Thực trạng & Giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước

Mục Lục Trang Lời mở đầu 4 CHƯƠNG 1: Một Số Vấn Đề Lý Luận Về Đầu TƯ Và Khuyến Khích Đầu TƯ TRONG Nước. 1.1 Những khái niệm cơ bản về đầu tư: 1.1.1 Khái niệm và vai trò của đầu tư, vốn đầu tư : 6 1.1.2 Phân loại đầu tư, vốn đầu tư: 8 1.2 Vai trò của đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư trong nước: 1.2.1 Vai trò của đầu tư trong nước: 11 1.2.2 Vai trò của khuyến khích đầu tư trong nước: 14 1.3 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về khuyến khích đầu tư trong nước: 1

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1382 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.3.1 Các biện pháp và chính sách huy động vốn đầu tư trong nước của một số nước trên thế giới. 15 1.3.2 Kinh nghiệm quốc tế về KKĐTTN: 16 CHƯƠNG 2: Thực Trạng Khuyến Khích Đầu TƯ TRONG Nước 2.1 Thời kỳ 1995 đến 1999: 2.1.1 Nội dung chính của Luật và các văn bản dưới luật về KKĐTTN trong thời kỳ này: 25 2.1.2. So sánh Luật KKĐTTN và Luật đầu tư nước ngoài: 33 2.1.3. Đánh giá chung về thực trạng khuyến khích đầu tư trong nước thời kỳ này: 35 2.1.3.1 Thời kỳ thực hiện Luật KKĐTTN và Nghị định 29/CP (từ 1-1-1995 đến 30-1-1998): 35 2.1.3.2 Thời kỳ thực hiện Nghị định 07/CP (từ 30-01-1998 đến 31-12-1998): 41 2.2. Thời kỳ 1999 đến nay: 2.2.1 Những thay đổi của Luật KKĐTTN (sửa đổi) số 03/1998/QH10 so với Luật KKĐTTN cũ: 42 2.2.2 Những kết quả đạt được từ khi có Luật KKĐTTN (sửa đổi): 44 2.2.3 Đánh giá về các biện pháp hỗ trợ đầu tư: 56 2.2.4 Những vướng mắc cần tháo gỡ trong quá trình thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi): 61 2.2.4.1. Những vướng mắc từ chính bản thân Luật và các văn bản pháp qui hướng dẫn thi hành Luật: 61 2.2.4.2. Những vướng mắc từ khâu thực hiện Luật: 63 Chương 3: một số khuyến nghị về giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước. 3.1. Định hướng quan điểm KKĐTTN: 71 3.2. Những khuyến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho KKĐTTN: 3.3. Những khuyến nghị nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh: 74 3.4. Những khuyến nghị nhằm đưa Luật KKĐTTN (sửa đổi) đi vào cuộc sống: 76 3.5. Các giải pháp nhằm khuyến khích mạnh đầu tư của khu vực kinh tế dân doanh: 77 3.6. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ đầu tư: 79 Kết luận 82 Phụ lục 1: Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật KKĐTTN ban hành ngày 22-6-1994. 84 Phụ lục 2: Các văn bản pháp hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) ban hành ngày 20-5-1998. 86 Tài Liệu tham khảo 88 Lời mở đầu Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II (1945), nền kinh tế toàn cầu đã có nhiều thay đổi với những bước thăng, trầm đáng nhớ. Châu á, bên cạnh những thành công về chiến lược phát triển của Nhật Bản, các nước NICs, Trung Quốc v.v. cũng phải gánh chịu những cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế, chính trị. Những cuộc khủng hoảng đó như một hồi chuông cảnh báo về sự cần thiết của phát triển bền vững. Nhìn lên bản đồ Châu á cũng như toàn thế giới có thể thấy rằng, tất cả những nước phát triển mà phụ thuộc quá nhiều vào nước ngoài thì sớm hay muộn cũng bị lệ thuộc về kinh tế, rối loạn về chính trị. Đó là bài học thực tế, trên lý thuyết cũng có những kết luận tương tự. Một đất nước muốn phát triển bền vững thì cần phát triển dựa trên nội lực là chính, ngoại lực chỉ có tác dụng như một cú hích, nhằm phát phát huy tốt hơn nội lực mà thôi. Sau hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả rất đáng phấn khởi: tốc độ tăng trưởng luôn đạt mức cao trong khu vực cũng như trên thế giới, đời sống nhân dân được cải thiện v.v. Những kết quả đó có phần đóng góp không nhỏ của hoạt động đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, những năm gần đây, do biến động của nền kinh tế thế giới, nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đang giảm sút. Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, việc huy động nội lực cho phát triển kinh tế đang là một vấn đề có tính chất thời sự. Đó chính là lý do chính mà tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước” . Trong luận văn của mình, tôi muốn đề cập đến thực trạng, cơ chế chính sách luật pháp của Nhà Nước về khuyến khích đầu tư trong nước nhằm khuyến nghị những giải pháp tiếp tục đổi mới và tăng cường hoạt động đầu tư trong nước. Tuy nhiên, do vấn đề rộng và khá phức tạp, tôi chỉ nghiên cứu việc thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước từ năm 1995 trở lại đây. Khoá luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, thống kê kinh tế, phân tích hoạt động kinh tế v.v. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lY luận về đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư trong nước. Chương II: thực trạng khuyến khích đầu tư trong nước. Chương III: một số khuyến nghị về giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước. Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo THS. Nguyễn Thu Hà và bác Nguyễn Thị Thanh Chung và các cô, chú ở Vụ Doanh nghiệp – Bộ Kế Hoạch và đầu tư đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. CHƯƠNG 1: Một Số Vấn Đề Ly Luận Về Đầu TƯ Và Khuyến Khích Đầu TƯ TRONG Nước. 1.1. Những khái niệm cơ bản về đầu tư: 1.1.1 Khái niệm và vai trò của đầu tư, vốn đầu tư: Trong điều kiện của nền sản xuất hàng hoá, để tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì điều kiện không thể thiếu là phải có tiền. Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tiền này được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị v.v. (tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật); mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động trong chu kỳ sản xuất kinh doanh dịch vụ đầu tiên (tạo vốn lưu động gắn liền với sự hoạt động của các TSCĐ vừa tạo ra). Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang hoạt động, tiền này dùng để mua sắm thêm các máy móc thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng, tăng vốn lưu động nhằm mở rộng quy mô hoạt động hiện có, sửa chữa hoặc mua sắm các TSCĐ mới thay thế các TSCĐ đã bị hư hỏng, hao mòn hữu hình (là các hao mòn do quá trình sử dụng và do tác động của khí hậu, thời tiết) và vô hình (khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng làm cho nhiều TSCĐ trở nên lạc hậu không còn thích hợp với điều kiện mới, nếu tiếp tục sử dụng sẽ không có hiệu quả). Vì số tiền cần thiết cho hoạt động đầu tư là rất lớn nên không phải cơ sở sản xuất kinh doanh nào cũng có đủ tiền để tiến hành hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, họ có thể huy động từ nhiều nguồn khác như: vay ngân hàng; vay bạn bè, người thân; mời cơ sở khác hợp tác đầu tư, vay từ bạn hàng v.v. Từ đây, ta có thể rút ra định nghĩa về vốn đầu tư và nguồn gốc của vốn đầu tư như sau: Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực lớn hơn cho nền sản xuất xã hội. Quá trình sử dụng vốn đầu tư xét về mặt bản chất chính là quá trình thực hiện sự chuyển hoá vốn bằng tiền (vốn đầu tư) thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt. Quá trình này được gọi là hoạt động đầu tư hay đầu tư vốn. Do đó, ta có khái niệm về đầu tư như sau: Đầu tư được hiểu là sự hi sinh hay chi dùng các nguồn lực (về tài chính, lao động, vật chất, tài nguyên thiên nhiên v.v.) trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai. Hoạt động đầu tư rất phong phú và đa dạng nhưng xét về bản chất và phạm vi lợi ích mà chúng đem lại, hoạt động đầu tư bao gồm 3 bộ phận: đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và đầu tư phát triển. Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Hình thức đầu tư này không tạo tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá, sau đó bán lại với giá cao hơn nhằm mục đích thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Cũng như đầu tư tài chính, đầu tư thương mại không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của người đầu tư, nhưng nó lại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá, thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn. Đầu tư phát triển là một bộ phận cơ bản của đầu tư, là quá trình chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn hiện vật; là quá trình chi dùng vốn nhằm tạo ra những yếu tố cơ bản của sản xuất, kinh doanh dịch vụ, đời sống, tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới và duy trì tiềm lực sẵn có của nền kinh tế. Như vậy chỉ có đầu tư phát triển mới tạo ra tài sản và của cải vật chất cho nền kinh tế. Ta thấy rằng: không có một cơ sở sản xuất kinh doanh nào có thể tồn tại và phát triển nếu không có hoạt động đầu tư. Còn đối với toàn bộ nền kinh tế, hoạt động đầu tư cũng đóng một vai trò quan trọng, là một nhân tố then chốt thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia. Bởi vì hoạt động đầu tư tác động đến cả tổng cung tổng cầu; đến tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tạo điều kiện tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước v.v. Có thể nói, đầu tư là động lực cho sự phát triển của mỗi doanh nghiệp cũng như mỗi quốc gia. 1.1.2. Phân loại đầu tư, vốn đầu tư: Để tiện cho việc theo dõi, quản lý, nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư, người ta thường phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu chí như: - Theo tính chất của các đối tượng đầu tư hoạt động đầu tư gồm : đầu tư cho đối tượng vật chất, tài chính, đối tượng phi vật chất. - Theo cơ cấu tái sản xuất hoạt động đầu tư gồm: đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu. - Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động đầu tư có thể chia thành: đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp. - Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội, hoạt động đầu tư có thể chia thành: đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. - Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư, hoạt động đầu tư được phân chia thành: đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các TSCĐ, đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động. Nhưng nếu xét trên bình diện quốc gia người ta thường phân chia hoạt động đầu tư thành đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đầu tư trong nước, theo Điều 2 – Luật KKĐTTN, là việc bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam của các tổ chức, công dân Việt Nam , người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam. Còn đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư. Đầu tư nước ngoài thường được chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Cũng theo Luật KKĐTTN, khuyến khích đầu tư trong nước được hiểu là việc sử dụng các cơ chế, chính sách, biện pháp nhằm kích thích quá trình bỏ vốn vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn trên cơ sở chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ của đất nước. Các nguồn lực cho hoạt động đầu tư bao gồm: nguồn lực về tài chính (vốn tiền tệ), nguồn lực về con người (nhân lực), nguồn lực về máy móc thiết bị (vật lực), nguồn tài nguyên thiên nhiên v.v. Các nguồn lực này có mối quan hệ chặt chẽ và trong một điều kiện nhất định có thể chuyển hoá, thay thế lẫn nhau. Trong đó thì nguồn vốn tiền tệ là quan trọng nhất, vì nó có thể dùng để lượng hoá cho các nguồn lực còn lại. Ngày nay, một diện tích đất đai có vị thế quan trọng, những phát minh sáng chế hay hàng triệu tấn dầu thô vừa được khai thác đều có thể tương đương với một lượng tiền tệ nhất định. Cũng như hoạt động đầu tư, người ta thường phân chia nguồn vốn cho đầu tư thành 2 nguồn chính là: + Nguồn vốn trong nước, được huy động từ các nguồn: - Tiết kiệm của chính phủ (tạo vốn qua Ngân sách): đây là nguồn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt động đầu tư trong nước. Nguồn này chủ yếu được tập trung cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, đầu tư phát triển một số công trình công nghiệp then chốt, các công trình công cộng hay các công trình liên quan đến an ninh quốc gia v.v. - Tiết kiệm của doanh nghiệp và tổ chức: nguồn này được lấy chủ yếu từ quỹ khấu hao của các doanh nghiệp. Nó thường được đầu tư vào những lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao, thâm nhập thị trường quốc tế hay nâng cao khả năng cạnh tranh của cơ sở v.v. - Tiết kiệm của khu vực dân doanh: đây là nguồn vốn khá lớn có khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư trong tương lai nhưng chưa được huy động hiệu quả. ở nước ta, nguồn vốn của khu vực này mới chỉ chú trọng vào thu hút tiền gửi tiết kiệm mà chưa chú trọng vào khuyến khích người dân bỏ tiền ra đầu tư. + Nguồn vốn nước ngoài: - Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài: là nguồn vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức và cá nhân nước ngoài v.v. được thực hiện dưới các hình thức khác nhau như: viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi, mua cổ phiếu, trái phiếu của các công ty của Việt Nam. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp là viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển – ODA. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn, cho nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường gắn với những điều kiện về chính trị do đó dễ bị lệ thuộc vào nước ngoài. - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): là nguồn vốn do các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Vốn này thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế – xã hội của nước chủ nhà. Tuy nhiên, nó lại tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển giao công nghệ, giải quyết công ăn việc làm, thâm nhập thị trường quốc tế, học hỏi kinh nghiệm quản lý v.v. của nước chủ nhà. Việt Nam là một trong những nước nghèo trên thế giới, còn thiếu thốn về mọi mặt, từ vốn tiền tệ, máy móc thiết bị v.v. đến đội ngũ nhân lực có trình độ cao. Tuy nhiên, dân tộc ta là một dân tộc hiếu học, có tinh thần yêu nước mạnh mẽ, không chịu khuất phục trước bất kỳ khó khăn nào. Nhận thức được vị thế cũng như những khó khăn của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách và biện pháp cụ thể để huy động mọi nguồn lực cho phát triển đất nước, để đến năm 2020, cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá - theo văn kiện Đại hội Đảng IX. Muốn đạt được điều đó, cũng theo văn kiện Đại hội Đảng IX, thì chúng ta phải cần khoảng 830 - 850 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2000) tương đương 59-61 tỷ USD trong thời gian 5 năm 2001-2005, trong đó nguồn vốn trong nước chiếm 2/3, mỗi năm phải tăng từ 11-12%. Do đó, vai trò của đầu tư trong nước và chính sách KKĐTTN càng có vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn này. 1.2. Vai trò của đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư trong nước: 1.2.1. Vai trò của đầu tư trong nước: Như đã trình bày ở phần trên, hoạt động đầu tư có một vai trò hết sức quan trọng. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển đối với từng cơ sở sản xuất kinh doanh cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế. Trên bình diện quốc gia, hoạt động đầu tư có thể chia thành 2 hoạt động chính là: đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Là một nước đang phát triển, có nhu cầu đầu tư rất lớn, Nhà Nước ta đã có chủ trương tận dụng tối đa nguồn vốn đầu tư nước ngoài đồng thời tăng cường phát huy nội lực, dựa vào nguồn vốn đầu tư trong nước là chính. Bởi vì, đầu tư trong nước đóng vai trò quyết định cho công cuộc phát triển đất nước. Điều này đã được cả lý luận và thực tế chứng minh. Thứ nhất, xét về mối quan hệ biện chứng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế đã chỉ ra rằng: vốn đầu tư nước ngoài có vai trò rất quan trọng nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình tăng trưởng, đặc biệt là đối với các nước chậm phát triển, với các nguồn vốn tích luỹ trong nước còn thấp, bắt buộc phải tranh thủ nguồn vốn bên ngoài. Nó được ví như “cú hích” đột phá vào cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói, tạo điều kiện cho nền kinh tế cất cánh. Mặc dù nguồn vốn nước ngoài là rất quan trọng song nguồn vốn đầu tư trong nước vẫn đóng vai trò quyết định. Bởi lẽ, nguồn vốn đầu tư nước ngoài dù có lớn đến đâu nữa nếu không có các nguồn vốn đầu tư do sự tích luỹ từ nội tại nền kinh tế thì nguồn vốn từ nước ngoài cũng không thể sử dụng có hiệu quả. Mặt khác, đầu tư trong nước vừa đảm bảo tăng trưởng ổn định, lại vừa tránh được sự phụ thuộc vào nước ngoài. Tuy đầu tư nước ngoài là vô cùng quan trọng, nhưng không thể thực hiện tốt mục tiêu CNH, HĐH đất nước nếu chỉ trông chờ vào đầu tư nước ngoài. Vì họ chỉ đầu tư vào các ngành, khu vực có nhiều thuận lợi để khai thác các lợi thế của Việt Nam. Khi không còn kiếm được lợi nhuận họ sẽ ngay lập tức rút khỏi nước ta. Đầu tư trong nước có một tiềm năng to lớn và ít biến động hơn dưới ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài, cần và có thể đóng vai trò chủ đạo, nhất là trong điều kiện đầu tư nước ngoài đang giảm sút nghiêm trọng như hiện nay. Còn nếu xét trên tầm vi mô, cùng với vốn bên ngoài, nhất thiết phải có vốn “đối ứng” bên trong mới có thể triển khai công trình thuận lợi. Thêm vào đó, cần có cả vốn cho các công trình “ngoài hàng rào” như đầu tư vào cơ sở hạ tầng: điện, cấp thoát nước, thông tin liên lạc và hạ tầng xã hội khác. Theo như kinh nghiệm các nước, nếu vốn đầu tư cho nhà máy là 1 thì vốn đầu tư ngoài hàng rào cho các công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội cũng phải nhiều hơn, có khi 2 –3 lần. Do đó, dù là công trình vay vốn nước ngoài thì vốn trong nước cũng rất quan trọng. Thứ hai, trong lịch sử phát triển các nước và trên phương diện lý luận chung, bất cứ nước nào cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là chính. Sự chi viện, bổ sung từ nước ngoài, dù là viện trợ, cho vay hay đầu tư của nước ngoài cũng chỉ là tạm thời. Nếu bản thân nền kinh tế không có tiết kiệm nội bộ, thì đó là nền kinh tế “tiêu hao”, ăn dần mòn vào của cải, kết cục sẽ đi vào con đường bế tắc cho sự phát triển. Vốn ODA là vốn vay thì cuối cùng cũng phải dùng vốn trong nước để thanh toán nợ gốc và trả lãi. Việc dùng vốn FDI cũng chỉ là phần bổ sung, không thể thay thế cho đầu tư và sản xuất trong nước. Hơn nữa, trong thời kỳ dài hạn, nguồn của cải làm ra phải dành một phần cho chuyển lãi và vốn gốc ra nước ngoài, nên việc thiếu vốn vẫn căng thẳng. ở Việt Nam những năm (1966-1990), khi tích luỹ nội bộ nền kinh tế là con số âm thì cũng đồng thời là thời kỳ phát triển kinh tế bấp bênh, mất cân đối nghiêm trọng. Khi nền kinh tế có mức tích luỹ nội bộ ngày càng cao (từ 1991 đến nay) thì đồng thời nhịp độ tăng trưởng kinh tế cũng tăng lên và tạo điều kiện cho phát triển dài hạn. Thứ ba, nếu xét về mặt lợi ích dân tộc, nếu không có vốn trong nước đủ mức, xét về lâu dài khối lượng của cải làm ra (thông qua chỉ tiêu GDP) có thể lớn, nhưng của cải thực sự mà nhân dân ta được hưởng thụ lại rất ít. Thành ra, nền kinh tế có vẻ phồn vinh , sản phẩm có vẻ dồi dào, nhưng là phồn vinh giả do của cải không vào tay nhân dân trong nước. Hiện nay, tỷ lệ góp vốn của bên Việt Nam vào các liên doanh chỉ giậm chân ở mức 30% như hiện nay cũng do tình trạng thiếu vốn đối ứng trong nước. Không ít xí nghiệp phải dùng quỹ đất đưa vào góp vốn, phần thiếu lại đi vay nợ nước ngoài để đóng góp vốn cho các liên doanh. 1.2.2 Vai trò của khuyến khích đầu tư trong nước: Tuy nhiên, để đầu tư trong nước thể hiện được vai trò của mình, thì điều kiện không thể thiếu được là phải có một cơ chế, chính sách phù hợp tạo động lực khuyến khích đầu tư trong nước. Cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư này cũng có vai trò không kém phần quan trọng. Thứ nhất, nó tạo điều kiện huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, tài nguyên, lao động và các tiềm năng khác của đất nước nhằm góp phần phát triển kinh tế – xã hội. Thứ hai, nó góp phần phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các vùng, địa phương trong cả nước. Thứ ba, nó thể hiện vai trò quản lý Nhà Nước về kinh tế đối với hoạt động đầu tư. Bằng các qui định về luật pháp, các đòn bẩy kinh tế, Nhà Nước quản lý các hoạt động đầu tư trong nước theo hướng có lợi nhất cho sự phát triển kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội. Từ những lý do trên, rõ ràng là đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư trong nước có một ý nghĩa quyết định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. 1.3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về khuyến khích đầu tư trong nước: Kinh nghiệm thành công của nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng không một nước nào có thể phát triển kinh tế thành công nếu chỉ dựa vào vốn nước ngoài. Nếu như trong giai đoạn đầu, khi đất nước còn nghèo và chưa phát triển, tỷ lệ vốn nước ngoài có thể cao, song toàn bộ quá trình CNH – HĐH, cùng với quá trình phát triển, tỷ lệ vốn nước ngoài thường thấp hơn so với vốn trong nước. Nhưng việc đánh giá đúng vai trò và mối quan hệ giữa chiến lược thu hút vốn trong nước và vốn nước ngoài trong từng thời kỳ nhất định không phải là công việc đơn giản. Xuất phát từ luận điểm trên, tôi xin trình bày một số biện pháp khuyến khích đầu tư được coi là thành công của các nước Châu á, từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc KKĐTTN ở nước ta. 1.3.1 Các biện pháp và chính sách huy động vốn đầu tư trong nước của một số nước trên thế giới: Một trong những biện pháp huy động vốn đầu tư mà hầu hết các nước trên thế giới đều áp dụng là ban hành và thực thi Luật thúc đẩy (hay khuyến khích đầu tư). Nhìn chung, các đạo Luật này đều nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động đầu tư trong toàn bộ nền kinh tế, đồng thời nó cũng hướng đầu tư vào một số lĩnh vực ưu tiên phát triển của đất nước. 1.3.1.1 Malaysia: ở Malaysia, các biện pháp ưu đãi và khuyến khích đầu tư được quy định chủ yếu trong Luật khuyến khích đầu tư ban hành năm 1986 và Luật Thuế thu nhập công ty năm 1967. Malaysia quy định chế độ khuyến khích và ưu đãi đầu tư cho từng lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp và du lịch. Trong ưu đãi từng ngành, có biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư chung và ưu đãi đầu tư theo mục tiêu. 1.3.1.1.1 Đối với ngành công nghiệp: Các biện pháp ưu đãi chung bao gồm: Miễn thuế lợi tức tối đa 10 năm cho các dự án thuộc loại ưu tiên; có thể được hưởng trợ cấp đến 100% số vốn đầu tư thực hiện trong 5 năm đầu, kể từ khi thông qua dự án; trợ cấp cho tái đầu tư với mức tối đa là 40% số vốn tái đầu tư. Ngoài ra, Malaysia còn có các biện pháp khuyến khích đầu tư cho xuất khẩu (như cấp tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, khấu trừ ra khỏi lợi tức chịu thuế một khoảng bằng 5% giá trị nguyên liệu trong nước được sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, tính gấp đôi phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu, tính gấp đôi phí khuyến mại, quảng cáo, nghiên cứu và tìm kiếm thị trường ở nước ngoài v.v.); các biện pháp khuyến khích đầu tư nghiên cứu và phát triển (khấu trừ mọi chi phí nghiên cứu khoa học do công ty thực hiện hoặc được thực hiện nhân danh công ty, nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty, ra khỏi lợi tức chịu thuế, trợ cấp vốn cho việc mua máy móc, thiết bị phục vụ cho nghiên cứu khoa học, khấu trừ ra khỏi lợi tức chịu thuế các khoản đóng góp cho các viện nghiên cứu được Nhà Nước thừa nhận); các biện pháp khuyến khích cho đào tạo (trợ cấp xây dựng nhà xưởng cho công tác đào tạo, tính gấp đôi chi phí đào tạo công nhân ở các viện đào tạo được Nhà Nước công nhận). 1.3.1.1.2 Đối với ngành nông nghiệp: Các biện pháp ưu đãi chung bao gồm: miễn thuế lợi tức tối đa 10 năm cho các công ty chế biến sản phẩm nông nghiệp hoặc có đủ điều kiện do Bộ Thương mại và Công nghiệp quy định; được trợ cấp đến 100% chi tiêu đầu tư thực hiện trong 5 năm đầu (chi đầu tư bao gồm cả: chi dọn sạch và chuẩn bị đất; thi công mặt bằng; chi xây dựng hệ thống thuỷ lợi hoặc tưới nước; chi xây dựng đường và cầu cống; chi xây dựng nhà cửa và công trình phúc lợi cho công nhân) Ngoài ra, lĩnh vực này cũng có các biện pháp khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích nghiên cứu và phát triển và khuyến khích đào tạo như đối với công nghiệp. Như vậy, đối với 2 lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế (công nghiệp và nông nghiệp), ngoài các biện pháp ưu đãi chung, Malaysia còn tập trung khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực xuất khẩu, nghiên cứu và phát triển, đào tạo. Điều này thể hiện quan điểm dựa vào nội lực để phát triển khoa học – kỹ thuật và đội ngũ công nhân kỹ thuật cao của Malaysia. 1.3.1.1.3 Đối với ngành du lịch: Các biện pháp ưu đãi chung giống như đối với ngành công nghiệp. Đó là: miễn thuế lợi tức tối đa 10 năm cho các dự án thuộc loại ưu tiên; có thể được hưởng trợ cấp đến 100% số vốn đầu tư thực hiện trong 5 năm đầu, kể từ khi thông qua dự án; trợ cấp cho tái đầu tư với mức tối đa là 40% số vốn tái đầu tư. Ngoài ra, những người thực hiện du lịch lữ hành hàng năm đưa vào Malaysia ít nhất 500 khách du lịch thì được miễn thuế thu nhập đối với phần thu nhập thu được từ kinh doanh du lịch theo hình thức này. Ngoài chế độ ưu đãi riêng cho từng ngành như trên , đạo Luật này còn quy định một số biện pháp khuyến khích đầu tư chung cho tất cả các ngành như miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị nhập khẩu phục vụ cho các dự án đầu tư, các nguyên liệu, vật liệu để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu; hoàn thuế doanh thu đối với nguyên liệu, vật tư sản xuất trong nước được sử dụng sản xuất hàng xuất khẩu hoặc đóng gói hàng xuất khẩu. 1.3.1.2. Inđônêxia: ở Inđônêxia, các biện pháp ưu đãi chủ yếu quy định trong Luật về đầu tư trong nước (ban hành 1968) bao gồm: - Vốn đầu tư được thực hiện trong 5 năm đầu kể từ khi Luật này có hiệu lực, không bị điều tra về nguồn gốc, không phải là đối tượng đánh thuế. - Miễn thuế tài sản đối với vốn đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên. - Thời hạn miễn thuế lợi tức tối đa cho một dự án là 6 năm và tối thiểu là 2 năm. - Miễn thuế thu nhập đối với lợi tức cổ phần trong thời hạn tương ứng. - Hoàn thuế lợi tức đối với lợi nhuận tái đầu tư. - Miễn, giảm thuế nhập khẩu đối với tư liệu nhập khẩu. - Các chế độ giảm thuế lợi tức khác. 1.3.1.3. Thái Lan: ở Thái Lan, Luật thúc đẩy đầu tư được ban hành năm 1977 và được sửa đổi lại vào năm 1992. Luật này có điểm khác biệt so với luật của các nước khác là nó áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Luật này quy định các tiêu chuẩn chủ yếu để được cấp ưu đãi đầu tư (như số vốn và nguồn vốn đầu tư; loại sản phẩm, dịch vụ; mức độ sử dụng nguyên liệu trong nước; mức độ sử dụng công nhân và chuyên gia trong nước; bảo vệ môi trường; ưu đãi đặc biệt cho sản xuất hàng xuất khẩu v.v.); các biện pháp ưu đãi chủ yếu (miễn thuế lợi tức từ 3 đến 8 năm, miễn giảm thuế nhập khẩu, miễn thuế thu nhập cổ phần v.v). Ngoài ra còn có các ưu đãi riêng cho các dự án đầu tư vào các vùng ưu tiên đầu tư (giảm 50 % thuế lợi tức trong 5 năm tiếp theo kể từ khi hết hạn miễn thuế, khấu trừ thuế v.v.) và các dự án sản xuất hàng xuất khẩu (miễn thuế, khấu trừ thuế v.v.). 1.3.1.4. Đài Loan: ở quốc đảo này, biện pháp khuyến khích chủ yếu là khuyến khích về thuế (khấu hao nhanh để đổi mới thiết bị, cho nợ thuế để đầu tư, miễn thuế lợi tức, áp dụng mức thuế tối đa v.v. cho từng loại doanh nghiệp khác nhau). Ngoài ra, ở Đài Loan người ta còn sử dụng một số biện pháp khác như: cấp tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi; cho vay đầu tư với lãi suất ưu đãi từ Quỹ đầu tư; Ưu đãi đầu tư nghiên cứu và phát triển; đào tạo nghề miễn phí cho thanh niên v.v. 1.3.1.5. Hàn Quốc: Đối với Hàn Quốc, điểm đáng chú ý là có 3 giai đoạn phát triển với những ưu tiên phát triển khác nhau. 1.3.1.5.1 Giai đoạn thứ nhất: kéo dài đến đầu thập kỷ 70 mà trọng tâm ưu tiên phát triển là khuyến khích và thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu. ở giai đoạn này, Chính phủ Hàn Quốc áp dụng các biện pháp như: cấp tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi; trợ cấp trực tiếp cho xuất khẩu một số sản phẩm nhất định; giảm cước phí vận chuyển xuất khẩu bằng đường sắt; cấp tín dụng cho các nhà nhập khẩu nguyên liệu thô và thiết bị để sản xuất hàng xuất khẩu; cho vay để chuyển nhà máy sang sản xuất hàng xuất khẩu; hoàn lại thuế gián thu đối với nguyên liệu đầu vào đã được sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu; hoàn lại thuế hàng hoá đã xuất khẩu; miễn giảm thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị nhập khẩu để chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu; khấu hao nhanh tài sản cố định được sử dụng vào sản xuất hoặc lắp ráp hàng xuất khẩu; giảm 30% thuế thu nhập công ty cho phần thu nhập thu được từ kinh doanh xuất khẩu. 1.3.1.5.2 Giai đoạn thứ hai: kéo dài trong suốt thập kỷ 70 cho đến những năm đầu thập kỷ 80, trong đó ưu tiên phát triển được dành cho công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất. Trong giai đoạn này, mức độ và ưu tiên cho xuất khẩu giảm xuống, thay vào đó là các biện pháp nhằm khuyến khích phát triển ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất. Đó là các biện pháp: Miễn giảm thuế lợi tức (được qui định cụ thể cho từng ngành công nghiệp); cấp tín dụng ưu đãi từ Quỹ đầu tư quốc gia; Bảo lãnh các khoản vay thương mại trên thị trường tài chính quốc tế cho các công ty của Hàn Quốc; khấu trừ lợi nhuận tái đầu tư ra khỏi lợi tức chịu thuế; miễn thuế nhập khẩu đối với tư liệu sản xuất, thiết bị nhập khẩu để xây dựng và phát triển công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất. 1.3.1.5.3. Giai đoạn thứ ba: bắt đầu từ thập kỷ 80 mà trọng tâm của nó đã chuyển sang khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính phủ Hàn Quốc tập trung vào 5 nhóm biện pháp chính là: hỗ trợ người bắt đầu bước vào kinh doanh; hỗ trợ cơ cấu lại doanh nghiệp vừa và nhỏ; hỗ trợ phát triển công nghệ; hỗ trợ cung cấp mặt bằng kinh doanh; hỗ trợ đầu tư vào TSCĐ. Nhìn chung, các biện pháp hỗ trợ và ưu đãi ở Hàn Quốc rất hiệu quả, kịp thời. Đó là do chính phủ Hàn Quốc đã biết kết hợp giữa mục tiêu ngắn hạn với mục tiêu dài hạn, kịp thời thay đổi các chính sách cho phù hợp với những thay đổi của nước mình và trên thị trường quốc tế. Theo tôi, đây là một kinh nghiệm hay mà Việt Nam có thể học tập. Để tiện theo dõi, tôi sẽ trình bày các biện pháp ưu đãi đầu tư chủ yếu được sử dụng ở một số nước Châu á như sau (bảng 1): Bảng 1: các biện pháp ưu đãi đầu tư được sử dụng ở một số nước Châu á. TT Ưu đãi Malaysia Inđônêxia Thái Lan Đài Loan Hàn Quốc 1 Miễn thuế lợi tức x x x x x 2 Miễn thuế thu nhập đối với lợi tức cổ phần x x x x x 3 Trợ cấp đầu tư x x x x x 4 Chuyển lỗ trong thời kỳ được miễn thuế sang thời kỳ đã hết hạn miễn thuế x x x x x 5 Khấu hao nhanh TSCĐ x x x x x 6 Miễn thuế nhập khẩu với máy móc thiết bị x x x x x 7 Trợ cấp tái đầu tư x x x x 8 Tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi x x x x 9 Hoàn._. lại thuế đối với nguyên liệu, vật tư được sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu x x x x x 10 Ưu đãi với đầu tư nghiên cứu khoa học và phát triển x x x x x 11 Khuyến khích đối với đào tạo và nâng cao tay nghề x x x x 12 Ưu đãi đối với đầu tư để phát triển những vùng khó khăn x x 13 Khuyến khích phát triển công nghiệp vừa và nhỏ x x x x X 14 Miễn thuế tài sản đối với vốn đầu tư x 1.3.2 Kinh nghiệm quốc tế về KKĐTTN: Từ việc nghiên cứu các đạo Luật về khuyến khích đầu tư của một số nước Châu á có thể thấy rằng: mỗi nước có các chính sách khuyến khích đầu tư mang sắc thái và đặc thù riêng tuỳ theo đặc điểm kinh tế , địa lý, chính trị, xã hội, dân tộc, tôn giáo v.v. của đất nước mình. Nhưng về cơ bản, chúng có nhiều nét chung có thể rút ra để tham khảo: Thứ nhất, tất cả các nước đều coi trọng nguồn vốn trong nước, coi việc định hướng ưu tiên khuyến khích đầu tư phát triển một số lĩnh vực kinh tế chủ chốt, một số vùng trọng điểm trong từng thời kỳ là yếu tố đẩy nhanh sự phát triển của đất nước. Hai là, nhận thức muốn thu hút được vốn đầu tư từ nguồn tiết kiệm trong dân, thì Nhà Nước phải có trách nhiệm tạo lập được môi trường đầu tư thuận lợi. Môi trường đó bao gồm: sự bảo hộ về pháp lý, bảo đảm an toàn cho đầu tư, sự rõ ràng, ổn định và nhất quán về luật pháp; sự bảo đảm về điều kiện hạ tầng cơ bản cho đầu tư (đường sá, cầu cống, bến cảng, điện nước, giáo dục, đào tạo và phát triển các dịch vụ ngân hàng, tín dụng…); sự hỗ trợ nhiều mặt của Chính phủ. Ba là, phải tạo một môi trường kinh doanh và đầu tư bình đẳng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, giữa các thành phần kinh tế Nhà Nước và kinh tế tư nhân. Điều này được thể hiện rõ nhất ở Thái Lan, với việc sử dụng một bộ luật cho khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Bốn là, các biện pháp “xúc tác” rất đa dạng và phong phú để thu hút đầu tư. Các biện pháp đó có thể quy tụ về 2 nhóm chính là: chính sách thuế khoá và chính sách phi thuế khoá. Trong đó các chính sách thuế khoá thường mang lại kết quả nhanh và rõ rệt hơn. Người ta đã liệt kê được gần 30 biện pháp khuyến khích thuế khoá mà các nước Châu á sử dụng trong đó có 11 biện pháp được tất cả các nước ASEAN (5 nước) áp dụng: - Miễn thuế lợi tức. - Miễn thuế cổ tức. - Trợ cấp đầu tư. - Chuyển lỗ - Khấu hao nhanh. - Miễn thuế nhập khẩu. - Trợ cấp ưu đãi đầu tư. - Dự án ưu tiên. - Sử dụng lao động. - Mở rộng kinh doanh. - Khuyến khích xuất khẩu. Các biện pháp phi thuế khoá tuy không đa dạng bằng các khuyến khích thuế khoá, và giữ vị trí ưu tiên khác nhau tại mỗi nước, nhưng chúng cũng rất được coi trọng. Trọng tâm của nhóm giải pháp này là tạo “mặt bằng” pháp lý, “mặt bằng” đầu tư thuận lợi thông qua việc ban hành và củng cố các văn bản pháp luật kinh doanh, củng cố hệ thống ngân hàng, tài chính, kế toán, hỗ trợ đào tạo kiến thức kinh doanh, tay nghề, mở rộng dịch vụ thông tin, tư vấn v.v. Thực tế đã cho thấy rằng, một chính sách đúng đắn về khuyến khích đầu tư đóng một vai trò to lớn trong sự phát triển của mỗi nước. Mặt khác, một chính sách khuyến khích sai lệch có thể đưa đến những hậu quả không đáng có như gây lãng phí nguồn vốn đầu tư, giảm lòng tin của các nhà đầu tư, tạo lợi thế cho một số đối tượng nhất định dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh và đặc biệt có thể tạo ra “mảnh đất màu mỡ” cho nạn tham nhũng, tiêu cực phát triển. Do vậy, việc lựa chọn các biện pháp khuyến khích đầu tư phải được cân nhắc thận trọng, kỹ càng. CHƯƠNG 2: Thực Trạng Khuyến khích Đầu TƯ TRONG Nước. 2.1 Thời kỳ 1995 đến 1999: 2.1.1 Nội dung chính của Luật và các văn bản dưới luật về KKĐTTN trong thời kỳ này: Trong quá trình phát triển của mình, Việt Nam đòi hỏi một lượng vốn đầu tư tương đối lớn. Như đã trình bày ở trên, nguồn vốn bên ngoài là không thể thiếu và có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong thời kỳ đầu tiến hành CNH-HĐH, khi nhu cầu đầu tư rất lớn mà nguồn tích luỹ nội địa chưa đủ đáp ứng. Tuy nhiên, thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, nếu không huy động tốt và đủ nguồn vốn đầu tư trong nước thì cũng không thể khai thác và sử dụng có hiệu quả những nguồn vốn đầu tư lớn từ bên ngoài. Chính vì vậy, trong công cuộc xây dựng đất nước và phát triển kinh tế theo đường lối đổi mới, chiến lược lâu dài của Việt Nam là tăng nhanh tiết kiệm nội địa, huy động tối đa nguồn vốn trong nước, nâng dần tỷ trọng nguồn vốn trong nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Để huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tài nguyên, lao động và các lợi thế khác của đất nước, tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, nhằm thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của người góp vốn đầu tư, tăng cường hiệu quả quản lý Nhà Nước đối với các hoạt động kinh doanh, cải thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh đầu tư vào các ngành, vùng và các lĩnh vực cần khuyến khích phát triển, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành và cơ cấu vùng, Nhà Nước ta đã có chủ trương phát huy nội lực và mở rộng hợp tác quốc tế để đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Với mục đích trên ngày 22-6-1994 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 5 đã ban hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (KKĐTTN), chính thức có hiệu lực từ ngày 1-1-1995. (Sau đó ngày 12-5-1995, Chính phủ đã ban hành nghị định 29/1995/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật KKĐTTN). Trước khi đi vào phân tích và đánh giá tình hình thực hiện và tác dụng của Luật này đối với hoạt động đầu tư trong nước, tôi xin trình bày một số nội dung chính của Luật KKĐTTN và Nghị định 29/CP : 2.1.1.1. Các hình thức được khuyến khích đầu tư: Những loại hình kinh doanh sau đây được Nhà Nước khuyến khích đầu tư: - Dự án đầu tư thành lập và phát triển cơ sở sản xuất, kinh doanh bao gồm: a) Đầu tư thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. b) Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ngành nghề mới hoặc sản xuất sản phẩm mới tại cùng địa điểm. c) Đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh hiện có hoặc sản phẩm mới tại một địa điểm mới thuộc mọi thành phần kinh tế; - Dự án đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ của cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có. - Mua cổ phần, gọi vốn hoặc tăng vốn của các doanh nghiệp, góp vốn vào doanh nghiệp; 2.1.1.2 Đối tượng khuyến khích đầu tư: Đối tượng khuyến khích theo Luật KKĐTTN rất đa dạng, bao gồm: - Các doanh nghiệp được thành lập theo Luật công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị – xã hội, hội nghề nghiệp và cá nhân, nhóm kinh doanh hoạt động theo Nghị định 66/HĐBT ngày 2-3-1992 của hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). - Tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài tại Việt Nam mua cổ phần hoặc góp vốn vào các doanh nghiệp trong nước ( kể cả các doanh nghiệp Nhà nước được đa dạng hoá sở hữu) hoặc các quỹ đầu tư tự chủ tài chính. - Doanh nghiệp do người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. - Doanh nghiệp do người nước ngoài cư trú lâu dài tại Việt Nam đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. - Doanh nghiệp do công dân Việt Nam cùng thành lập với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, với người nước ngoài cư trú lâu dài tại Việt Nam. 2.1.1.3 Các biện pháp hỗ trợ đầu tư: Theo Luật KKĐTTN các biện pháp hỗ trợ đầu tư bao gồm: - Giao đất hoặc cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai. - Xây dựng kết cấu hạ tầng các KCN để cho thuê làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất , kinh doanh. - Lập và khuyến khích các quỹ hỗ trợ đầu tư để cho vay đầu tư trung hạn và dài hạn. Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của các quỹ hỗ trợ đầu tư. - Góp vốn thông qua các quỹ hỗ trợ đầu tư, ngân hàng thương mại, công ty tài chính vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế trên cơ sở cùng có lợi. - Quy định việc bảo lãnh tín dụng đầu tư của các Ngân hàng, tổ chức tín dụng và công ty tài chính. - Hỗ trợ việc tổ chức thực hiện các chương trình, dịch vụ khuyến khích đầu tư gồm: a) Tư vấn quản lý kinh doanh. b) Tư vấn pháp lý c) Tổ chức dạy nghề và đào tạo cán bộ kỹ thuật. d) Đào tạo và nâng cao kiến thức quản lý. e) Cung cấp thông tin kinh tế. - Phổ biến và chuyển giao công nghệ; tạo điều kiện cho các chủ đầu tư được sử dụng với mức phí ưu đãi các công nghệ mới tạo ra từ vốn Ngân sách Nhà nước. 2.1.1.4. Ưu đãi đầu tư: Luật KKĐTTN còn quy định các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi, bao gồm: - Đầu tư vào các lĩnh vực: a) Trồng rừng, trồng cây trên đất chưa sử dụng, tận dụng, khai thác đất trống, đồi núi trọc vào mục đích kinh doanh; nuôi trồng thuỷ sản ở các vung nước chưa được khai thác; đánh bắt hải sản ở vùng biển xa bờ, chăn nuôi đại gia súc, chăn nuôi đại gia súc tập trung. b) Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật ; phát triển vận tải công cộng đô thị ; phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá dân tộc ; nghiên cứu khoa học, công nghệ ; c) Chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản ; các dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp ; d) Sản xuất hàng xuất khẩu; thay thế nhập khẩu. e) Các ngành công nghiệp cần ưu tiên trong từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội ; các ngành, nghề truyền thống ; f) Đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. - Đầu tư ở các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác ; - Đầu tư thành lập cơ sở sản xuất sử dụng công nghệ hiện đại, cơ sở sản xuất sử dụng nhiều lao động. - Đầu tư thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng công nghệ hiện đại, ít nhất có một trong các tiêu chuẩn quy định dưới đây: a) Công nghệ tạo ra sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm thay thế nhập khẩu. b) Công nghệ áp dụng có khả năng tạo ra sự đổi mới công nghệ, thiết bị của các ngành khác; c) Công nghệ sử dụng nguyên vật liệu trong nước để làm ra sản phẩm đạt các chỉ tiêu chất lượng cao hơn sản phẩm với các sản phẩm đã có cùng loại. d) Công nghệ sạch, công nghệ sử dụng các chất phế thải rắn, lỏng, khí. - Đầu tư vào các dự án sản xuất, kinh doanh sử dụng số lao động bình quân trong năm ít nhất là : a) ở đô thị loại 1 và loại 2: 300 người. b) ở các huyện thuộc vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác (được quy định tại danh mục B và C Nghị định 29/1995NĐ-CP): 50 người. c) Các vùng khác: 200 người. 2.1.1.5 Các hình thức ưu đãi chủ yếu: - Ưu đãi về thuế: a) Thuế lợi tức: Chế độ miễn, giảm thuế lợi tức đối với các dự án thuộc diện ưu đãi: - Mức tối đa: miễn 4 năm đầu tiên kể từ khi có lợi nhuận chịu thuế và giảm 50 % trong thời gian tối đa là 9 năm tiếp theo. - Mức tối thiểu: miễn thuế lợi tức 2 năm đầu, kể từ khi có lợi nhuận chịu thuế, giảm 50 % trong 3 năm tiếp theo. - Lợi nhuận tái đầu tư được miễn thuế lợi tức cho phần lợi nhuận tăng thêm của năm tiếp theo do đầu tư mới mang lại. b) Thuế doanh thu: - Mức tối đa: giảm 50 % trong thời gian tối đa là 4 năm đầu tiên, kể từ khi có doanh thu chịu thuế. - Mức tối thiểu: giảm 50 % trong thời gian tối đa là một năm đầu kể từ khi có doanh thu chịu thuế. c) Thuế thu nhập cá nhân: được tính từ mức 2 triệu đồng Việt Nam. d) Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: Mức thuế suất áp dụng theo Luật KKĐTTN đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước là: 5 %. e) Thuế nhập khẩu: Các dự án đầu tư cần đặc biệt khuyến khích được Chính phủ cho phép miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, máy móc, phụ tùng mà chủ đầu tư trực tiếp hoặc uỷ thác nhập khẩu để xây dựng cơ sở sản xuất. f) Thuế chuyển giao công nghệ: Luật KKĐTTN quy định: bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật dùng để góp vốn được miễn các loại thuế có liên quan đến chuyển giao công nghệ. - Ưu đãi về đất đai: a) Các doanh nghiệp đầu tư theo Luật KKĐTTN được giao hoặc cho thuê đất, doanh nghiệp Nhà nước giao đất nếu sử dụng vào mục đích xây dựng các công trình công cộng hoặc sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối. b) Trong các trường hợp khác, doanh nghiệp phải thuê đất. c) DNNN được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. - Ưu đãi về vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, bảo lãnh tín dụng và vay tín dụng xuất khẩu: a) Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia thực hiện chức năng hỗ trợ thông qua việc cho vay vốn trung và dài hạn đối với các dự án đầu tư trong ngành nghề được hưởng ưu đãi (danh mục A); cho vay vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi cho các dự án đầu tư ở vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, (danh mục B) và các vùng khó khăn quy định tại danh mục C của Nghị định 29/CP. Chủ đầu tư có thể dùng tài sản mua bằng vốn vay để thế chấp; b) Bảo lãnh tín dụng đầu tư cho các dự án đầu tư thuộc danh mục A, B, C. c) Trợ cấp một phần lãi suất cho các khoản vay từ Ngân hàng Đầu tư và phát triển và các Ngân hàng quốc doanh đối với các dự án đầu tư vào các ngành nghề thuộc danh mục A. Mức trợ cấp bằng mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay của Ngân hàng Đầu tư và phát triển hoặc Ngân hàng thương mại quốc doanh nơi chủ đầu tư vay với lãi suất cho vay từ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia tại thời điểm vay và chỉ được nhận trợ cấp sau khi chủ đầu tư đã hoàn trả vốn gốc của khoản vay của mình. - Ưu đãi đối với những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu: a) Những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được quyền trực tiếp xuất khẩu hàng hoá do mình sản xuất. b) Những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đăng ký hoạt động tại các vùng thuộc danh mục A, B, C, được giảm 50 % mức vốn lưu động tối thiểu quy định so với mức vốn lưu động chung. c) Cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu hoặc sản xuất nguyên liệu phục vụ trực tiếp làm hàng xuất khẩu thuộc diện ưu đãi theo danh mục A, B, C thì được Ngân hàng đầu tư và phát triển và Ngân hàng thương mại quốc doanh bảo lãnh hoặc cho vay tín dụng xuất khẩu. Do còn có những hạn chế và kết quả đạt được chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, nên ngày 15-1-1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định 07/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật KKĐTTN (sửa đổi). Nghị định này được soạn thảo trên cơ sở Nghị định 29/CP đồng thời mở rộng hơn các hình thức đầu tư, các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích và ưu đãi đầu tư, đã làm rõ hơn thủ tục xét cấp ưu đãi đầu tư cho các dự án đầu tư trong nước. Cụ thể như sau: - Hình thức được khuyến khích mở rộng thêm đó là đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (BOT). - Một quy định mới trong NĐ này là cơ chế “một cửa”: Những dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh ngành nghề mới hoặc sản phẩm mới tại cùng một địa điểm; đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh sản phẩm hiện có hoặc sản phẩm mới tại địa điểm mới thì không phải xin cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp mà chỉ cần đăng ký bổ sung ngành nghề mới kinh doanh và thủ tục thành lập doanh nghiệp tư nhân, công ty theo điều 44 của Nghị định 07/1998/NĐ-CP. Điều đó có nghĩa: doanh nghiệp chỉ cần gửi đơn xin phép thành lập doanh nghiệp cũ (đã được đăng ký bổ sung ngành nghề mới kinh doanh) đến Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh, thành phố, nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Trong vòng tối đa 60 ngày (tính từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ), Sở kế hoạch và đầu tư phải có quyết định cấp hoặc từ chối cấp giấy phép thành lập cho doanh nghiệp. - Nghị định 07 còn nới rộng chế độ ưu đãi đối với các dự án đầu tư sử dụng số lao động bình quân trong năm bằng việc giảm mức quy định lao động tối thiểu được sử dụng cho dự án. Theo nghị định này thì đầu tư vào các dự án sản xuất, kinh doanh sử dụng số lao động bình quân trong năm ít nhất là: ở đô thị loại 1 và loại 2: 100 người (trước đây là 300 người). ở các huyện thuộc vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác (được quy định tại danh mục B và C Nghị định 07/1998/NĐ-CP) :20 người (trước đây là 50 người). ở các vùng khác: 50 người (trước đây là 200 người). Sau khi Luật KKĐTTN được ban hành, các bộ ngành, UBND tỉnh, thành phố đã có những văn bản hướng dẫn thi hành Luật (Phụ lục 1: Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật KKĐTTN ban hành ngày 22-6-1994). 2.1.2. So sánh Luật KKĐTTN và Luật đầu tư nước ngoài: Luật KKĐTTN và Luật đầu tư nước ngoài là 2 đạo Luật khuyến khích đầu tư ở nước ta. Xét về bản chất hai đạo Luật này hoàn toàn khác nhau. Luật đầu tư nước ngoài có tính chất như một đạo Luật tổng hợp, điều chỉnh toàn bộ quá trình đầu tư từ việc thành lập , tổ chức hoạt động, bảo đảm khuyến khích đầu tư v.v. trong khi đó, Luật KKĐTTN chỉ bao gồm các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích và ưu đãi đầu tư. Về cơ bản, sự khác nhau giữa hai đạo Luật này bao gồm: Thứ nhất, về lĩnh vực đầu tư. Về nguyên tắc các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài được phép đầu tư vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, các nhà đầu tư nước ngoài không được phép đầu tư vào các lĩnh vực thuộc an ninh quốc phòng v.v. và có những hạn chế cụ thể về từng dự án. Thứ hai, về hình thành tổ chức, xí nghiệp. Để thành lập doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ cần xin phép đầu tư. Trong khi đó các nhà đầu tư trong nước phải xin phép thành lập doanh nghiệp, sau đó lại phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh. Về hình thức tổ chức, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được tổ chức dưới hình thức công ty TNHH. Còn các doanh nghiệp trong nước có hình thức tổ chức phong phú, đa dạng hơn, bao gồm: Doanh nghiệp Nhà Nước, Công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã v.v. Thứ ba, về các biện pháp hỗ trợ đầu tư. Do các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực mọi mặt về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý nên các biện pháp hỗ trợ đầu tư chỉ dành cho các doanh nghiệp trong nước. Thứ tư, về đất đai. Theo các quy định hiện hành, các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có quyền thuê đất và bị hạn chế về thời gian . Trong khi đó các nhà đầu tư trong nước, ngoài chế độ thuê đất với giá rẻ hơn, trong một số trường hợp còn được Nhà Nước giao đất sử dụng lâu dài. Thứ năm, các vấn đề về thuế. Nhìn chung các nhà đầu tư nước ngoài được ưu đãi hơn về thuế đối với các nhà đầu tư trong nước. Thứ sáu, về giá điện, nước, dịch vụ viễn thông và các dịch vụ khác. Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải trả phí cao hơn so với doanh nghiệp trong nước. Trên cơ sở phân tích 2 hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, có thể thấy rằng các quy định của chúng ta đã tạo ra địa vị pháp lý cũng như điều kiện đầu tư không giống nhau giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay việc tồn tại những điểm khác biệt này ở một chừng mực nhất định như là một tất yếu của lịch sử và vẫn là cần thiết nhằm khuyến khích đầu tư trong nước, phát huy nội lực. 2.1.3. Đánh giá chung về thực trạng khuyến khích đầu tư trong nước thời kỳ này: Trong thời kỳ này, Luật KKĐTTN đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế đất nước, góp phần thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1996 - 2000. Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn rất khiêm tốn. Sau đây, tôi xin tổng hợp về những kết quả đã đạt được, làm rõ những mặt hạn chế trong việc KKĐTTN, nêu lên những nguyên nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế đó. Trong thời kỳ này, có 2 mốc thời gian quan trọng là thời điểm ban hành Nghị định 29/CP và Nghị định 07/CP. Do đó, để có được sự đánh giá cụ thể về thực trạng hoạt động đầu tư trong nước, tôi sẽ tập trung phân tích theo 2 giai đoạn: 2.1.3.1. Thời kỳ thực hiện Luật KKĐTTN và Nghị định 29/CP (từ 1-1-1995 đến 30-1-1998): Qua những tài liệu thu thập được, có thể thấy Luật KKĐTTN đã được đón nhận và hưởng ứng một cách tích cực. Tuy nhiên, tình hình triển khai thực hiện chậm và kết quả thấp xa so với mong đợi. Ngoài ra do mức độ quan tâm khác nhau nên việc triển khai thực hiện Luật KKĐTTN ở các tỉnh, thành phố rất không đồng đều. Thật vậy, tính đến ngày 31-12-1997 cả nước đã cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho hơn 963 dự án với tổng số vốn đầu tư hơn 8106,4 tỷ đồng. Trong đó: có 35 dự án thuộc khu vực doanh nghiệp do Trung ương quản lý với tổng vốn đầu tư 1299,7 tỷ đồng, chiếm 3,6 % về số dự án và 16% về số vốn đầu tư của các dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư; 928 dự án thuộc khu vực doanh nghiệp do địa phương quản lý với tổng vốn đầu tư là 6806,7 tỷ đồng, chiếm 96,4 % về số dự án và 84 % về số vốn đầu tư của các dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư trong cả nước (Xem bảng 2). Bảng 2: Tình hình cấp ưu đãi đầu tư phân theo cấp quản lý tính đến 31-12-1997. Loại hình Doanh nghiệp Tổng số dự án Tổng số vốn đầu tư (tỷ đồng) Doanh nghiệp do TW quản lý % của tổng số 35 3,6% 1.299,7 16% Doanh nghiệp do ĐP quản lý % của tổng số 928 96,4% 6.806,7 84% Tổng số: 963 100% 8.106,4 100% Nguồn : Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT. Điều đáng phấn khởi là trong các dự án địa phương cấp ưu đãi đầu tư có 107 dự án của người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam đầu tư trực tiếp tại nước ta với tổng số vốn đầu tư 105,625 tỷ đồng. Trong đó, số dự án thành lập mới doanh nghiệp chiếm 83,17 %; mua cổ phần, góp vốn chiếm 16,83 %, góp phần đáng kể hạn chế dần tình trạng “đầu tư chui”, Nhà nước không kiểm soát được ở một số tỉnh, thành phố. Trong giai đoạn này, các biện pháp khuyến khích đầu tư chỉ chủ yếu phục vụ cho thành phần kinh tế Nhà Nước. Đối với loại hình kinh tế dân doanh còn chưa có các chính sách ưu đãi nhất quán so với các loại hình kinh tế quốc doanh. Do vậy, khu vực kinh tế dân doanh chưa được khuyến khích và động viên đúng mức. Điều này được thể hiện qua tình hình thực tế cấp ưu đãi trong giai đoạn này. Cụ thể là, trong tổng số dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư tính đến hết 31-12-1997, số doanh nghiệp quốc doanh được hưởng ưu đãi chiếm tới 563 dự án (61,2 % tổng số dự án) với số vốn đầu tư là 6.781,2 tỷ đồng (chiếm 83,7 % tổng số vốn đầu tư). Trong khi đó, số doanh nghiệp dân doanh được hưởng ưu đãi là 374 dự án, chiếm 38,8% tổng số dự án và 16,3 % tổng vốn đầu tư (xem bảng 3). Tuy nhiên, ở các tỉnh như Trà Vinh, Hà Tây, An Giang và nhiều tỉnh khác phía Nam, việc cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư lại chủ yếu tập trung vào khu vực kinh tế dân doanh. Bảng 3: Tình hình cấp ưu đãi đầu tư phân theo thành phần kinh tế tính đến 31-12-1997. Loại hình doanh nghiệp Tổng số dự án Tống số vốn đầu tư (tỷ đồng) Doanh nghiệp quốc doanh % của tổng số 589 (61,2%) 6.781,2 (83,7%) Doanh nghiệp dân doanh % của tổng số 374 (38,8%) 1.325,1 (16,3%) Tổng số: 963 (100%) 8.106.3 (100%) Nguồn: Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT. Thực tế cho thấy có 3 lý do chính của việc các doanh nghiệp Nhà Nước được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư nhiều hơn các doanh nghiệp dân doanh: Một là, doanh nghiệp Nhà Nước có điều kiện tiếp cận các thông tin về Luật KKĐTTN tốt hơn các doanh nghiệp dân doanh. Hai là, việc chuẩn bị các dự án đầu tư, các hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cũng như việc hiểu biết các quan hệ hành chính, các cơ quan hành chính đối với các doanh nghiệp dân doanh yếu hơn các doanh nghiệp Nhà Nước. Ba là, trong một chừng mực nhất định, thói quen truyền thống dành phần ưu tiên cho các doanh nghiệp Nhà Nước được thể hiện ít nhiều trong cách làm của các cơ quan cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Ngoài ra, còn một lý do không kém phần quan trọng nữa là các doanh nghiệp dân doanh chưa khẳng định dược vai trò và vị thế của mình trong nền kinh tế, thậm chí còn nhiều hiện tượng kinh doanh chụp giật, lừa đảo. Điều này cũng có những ảnh hưởng nhất định đến tâm lý của cán bộ thực hiện công tác ưu đãi đầu tư. Nếu xét về cơ cấu ưu đãi đầu tư mới và đầu tư mở rộng, ta thấy các dự án đầu tư mới chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chẳng hạn trong khu vực doanh nghiệp TW quản lý chỉ có 2 dự án đầu tư mới được hưởng ưu đãi (chiếm 5,7% trong tổng dự án do TW quản lý được ưu đãi đầu tư), còn số dự án đầu tư mới do địa phương quản lý tuy có tỷ trọng thấp hơn so với các dự án đầu tư mở rộng nhưng khoảng cách giữa chúng không đáng kể (chiếm 45,2% của tổng số dự án đầu tư được ưu đãi ở địa phương) (Bảng 4). Bảng 4: Tình hình cấp ưu đãi đầu tư phân theo hình thức đầu tư tính đến 31-12-1997 . Hình thức đầu tư Số dự án Tổng số vốn đầu tư (tỷ đồng) Tỷ trọng dự án đầu tư (%) Tỷ trọng vốn đầu tư (%) DN do TW quản lý - Đầu tư mới - Đầu tư mở rộng 35 2 33 1.299,7 38,3 1.261,4 100 5,7 94,3 100 2,9 97,1 DN do ĐP quản lý - Đầu tư mới - Đầu tư mở rộng 928 433 495 6.806,7 4.483,2 2.323,5 100 42,5% 54,8% 100 55,8% 44,2% Nguồn: Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT Đầu tư mở rộng chiếm tỷ trọng lớn như đã nêu là đáng phấn khởi vì theo Nghị định 29/CP thì đầu tư mở rộng bao gồm đầu tư chiều sâu (đầu tư cải tiến công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, hợp lý hoá quản lý) và đầu tư chiều rộng (đầu tư làm tăng quy mô sản xuất). Do đó, đầu tư mở rộng làm tăng số lượng và chất lượng của hàng hoá, góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, trên thực tế rất nhiều dự án đầu tư mới bị coi là dự án đầu tư mở rộng nếu dự án đó không gắn với việc thành lập doanh nghiệp (kể cả khi đó là dự án đầu tư mới hoàn toàn cả về công nghệ, mặt hàng, thị trường, địa điểm). Việc này đã dẫn đến kết quả là nhiều dự án không được hưởng ưu đãi theo hình thức đầu tư mới và làm ảnh hưởng đến tính chính xác của các số liệu thống kê. Trong giai đoạn này, việc Luật KKĐTTN triển khai chậm và không đáp ứng được sự mong đợi có nhiều nguyên nhân, song nổi bật: Một là, các nội dung hỗ trợ đầu tư chưa được triển khai hoặc chưa đủ sức hấp dẫn. Bảy biện pháp về hỗ trợ đầu tư qui định trong Luật KKĐTTN chưa được triển khai triệt để. Các biện pháp về giao đất và cho thuê đất tuy đã được pháp luật quy định cụ thể song trên thực tế, việc giao và cho thuế đất của các tổ chức trong nước vẫn còn rất phiền hà, qua nhiều thủ tục, đầu mối, chính sách cho thuê đất đối với chủ đầu tư là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú lâu dài tại Việt Nam theo Luật KKĐTTN chưa rõ. Các biện pháp về xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp để cho thuê cũng không có sức hút mạnh đối với nhà đầu tư vào khu công nghiệp – do giá thuê đất và chi phí trả cho việc sử dụng hạ tầng ở khu công nghiệp còn cao. Việc khuyến khích đầu tư thông qua Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia không đủ hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong nước. Điều này là do số vốn ban đầu của Quỹ quá ít ỏi, công thêm mức lãi suất cho vay chưa thật khuyến khích. Các biện pháp khác như: góp vốn vào cơ sở sản xuất, kinh doanh và bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ tổ chức thực hiện các chương trình, dịch vụ khuyến khích đầu tư và phổ biến chuyển giao công nghệ v.v. chưa có chính sách và cơ chế thực hiện cụ thể. Hai là, mức độ khuyến khích và ưu đãi trong nước chưa được ngang bằng với đầu tư nước ngoài, đặc biệt về ưu đãi thuế. Do đó, những doanh nghiệp trong nước cùng ngành hàng bị thua thiệt nhiều hơn so với doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Ba là, còn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp quốc doanh. Do đó, khu vực kinh tế dân doanh chưa được khuyến khích và động viên đúng mức, chưa được hỗ trợ một cách thiết thực và có hiệu quả. Bốn là, về thủ tục hành chính, tuy Luật KKĐTTN đã cố gắng thể hiện tinh thần “một dấu, một cửa” cho các nhà đầu tư, tuy nhiên, do một số luật liên quan khác chưa sửa đổi, bổ sung kịp thời nên thủ tục phiền hà đến nay vẫn chưa khắc phục. Tình trạng mỗi Bộ, ngành, mỗi địa phương ban hành quy chế riêng cho mình vẫn còn phổ biến, gây không ít những khó khăn. 2.1.3.2 Thời kỳ thực hiện Nghị định 07/CP (từ 30-01-1998 đến 31-12-1998): Do có những hạn chế và kết quả đạt được chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra như đã trình bày ở trên, nên ngày 15-01-1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định 07/1998/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 29/CP. Với những quy định mới của Nghị định O7, các doanh nghiệp đã quan tâm hơn về các chính sách ưu đãi đầu tư của Nhà Nước, tạo thêm động lực mới cho hoạt động đầu tư . Do đó, kết quả thực hiện Luật KKĐTTN thời kỳ này đã tăng lên đáng kể (Bảng 5). Bảng 5: Tình hình cấp ưu đãi đầu tư phân theo cấp quản lý năm 1998 so với thời kỳ 95-97. Loại hình Doanh nghiệp Đơn vị Tổng số dự án Tổng số vốn đầu tư (tỷ đồng) Doanh nghiệp do TW quản lý - % của tổng số - So với bình quân năm thời kỳ 95-97 % lần 124 6,87 10,63 4.424 12,72 10,21 Doanh nghiệp do ĐP quản lý - % của tổng số - So với bình quân năm thời kỳ 95-97 % lần 1.680 93,13 5,43 30.333 87,28 13,37 Tổng số: % 1804 100 34.757 100 Nguồn : Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT. Trong năm 1998, ở TW, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cấp 124 dự án, tăng 10,63 lần so với thời kỳ 95-97 (số dự án cấp bình quân năm thời kỳ 95-97 là 12), với số vốn đăng ký là 4.424 tỷ đồng, tăng 10,21 lần so với thời kỳ 95-97 (số vốn đăng ký bình quân năm thời kỳ 95-97 là 433.244 triệu đồng). Còn ở các địa phương, tính toán tương tự, ta có số liệu như ở bảng trên. Nói chung, nghị định sửa đổi lần này đã tạo ra một không khí mới, tích cực hơn cho hoạt động đầu tư trong nước. Lý giải cho điều này người ta cho rằng có 2 nguyên nhân cơ bản: Một là, thông tin về Luật đã được phổ cập hơn trước, việc tổ chức hướng dẫn của các bộ, tỉnh, thành phố tốt hơn và tích cực hơn; Hai là, nội dung các loại ưu đãi của Nghị định 07 hấp dẫn hơn so với Nghị định 29/CP, nhất là việc mở rộng số dự án được hưởng ưu đãi theo hình thức đầu tư mới. Tuy vậy, Nghị định 07 vẫn không giải quyết được những tồn tại trước đó về khuyến khích đầu tư như vẫn khuyến khích thành phần quốc doanh hơn dân doanh, đầu tư mới vẫn được khuyến khích hơn đầu tư mở rộng (được qui định tại điều 10 của Luật KKĐTTN ban hành ngày 22-6-1994) v.v. Có thể nói, so với thời kỳ thực hiện Nghị định 29/CP, thì thời kỳ này là một bước ngoặt nhưng để Luật KKĐTTN thực sự đi vào cuộc sống, phát huy được tác dụng đầy đủ và hiệu quả hơn thì cần phải tháo gỡ những vướng mắc và các hạn chế ngay trong bản thân Luật KKĐTTN. 2.2. Thời kỳ 1999 đến nay: 2.2.1 Những thay đổi của Luật KKĐTTN (sửa đổi) số 03/1998/QH10 so với Luật KKĐTTN cũ: Trước những yêu cầu và đòi hỏi của thực tế, ngày 20-05-1998 Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá 10 đã thông qua Luật KKĐTTN (sửa đổi) có hiệu lực từ 1-1-1999, v._.ng nó khá “khắt khe”, chỉ nên áp dụng cho các dự án lớn. Như vậy, qua hơn 7 năm thực hiện Luật KKĐTTN có thể thấy, những kết quả đạt được vẫn còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu. Có tình trạng đó là do những tồn tại như: môi trường đầu tư chưa thông thoáng khuôn khổ pháp lý chưa đầy đủ, thủ tục còn phiền hà, nhà đầu tư chưa mạnh dạn bỏ vốn vào những lĩnh vực, ngành nghề và địa bàn mà Nhà Nước khuyến khích nhất là đối với các vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn v.v. Tồn tại đó đòi hỏi cần phải có một hệ thống giải pháp cụ thể và hiệu quả hơn để tiếp tục khuyến khích hoạt động đầu tư trong nước. Chương 3: một số khuyến nghị về giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước. Trên cơ sở tổng hợp, nghiên cứu các vấn đề lý luận chủ yếu về đầu tư và khuyến khích đầu tư trong nước, thông qua sự phân tích những kết quả đạt được, những mặt hạn chế của thực trạng khuyến khích đầu tư trong nước thời gian qua, tôi xin khuyến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa hoạt động đầu tư trong nước. 3.1. Định hướng quan điểm KKĐTTN: Tinh thần chung của việc khuyến khích đầu tư trong nước là nhằm tiếp tục công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để CNH, HĐH đất nước. Cụ thể, cần nắm vững các định hướng quan điểm dưới đây: Cơ chế, chính sách và giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước phải bảo đảm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Việc khuyến khích đầu tư phải trên cơ sở phát huy nội lực, bảo đảm tính nhất quán với các chính sách thu hút các nguồn lực đầu tư từ bên ngoài. Bảo đảm môi trường đầu tư bình đẳng trong việc khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia các hoạt động đầu tư. Lựa chọn được những ngành, lĩnh vực và địa bàn cần khuyến khích đầu tư. Để thực hiện tốt các định hướng chiến lược đó, theo tôi nên thực hiện các giải pháp sau: 3.2. Những khuyến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho KKĐTTN: Thứ nhất, các Bộ, ngành liên quan, UBND tỉnh, thành phố rà soát, sửa đổi, bổ sung những văn bản do đơn vị mình ban hành cho phù hợp với Luật KKĐTTN (sửa đổi) và Nghị định 51/1999/CP. Một số khuyến nghị cụ thể như sau: Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, lập Danh mục các ngành, nghề, lĩnh vực nhà đầu tư là người nước ngoài được góp vốn, mua cổ phần với mức không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp Việt Nam trình Chính phủ xem xét quyết định; chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan để hướng dẫn bổ sung thủ tục cấp ưu đãi đầu tư cho các đối tượng quy định tại Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao. Bộ Tài chính tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Thông tư 22/2001/TT-BTC theo hướng: - Làm rõ và cụ thể hơn về trình tự, thủ tục để được hưởng ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mới theo Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và Nghị định số l03/1999/NĐ-CP về giao bán, khoán kinh doanh cho thuê doanh nghiệp nhà nước, nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp và tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân. - Hình thức khoán thuế do cơ quan thuế cho phép các cơ sở kinh doanh áp dụng cũng cần được hiểu là “cơ sở đã thực hiện đầy đủ các quy định về thuế”, để được xét cấp ưu đãi, có như vậy thì các cơ sở kinh doanh được khoán thuế mới có thể tiếp cận được với các biện pháp ưu đãi đầu tư. - Đối với hình thức đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu theo quy định tại Mục VI của Danh mục A (Đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất, mở rộng qui mô, đổi mới công nghệ; cải thiện sinh thái và môi trường, vệ sinh đô thị; đa dạng hoá ngành, nghề, sản phẩm) cần được hướng dẫn thực hiện các biện pháp hỗ trợ, ưu đãi đặc biệt là thuế suất và thời gian được hưởng miễn giảm theo quy định của Nghị định 51/1999/NĐ-CP. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan để hướng dẫn bổ sung thủ tục cấp ưu đãi đầu tư cho các đối tượng quy định tạị Nghị định số 119/1999/NĐ-CP về một số chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan để hướng dẫn bổ sung thủ tục cấp ưu đãi đầu tư cho các đối tượng quy định tại Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 2 tháng 2 nằm 2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại. Tổng cục Địa chính ban hành Thông tư hướng dẫn và tuyên truyền rộng rãi đến người dân về thủ tục giao đất, cho thuê đất phù hợp với những quy định liên quan về quản lý đầu tư và xây dựng, khuyến khích đầu tư trong nước. Cải cách thủ tục xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà ở; có quy định cụ thể thời gian thục hiện công tác này như công tác xét cấp đăng ký kinh doanh, xét cấp ưu đãi đầu tư của các cơ quan quản lý nhà nước. Quỹ Hỗ trợ phát triển chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan cụ thể hoá các quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục hỗ trợ lãi suất sau đầu tư theo quy định tại Điều 26, Điều 29, Nghị định số 43/1999/NĐ- CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Sửa đổi Điều 6 Nghị định 43/1999/NĐ-CP cho phù hợp với Nghị định 51/CP theo hướng: tất cả các dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo Luật KKĐTTN (sửa đổi) đều được hưởng biện pháp cho vay đầu tư chứ không phải chỉ hạn chế cho địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn thuộc 6 ngành nghề như hiện nay. Đồng thời nghiên cứu việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án vay vốn đầu tư của các tổ chức tín dụng bằng ngoại tệ. Thứ hai, từng bước giảm thiểu sự khác biệt giữa Luật KKĐTTN và Luật đầu tư nước ngoài, từ đó thống nhất thành một Luật chung điều chỉnh hoạt động đầu tư. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc tồn tại những khác biệt nhất định giữa Luật KKĐTTN và Luật đầu tư nước ngoài là một tất yếu của lịch sử. Về cơ bản, những khác biệt đó có thể phân thành: những điểm khác biệt thuộc về bản chất không thể hoặc chưa thể thay đổi được (như về đất đai; hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức của các xí nghiệp; các vấn đề về lĩnh vực đầu tư và thị trường tiêu thụ v.v.) và những điểm khác biệt thuộc về hình thức (như chế độ miễn, giảm, thực hiện nghĩa vụ đóng thuế; tiền lương, giá, phí một số hàng hoá, dịch vụ v.v.). Theo ý kiến cá nhân, để giảm bớt sự phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, các nhà lập pháp cần từng bước giảm sự khác biệt thuộc về hình thức. Và khi Luật KKĐTTN và Luật đầu tư nước ngoài đã thực hiện xong sứ mệnh lịch sử của mình, nên ban hành một đạo Luật chung điều chỉnh hoạt động đầu tư trong nước, tạo một môi trường bình đẳng cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. 3.3. Những khuyến nghị nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh: Để Luật KKĐTTN (sửa đổi) đi vào cuộc sống thì nhất thiết là phải tạo được lòng tin của các nhà đầu tư bằng cách bảo đảm an toàn và ngày càng sinh lời từ nguồn vốn họ bỏ ra. Muốn vậy, phải có môi trường đầu tư thuận lợi, ngày càng cải thiện cho hoàn chỉnh. ở nước ta, môi trường đầu tư tuy đã được Chính phủ quan tâm nhưng chưa thực sự được cải thiện đáng kể. Môi trường đầu tư là cả điều kiện vật chất và điều kiện pháp lý. Do đó, bên cạnh những giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động đầu tư trong nước kể trên, cần thực hiện những công việc sau: Thứ nhất, Nhà Nước cần có chính sách nhất quán phát triển kinh tế xã hội với sự tham gia bình đẳng của các thành phần kinh tế. Nhà Nước cần có chiến lược phát triển cho từng ngành, từng lĩnh vực. Từ đó các nhà đầu tư sẽ lựa chọn kế hoạch đầu tư cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo đường lối của Đảng và Nhà Nước. Thứ hai, Nhà nước cần sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ để tạo môi trường đầu tư an toàn, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền. Có như vậy mới đảm bảo được hiệu quả đầu tư và khuyến khích người dân bỏ vốn vào kinh doanh. Thứ ba, cần xây dựng mới và hoàn thiện các cơ sở hạ tầng để phục vụ cho việc trao đổi hàng hoá, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Vấn đề này cần xúc tiến càng nhanh càng tốt vì chính nó đang là yếu tố cản trở nhiều công trình đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam cũng như của các doanh nghiệp trong nước. Thứ tư, cần cải thiện môi trường kinh doanh . Hoạt động kinh doanh đa dạng, có hiệu quả sẽ khuyến khích người có tiền tham gia đầu tư để đồng vốn sinh lời. Nếu sản xuất kinh doanh không sinh lời sẽ làm cho người có tiền tích trữ vàng, ngoại tệ mạnh. Từ môi trường kinh doanh thuận lợi, xu thế phát triển của các doanh nghiệp sẽ là sức hút các nhà đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh. 3.4. Những khuyến nghị nhằm đưa Luật KKĐTTN (sửa đổi) đi vào cuộc sống: Để Luật KKĐTTN (sửa đổi) thực sự đi vào cuộc sống, xin khuyến nghị một số giải pháp như sau: Thứ nhất, cần quán triệt tinh thần và nội dung Luật KKĐTTN (sửa đổi) đến cán bộ lãnh đạo các tỉnh, thành phố để từ đó tất cả các UBND tỉnh, thành phố có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của Luật này như một công cụ trong việc phát huy nội lực để công nghiệp hoá, hiện đại hoá tại địa phương và chú trọng hơn tới việc chỉ đạo cụ thể công tác triển khai thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi) tại địa bàn phụ trách của mình. Thứ hai, UBND các tỉnh phải là đầu mối chỉ đạo, ban hành cơ chế phối hợp giữa Sở Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thuế và Sở Địa chính để giải quyết những vấn đề vướng mắc cho các nhà đầu tư; chỉ đạo và đôn đốc các cơ quan trong tỉnh định kỳ 6 tháng và 1 năm có tổng hợp báo cáo về một đầu mối (Sở KH&ĐT) việc thực hiện Luật. Đồng thời chỉ đạo UBND các quận, huyện phổ biến, hướng dẫn thủ tục đề nghị được hưởng ưu đãi đầu tư đến các cơ sở, hộ kinh doanh, các hợp tác xã trên địa bàn quản lý. Thứ ba, các cơ quan đăng ký kinh doanh niêm yết các quy định về Luật KKĐTTN (sửa đổi) để các nhà đầu tư mới có thể tham khảo. Cần tổ chức thêm các cuộc tập huấn, phổ biến rộng rãi Luật đến các nhà đầu tư tiềm năng, các doanh nghiệp, đặc biệt đến các địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn. Thứ tư, giữa các Bộ, ngành có liên quan đến chính sách khuyến khích cần hình thành một cơ chế phối hợp từ cấp trung ương đến đại phương để giải quyết kịp thời những khó khăn cho các nhà đầu tư. Các cơ quan quản lý nhà nước ở các địa phương, cần hướng dẫn cho các doanh nghiệp việc thực hiện các điều kiện để được hưởng ưu đãi, có báo cáo theo định kỳ việc thực hiện các biện pháp ưu đãi. Như vậy, giúp cho việc tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc được nhanh chóng, công tác tổng kết của các ngành ở các cấp cũng có được kết quả trung thực hơn. Thứ năm, tổ chức tập huấn cho các cán bộ quản lý địa phương, tăng cường hỗ trợ về nghiệp vụ và kinh phí hoạt động cho bộ máy quản lý Nhà Nước thực hiện công việc này. Thứ sáu, tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư của Nhà nước đến các nhà đầu tư và mọi tầng lớp nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, truyền thanh, mạng Internet … Làm sao để khi cần tìm kiếm thông tin nhà đầu tư có thể dễ dàng kiếm được. 3.5. Các giải pháp nhằm khuyến khích mạnh đầu tư của khu vực kinh tế dân doanh: Để thực hiện thành công các mục tiêu CNH, HĐH đất nước thì không thể thiếu được sự đóng góp của khu vực dân doanh. Để khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của khu vực dân doanh theo tôi cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau: Thứ nhất, phải tạo một môi trường pháp lý bình đẳng giữa khu vực quốc doanh và khu vực dân doanh. Các văn bản pháp lý cho kinh doanh được xây dựng là để hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà kinh doanh. Do đó, các quy định phải cụ thể, nhất quán, dễ hiểu, dễ thực hiện để có thể thực hiện thống nhất trong toàn quốc, không để cho cán bộ thừa hành các cấp tuỳ tiện giải thích và vận dụng theo ý kiến chủ quan của mình. Trong các văn bản pháp luật, phải đảm bảo không có sự phân biệt giữa thành phần kinh tế Nhà Nước và kinh tế dân doanh về quyền lợi và trách nghiệm. Muốn làm được điều đó, nên thống nhất Luật doanh nghiệp Nhà Nước và Luật doanh nghiệp, để tất cả các doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của một Luật duy nhất. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Luật Doanh nghiệp; xoá bỏ các "giấy phép con" trái với Luật Doanh nghiệp; đồng thời xử lý nghiêm túc những cơ quan ban hành văn bản núp dưới danh nghĩa tăng cường quản lý nhà nước, song thực chất là gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp tư nhân. Thứ hai, phải nâng cao nhận thức và quan điểm đối xử với khu vực kinh tế dân doanh. Muốn vậy, phải xác định đúng đắn vai trò của khu vực kinh tế dân doanh. Cần khẳng định phát triển kinh tế dân doanh không mâu thuẫn với định hướng XHCN ở nước ta. Mặc dù kinh tế dân doanh phát triển nhằm mục đích lợi nhuận, vì vậy nó có thể gây ra những hậu quả không mong muốn như chênh lệch giàu nghèo, sẽ không tránh khỏi tình trạng bóc lột, bất công. Song bên cạnh đó kinh tế dân doanh tạo ra sự phát triển ổn định, phồn vinh và đây chính là tiền đề quan trọng nhất để Nhà Nước thực hiện các mục tiêu công bằng xã hội, duy trì định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, trong thời kỳ mới cần phải tôn vinh các doanh nhân, coi kinh doanh cũng là một nghề cao quý. Cần có những hình thức khen thưởng các chủ doanh nghiệp xứng đáng. Muốn nâng cao vị thế của các doanh nghiệp không thể không nói đến vai trò của hệ thống thông tin đại chúng. Các phương tiện thông tin đại chúng không nên chỉ nhìn vào những mặt tiêu cực cá biệt của các doanh nhân, mà nên đưa ra các điển hình tiêu biểu của các doanh nghiệp dân doanh. Bên cạnh các biện pháp kể trên, cần phải củng cố và xây dựng bộ máy Nhà Nước vững mạnh. Bộ máy Nhà Nước phải có tinh thần hỗ trợ cho khu vực kinh tế dân doanh. Cần nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy thông qua việc tiêu chuẩn hoá cán bộ và quy định cụ thể chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan Nhà Nước. Gắn quyền hạn với trách nghiệm, có chế độ đãi ngộ thoả đáng, đồng thời buộc các cán bộ các cấp phải chịu trách nghiệm cá nhân, kể cả trách nghiệm vật chất nếu phạm phải các sai lầm làm tổn hại đến các lợi ích của nhân dân. 3.6. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ đầu tư: Thứ nhất, mở rộng tín dụng đầu tư cho các dự án dân doanh. Muốn làm được việc này thì bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung Thông tư 22/2001/TT-BTC như trên đã trình bày, cần phải: Phân cấp cho UBND tỉnh, giám đốc Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển quyết định mức cho vay vốn tối đa của một dự án được hưởng ưu đãi đầu tư. Quy định thời hạn giải ngân, giảm thiểu thủ tục để doanh nghiệp có thể chủ động đầu tư kịp thời. Xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong thủ tục thế chấp tài sản để vay vốn giữa DNNN và doanh nghiệp dân doanh. Khoanh một phần của Quỹ HTPT cho tín dụng đầu tư cho khu vực dân doanh, công bố công khai nguồn, thủ tục vay vốn cho toàn dân biết. Cần cải cách về thông báo và đăng ký vốn vay, theo hướng: Quỹ thông báo tổng mức vốn vay tín dụng đầu tư phát triển đối với các dự án nhóm B, C cho các tỉnh/thành phố; đối với dự án thuộc nhóm A, thì ghi danh mục và mức vốn cho từng dự án. Trên cơ sở đó các tỉnh/thành phố cân đối và quyết định. Đề nghị phân cấp việc thẩm định các dự án hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho Chi nhánh Quỹ hỗ trợ tại các địa phương thẩm định, UBND tỉnh/Tp ra quyết định. Như vậy, cơ hội đầu tư và tiến độ thực hiện của các dự án đầu tư sẽ được đẩy nhanh hơn. Để biện pháp bảo lãnh tín dụng mang lại hiệu quả cao hơn nữa, đề nghị xoá bỏ sự phân biệt trong thủ tục thế chấp tài sản giữa doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp quốc doanh. Thứ hai, minh bạch, thông thoáng, đơn giản hơn nữa thủ tục đất đai và thủ tục hành chính. Mặc dù, việc giao đất và cho thuê đất trong thời gian qua đã có khả quan hơn so với những năm trước đây, nhưng đến nay việc thế chấp tài sản khi vay vốn vẫn còn khó khăn đối với chủ đầu tư, vì còn nhiều nơi chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy chứng nhận sở hữu nhà ở nên không đủ chứng từ tài sản thế chấp theo quy định của ngân hàng. Do đó, để nâng cao hiệu quả của biện pháp giao đất và cho thuê đất của chính phủ, cần phải: Đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận sở hữu nhà ở, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư có tài sản thế chấp trong việc tạo nguồn vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện triệt để việc thu hồi đất đã được giao hay cho tổ chức thuê đang để hoang hoá, sử dụng sai mục đích, v.v. và làm tốt công tác quy hoạch đất, có kế hoạch công bố công khai các hạng mục, diện tích kêu gọi đầu tư hoặc cho đấu thầu diện tích đất. Nên cho phép cấp tỉnh được quyền cho thuê với diện tích lớn hơn hiện nay, thay vì hạn chế dưới 1 ha. Đồng thời, cải cách trình tự, thủ tục xin thuê đất và xây dựng. Có hướng dẫn cụ thể về nội dung và chuẩn mực dự án đầu tư để thống nhất thực hiện. Một trong những yêu cầu trong thủ tục xét, cấp ưu đãi đầu tư đang gây lúng túng và khó khăn cho nhiều nhà đầu tư, nhất là những nhà đầu tư tư nhân là đòi hỏi trình "dự án", trong khi khái niệm "dự án" cũng như chuẩn mực nội dung của nó chưa được quy định thống nhất và hướng dẫn cụ thể trong các văn bản của Chính phủ. Một số văn bản hiện hành (như Nghị định 52 về đầu tư xây dựng) có nêu các yêu cầu của một dự án đầu tư, nhưng đó là những đòi hỏi khá "khắt khe" áp dụng cho các dự án lớn. Do vậy, để giảm bớt khó khăn, phức tạp về thủ tục cho các nhà đầu tư, cần phải có hướng dẫn cụ thể về nội dung và chuẩn mực của dự án đầu tư để các ban ngành liên quan thống nhất thực hiện. Kết luận Chính sách khuyến khích đầu tư có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động đầu tư trong nước. Nó tạo môi trường, động lực để khuyến khích hoạt động đầu tư theo định hướng phát triển của từng quốc gia. Đề tài “Thực trạng và giải pháp khuyến khích hoạt động đầu tư trong nước” là một đề tài nghiên cứu về vấn đề đó. Sau khi hoàn thành xong đề tài, tôi thấy có thể rút ra một số kết luận như sau: 1. Về mặt lý luận: Luận văn đã chỉ ra được vai trò của khuyến khích đầu tư trong nước đồng thời đưa ra những kinh nghiệm về khuyến khích đầu tư trong nước của một số nước trên thế giới mà Việt Nam có thể học hỏi được. 2. Trên cơ sở những lý luận đã trình bày, luận văn đi sâu vào phân tích chính sách khuyến khích đầu tư trong nước (mà cụ thể là Luật KKĐTTN và hệ thống các văn bản pháp qui hướng dẫn thi hành Luật KKĐTTN). Luận văn đã tổng hợp những kết quả đạt được đồng thời làm rõ những nguyên nhân của những tồn tại trong quá trình thực hiện Luật KKĐTTN. 3. Khi phân tích những kết quả đã đạt được, tác giả đã chủ động phân tích theo cơ cấu đầu tư để có cái nhìn tổng quát, toàn diện và trung thực về hoạt động đầu tư trong nước. 4. Còn khi phân tích những tồn tại cần khắc phục, tác giả phân tích theo hai hướng: những tồn tại tại chính những văn bản pháp qui hướng dẫn thi hành Luật KKĐTTN và những tồn tại trong khâu thực hiện từ Trung Ương đến các địa phương. 5. Cuối cùng, luận văn đưa ra những giải pháp mang tính chất khuyến nghị nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư trong nước. Trong phần này, tác giả đã cố gắng đưa ra những giải pháp cụ thể, có khả năng thực hiện. Có thể nói, trong phạm vi luận văn của mình, tác giả đã cố gắng đi sâu vào các nội dung cơ bản theo mục đích, phạm vi nghiên cứu, áp dụng các phương pháp nghiên cứu đã được xác định. Tuy nhiên, do vấn đề rộng, tài liệu về thi hành Luật KKĐTTN chưa nhiều, năng lực bản thân có hạn, nên không tránh được việc còn có những sai sót. Rất mong được sự chỉ bảo của thầy cô giáo và bạn bè. Phụ lục 1: Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật KKĐTTN ban hành ngày 22-6-1994. Nghị định 29/CP, ngày 12-5-1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước Thông tư 03/TT-NH1, ngày 1-9-1995 của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, hướng dẫn thi hành Nghị định 29/CP. Thông tư 06/UB-QLKT, ngày 27-9-1995 của uỷ ban kế hoạch Nhà Nước (nay là Bộ Kế hoạch và ĐT), qui định trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo Luật KKĐTTN . Công văn 1394/NHCT-TD, ngày 27-9-1995 của Ngân hàng Công thương Việt Nam, hướng dẫn về cho vay ưu đãi lãi suất đối với các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu. Quyết định 808/TTG, ngày 9-12-1995, của Chính phủ về thành lập Quỹ Hỗ trợ đầu tư quốc gia. Quyết định này hiện nay đã bị bãi bỏ. Thông tư 94TC/TCT, ngày 22-12-1995, của Bộ tài chính, hướng dẫn về thủ tục, trình tự, thẩm quyền xét miễn, giảm thuế theo Luật KKĐTTN. Thông tư 96 TC/TCT, ngày 30-12-1995, của Bộ tài chính, hướng dẫn thu thuế đối với các trường hợp chuyển nhượng vốn của các chủ đầu tư trong các doanh nghiệp được thành lập theo Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật KKĐTTN và các chủ đầu tư trong các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và các bên hợp doanh trong các hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thông tư 02 BKH/DN,ngày 30-1-1996, của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về thủ tục đầu tư tại Việt Nam của Người Việt Nam định cư ở nước ngoài và của người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam. Quyết định 952/QĐ-UB, ngày 12-3-1996 của UBND thành phố Hà Nội về việc quyết định giao nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ của các doanh nghiệp xin ưu đãi đầu tư trong nước cho Uỷban Kế hoạch thành phố. Công văn số 2367/BKH-QLKT, ngày 27-5-1996 của Bộ kế hoạch và đầu tư , hướng dẫn sửa đổi một số điểm trong Thông tư 06/UB-QLKT về trình tự cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Quyết định 462/TTg, ngày 90701996 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Điều lệ Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia. Quyết định 972 TC/ĐTQG, ngày 29-10-1996 của Bộ tài chính về việc ban hành Quy chế góp vốn, huy động vốn của Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia. Thông tư 82/TC-TCNH, ngày 24-12-1996 của Bộ tài chính hướng dẫn quy chế quản lý tài chính đối với Quỹ đầu tư quốc gia. Thông tư liên bộ số 11/BKH-NG, ngày 31-12-1996 của liên bộ Kế hoạch và đầu tư, Ngoại giao hướng dẫn thủ tục xác nhận nguồn gốc Việt Nam và lý lịch tư pháp của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về Việt Nam. Nghị định 07/1998/NĐ-CP, ngày 15-1-1998 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Luật KKĐTTN (sửa đổi). Thông tư số 2/1998/TT-BKH, ngày 16-3-1998 của Bộ kế hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo Nghị định 07/1998/ NĐ- CP. Công văn số 349/CP-KTN, ngày 30-3-1998 của Chính phủ về việc ban hành các văn bản hướng dẫn Nghị định 07/1998/NĐ-CP. Thông tư số 43/1998/TT-BTC, ngày 4-4-1998 của Bộ tài chính hướng dẫn thi thực hiện việc miễn giảm thuế theo qui định tại Nghị định 07/1998/NĐ-CP. Thông tư số 04/1998/TT-NHNN1, ngày 02/05/1998 của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam hướng dẫn thi hành Nghị định số 07/1998/NĐ-CP. Phụ lục 2: Các văn bản pháp hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) ban hành ngày 20-5-1998. Thông tư số 82/1998/TT-BTC, ngày 19-6-1998 của Bộ tài chính hướng dẫn chế độ tài chính áp dụng cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Thông tư số 09/1998/TT-BTM, ngày 18-7-1998 của Bộ thương mại hướng dẫn việc miễn thuế nhập khẩu đối với các dự án đầu tư theo quy định tại Nghị định 07/1998/NĐ-CP. Công văn 966 TC/TCT, ngày 3/3/1999 của Bộ tài chính về việc ưu đãi thuế. Công văn số 31 QHTQG/KH, của Bộ tài chính, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia về lãi suất và tài sản bảo đảm nợ vay vốn Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia năm 1999. Quyết định số 07/QĐ-HĐQL, ngày 11-5-1999 của Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia về việc ban hành Quy chế thẩm định phương án tài chính và hiệu quả kinh tế - tài chính của dự án đầu tư vay vốn từ Quỹ hỗ trợ quốc gia. Nghị định số 51/1999/NĐ-CP, ngày 08-07-1999 của Chính phủ về qui định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi). Quyết định số 68/1999/QĐ-UB, ngày 18-8-1999 của Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội về việc ban hành quy định về thủ tục để được giao đất, thuê đất trên địa bàn thành phố Hà Nội. Thông tư số 02/1999/TT-BKH, ngày 29-4-1999 của Bộ kế hoạch và đầu tư về việc hướng dẫn trình tự, thủ tục cấp ưu đãi đầu tư theo Nghị định 51/1999/NĐ-CP. Chỉ thị số 20/1999/CT-UB, ngày 18-11-1999 của UBND thành phố Hà Nội về việc cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo Thông tư số 02/1999/TT-BKH. Thông tư số 146/1999/TT-BTC, ngày 17-12-1999 của bộ tài chính về hướng dẫn thực hiện việc miễn giảm thuế theo qui định tại Nghị định 51/1999/NĐ-CP. Quyết định số 231/1999/QĐ-TTg, ngày 17-12-1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ và phát triển. Quyết định số 11/2000/QĐ-HĐQL, ngày 2-3-2000 của Hội đồng quản lý – Quỹ hỗ trợ phát triển về việc ban hành tạm thời Quy chế bảo lãnh tín dụng đầu tư, tái bảo lãnh và nhận tái bảo lãnh cho các Quỹ đầu tư. Quyết định số 12/2000/QĐ-HĐQL, ngày 2-3-2000 của Hội đồng quản lý – Quỹ hỗ trợ phát triển về việc ban hành Quy chế cho vay, thu hồi nợ vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà Nước. Quyết định số 14/2000/QĐ-HĐQL, ngày 2-3-2000 của Hội đồng quản lý – Quỹ hỗ trợ phát triển về việc ban hành tạm thời Quy chế hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Công văn số 2911/TC/TCT, ngày 19-7-2000 của Bộ tài chính về miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Công văn số 1008 HTPT/KHNV, ngày 1-8-2000 của Quỹ hỗ trợ phát triển về việc xây dựng kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển năm 2001. Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT/BKH-BTP-BNG-BCA, ngày 15-8-2000 của liên tịch Bộ Kế hoạch và đầu tư – Bộ Tư pháp – Bộ Ngoại giao – Bộ Công an hướng dẫn việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đầu tư theo Nghị định 51/1999/NĐ-CP. Quyết định số 54/2000/QĐ-UB-CNN, ngày 3-10-2000 của UBND thành phố Hồ Chí Minh về việc uỷ quyền thực hiện việc ký và cấp thẻ chứng nhận áp dụng chế độ một giá. Công văn số 927/CP-CN, ngày 11-10-2000 của Chính phủ về việc rà soát các văn bản pháp luật tháo gỡ khó khăn trong thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật doanh nghiệp. Quyết định số 101/2000/QĐ-HĐQL, ngày 17-11-2000 của Hội đồng quản lý Quỹ hỗ trợ phát triển về việc ban hành Quy chế phối hợp giữa Quỹ hỗ trợ phát triển và các tổ chức tín dụng trong cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Thông tư 117/2000/TT-BTC, ngày 21-12-2000 của Bộ tài chính về việc bổ sung và sửa đổi một số điểm của thông tư số 40/2000TT-BTC ban hành ngày 15-5-2000 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành Quyết định số 176/QĐ-BTC ngày 26-8-1999 của Thủ tướng Chính phủ về miễn giảm thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu. Thông tư 22/2001/TT-BTC, của Bộ tài chính về việc bổ sung và sửa đổi một số điểm của thông tư số 146/1999/TT-BTC ngày 17-12-1999 của bộ tài chính về hướng dẫn thực hiện việc miễn giảm thuế theo qui định tại Nghị định 51/1999/NĐ-CP. Nghị định 35/2002/NĐ-CP, ngày 29-3-2002 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung danh mục A, B, C ban hành kèm Nghị định số 51/1999/NĐ-CP. Tài liệu tham khảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX – Nhà xuất bản chính trị quốc gia – 2001. Giáo trình kinh tế đầu tư – Nhà xuất bản giáo dục - 1998. Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế – Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương – 1998. Chiến lược huy động vốn và các nguồn lực cho sự nghiệp CNH – HĐH – Nhà xuất bản chính trị quốc gia – 1998 Những ưu đãi của Nhà Nước cho đầu tư trong nước – Nhà xuất bản tài chính - 1996 Luật đầu tư nước ngoài. Luật KKĐTTN và các văn bản pháp qui có liên quan. Báo cáo tình hình thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi) năm 1999, 2000, 2001 – Vụ Doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và đầu tư. PTS Lê Đăng Doanh – Đẩy mạnh việc đưa Luật KKĐTTN đi vào cuộc sống – tạp chí Kinh tế và dự báo 10/1996. PTS Nguyễn Đình Tài – Một số vướng mắc thực tiễn cần xử lý để thực hiện Luật KKĐTTN – tạp chí Kinh tế và dự báo 10/1996. PTS Nguyễn Đình Tài – Khuyến khích đầu tư trong nước – giải pháp huy động vốn hàng đầu – Tạp chí Tài chính 3/1997. THS. Nguyễn thị Hiền – Khuyến khích đầu tư trong nước chiến lược phát triển bằng nội lực – tạp chí Kinh tế và phát triển 4/ 1997. PTS Lê Đăng Doanh – Luật Khuyến khích đầu tư trong nước phải có tác dụng huy động mọi nguồn lực để CNH – HĐH đất nước - tạp chí cộng sản 7-1997. Phát huy mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước - Trích báo cáo của Thủ tướng Phan Văn Khải trình bày tại kỳ họp thứ 1 khoá IX – tạp chí ngân hàng S5/1997 PTS. Lê Đăng Doanh – Đẩy mạnh việc đưa Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đi vào cuộc sống – tạp chí tạp chí Kinh tế và dự báo 9/1997. Vũ Xuân Thuyên – Đầu tư trong nước: bước gian nan – Thời báo Kinh tế Việt Nam số 86/1997. Vũ Quốc Tuấn – Khuyến khích hơn nữa đầu tư trong nước – Thời báo Kinh tế Việt Nam 83/1997. Vũ Xuân Thuyên – Về tình hình thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước – tạp chí Kinh tế và dự báo 8/1997. Huỳnh Huy Quế – Quy định mới về Khuyến khích đầu tư trong nước – Thông tin tài chính 2/1998. Minh Tâm – Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đang đi vào cuộc sống – tạp chí phát triển kinh tế 4/1998. PTS Nguyễn Đình Tài , Đỗ Chu Đạt – Thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước : kết quả, hạn chế và giải pháp – tạp chí Nghiên cứu Kinh tế 4/1998. PTS Nguyễn Đình Tài và Cử nhân Nguyễn Anh Dũng – Nhìn lại 3 năm thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước – tạp chí Kinh tế và dự báo 6/1998. THS. Phạm Thị Hà - Một số ý kiến nhằm thực hiện tốt Luật KKĐTTN – tạp chí phát triển kinh tế 12/1998. Thanh Vân – Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) động lực mới kích thích đầu tư – tạp chí thương mại 12/1998. TS. Nguyễn Đình Tài và Tạ Minh Thảo – Thực hiện Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) – tạp chí Tài chính 3/2000. TS. Nguyễn Đình Tài – Luật Khuyến khích đầu tư trong nước : Kết quả và tác dụng – tạp chí Kinh tế và dự báo 7/2001. TS. Nguyễn Đình Tài – Những tồn tại và giải pháp đẩy mạnh thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước – tạp chí Kinh tế và dự báo 8/2001. TS. Lê Xuân Bá - Kết quả thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) và những vướng mắc cần tháo gỡ – Tạp chí Quản lý Nhà Nước 6/2000. Nguyễn Lê Trung & Trần Quốc Trung – Khuyến khích đầu tư trong nước – thực trạng và giải pháp – tạp chí Nghiên cứu Kinh tế 12/2000. Phát huy nội lực khuyến khích kinh tế dân doanh - tạp chí Kinh tế và dự báo 12/2001. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0056.doc