh số cho vay trung dài hạn đạt 1385 tỷ VND, tăng 30%; doanh số thu nợ trung dài hạn là 1806 tỷ tăng 123%.
* Tín dụng thông thường.
Tại thời điểm 31/ 12/ 2001 dư nợ tín dụng thông thường (không bao gồm nợ khoanh) là 10102 tỷ quy VND - giảm đáng kể trong năm 2001 (giảm 2,3%). Ngoài những nguyên nhân đã nêu ở trên, việc Ngân hàng tiếp tục thực hiện xử lý nợ theo thông tư 03 và công văn số 02/ CV - BCĐ ngày 16/ 01/ 2001 của NHNN “về việc xử lý tiếp một số khoản nợ quá hạn”, việc NSNN thực hiện chủ trương kích cầu đã cấp vốn cho Vaxuco để thanh toán khoản vay 70,6 triệu USD vào tháng 5/ 2001, việc Tổng công ty điện lực Việt Nam thực hiện trả nợ trước hạn trên 8 triệu USD...đã làm dư nợ cuối năm giảm mạnh. Hướng đầu tư chính trong năm 2001 vẫn là tập trung cho các tổng công ty 90 - 91, các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động kinh doanh hiệu quả và là các khách hàng kinh doanh XNK truyền thống của NHNT. Cuối năm 2001, tổng dư nợ cho vay các tổng công ty đạt khoảng 3278 tỷ quy VND chiếm 32,5% tổng dư nợ tín dụng thông thường. Các ngành cho vay chủ yếu là: lương thực thực phẩm, than, giấy, mía đường, cà phê, bưu chính viễn thông, điện lực...
- Tín dụng thông thường phân theo VND - Ngoại tệ và theo thời gian.
Tại thời điểm 31/ 12/ 2001 dư nợ tín dụng bằng VND là 5660 tỷ, chiếm 56% tổng dư nợ và tăng 3% so với cuối năm 2000. Cho vay bằng ngoại tệ đạt 317 triệu USD, giảm 15%. Việc vay bằng ngoại tệ chứa đựng rủi ro về tỷ giá, thêm vào đó lãi suất cho vay bằng VND giảm nhiều trong năm nên đã khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn bằng VND thay vì bằng ngoại tệ.
Cho vay ngắn hạn đạt 7586 tỷ, tăng 4,9% so với cuối năm 2000. Cho vay trung dài hạn giảm 19% đạt 2516 tỷ quy VND. Với tiềm lực to lớn về vốn NHNT đã tích cực tham gia các dự án cho vay đồng tài trợ, nhất là đối với các dự án lớn, trọng điểm của Chính phủ: dự án khí Nam Côn Sơn, Điện đuôi hơi Phú Mỹ 2.1...Ngoài ra ngân hàng còn tài trợ vốn cho doanh nghiệp xuất khẩu trả nợ cho Iraq trên cơ sở bả lãnh của Bộ Tài chính, thời hạn vay từ 2 - 3 năm.
Ngoài ra, NHNT còn thực hiện những chủ trương định hướng của Chính phủ trong phát triển kinh tế như tham gia cho vay phát triển nông nghiệp và nông thôn. Tổng dư nợ cho vay theo mục đích này tính đến nay ước đạt 800 tỷ VND, trong đó cho vay với lãi suất ưu đãi và cho vay theo chính sách của Nhà nước là 41,2 tỷ VND. Các ngành cho vay chủ yếu bao gồm: cho vay thu mua lương thực (410 tỷ), cho vay nhập khẩu phân bón (112 tỷ) cho vay trồng trọt, chăn nuôi (106 tỷ).
Ta có thể thấy được khái quát tình hình sử dụng vốn qua sơ đồ sau:
Tỷ VNĐ
biểu đồ 2 - Tổng dư nợ tín dụng (Tính đến ngày 31/ 12/ hàng năm)
* Chất lượng tín dụng:
Nhìn chung trong năm 2000 và 2001 hoạt động tín dụng của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam tương đối an toàn. Đến 31/ 12/ 2001 tổng dư nợ quá hạn của toàn ngành là 464 tỷ đồng chiếm 4,6% trong tổng dư nợ quá hạn tín dụng thông thường. So với cuối năm 2000 nợ quá hạn giảm 100 tỷ VND về số tuyệt đối. Nếu tính trên tổng dư nợ (bao gồm cả nợ khoanh) thì tỷ lệ nợ quá hạn của toàn hệ thống là 4,0%. Những chi nhánh có tỷ lệ nợ quá hạn cao là Hà Tĩnh (32,4%), Tân Thuận (16,9%) Nha Trang (14,7%), Vinh (13,4%). Dư nợ quá hạn chủ yếu là của các khoản vay trước năm 1999. Chất lượng tín dụng của NHNT sau thời gian thực hiện việc chấn chỉnh hoạt động ngân hàng được cải thiện rõ rệt, cụ thể như sau:
- Nợ quá hạn phát sinh của các HĐ ký năm 1999: 51 tỷ (bằng 0,44% TDN).
- Nợ quá hạn phát sinh của các HĐ ký năm 2000: 31 tỷ (bằng 0,27% TDN).
- Nợ quá hạn phát sinh của các HĐ ký năm 2001: 8 tỷ (bằng 0,07% TDN).
Bên cạnh việc kiểm soát chặt chẽ các khoản tín dụng mới, công tác thu hồi và xử lý nợ quá hạn cũng được đặc biệt quan tâm. Trong năm 2001, NHNT đã thu hồi được 175,6 tỷ nợ quá hạn, trong đó 86 tỷ là nợ khó đòi, các chi nhánh tích cực trong việc xử lý, thu hồi nợ quá hạn khó đòi là Hồ Chí Minh (28,1 tỷ), Sở giao dịch (11,7 tỷ). Tuy nhiên, vấn đề bức xúc là nợ tồn đọng của các năm trước vẫn còn lớn, việc giải quyết vẫn gặp nhiều khó khăn. Trong 2 năm 2000 và 2001, NHNT đã trích lập vào quỹ dự phòng trên 575 tỷ đồng, nhưng việc xử lý nợ từ quỹ dự phòng theo quy định hiện hành còn nhiều vướng mắc nhất là về thủ tục giấy tờ. Do đó tình hình nợ tồn đọng của NHNT vẫn rất nặng nề, cụ thể như sau:
+ Cho vay do bảo lãnh : 218 tỷ đồng.
+ Nợ chờ xử lý : 1297 tỷ đồng.
+ Nợ khoanh : 1396 tỷ đồng.
Qua phần trình bày về thực trạng chất lượng tín dụng của NHNT trên đây cho chúng ta thấy được chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao thể hiện là tỷ lệ nợ quá hạn giảm, qua các năm, có được kết quả này là do sự nỗ lực cố gắng tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn của toàn ngân hàng, nhưng có một nguyên nhân đóng góp đáng kể vào kết quả đólà công tác thẩm định dự án được cải thiện, đặc biệt là thẩm định tài chính, nhiều chỉ tiêu tài chính được đưa vào trong quá trình phân tích tài chính dự án và doanh nghiệp làm cho quá trình thẩm định được hiệu quả và chính xác hơn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
II-/ Thực trạng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
1-/ Các vấn đề chung về thực trạng thẩm định tài chính dự án tại NHNTVN.
1.1 Tình hình dư nợ đã cho vay.
Trong năm 2001, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã xây dựng chương trình hành động với 6 mục tiêu lớn: tăng trưởng nguồn vốn; nâng cao chất lượng tín dụng, giảm nợ tồn đọng, khai thác tài sản xiết nợ; đầu tư đúng hướng, đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao; tiếp tuc đổi mới công nghệ ngân hàng; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực; nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ. Với những chương trình mục tiêu kế hoạch kể trên tính đến thời điểm kết thúc năm 2001, có thể nói Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã đạt được những kết quả khả quan mặc dù phải đối mặt với không ít khó khăn thử thách do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và điều kiện kinh tế vĩ mô nói chung.
Song song với việc đẩy mạnh huy động vốn, nhiệm vụ sử dụng vốn an toàn hiệu quả, phấn đấu tăng trưởng tín dụng với chất lượng vững chắc đảm bảo khả năng thu nợ, tăng tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn cũng được đặt ra và đã thu được những kết quả khả quan. Ngân hàng ngoại thương đã góp phần tích cực trong việc bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp làm đầu mối xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón theo kế hoạch Nhà nước, góp phần hỗ trợ Tổng công ty Than ổn định sản xuất, góp phần bảo đảm việc làm cho hàng vạn người lao động. Năm 2001 cũng là năm đánh dấu những bược tiến vững vàng của NHNT trong lĩnh vực tài trợ dự án với việc Ngân hàng ngoại thương làm vai trò dàn xếp thành công các khoản tín dụng đồng tài trợ cho 2 dự án có tầm cỡ quốc gia là dự án Nhiệt điện Đuôi hơi Phú Mỹ 2.1 và dự án đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn, trị giá mỗi dự án trên 100 triệu USD.
Tuy nhiên, trong năm 2001 tổng dư nợ tín dụng của NHNTVN tăng trưởng chậm một mặt do hàng hoá trên thị trường không tiêu thụ được làm giảm nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, một mặt với mục tiêu giảm tối đa nợ quá hạn không phát sinh nợ quá hạn mới nên ngân hàng đã thận trọng hơn trong việc thẩm định và xét duyệt cho vay.
Cuối tháng 12/ 2001, tổng dư nợ cho vay trực tiếp nền kinh tế đạt 11498 tỷ, tăng 0,8% so với cuối năm 2000, trong khi tổng nguồn vốn huy động tăng với tốc độ nhanh hơn rất nhiều lần (44%) so với năm 2000. Điều này cho thấy ngân hàng khó tìm đầu ra cho nguồn vốn huy động.Đặc biệt trong tháng 12, theo quy luật thì tín dụng thường tăng mạnh do các doanh nghiệp nhập hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong dịp Tết, song dư nợ tín dụng chỉ tăng 0,3% trong tháng 12/ 2001.
1.2 Về quy trình thẩm định tại NHNTVN.
Thời gian qua, Ngân hàng ngoại thương đã có nhiều cố gắng trong quản lý điều hành, cải tiến quy trình thẩm định và xét duyệt cho vay nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường kiểm tra giám sát quá trình vay vốn và sử dụng vốn, nắm sát tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, kịp thời tháo gỡ khó khăn...do vậy đã giảm được tỷ lệ nợ quá hạn không phát sinh nợ quá hạn mới.
Công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNTVN do phòng dự án thực hiện theo quyết định số 240 của Tổng giám đốc hướng dẫn về quy chế cho vay đối với khách hàng và bản hướng dẫn thực hiện quy trình nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng.
Sau khi thu nhận và kiểm tra hồ sơ vay vốn theo đúng đối tượng, nguyên tắc, điều kiện và thủ tục vay vốn theo quy định của Quy chế cho vay, cán bộ tín dụng bắt đầu tiến hành thẩm định tính khả thi, hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ và lập tờ trình thẩm định. Trình tụ công việc gồm 2 bước:
Điều tra thực tế:
Nhằm mục đích có thêm thông tin cần thiết phục vụ các bước phân tích và quyết định cho vay, cán bộ tín dụng NHNT chủ động tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, kiểm tra thực địa nơi xây dựng dự án để bổ sung các thông tin mà trong hồ sơ chưa đủ hoặc doanh nghiệp không cung cấp hết được. Đó là các thông tin về năng lực quản lý điều hành sản xuất kinh doanh, tư chất của người vay vốn, về số lao động, tiền lương tình trạng máy móc thiết bị hiện có, các mặt thuận lợi, khó khăn nơi xây dựng dự án...
Lập tờ trình thẩm định.
Trên cơ sở các số liệu, tài liệu trong hồ sơ khách hàng hồ sơ vay vốn và các thông tin thu thập thu thập được qua điều tra thực tế, cán bộ tín dụng lập tờ trình thẩm định theo bản hướng dẫn thẩm định do TW soạn thảo và chịu trách nhiệm về số liệu, phương pháp tính toán nêu trong tờ trình. Nội dung tờ trình thẩm định nêu rõ quan điểm ý kiến của cán bộ tín dụng trên các mặt hồ sơ pháp lý có đầy đủ không, phương án sản xuất kinh doanh có khả thi hay hiệu quả không, lãi hay lỗ, khả năng trả nợ của khách hàng, xác định mức độ rủi ro có thể xảy ra và đề xuất các biện pháp để hạn chế...Trong đó cán bộ tín dụng đặc biệt chú ý đến phân tích năng lực tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, tính toán kiểm tra hiệu quả kinh tế tài chính của dự án vay vốn, khả năng trả nợ ngân hàng.
* Những nội dung tài chính được xem xét khi thẩm định dự án trong hoạt động cho vay của NHNTVN.
- Phân tích tình hình tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
ở nội dung này, Ngân hàng xem xét một cách tổng quát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các loại sản phẩm hàng hoá, tình trạng máy móc thiết bị, tình hình hàng tồn kho, tình hình công nợ, doanh thu và kết quả lỗ lãi của từng năm. Ngân hàng tập trung xem xét tổng dư nợ vay và bảo lãnh tại các ngân hàng lập bảng kê tình hình vay trả ngân hàng trong thời gian 2 năm gần nhất để xác định doanh nghiệp có vay trả sòng phẳng không.
- Tổng chi phí đầu tư và nguồn vốn.
+ Tổng vốn đầu tư dự án: Thẩm định chi phí đầu tư là phân tích, đánh giá mức chính xác trong tính toán nhu cầu về vốn đầu tư căn cứ vào nội dung các hạng mục công trình của dự án, tổng dự toán công trình đã được phê duyệt, các biểu giá do Nhà nước quy định...
Tổng vốn đầu tư cho dự án bao gồm:
. Vốn xây lắp (bao gồm cả chi phí khảo sát, thiết kế...).
. Vốn thiết bị.
. Vốn lưu động cho dự án.
+ Nguồn vốn: Xem xét dự án có thể sử dụng nguồn vốn nào để đáp ứng nhu cầu về chi phí đầu tư.
. Vốn tự có của doanh nghiệp: Đối với các dự án mới, Ngân hàng ngoại thương chỉ xem xét cho vay khi vốn tự có của chủ đầu tư chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư. Đối với trường hợp cho vay cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ một phần thiết bị hiện có, hoặc mở rộng hợp lý hoá sản xuất...với số vốn vay không lớn hơn tổng giá trị tài sản hiện có của chủ đầu tư thì vốn tự có tham gia dự án có thể không đặt ra nếu dự án có hiệu quả, khả năng trả nợ chắc chắn.
. Nguồn vốn vay: Phải ghi rõ tổng số tiền xin vay, tỷ trọng vốn vay trong tổng dự toán đầu tư, thời hạn, lãi suất, đối tượng cho vay:
> Vốn vay Ngân hàng ngoại thương.
> Vốn vay Ngân hàng khác.
> Vốn vay nước ngoài.
. Các nguồn vốn khác: Vốn ngân sách cấp, vốn góp liên doanh, phát hành trái khoán, bán cổ phần...
- Xác định doanh thu theo công suất dự kiến.
- Xác định chi phí đầu vào theo công suất có thể đạt được trong các năm trả nợ.
- Khả năng trả nợ:
Từ các kết quả tính toán về doanh thu chi phí, ngân hàng xác định lợi nhuận ròng của dự án:
Tổng doanh thu - Tổng chi phí = Lãi gộp.
Lãi gộp - Thuế tu nhập doanh nghiệp = Lợi nhuận ròng
Tỷ lệ lợi nhuận ròng dùng để trả nợ Ngân hàng: Tuỳ theo tính chất của từng doanh nghiệp, lợi nhuận ròng dùng để trả nợ là phần còn lại sau khi doanh nghiệp đã trích quỹ khen thưởng và phúc lợi theo quy định của Nhà nước, hoặc quyết định của Hội đồng quản trị.
x 100%
Nguồn trả nợ vay = + + Nguồn khác
Từ các thông tin thu thập được, cán bộ thẩm định sẽ lập bảng phân tích tổng hợp hiệu quả kinh tế - khả năng trả nợ của các dự án. Từ đó sẽ ._.hưa được tiêu chuẩn hoá và vẫn còn nhiều bất cập. Tầm quan trọng, ý nghĩa của hoạt động thẩm định tài chính chưa được quan tâm đúng mức. Phương pháp thẩm định vẫn còn mang nặng tính truyền thống, dựa vào kinh nghiệm cá nhân, chưa tiếp cận nhiều với các phương pháp khoa học, hiện tại.
- Tổ chức điều hành.
Cho tới nay, Ngân hàng Ngoại thương đã ban hành văn bản hướng dẫn quy trình nghiệp vụ tín dụng và mẫu tờ trình thẩm định làm cơ sở cho hoạt động thẩm định. Tuy nhiên việc ban hành văn bản hướng dẫn chỉ mang tính hình thức, chưa được quán triệt đến từng cán bộ thẩm định. Hơn nữa, mẫu tờ trình thẩm định lại quá chung chung nên gây khó khăn cho cán bộ khi áp dụng vào từng dự án cụ thể.
Việc đổi mới tổ chức hoạt động thẩm định còn chậm được thực hiện. Ngân hàng chưa xây dựng được một chương trình công tác cụ thể, thiếu kiểm tra, chưa có kế hoạch đúc rút kinh nghiệm qua những dự án đã thẩm định. Hoạt động giám sát, điều hành, nhiều lúc còn bị xem nhẹ.
- Cán bộ:
Ngân hàng Ngoại thương là một ngân hàng chuyên doanh về thanh toán quốc tế và tín dụng xuất nhập khẩu, hoạt động cho vay theo dự án vốn không phải là thế mạnh truyền thống của ngân hàng. Tuy nhiên do yêu cầu cạnh tranh trong cơ chế thị trường nên Ngân hàng đã thành lập phòng dự án và phòng thẩm định và đầu tư chứng khoán để phục vụ trực tiếp cho hoạt động cho vay trung, dài hạn. Vì thế đội ngũ cán bộ thẩm chưa được đào tạo một cách có hệ thống, cơ bản về lý luận của hoạt động thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính nói riêng. Các cán bộ tiến hành thẩm định chủ yếu dựa trên những kiến thức từ nghiên cứu qua sách báo, tạp chí tham khảo hay dựa vào kinh nghiệm bản thân.
Ngoài ra, còn rất nhiều những nguyên nhân chủ quan khác như hệ thống kiểm soát nội bộ chưa được hoàn thiện, ứng dụng công nghệ tin học còn hạn chế...
3.2 Nguyên nhân khách quan.
- Chủ đầu tư không chấp hành các quy định lập và thẩm định dự án.
Việc lập dự án đầu tư được thực hiện theo thông tư số 09/HĐBT/VPTĐ ngày 21/9/1998 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn lập và thẩm định dự án đầu tư. Nội dung của dự án đầu tư theo quy định gồm 11 nội dung cụ thể nhưng trên thực tế, phần nhiều các dự án khả thi mà ngân hàng tiến hành thẩm định đã không lập đầy đủ theo các nội dung hướng dẫn. Điều này thể hiện qua một số điểm sau:
+ Căn cứ để lập dự án còn mang tính chủ quan, thiếu độ tin cậy và thiếu tính thuyết phục.
+ Phần lớn các dự án đều chứng minh được độ tin cậy về tư cách pháp nhân, đều khẳng định đã được cấp thẩm quyền giao nhiệm vụ làm chủ đầu tư dự án..., nhưng phần nhiều các dự án không gửi kèm các báo cáo tài chính của 2, 3 năm gần nhất. Do vậy, việc đánh giá khả năng thanh toán, sức mạnh tài chính... của chủ đầu tư đối với ngân hàng là rất khó khăn và không chính xác.
+ Tính trung thực của các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam không được đảm bảo do chưa được kiểm toán, điều này gây ra nhiều khó khăn cho công tác thẩm định.
Phần lớn các doanh nghiệp quốc doanh ở Việt Nam làm ăn chưa có hiệu quả cũng làm ảnh hưởng đến công tác tín dụng nói chung và công tác thẩm định nói riêng.
- Môi trường pháp lý cho công tác thẩm định dự án chưa đầy đủ và đồng bộ:
Các văn bản, chế độ quy định về quản lý đầu tư, về thẩm định còn chồng chéo, chưa rõ ràng, chưa đầy đủ, thiếu tính ổn định, thủ tục còn nặng nề, rườm rà. Năng lực thẩm định các dự án đầu tư của các Bộ, ngành, cơ quan chức năng trên một số mặt còn hạn chế, chất lượng thẩm định chưa cao nên đã gây ra những khó khăn nhất định cho Ngân hàng. Chúng ta còn thiếu các văn bản hướng dẫn có tính chất pháp lý về các định mức kinh tế, kỹ thuật của các cơ quan chức năng như định mức tiêu hao về nguyên, nhiên vật liệu, điện nước... chưa có các tiêu chuẩn để làm cơ sở so sánh, đánh giá dự án trong từng ngành, lĩnh vực riêng biệt được quy định bằng văn bản mang tính thống nhất trong cả nước.
- Ngành ngân hàng:
Bên cạnh những kết quả đạt được trong thời gian qua, ngành ngân hàng vẫn còn nhiều yếu kém trong lĩnh vực thẩm định dự án. Trình độ chung của các ngân hàng còn thấp, chưa đủ năng lực thẩm định các dự án lớn, phức tạp, chưa đủ năng lực thẩm định các dự án lớn, phức tạp. Đặc biệt, chưa có sự phối hợp, hỗ trợ chặt chẽ giữa Ngân hàng Nhà nước với các ngân hàng thương mại cũng như giữa các ngân hàng thương mại với nhau trong việc cung cấp thông tin trong hoạt động thẩm định dự án ở từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể.
Ngoài ra còn rất nhiều nguyên nhân khác như các rủi ro bất khả kháng về thời tiết, cơ chế... ngân hàng không thể dự đoán hết được cũng làm cho các đánh giá của ngân hàng nhiều khi thiếu chính xác.
Chương III
Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại NHNTVN.
I-/ Định hướng hoạt động cho vay của NHNTVN.
Hiện nay ở Việt Nam tín dụng là loại hình nghiệp vụ đem lại nguồn thu nhập cao nhất cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng có an toàn hiệu quả mới bảo đảm được vốn bảo đảm cho ngân hàng ổn định và phát triển. Vì vậy mục tiêu của chiến lược sử dụng vốn của Ngân hàng ngoại thương trong 10 năm tới là “tăng trưởng - an toàn - hiệu quả”
Để phát huy những thành quả đã đạt được và phát triển hơn nữa, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược đã đặt ra, trong thời gian tới hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương diễn ra theo hướng:
- Với phương châm: “An toàn - hiệu quả - tăng trưởng”, Ngân hàng tận dụng thời cơ để mở rộng tín dụng, bảo lãnh mức đạt mức tăng trưởng 25%, nâng dần tỷ trọng đầu tư trung và dài hạn lên 35% tổng dư nợ, nâng cao chất lượng tín dụng, phấn đấu giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới 4% tích cực xử lý khai thác có hiệu quả tài sản xiết nợ, tài sản thế chấp để giải phóng vốn kinh doanh.
- Bám sát định hướng của Nhà nước về chiến lược phát triển kinh tế, sớm tiếp cận với các dự án, các chương trình kinh tế trọng điểm để chủ động bố trí vốn, trực tiếp tham gia hoặc tham gia theo phần, đồng tài trợ với các ngân hàng thương mại khác để phát huy sức mạnh về vốn, kinh nghiệm cũng như hạn chế rủi ro. Tiếp tục mở rộng các đối tượng cho vay nhằm khai thác mọi tiềm năng trong nền kinh tế, có cơ chế thoả đáng trong chính sách tín dụng cho mục tiêu xã hội. Tuy nhiên, với thế mạnh về vốn Ngân hàng ngoại thương sẽ tập trung một tỷ trọng vốn thích đáng đầu tư vào các dự án lớn thuộc các doanh nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân (các tổng công ty 90, 91).
Tạo điều kiện thuận lợi cho người đi vay với chính sách lãi suất, phí dịch vụ hấp dẫn, có khả năng cạnh tranh được với các ngân hàng khác, đổi mới phong cách phục vụ nhanh chóng chính xác, luôn coi lợi ích của khách hàng là lợi ích của chính mình, duy trì một cơ chế lãi suất linh hoạt để khuyến khích các nhà sản xuất kinh doanh. Xây dựng cơ chế lãi suất ưu đãi đối với nhứng khoản vay lớn, các dự án có tính khả thi độ an toàn cao.
- Mở rộng tín dụng, đi liền với việc củng cố và nâng cao hiệu quả, chất lượng tín dụng, đảm bảo khả năng thu hồi vốn, giảm dần tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tăng cường cơ chế thông tin tín dụng, nắm chắc tình hình biến động và tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vay vốn của ngân hàng, cũng như tình hình biến động của thị trường. Dự đoán kịp thời, chính xác những nhân tố tác động đến sản xuất kinh doanh, tình hình thị trường tài chính trong và ngoài nước để chủ động tư vấn cho doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn.
Trong điều kiện chung của nền kinh tế và của ngân hàng hiện nay, để tồn tại và phát triển, hội nhập, đảm bảo thực hiện những mục tiêu về hoạt động cho vay đã đặt ra, Ngân hàng ngoại thương phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau. Một trong những biện pháp tiên quyết, hữu hiệu nhất là hoàn thiện công tác thẩm định dự án, đặc biệt là nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của Ngân hàng. Thẩm định tài chính dự án phải được xác định trong chiến lược, định hướng hoạt động và gắn bó chặt chẽ với các nghiệp vụ khác, tạo thành sức mạnh tổng hợp của Ngân hàng.
II-/ Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
Muốn nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án, đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của hoạt động cho vay của Ngân hàng ngoại thương nói riêng và nền kinh tế nói chung thì điều đầu tiên và trước hết là phải có một nhận thức và định hướng đúng:
1-/ Một số định hướng cho công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNTVN.
Với định hướng tích cực tìm kiếm các dự án khả thi để đẩy mạnh công tác cho vay nhằm phục vụ tốt hơn sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước thì trong thời gian tới, công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNTVN cần dựa trên những hướng sau:
- Công tác thẩm định tài chính dự án phải xuất phát từ tình hình thực tiễn trong ngành và nhằm phục vụ cho hoạt động cho vay trong từng giai đoạn.
- Công tác thẩm định dự án phải được tiến hành thường xuyên liên tục, toàn diện đối với tất cả các dự án xin vay, trong cả quá trình cho vay.
- Công tác thẩm định dự án phải được tiến hành theo một quy trình khoa học, hiện đại sát với tình hình thực tế và phù hợp với nghiệp vụ của ngân hàng.
- Công tác thẩm định dự án phải phát huy vai trò tham mưu cho lãnh đạo để có những biện pháp tổ chức, chỉ đạo điều hành cụ thể trong việc quyết định các khoản vay.
- Công tác thẩm định dự án đòi hỏi tính chủ động, năng lực sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp và phải thường xuyên được tổng kết, rút ra kinh nghiệm, bài học để hoàn thiện và phát triển.
2-/ Một số giải pháp.
Để khắc phục những hạn chế trong công tác thẩm định tài chính dự án NHNTVN đã đề ra những biện pháp chủ yếu sau:
2.1 Tăng cường công tác thu thập và xử lý thông tin.
Trong nền kinh tế thị trường ai nắm bắt được nhiều thông tin chính xác, kịp thời hơn, người đó sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng bỏ tiền ra trên cơ sở chủ yếu là lòng tin. Lòng tin đó có chính xác hay không phụ thuộc vào chất lượng các thông tin có được. Để việc đầu tư tín dụng có chất lượng hiệu quả, giảm thiểu rủi ro, ngân hàng phải có được và xử lý chính xác rất nhiều thông tin liên quan.
Có thể phân thành 2 nhóm thông tin như sau:
- Thông tin phi tài chính: Là những thông tin không phải là từ các cuốn sổ sách số liệu tài chính. Chúng có rất nhiều loại phong phú và bao gồm cả thông tin trực tiếp và gián tiếp.
Loại thông tin trực tiếp như tư cách, uy tín, năng lực quản lý, năng lực sản xuất kinh doanh, quan hệ xã hội, kinh tế của đơn vị vay, cung cầu, giá cả, thị trường...của đối tượng xin vay.
Loại thông tin gián tíêp như: tình hình kinh tế, xã hội, thông tin về xu hướng phát triển, khả năng cạnh tranh của ngành nghề.
- Thông tin tài chính: Bao gồm các thông tin liên quan đến tình hình tài chính như: khả năng tài chính, kết quả kinh doanh trong quá khứ, khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp.
Yêu cầu của thông tin là chính xác, đầy đủ, kịp thời. Để đạt được yêu cầu đó, phải có ít nhiều kênh thông tin khác nhau.
* Thông tin nội bộ.
Để đảm bảo xây dựng được một hệ thống thông tin có hiệu quả, trước hết Ngân hàng cần phải ban hành quy chế thu thập thông tin dịnh kỳ cho các trung tâm, bộ phận thông tin ở các chi nhánh cũng như TW. Những thông tin cần thiết liên quan đến dự án, thẩm định dự án là phải được cung cấp một cách nhanh chóng, đầy đủ nhất và thông suốt trong toàn hệ thống. Một lợi thế rất lớn của NHNTVN là mạng lưới các chi nhánh cũng như TW được trang bị hệ thống mạng máy tính khá hiện đại. Nếu Ngân hàng biết khai thác có hiệu quả mạng máy tính này thì đây sẽ là chìa khoá giải quyết vấn đề thông tin một cách nhanh chóng và thu được lợi ích to lớn. Các chi nhánh sẽ thu thập và lưu trữ những thông tin cụ thể về tình hình ở khu vực, địa bàn hoạt động của mình. Hàng tuần hay một tháng 2 lần, các chi nhánh sẽ gửi báo cáo thông tin nội bộ thu thập được vì phòng Dự án và phòng Tái thẩm định ở Trung ương để lưu trữ và tổng hợp trên phạm vi toàn quốc. Việc trao đổi thông tin giữa các phòng và chi nhánh được thực hiện thông qua mạng máy tính nội bộ.
Để nâng cao được tính khả thi của giải pháp trên đòi hỏi Ngân hàng phải xây dựng được một phần mềm tin học chuyên dụng. Các thông tin cần thiết ở dạng văn bản sẽ được chuyển sang lưu trữ trong máy tính đê thuận tiện cho việc khai thác, sử dụng, quản lý và bảo quản. Với sự trợ giúp của công nghệ tin học, Ngân hàng sẽ xây dựng được những phương pháp lưu trữ, phân tích xử lý, cung cấp thông tin hiện đại có khả năng truy cập nhanh chóng góp phần nâng cao số lượng và chất lượng thông tin thu thập được.
* Thu thập thông tin từ bên ngoài.
Ngân hàng cần phải có kế hoạch thu thập thông tin về doanh nghiệp từ phía các bạn hàng và đối của doanh nghiệp đó.
- Gặp gỡ kiểm tra các khách hàng của doanh nghiệp để nắm được thông tin về quan hệ thanh toán, khả năng đảm bảo của việc cung cấp đầu vào và mức độ chắc chắn của việc tiêu thụ đầu ra của dự án.
- Nhờ sự giúp đỡ của các công ty kiểm toán để kiểm tra tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp xin vay vốn trình lên.
- Ngân hàng nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia tư vấn kỹ thuật để trợ giúp trong việc thẩm định khía cạnh kỹ thuật công nghệ của dự án, từ đó xác định chính xác tổng nhu cầu vốn đầu tư.
- Cần phát huy lợi thế về cơ sở vật chất sẵn có. Ngân hàng nên tham gia tích cực và đầy đủ hệ thống thông tin tín dụng của Ngân hàng Việt Nam bao gồm Trung tâm thông tin tín dụng (TTTD) của Ngân hàng Nhà nước và phòng TTTD của các NHTM, hệ thống này sẽ bổ sung thêm một kênh thông tin không cân xứng, từ đó góp phần vào việc ngăn ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng.
Bên cạnh đó, mạng thông tin toàn cầu Internet sẽ là kho dữ liệu vô tận mà Ngân hàng có thể khai thác.
2.2 Giải pháp về phương pháp thẩm định.
* áp dụng các phương pháp thẩm định hiện đại.
Ngân hàng cần phổ cập hoá và tăng cường áp dụng những phương pháp thẩm định tài chính dự án hiện đại hiện đang được áp dụng trong các tổ chức kinh tế - tài chính - ngân hàng trên thế giới, vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tiễn về quản lý tài chính của nước ta cũng như của hệ thống doanh nghiệp kinh doanh trong nước.
Ngân hàng cần áp dụng nhiều hơn nữa các chỉ tiêu:
Giá trị hiện tại ròng NPV, tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR, chỉ số doanh lợi PI, sử dụng các chỉ tiêu này làm tiêu chuẩn trong đánh giá, lựa chọn dự án.
* Tính dòng tiền.
Phần lớn các dự án đều có giá trị thu hồi tài sản cố định. Các máy móc thiết bị, nhà xưởng khi dự án kết thúc còn có một giá trị thị trường nhất định. Khi chúng được bán sẽ xuất hiện một luồng tiền thu cuối dự án. Một điều cần lưu ý là dòng tiền này phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp vì nó là luồng tiền hoạt động trước thuế.
Ngân hàng cũng cần tính tới khoản thu hồi vốn lưu động ròng, khoản thu hồi này sẽ được cộng vào dòng tiền ở năm cuối cùng của dự án. Khi xác định lợi nhuận ròng dùng để trả nợ, ngân hàng nên chú ý tính đến phần thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước mà doanh nghiệp phải nộp (nếu có).
Đối với những dự án đã được thẩm định có hiệu quả, trong một số năm đầu hoạt động dự án có dòng tiền âm, ngân hàng có thể xem xét thu nợ vào những năm sau, chứ không nhất thiết phải yêu cầu miễn thuế hoặc Tỉnh hỗ trợ.
* Vấn đề giá trị thời gian của tiền.
Trên thực tế, các dự án thường có thời gian hoạt động rất dài, các kết quả dự kiến trong tương lai được tính toán trên cơ sở các yếu tố giả định nên ngân hàng không thể lường hết được tình huống bất trắc có thể xảy ra đối với dự án như: sự thay đổi chính sách, sự biến động về giá cả thị trường...Một trong những đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư là các lợi ích và chi phí phát sinh ở các giai đoạn khác nhau nhưng giá trị đồng tiền ở các thời điểm khác nhau không giống nhau. Vì vậy cần có một phương pháp quy đổi giá trị của dòng tiền xuất hiện ở các thời điểm khác nhau về cùng một thời điểm xem xét, đánh giá.
* Các bảng tính.
Trong bảng tính hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ của dự án, Ngân hàng cần sửa đổi một số chỉ tiêu: thuế doanh thu không nằm trong kế hoạch chi phí vì thuế doanh thu không phải là chi phí của doanh nghiệp, hiện nay đã áp dụng thuế VAT thì phải thống nhất chỉ tiêu này trong các bảng tính để phản ánh đúng bản chất của VAT.
Ngoài bảng tính toán hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ của dự án, ngân hàng nên lập thêm bảng phân tích dòng tiền để thấy rõ các dòng vào, ra của dự án và thuận lợi cho việc tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR.
* Tính khấu hao.
Khi tính khấu hao, ngân hàng cần chú ý tới cơ cấu của chi phí đầu tư cho dự án để áp dụng các tỷ lệ khấu hao phù hợp. Đối với phần chi phí trước vận hành, Ngân hàng cần tách ra để tính thu hồi trong một số năm đầu khi dự án đi vào hoạt động.
* Tỷ lệ chiết khấu.
Như chúng ta đã biết, việc tính NPV không thể tiến hành khi không có một quy định về tỷ lệ chiết khấu. Do đó, trong tình hình trước mắt hiện nay, chưa xây dựng được một tỷ lệ chiết khấu phù hợp cho nền kinh tế hay từng ngành nên ngân hàng cần thống nhất lựa chọn lãi suất trái phiếu trung dài hạn của Kho bạc Nhà nước làm lãi suất chuẩn để tính toán và có văn bản quy định cụ thể việc áp dụng tỷ lệ chiết khấu cụ thể và thống nhất, tránh tình trạng cán bộ tuỳ chọn theo chủ quan cá nhân.
Bên cạnh đó, nếu có khả năng dự tính thì trên cơ sở lãi suất trái phiếu trung dài hạn đó cần xem xét thêm sự ảnh hưởng của các nhân tố cơ bản như: tỷ lệ của lạm phát hàng năm, chi phí cơ hội, các yếu tố rủi ro...từ đó xác định tỷ lệ chiết khấu phù hợp.
* Phân tích tài chính.
Ngân hàng cần lập thêm các bảng dự trù cân đối tài sản, bàng dự trù cân đối thu chi, bảng kế hoạch ngân quỹ để thuận tiện trong việc phân tích tài chính dự án. Ngân hàng cần đưa một số phương pháp tài chính sau vào phân tích tài chính dự án:
- Phương pháp phân tích tỷ lệ.
Cần tính toán một số chỉ tiêu như khả năng thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán nhanh, vốn lưu động ròng, hệ số nợ, hiệu suất sử dụng tài sản cố định, doanh lợi trên tổng tài sản, doanh lợi trên vốn tự có...Đặc biệt chú ý tới các chỉ tiêu về khả năng thanh toán hệ số nợ.
- Phương pháp phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn.
- Phương pháp phân tích luồng tiền mặt thông qua báo cáo ngân quỹ.
* Phân tích độ nhạy.
Thẩm định dự án là nghiên cứu một tập tài liệu được soạn thảo trên cơ sở các giả định nên không thể dự báo một cách chính xác và đầy đủ tất cả những gì có thể xảy ra với dự án trong tương lai. Mặt khác, cơ chế thị trường luôn luôn biến động nhanh chóng nên Ngân hàng trong nghiệp vụ thẩm định phải luôn giả thiết các yếu tố, tình huống có khả năng tác động đến dự án trong tương lai như: thị trường sẽ có những biến động lớn, giá cả sản phẩm dịch vụ có xu hướng giảm, Nhà nước sẽ có thay đổi về chính sách thuế theo hướng bất lợi. ..để tính toán lại các chỉ tiêu kinh tế tài chính của nó.
Ngân hàng nên xem xét sự biến động của tỷ lệ chiết khấu tới các chỉ tiêu NPV, PI đối với tất cả các dự án vì những chỉ tiêu này rất nhạy cảm với tỷ lệ chiết khấu. Bằng việc phân tích độ nhạy, Ngân hàng sẽ xác định được mức độ chắc chắn của kết quả hoạt động của dự án và vì vậy có thể loại bớt được dự án có mức rủi ro cao và cũng thông qua việc đánh giá độ nhạy, Ngân hàng xác định được nhân tố nào có tác động lớn nhất tới các chỉ tiêu hiệu quả của dự án, để từ đó có biện pháp bảo đảm, hỗ trợ và hạn chế rủi ro.
2.3 Giải pháp về nhân tố con người.
Con người - chủ thể của mọi sự sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất - con người là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội. Việc xây dựng một mẫu hình con người có trình độ có trí tuệ cao, am hiểu nghề nghiệp, song phải có nhân cách, có tâm hồn trong sáng....sẽ tạo sự phát triển nhanh chóng và bền vững của ngân hàng.
Kết quả của thẩm định tài chính dự án là kết quả của việc đánh giá, xem xét dự án theo nhìn nhận chủ quan của người thẩm định trên cơ sở khoa học và các tiêu chuẩn thẩm định khác nhau. Hiệu quả của hoạt động thẩm định phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng nhân tố con người. Con người ở đây là đội ngũ cán bộ, nhân viên điều hành hoặc trực tiếp tiến hành các hoạt động thẩm định tài chính dự án của Ngân hàng từ trung ương đến địa phương.
Công tác đào tạo có ý nghĩa quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ Ngân hàng ngoại thương đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn mới. Một mặt, xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ của NHNTVN gồm những người có phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn giỏi. Mặt khác, nhanh chóng đào tạo lại đội ngũ cán bộ thâm niên ở Trung ương cũng như tại các chi nhánh để thích ứng với cơ chế mới. Đồng thời, tổ chức đào tạo nâng cao trình độ quản lý cho những cán bộ trong quy hoạch, những cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề nghiệp, có khả năng tiếp thu kỹ thuật kinh doanh để tạo lập một đội ngũ cán bộ kế cận. Có chính sách khuyến khích những cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi.
Về nội dung đào tạo cần chú trọng cả về kiến thức kinh tế, nghiệp vụ chuyên môn đồng thời đặc biệt coi trọng công tác quản lý giáo dục tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng được mọi yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đặc biệt là nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học để dần từng bước ứng dụng các chương trình phần mềm của máy tính vào việc thẩm định dự án và tiếp cận với các phương pháp thẩm định hiện đại.
Trong nhân tố con người, cần đặc biệt quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng và khả năng tự rèn luyện của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, vì họ là những người đi đầu, có vai trò dẫn dắt. Trước hết người lãnh đạo phải luôn gương mẫu trong mọi công việc, trong sạch, liêm khiết, chí công vô tư trong nếp sống và tất nhiên họ phải giàu tri thức. Chính họ sẽ là những người kéo “con tàu” NHNTVN đi lên phía trước và chính họ mới có điều kiện tập hợp được xung quanh mình đội ngũ cán bộ Đảng viên, đoàn viên đi vào quá trình đổi mới.
2.4 Giải pháp về tổ chức điều hành.
Việc tổ chức, phân công hợp lý, có khoa học trong quá trình thẩm định tài chính dự án sẽ tránh được sự chồng chéo không cần thiết, giảm những hạn chế và phát huy mặt tích cực của cán bộ thẩm định cũng như của cả tập thể, giảm chi phí hoạt động cũng như rút ngắn thời gian thẩm định.
Việc sắp xếp, phân công dự án phải căn cứ vào năng lực, sở trường của mỗi người để phát huy thế mạnh của cán bộ thẩm định. Ngân hàng nên bố trí những dự án có quy mô lớn, tính chất phức tạp cho các cán bộ chủ chốt có trình độ, kinh nghiệm còn những dự án đơn giản hơn có thể giao cho các cán bộ trẻ mới vào nghề.
Tổ chức thẩm định cần phải sắp xếp theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ nhưng phải mạnh, không dàn trải, tập trung vào nâng cao chất lượng nhưng đảm bảo về số lượng để đạt được những chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Ngân hàng nên quy định chi tiết, cụ thể hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của các cán bộ đối với kết quả thẩm định của dự án. Ngân hàng cũng nên rà soát lại đội ngũ cán bộ thẩm định, chuyển sang làm nhiệm vụ khác đối với những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu công việc; bổ sung thêm cán bộ thẩm định cho những chi nhánh còn thiếu.
Hệ thống tổ chức thẩm định cần đuợc hoàn thiện theo hướng tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng dự án, phòng tái thẩm định với các phòng khác; giữa hoạt động thẩm định với các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng.
Bên cạnh đó, Ngân hàng cần hình thành một mối quan hệ về thẩm định với Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục đầu tư, bộ phận thẩm định ở các ngân hàng thương mại quốc doanh lớn như Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng công thương, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để kế thừa, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong hoạt động thẩm định dự án. Hàng năm, trên cơ sở kế hoạch chung, Ngân hàng cần xây dựng một chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ cho công tác thẩm định và có tổ chức tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm.
III-/ Một số kiến nghị để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án.
1-/ Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
- Đề nghị Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện trung tâm thông tin tín dụng Trung ương nhằm hỗ trợ cung cấp thông tin cho hoạt động thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại có hiệu quả cao hơn, trợ giúp kỹ thuật thẩm định cho các ngân hàng.
- Đề nghị Ngân hàng Nhà nước mở rộng phạm vi, nội dung và tăng tính cập nhật của Trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng. Hàng năm, ngân hàng Nhà nước cần tổ chức những hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định.
2-/ Kiến nghị với Nhà nước và các bộ ngành liên quan:
- Nhà nước cần có những giải pháp và các văn bản pháp quy cụ thể để hệ thống ngân hàng hai cấp được hoạt động theo đúng bản chất của nó, tách bạch giữa chức năng kinh doanh và chức năng quản lý, từ đó các ngân hàng thương mại mới có thể hoạt động đúng chức năng của mình, tránh được tình trạng cho vay theo chỉ định của Ngân hàng Nhà nước vào những lĩnh vực, những dự án không đạt hiệu quả kinh tế.
- Đề nghị Nhà nước quy định rõ hơn nữa trách nhiệm của những người xem xét ra quyết định đầu tư và nguồn được uỷ quyền.
- Nhà nước nên có các quy định từng bước về mở rộng quyền và trách nhiệm thẩm định dự án cho các đối trọng, đặc biệt là các đối trọng thường xuyên liên quan đến việc lập và thẩm định dự án như ngân hàng, Bộ tài chính, Bộ thương mại, Bộ khoa học công nghệ môi trường.
Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát ngay từ khâu xây dựng và thẩm định dự án cho đến khi dự án hoàn thành đi vào sử dụng nhằm giúp cho các bộ, ngành, địa phương có được những thông tin đầy đủ và chính xác về thực trạng của các qua trình đầu tư, vận hành dự án để kịp thời khắc phục những hạn chế, rút kinh nghiệm, phục vụ tốt hơn nữa yêu cầu của công tác quản lý đầu tư và xây dựng.
- Bộ kế hoạch và đầu tư cần có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa về kế hoạch đầu tư của Nhà nước như: dự báo chính xác hơn nữa về khả năng nguồn vốn trong kỳ kế hoạch, hướng dẫn đầu tư tập trung vào các chương trình, dự án trọng điểm, các lĩnh vực then chốt ưu tiên của nền kinh tế.
Bộ kế hoạch và đầu tư khi xác định các dự án ghi trong kỳ kế hoạch cần bám sát vào các mục tiêu ưu tiên, các lĩnh vực sản xuất đang được Nhà nước khuyến khích và khả năng thực tế của các Bộ ngành, địa phương.
- Cần có quy định về sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong quá trình thẩm định dự án. Vì thực tế các nội dung của dự án có quan hệ rất chặt chẽ với nhau, chỉ cần một nội dung trong dự án không được xem xét cẩn thận sẽ dẫn đến các nội dung khác thiếu đi sự chính xác và hiệu quả của dự án khó được đảm bảo như dự tính. Mặt khác, các bộ, ngành, địa phương sẽ tham gia thẩm định cùng một dự án nhưng ở các khía cạnh khác nhau. Do vậy sự phối hợp này cũng nhằm nâng cao trách nhiệm của từng bộ phận thẩm định dự án.
- Nhà nước chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo theo đúng quy định. Ngoài ra, Chính phủ cần ban hành quy chế bắt buộc và công khai kiểm toán của các doanh nghiệp, tạo điều kiện giúp ngân hàng trong việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, tài chính dự án.
Nhà nước cần thành lập những công ty chuyên trách về định giá tài sản thế chấp để tránh sự sai lệch trong việc đánh giá tài sản thế chấp nhằm phục vụ tốt nhất cho công tác thẩm định từ đó hạn chế rủi ro cho hoạt động của ngân hàng.
- Cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực cùng các tiêu chuẩn đánh giá cho từng ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản...làm cơ sở so sánh đánh giá dự án.
3-/ Kiến nghị với chủ đầu tư.
- Chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án theo đúng nội dung quy định trong Thông tư số 09/ BKH/ VPTĐ của Bộ kế hoạch và đầu tư ngày 21/ 09/ 1998 về việc xây dựng và thẩm định dự án.
- Các chủ đầu tư phải nhận thức được tầm quan trọng của việc thẩm định dự án đầu tư để có được những dự án thực sự có hiệu quả.
- Nghiêm túc thực hiện các quy định chế độ về kế toán tài chính, đảm bảo sự trung thực trong các báo cáo tài chính gửi đến Ngân hàng.
Kết luận
Cùng với xu hướng của nền kinh tế thì các quan hệ tín dụng ngày càng phát triển đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Để hoạt động tín dụng ngày càng tốt điều đó thì việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đóng một vai trò quan trọng, đây là một công việc phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng, chủ thể. Cho nên nó đòi hỏi một sự nghiên cứu sâu sắc và có những giải pháp đồng bộ với sự quyết tâm nỗ lực thực hiện từ nhiều phía. Thẩm định tài chính dự án cũng chỉ là một trong những nội dung cần phải tiến hành xem xét đối với mỗi dự án trước khi ra quyết định cho vay. Song trong giới hạn về thời gian và phạm vị chi phí, chuyên đề đã thực hiện các công việc sau:
1. Đã nêu khái quát hoạt động cơ bản của NHNTVN trong cơ chế thị trường. Nêu ra sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án. Hệ thống hoá những chỉ tiêu cơ bản áp dụng trong thẩm định tài chính dự án và đề cập đến một số nhân tố ảnh hưởng.
2. Xem xét thực trạng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vy tại NHNTVN, từ đó rút ra những nhận xét đánh giá về kết quả đạt được, những hạn chế và những nguyên nhân dẫn tới các hạn chế đó.
3. Đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án và đề xuất một số kiến nghị.
Đây là những nội dung rất rộng mà đề tài này chỉ xin tiếp cận đến khía cạnh. Những giải phải và kiến nghị đưa ra chỉ là những đóng góp nhỏ vào việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Em xin nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và các cán bộ Ngân hàng.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn thạc sỹ Phan Thu Hà đã hướng dẫn giúp đỡ em tận tình chu đáo trong quá trình viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp để em có thể hoàn thành bài viết này.
Tài liệu tham khảo
1-/ Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Edward W. Reed và Ed ward K.Gill.
2-/ Giáo trình tài chính doanh nghiệp.
3-/ Phân tích và quản lý các dự án đầu tư. Nguyễn Ngọc Mai.
4-/ Quản trị dự án đầu tư. Nguyễn Xuân Thuỷ.
5-/ Phân tích kinh tế các dự án. SQUIRE. L.
6-/ Tạp chí Ngân hàng, tạp chí Tài chính các số năm 2000, 2001, 2002.
7 -/ Báo cáo kinh nghiệm tại Hội nghị thẩm định dự án của các Ngân hàng thương mại.
8-/ Báo cáo hoạt động kinh doanh của NHNTVN năm 2000, 2001.
9-/ Các hồ sơ thẩm định tai phòng dự án, NHNTVN.
mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0140.doc