Phần I: Lời mở đầu
Thực hiện nghị quyết Đại hội VI, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với đường lối phát triển kinh tế mới đã khơi dậy tiềm năng, huy động mọi nguồn lực của các tầng lớp dân cư để phục vụ sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nư
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp mở rộng & phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại các Ngân hàng thương Mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Là một ngành có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam từ sau năm 1988 đến nay đã có nhiều bước tiến đổi mới sâu sắc: từ hệ thống ngân hàng một cấp chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp, tách riêng chức năng quản lý nhà nước (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) và chức năng kinh doanh (Hệ thống các Ngân hàng thương mại), đa dạng hoá về loại hình, sở hữu, từng bứơc hiện đại hoá các khâu nghiệp vụ, mở rộng các loại hình dịch vụ và thực sự đi vào hoạt động kinh doanh tiền tệ. Hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần tích cực trong việc đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, qua đó làm tăng vị thế của Việt Nam trên trường Quốc tế. Điều này đã được Đảng - Chính phủ đánh giá cao. Cùng với công cuộc đổi mới của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói chung, hệ thống các ngân hàng thương mại nói riêng đã không ngừng cải tiến phương thức hoạt động nhằm thu hút nguồn vốn trong các tầng lớp dân cư để cung ứng vốn cho nền kinh tế và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ nhằm phục vụ sự nghiệp đổi mới của nền kinh tế.
Qua thời gian nghiên cứu học tập tại trường cùng với việc thu thập thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, em chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp mở rộng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại các NHTM” làm đề án môn học . Vì thời gian có hạn và khả năng trình độ còn hạn chế, đề tài không tránh khỏi khiếm khuyết, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thày, cô giáo và các bạn đọc quan tâm để đề tài hoàn thiện hơn.
Kết cấu của đề tài gồm :
Phần I: Lời mở đầu
Phần II: Nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường
Chương II: Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại các NHTM
Chương III: Một số giải pháp nhằm mở rộng và phát triển công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại các NHTM.
Phần III: Kết luận
Phần II: Nội dung của đề tài
Chương I
Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường
I . Ngân hàng thương mại với công tác thanh toán không dùng tiền mặt
1. Định nghĩa và đặc điểm hoạt động của Ngân hàng thương mại.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về Ngân hàng thương mại nhưng có một khái niệm được nhiều nhà kinh tế chấp nhận: “ Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng, sủ dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán “.
Trong khi thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ người cho vay này sang người đi vay, các Ngân hàng thương mại đã tự tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán, trong đó quan trọng nhất là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc - một trong những công cụ chủ yếu để tiền vận động qua ngân hàng và quá trình đó đưa lại kết quả là đại bộ phận tiền giao dịch trong giao lưu kinh tế là tiền qua ngân hàng. Do đó, hoạt động của Ngân hàng thương mại gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước đồng thời có mối liên hệ quốc tế rộng rãi. Trong thế giới hiện đại, tính cho đến thời điểm này thì Ngân hàng thương mại và cơ cấu hoạt động của nó đóng vai trò quan trọng nhất trong thể chế tài chính của mỗi nước. Hoạt động của Ngân hàng thương mại đa dạng phong phú và có phạm vi rộng lớn, trong khi các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trong một vài lĩnh vực hẹp và chuyên sâu.
2 . Chức năng của Ngân hàng thương mại
Tầm quan trọng của Ngân hàng thương mại được thể hiện qua chức năng của nó. Các chức năng của Ngân hàng thương mại có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung nó có các chức năng chủ yếu sau:
2.1 . Chức năng trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của Ngân hàng thương mại, nó có ý nghĩa đặc biệt trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thực hiện chức năng này, một mặt Ngân hàng thương mại huy động và tập trung nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay; mặt khác, trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, tiêu dùng của các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy Ngân hàng thương mại vừa là người đi vay, vừa là người cho vay, hay nói chách khác, nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay.
Vốn sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế vận động liên tục và biểu hiện các hình thái khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả ba giai đoạn: Dự trữ - sản xuất - lưu thông, từ đó sẽ tạo ra hiện tượng thừa thiếu vốn tạm thời của các doanh nghiệp tại một thời điểm. Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tín dụng sẽ đứng ra tập trung và phân phối vốn tiền tệ, điều hoà cung và cầu vốn cho các doanh nghiệp của nền kinh tế, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn.
Chức năng trung gian tín dụng của các Ngân hàng thương mại được hình thành từ rất sớm, ngay từ lúc hình thành các Ngân hàng thương mại. Ngày nay thông qua chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân.
2.2 . Chức năng làm trung gian thanh toán
Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng ngân hàng làm thủ quỹ của doanh nghiệp, tức là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Một trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng có nguồn gốc từ xa xưa đó là hoạt động thanh toán hộ cho khách hàng của mình.
Còn trong Ngân hàng thương mại, chức năng trung gian thanh toán gắn bó chặt chẽ và hữu cơ với chức năng trung gian tín dụng: ngân hàng dùng tiền gửi của người này để cho người khác vay. Xuất phát từ chức năng ngân hàng là người thủ quỹ của doanh nghiệp, ngân hàng có đủ điều kiện để thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo trong việc cất giữ và chi tiêu một cách nhanh chóng, tiện lợi, nhất là đối với các khoản thanh toán có giá trị cao. Khi Ngân hàng thương mại ra đời và phát triển, thì hầu hết các khoản thanh toán chi trả về hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế đều được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện, việc thanh toán trở nên tiện lợi, tiết kiệm được chi phí, mọi quan hệ thanh toán được thực hiện bằng cách các chủ thể kinh tế mở tài khoản tại ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực hiện các khoản chi trả hoặc uỷ nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận các khoản tiền vào tài khoản của mình.
Trong khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã tạo ra công cụ lưu thông tín dụng và độc quyền quản lý các công cụ đó ( như séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán) đã tiết kiệm được cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá.
Việc làm trung gian thanh toán của các Ngân hàng thương mại ngày nay đã phát triển rất đa dạng, không chỉ là trung gian thanh toán như trước, mà còn quản lý các phương tiện thanh toán. Với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại, các Ngân hàng thương mại từng bước trang bị hệ thống máy tính và các phương tiện kỹ thuật khác tạo điều kiện cho công tác thanh toán được nhanh chóng, giảm bớt chi phí và đạt độ chính xác cao hơn.
2.3. Chức năng tạo tiền của ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp.
Trong quá trình kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng đã phát hiện các khách hàng sử dụng giấy chứng nhận tiền gửi (chứng thư) mà ngân hàng đã cung cấp cho họ để chi trả các khoản nợ. Phát hiện này đã thúc đẩy ngân hàng đưa vào lưu thông các loại tiền giấy ngân hàng được chuyển đổi ra vàng qua nghiệp vụ tín dụng thay thế cho tiền vàng.
Vào cuối thế kỷ 19, hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ, mà tạo nên một hệ thống, trong đó Ngân hàng Trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng, là ngân hàng của các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại chuyên kinh doanh tiền tệ, nhờ hoạt động trong hệ thống các Ngân hàng thương mại đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
Quá trình tạo tiền của Ngân hàng thương mại được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với Ngân hàng trung ương. Bút tệ của các Ngân hàng thương mại tạo ra đó chính là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán qua nhiều ngân hàng.
3. Ngân hàng thương mại và thanh toán không dùng tiền mặt
Ngân hàng thương mại là ngân hàng kinh doanh tiền tệ nhằm mục tiêu cơ bản là lợi nhuận, vì vậy nên màng lưới các ngân hàng hình thành rộng khắp để thoả mãn nhu cầu tiền tệ tín dụng và thanh toán của nền kinh tế hàng hoá phát triển rộng khắp quốc gia và vươn ra quốc tế.
Nhìn lại lịch sử hình thành ban đầu của ngân hàng, chúng ta thấy dịch vụ đầu tiên mà ngân hàng cung cấp là quản lý vốn cho khách hàng, bên cạnh đó ngân hàng còn đảm bảo thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn thuận tiện cho khách hàng, do vậy tạo được sự tín nhiệm cho khách hàng, và ngân hàng đã thu hút được nguồn vốn quan trọng nhất cho hoạt đông của mình. Ngân hàng là trung tâm thanh toán cho khách hàng làm cho quá trình lưu thông hàng hoá được tiến hành một cách có hiệu quả. Nền kinh tế ngày càng phát triển thì tần số giao dịch ngày càng tăng nhanh và khối lượng tiền tệ ngày càng lớn, hoạt động kinh tế đã mở rộng ra phạm vi quốc tế. Trong điều kiện đó các doanh nghiệp không thể thanh toán trực tiếp cho nhau được, mà cần phải có sự tham gia của các ngân hàng trong nước và quốc tế. Chính vì vậy, ngân hàng trở thành trung gian thanh toán của nền kinh tế. Bởi lẽ, nếu không có sự tham gia của ngân hàng vào thanh toán thì hoạt động trao đổi lưu thông hàng hoá sẽ bị ách tắc, chậm chạp, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.
Với sự ra đời của ngân hàng, những chi trả về hàng hoá và dịch vụ cuả xã hội được thực hiện qua ngân hàng với nhiều hình thức thanh toán đơn giản, thích hợp và kỹ thuật ngày càng tiên tiến. Ngân hàng nhận làm thủ qũy cho doanh nghiệp, làm trung gian thanh toán hộ các khoản giao dịch theo yêu cầu của hai bên mua - bán, với chức năng trung gian thanh toán của Ngân hàng thương mại, mặc dù không phải là chức năng chủ đạo, nhưng nó có vai trò cực kỳ quan trọng đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng của một Ngân hàng thương mại. Nhờ có nghiệp vụ nhận tiền gửi thanh toán ngân hàng đã tạo ra nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay, hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng trung gian tín dụng bởi qua chức năng này Ngân hàng thương mại có thể huy động được nguồn vốn có chi phí thấp. Khi nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm sẽ là nhân tố chủ yếu để thu hút khách hàng giao dịch nhiều hơn với ngân hàng. Từ đó tăng qui mô huy động vốn và đẩy mạnh hoạt động đầu tư tín dụng. Trên cơ sở làm các dịch vụ thanh toán cho khách hàng, còn giúp cho ngân hàng có thể kiểm soát được tình hình sử dụng vốn, và đa dạng hoá được hoat động kinh doanh của ngân hàng...
Thanh toán không dùng tiền mặt trong Ngân hàng thương mại thường được áp dụng cho các khoản chi trả có giá trị lớn giữa các doanh nghiệp, cá nhân. Vì vậy, tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong Ngân hàng thương mại không chỉ có ý nghĩa về mặt tiết kiệm tiền mặt, chi phí lưu thông mà còn giúp cho công tác quản lý tài sản của doanh nghiệp được tốt hơn. Trên cơ sở tài khoản tiền gửi và các khoản thanh toán được thực hiện qua ngân hàng, đã giúp các doanh nghiệp và cơ quan quản lý như bộ chủ quản, cơ quan thuế có điều kiện kiểm tra theo dõi doanh thu, chi phí, xác định kết quả kinh doanh được chính xác. Đối với ngân hàng, làm tốt chức năng thanh toán không dùng tiền mặt đã tập hợp được một khối lượng vốn tiền gửi ổn định trong toàn hệ thống, vì giảm số dư tiền gửi của khách hàng này thì tăng số dư tiền gửi của khách hàng khác.
Từ những cái được trên của thanh toán không dùng tiền mặt đã tạo cho Ngân hàng thương mại áp dụng một công cụ mới, công cụ tài khoản khách hàng để theo dõi ghi chép tất cả các dịch vụ ngân hàng về tiền tệ, tín dụng và thanh toán bằng đồng tiền ghi sổ thay thế cho tiền mặt.
Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán thông qua trung gian thanh toán của ngân hàng bằng cách trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản tiền gửi thanh toán của bên chi trả sang tài khoản tiền gửi của người thụ hưởng .
Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán ở các nước kinh tế thị trường phát triển nó chiếm vị thế và vai trò cực kỳ quan trọng trong công tác thanh toán
II- Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường
1. Những vấn đề cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt :
1.1. Bản chất của thanh toán không dùng tiền mặt
Thanh toán không dùng tiền mặt là chỉ các nghiệp vụ chi trả tiền hàng, dịch vụ và các khoản khác trong nền kinh tế quốc dân được thực hiện bằng cách trích chuyển tài khoản trong hệ thống tín dụng hoặc bù trừ công nợ mà không sử dụng tiền mặt.
Thanh toán không dùng tiền mặt xuất hiện từ lâu trong trong lịch sử loài người. Tuy nhiên, nó chỉ thực sự được phát triển và hoàn thiện trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng rộng khắp trong lĩnh vực tài chính, đối nội cũng như đối ngoại, nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chu chuyển tiền tệ và được coi là cách thức thanh toán có hiệu quả nhất.
Xét về mặt bản chất, thanh toán không dùng tiền mặt phản ánh sự vận động của vật tư hàng hoá, dịch vụ lưu thông. Sự phát triển rộng khắp của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường hiện đại là yêu cầu tất yếu của sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hoá. Do đó nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, khối lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi trong nước cũng như nước ngoài tăng nhanh, tất yếu phải có cách thức trả tiền thuận tiện, an toàn và tiết kiệm.
Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt còn gắn với sự phát triển của hệ thống tài chính - tín dụng, đặc biệt là sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Sự tồn tại và phát triển của hệ thống này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân mở tài khoản tiền gửi thanh toán tiền hàng - dịch vụ thông qua việc trích chuyển tài khoản trong hệ thống này. Thanh toán không dùng tiền mặt là một phạm trù vừa mang tính chất lý thuyết trừu tượng, vừa mang tính công nghệ cụ thể:
- Đứng về mặt phạm trù lý luận, thanh toán không dùng tiền mặt là sự vận động của tiền tệ. ở đây tiền vừa là công cụ kế toán, vừa là công cụ để chuyển hoá giá trị của hàng hoá dịch vụ.
- Đứng về mặt công nghệ thì thanh toán không dùng tiền mặt là những nghiệp vụ phải thông qua nhiều giai đoạn liên hoàn, đòi hỏi những thao tác về kỹ thuật thanh toán tinh vi và phức tạp.
1.2. Đặc điểm của thanh toán không dùng tiền mặt
Thứ nhất: Trong thanh toán không dùng tiền mặt, tiền tệ và hàng hoá vận động ngược chiều với nhau.
Việc thanh toán không phải thực hiện bằng cách trao trả trực tiếp tiền – hàng giữa người mua và người bán mà được thực hiện bằng cách trích chuyển vốn từ tài khoản tiền gửi của người mua sang tài khoản của người bán sau khi hàng hoá đã hoặc đang vận chuyển từ người bán tới người mua.
Thứ hai: Thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng tiền ghi sổ hay còn gọi là tiền bút tệ.
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của thanh toán không dùng tiền mặt. Việc thanh toán được thực hiện bằng cách trích chuyển tiền từ tài khoản của người trả tiền chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng tại ngân hàng, kho bạc nhà nước hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau.
Thứ ba : Trong thanh toán không dùng tiền mặt, mỗi khoản thanh toán ít nhất có ba bên tham gia đó là: Người trả tiền, người nhận tiền và các trung gian thanh toán.
- Người trả tiền có thể là người mua hàng, người nhận dịch vụ, người nộp thuế, trả nợ hoặc người chuyển nhượng một khoản tiền nào đó do thiện chí hay do luật định. Người trả tiền đóng vai trò quyết định trong việc thanh toán. Có thể họ là người mở đầu hoặc tiếp nối trong quá trình thanh toán đã được người nhận tiền khởi xướng. Người trả tiền có nhiệm vụ phải trả đúng hạn số tiền phải trả và tôn trọng những thủ tục cần thiết như lập và nộp chứng từ thanh toán theo mẫu qui định và thời hạn qui định hoặc đã được thoả thuận trước. Người trả tiền có quyền từ chối thanh toán nếu các chủ thể khác vi phạm những cam kết hay những qui định đã thoả thuận giữa hai bên.
- Người nhận tiền hay còn được gọi là người thụ hưởng là người được hưởng một khoản tiền nào đó do đã giao hàng, cung ứng dịch vụ hoặc do luật định hoặc do thiện chí của người khác. Đối với người nhận tiền là người bán hay cung ứng dịch vụ thì cở sở để nhận tiền là các chứng từ hay hoá đơn giao hàng. Trong trường hợp người nhận tiền với tư cách là tổ chức tài chính, cơ sở nhận tiền là các quyết định, lệnh phân phối của cấp trên. Trong trường hợp người nhận tiền là các chủ nợ thì cơ sở để nhận tiền là các hợp đồng hay khế ước vay nợ.
- Các trung gian thanh toán là các tổ chức tài chính như Ngân hàng thương mại, Kho bạc nhà nước.
Khi tiến hành các nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt phải sử dụng các chứng từ thanh toán riêng. Chứng từ thanh toán là các phương tiện chuyển tải những điều kiện thanh toán và được sử dụng làm căn cứ để thực hiện việc chi trả. Chứng từ thanh toán gồm lệnh thu hoặc lệnh chi có những mức độ phức tạp khác nhau, nhưng dù sao thì mỗi chứng từ thanh toán cũng phải chứa đựng những yếu tố cơ bản như: Tên, địa chỉ người trả và người nhận, số tiền trả, lý do trả tiền, chữ ký và dấu của chủ tài khoản - kế toán trưởng hay người thừa hành trực tiếp lập chứng từ. Kèm theo lệnh chi hoặc lệnh thu có thể còn có các giấy tờ phụ trợ khác như: Giấy báo liên hàng, Bảng kê thanh toán...vv. Những chứng từ này phục vụ cho việc xử lý kế toán của các trung gian thanh toán
1.3. Những qui định có tính nguyên tắc trong thanh toán không dùng tiền mặt
Muốn tổ chức và thực hành công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, ngoài tổ chức cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán cần phải nghiên cứu sâu sắc lý luận xã hội, chế độ thể lệ thanh toán khoa học và thực tiễn đảm bảo công tác thanh toán được thực hiện thuận tiện, an toàn, chính xác và nhanh chóng. Hiện nay thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện trên cơ sở: Nghị định số 30/ CP ngày 09/05/1996 của Chính phủ ban hành về Quy chế phát hành và sử dụng séc; Thông tư số 07/TT-NH1 ngày 31/02/1994 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định số 30/CP; Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày 19/10/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng và Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (có hiệu lực từ ngày 01/01/2002). Nội dung của các văn bản pháp qui được tóm tắt thành những qui định có tính nguyên tắc sau :
1.3.1. Mở và sử dụng tài khoản thanh toán:
Tài khoản thanh toán là tài khoản do người sử dụng dịch vụ thanh toán mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để thực hiện giao dịch thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
* Mở tài khoản thanh toán
- Ngân hàng Nhà nước mở tài khoản thanh toán cho các tổ chức tín dụng trong nước, các tổ chức khác được làm dịch vụ thanh toán và các ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ, ngân hàng quốc tế.
Ngân hàng Nhà nước được mở tài khoản thanh toán tại các ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ, ngân hàng nước ngoài.
- Các tổ chức tín dụng là ngân hàng mở tài khoản thanh toán cho các tổ chức tín dụng khác, các tổ chức khác và cá nhân. Ngân hàng thương mại nhà nước mở tài khoản thanh toán cho Kho bạc nhà nước ở huyện, thị xã không phải là tỉnh lỵ
Tổ chức tín dụng mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng. Tổ chức tín dụng là ngân hàng được mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng nước ngoài khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế.
- Kho bạc Nhà nước mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước. ở huyện, thị xã không phải là tỉnh lỵ. Kho bạc Nhà nước mở tài khoản thanh toán tại một ngân hàng thương mại nhà nước.
- Các tổ chức khác được làm dịch vụ thanh toán mở tài khoản thanh toán cho người sử dụng dịch vụ thanh toán theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Người sử dụng dịch vụ thanh toán có quyền chọn ngân hàng và các tổ chức khác được làm dịch vụ thanh toán để mở tài khoản thanh toántrừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
* Sử dụng tài khoản và uỷ quyền sử dụng tài khoản.
- Chủ tài khoản có quyền sử dụng số tiền trên tài khoản thanh toán phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước và pháp luật khác có liên quan.
- Chủ tài khoản có nghia vụ tuân thủ các quy định của Nghị định này và pháp luật khác có liên quan trong việc sử dụng tài khoản thanh toán.
- Chủ tài khoản được uỷ quyền cho người khác bằng van bản sử dụng tài khoản theo quy định của pháp luật. Người được uỷ quyền có quyền hạn và nghĩa vụ như chủ tài khoản trong phạm vi uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho người thứ ba
* Sử dụng và uỷ quyền sử dụng tài khoản của đồng chủ tài khoản.
Ngoài các quy định về sử dụng tài khoản và uỷ quyền sử dụng tài khoản, việc sử dụng tài khoản của đồng chủ tài khoản còn phải tuân theo các quy định sau:
- Mọi giao dịch thanh toán trên tài khoản chỉ được thực hiệ khi có sự chấp thuận của tất cả những người là đồng chủ tài khoản.
- Đồng chủ tài khoản được uỷ quyền cho người khác sử dụng tài khoản trong phạm vi quyền và nghĩa vụ của mình. Việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản theo quy định của pháp luật.
- Trường hợp một đồng chủ tài khoản bị chết, bị tuyên bố mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì quyền sử dụng tài khoản và nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài khoản của người đó được thựchiện theo quy định của pháp luật.
* Tài khoản thanh toán, điều kiện, thủ tục mở và sử dụng tài khoản thanh toán
Loại tài khoản thanh toán, tính chất tài khoản thanh toán, điều kiện, thủ tục mở và sử dụng tài khoản thanh toán do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước và các quy định khác của pháp luật.
* Phong toả tài khoản
Tài khoản thanh toán bị phong toả một phần hoặc toàn bộ số tiền có trên tài khoản trong các trường hợp sau:
+ Khi có sự thoả thuận giữa chủ tài khoản và người cung ứng dịch vụ thanh toán;
+ Khi có quyết dịnh hoặc yêu cầu bằng văn bản của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định;
Việc phong toả tài khoản thanh toán chấm dứt khi:
+ Kết thúc thời hạn thoả thuận phong toả tài khoản giữa chủ tài khoản và tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán;
+ Người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật ra quyết định hoặc yêu cầu chấm dứt việc phong toả.
+ Theo quy định của pháp luật.
* Đóng tài khoản
Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đóng tài khoản thnah toán trong các trường hợp sau:
+ Khi chủ tài khoản yêu cầu;
+ Khi cá nhân có tài khoản bị chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự;
+ Khi tổ chức có tài khoản chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật.
Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được quyền quyết định việc đóng tài khoản khi chủ tài khoản vi phạm pháp luật trong thanh toán hoặc vi phạm thoả thuận với tổ chức ung ứng dịch vụ thanh toán; hoặc khi tài khoản có số dư thấp và không hoạt động trong thời hạn nhất định theo quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
1.3.2. Đảm bảo khả năng thanh toán
Người sử dụng dịch vụ thanh toán phải bảo đảm có đủ tiền trên tài khoản thanh toán để thực hiện lệnh thanh toán mà mình đã lập, trừ trường hợp có thoả thuận thấu chi với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
1.3.3. Thực hiện lệnh thanh toán
Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ, kịp thời lệnh thanh toán của người sử dụng dịch vụ thanh toán phù hợp với quy định hoặc thoả thuận của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đối với người sử dụng dịch vụ thanh toán nhưng không trái pháp luật.
1.3.4. Phí dịch vụ thanh toán
Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được quyền thu phí của người sử dụng dịch vụ thanh toán
1.3.5 . Chứng từ thanh toán:
Tất cả các chứng từ thanh toán của các chủ thể thanh toán đều phải lập trên mẫu in sẵn do ngân hàng in và nhượng bán. Những chứng từ đó phải lập đủ liên, viết rõ ràng không tẩy xoá và phải nộp vào ngân hàng theo đúng qui định. Các ngân hàng có quyền từ chối thanh toán hoặc không chấp nhận thanh toán trong trường hợp chủ thể thanh toán vi phạm một trong những qui định của chế độ thanh toán hiện hành.
1.3.6. Trách nhiệm của ngân hàng:
Các ngân hàng có trách nhiệm hướng dẫn cho khách hàng làm các thủ tục thanh toán, giám sát khả năng chi trả của khách hàng, cung cấp đầy đủ và kịp thời các loại giấy tờ thanh toán cần thiết cho khách hàng theo chế độ qui định. Các ngân hàng có trách nhiệm thông báo và đối chiếu thường xuyên với các chủ tài khoản về số dư tài khoản tiền gửi.
Khi nhận được các chứng từ thanh toán của khách hàng gửi đến, các ngân hàng phải kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản trước khi thực hiện thanh toán và có quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ tiền. Ngân hàng phải thanh toán kịp thời, chính xác và đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng. Nếu do thiếu sót gây thiệt hại cho khách hàng thì ngân hàng phải bồi thường vật chất cho bên bị hại và tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo pháp luật. Khi thực hiện dịch vụ thanh toán cho khách hàng, ngân hàng được thu phí theo qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Trên đây là một số qui định có tính nguyên tắc cơ bản nhằm mục đích vừa đảm bảo cho quá trình thanh toán được thực hiện đúng đắn, vừa đảm bảo cho sự kiểm soát bằng đồng tiền của hệ thống ngân hàng đối với các hoạt động của các chủ thể thanh toán có hiệu quả.
2- Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam hiện nay:
Hiện nay, trên thế giới người ta đã nghiên cứu và áp dụng nhiều hình thức thanh toán không dùng tiền mặt rất đa dạng và phong phú. Nhưng ở mỗi nước tuỳ theo mô hình kinh tế, trình độ quản lý, tuỳ theo mức độ hoàn thiện và hiệu năng của hệ thống ngân hàng, người ta lựa chọn một số hình thức và cụ thể hoá cho phù hợp với điều kiện, đặc thù của mỗi nước.
ở Việt Nam hiện nay, nền kinh tế cơ bản đã chuyển sang nền kinh tế thị trường. Vị trí, vai trò chức năng của doanh nghiệp, của Ngân hàng thương mại và của Ngân hàng trung ương đã thay đổi theo mô hình kinh tế thi trường. Chính vì vậy, chế độ thanh toán không dùng tiền mặt cũng được hoàn thiện hơn để phù hợp với thực tiễn.
Thanh toán không dùng tiền mặt được quy định trong Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ bao gồm những hình thức sau :
Hình thức thanh toán bằng séc.
Hình thức thanh toán bằng lệnh chi hoặc uỷ nhiệm chi.
Hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu
Hình thức thanh toán bằng thẻ thanh toán
Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng
Trong đó, hình thức thanh toán bằng séc tuân theo Nghị định số 30/CP ngày 09/5/1996 của Chính phủ và Thông tư hướng dẫn số 07/TT-NH1 ngày 31/02/1994 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2.1. Thanh toán bằng séc
Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu do Ngân hàng nhà nước qui định yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên séc hay người cầm tờ séc đó.
Séc là một loại chứng từ thanh toán được áp dụng rộng rãi ở tất cả các nước trên thế giới, qui định sử dụng séc đã được chuẩn hoá trên luật thương mại quốc gia và trên công ước quốc tế.
Nghị định 30/CP của Chính phủ quy định rõ ở Việt Nam được phép lưu hành các loại séc vô danh và séc ký danh được phép chuyển nhượng thông qua thủ tục ký hậu chuyển nhượng. Nghị định 30/CP ra đời đã đánh dấu một bước chuyển biến có ý nghĩa kinh tế lớn trong việc sử dụng séc ở Việt Nam. Theo nghị định này, séc không còn là một công cụ chuyển khoản đơn thuần mà còn phát huy được vai trò là công cụ lưu thông.
Séc được dùng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ nộp thuế trả nợ...vv, hoặc được dùng để rút tiền mặt tại các chi nhánh ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng đều có quyền sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn hiệu lực của tờ séc là 15 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành séc đến ngày người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng (gồm cả ngày chủ nhật và ngày lễ).
Một tờ séc đủ điều kiện để thanh toán là tờ séc đảm bảo các yếu tố sau:
- Tờ séc phải có đủ các yếu tố và nội dung quy định, không bị tẩy xoá, sửa chữa, số tiền bằng chữ và bằng số phải khớp nhau.
- Tờ séc phải nộp trong thời gian hiệu lực thanh toán.
- Không có lệnh đình chỉ thanh toán.
- Chữ ký và mẫu dấu ( nếu có ) của người phát hành sécphải khớp đúng với mẫu đã đăng ký tại ngân hàng.
- Không ký phát hành séc vượt quá thẩm quyền quy định tại văn bản uỷ quyền.
- Tài khoản tiền gửi của Chủ tài khoản đủ số dư để thanh toán.
- Các chữ ký chuyển nhượng (đối với séc ký danh) phải liên tục.
ở Việt Nam hiện nay có các loại séc sau : Séc dùng để lĩnh tiền mặt, séc chuyển khoản, séc bảo chi ( Nếu khách hàng yêu cầu ).
2.1.1. Séc lĩnh tiền mặt
Séc lĩnh tiền mặt là loại séc chỉ được dùng để rút tiền mặt tại ngân hàng nơi đơn vị mở tài khoản.
Séc dùng để lĩnh tiền mặt khi có hai đường song song chéo góc ở phía trên bên trái hoặc không có chữ “ chuyển khoản “ ở mặt trước tờ séc.
Khi có nhu cầu lĩnh tiền mặt người phát hành séc phải ghi tên pháp nhân (hoặc cá nhân), địa chỉ hoặc số hiệu tài khoản và tên ngân hàng vào nơi quy định của mặt trước tờ séc. Khi lĩnh tiền mặt, người lĩnh tiền phải nộp vào ngân hàng nơi phát hành séc tờ séc lĩnh tiền mặt ghi đầy ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0832.doc