Thực trạng giải pháp để tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Mọi chiến lược phát triển của các quốc gia đều hướng vào con người, lấy con người làm trung tâm. Thực tế đã chứng minh rằng ở các nước phát triển và các nước công nghiệp mới ( NIC ) chính sách đầu tư phát triển con người đã mang lợi hiệu quả kinh tế xã hội cao. Vì thế giáo dục đã trở thành chìa khóa cho sự giàu có thịnh vượng của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu, là lĩnh vực ưu tiên số một. Mục tiêu của chính sách giáo dục

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2940 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng giải pháp để tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho mọi người của chính phủ Việt Nam là đến năm 2010 tất cả trẻ em trong độ tuổi tiểu học đều đến trường. Dù Việt Nam đã đạt được chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học trên phạm vi toàn quốc vào tháng 7 năm 2000, nhưng không phải tất cả trẻ em đều được đến trường nhất là trẻ em nghèo. Nước ta hiện nay có khoảng 23 triệu trẻ em trong đó trẻ em nghèo chiếm 1/3. Trong 5 năm gần đây có hơn 3,5 triệu học sinh các cấp bỏ học và còn rất nhiều em không được đến trường. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng nguyên nhân cơ bản là gia đình các em quá nghèo, không có tiền cho con mình đi học. Chỉ 5 - 10 năm nữa hàng triệu học sinh thôi học này sẽ là nguồn lao động trẻ, lao động phổ thông, không đáp ứng được những yêu cầu nghề nghiệp của xã hội. Để trẻ em nghèo được đi học đầy đủ ở tất cả các cấp, đề tài : '' Cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo Việt Nam'' nhằm mục đích làm rõ thực trạng và đề xuất giải pháp cho trẻ em nghèo được đến truờng học tập nhiều hơn. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Phát hiện và tìm hiểu những yếu tố thuận lợi và cản trở khả năng tiếp cận giáo dục. - Đánh giá thực trạng khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo Việt Nam. - Đưa ra các giải pháp và đề xuất kiến nghị nhằm cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo. 3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp: -Phương pháp tổng hợp và phân tích các số liệu thống kê đã được công bố -Phương pháp hồi cứu: tham khảo các kết quả phân tích của một số cuộc điều tra có liên quan đến đề tài -Phương pháp khảo sát : phân tích sâu các nhóm đối tượng Đề tài nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục, đối tuợng là trẻ em nghèo Việt Nam bao gồm những trẻ em trong các hộ gia đình nghèo. Trong quá trình làm đề tài với sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn Th.s Nguyễn thị Hoa và cán bộ Viện Lao động - Xã hội thuộc bộ Lao động - Thương bình và Xã hội đã giúp tôi hoàn thành đề tài này 4. Kết cấu của đề tài Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có các chuơng sau: Chương 1 : Sự cần thiết cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo Việt Nam Chương 2 : Thực trạng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo Việt Nam Chương 3 : Giải pháp cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo Việt Nam CHƯƠNG 1 SỰ CẦN THIẾT CẢI THIỆN KHẢ NĂNG TIẾP CẬN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM NGHÈO VIỆT NAM 1.Vấn đề nghèo đói và nhận diện trẻ em nghèo 1.1. Nghèo Đói nghèo là một vấn đề mang tính chất toàn cầu và đang thu hút nỗ lực chung của cả cộng đồng quốc tế nhằm từng bước xóa bỏ đói nghèo và nâng cao phúc lợi cho người dân. Tuy nhiên, rất khó có thể đưa ra một khái niệm chung, thống nhất về đói nghèo. Rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này đã cố gắng đưa ra khái niệm khác nhau về đói nghèo, nhưng tựu chung lại đều coi đói nghèo là tình trạng một nhóm người trong xã hội không có khả năng được hưởng ''một cái gì đó'' ở mức tối thiểu cần thiết. Sự khác nhau về việc xác định ''cái gì đó'' đã tạm chia thành ba trường phái chính trong quan niệm về đói nghèo. Trường phái thứ nhất, được gọi là trường phái phúc lợi, coi xã hội có hiện tượng đói nghèo khi một hay nhiều cá nhân trong xã hội đó không có được một mức phúc lợi kinh tế được coi là cần thiết để đảm bảo một cuộc sống tối thiểu cần thiết hợp lý theo tiêu chuẩn xã hội đó. Cách hiểu này coi ''cái gì đó'' là phúc lợi kinh tế của cá nhân, hay độ thỏa dụng cá nhân ( mức sống ). Khi đó, tăng thu nhập được xem là điều quan trọng nhất để nâng cao mức sống hay độ thỏa dụng cá nhân. Trường phái thứ hai, trường phái nhu cầu cơ bản, coi cái gì đó mà người nghèo thiếu là một tập hợp những hàng hóa và dịch vụ được xác định cụ thể mà việc thỏa mãn chúng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chất lượng cuộc sống. Những nhu cầu cơ bản đó bao gồm LTTP, nước, điều kiện vệ sinh, nhà ở, quần áo, giáo dục, y tế cơ sở và giao thông công cộng. Trường phái thứ ba, trường phái năng lực, coi giá trị của cuộc sống con người không chỉ phụ thuộc duy nhất vào độ thỏa dụng hay thỏa mãn nhu cầu cơ bản, mà đó là khả năng mà một con người có được, là quyền tự do đáng kể mà họ được hưởng, để vươn tới một cuộc sống mà họ mong muốn. Từ định nghĩa của các trường phái trên có thể thấy, tuy chúng ta không thể tìm được một khái niệm duy nhất đầy đủ về đói nghèo, nhưng có thể chỉ ra những biểu hiện cơ bản hay bản chất đa chiều của đói nghèo. Bản chất đa chiều của đói nghèo như sau : s Trước hết là sự khốn cùng về vật chất, được đo lường theo một tiêu chí thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng. s Đi kèm với sự khốn cùng về vật chất là sự hưởng thụ thiếu thốn về giáo dục và y tế. s Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp dủi do, tức là khả năng một hộ gia đình hay cá nhân bị rơi vào cảnh đói nghèo về thu nhập hoặc sức khỏe. s Cuối cùng là tình trạng không có tiếng nói và quyền lực của người nghèo. Các khía cạnh trên đã cho thấy bản chất đa chiều của đói nghèo đó là: Vật chất, tinh thần và tình cảm. Xuất phát đầu tiên là sự thiếu thốn về vật chất, mức thu nhập thấp không đủ để trang trải cuộc sống hàng ngày. Vì thế mà đời sống tình thần của họ không được đáp ứng: Tiếp cận kém với giáo dục và y tế, dễ bị tổn thương và gặp dủi do. Cuối cùng là không có tiếng nói và quyền lực dẫn đến sự mặc cảm tự ti với một tâm trạng cho rằng mình bị gạt ra bên lề và không thuộc về xã hội. Cũng từ các khía cạnh trên ta thấy giáo dục là một nhân tố quan trọng phản ánh bản chất của nghèo đói, sự thiếu thốn về giáo dục đi kèm với sự khốn cùng về vật chất. Vì thế mà nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục cũng là một vấn đề quan trọng trong giải quyết đói. 1.2. Nhận diện trẻ em nghèo. 1.2.1. Trẻ em và các quyền cơ bản của trẻ em. Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Theo điều 1 công uớc LHQ quốc tế về quyền trẻ em “trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ phi luật pháp quốc gia công nhận tuổi truởng thành sớm hơn”. Các văn bản pháp luật của Việt Nam quy định công dân Việt Nam dưới 16 tuổi là trẻ em, người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên. Trong đề tài sử dụng khái niệm trẻ em theo quy định của bộ luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em 1991, trẻ em là những người dưới 16 tuổi. Trẻ em trong suốt quá trình phát triển có thể chia làm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn có những quy luật phát triển và nhu cầu riêng. - Giai đoạn trẻ thơ ( dưới 6 tuổi) giai đoạn này cũng có thể phân chia chi tiết hơn thành các giai đoạn: sơ sinh từ 0 – 18 tháng tuổi, tuổi nhà trẻ 18 – 36 tháng tuổi, mẫu giáo 3 – 5 tuổi. Đây là thời kỳ tăng trưởng và phát triển nhanh nhất của trẻ gây ảnh hưởng mạnh nhất đến thể lực, tình cảm, tâm lý xã hội và khả năng trí tuệ trong suốt cuộc đời của trẻ sau này. Vì vậy quá trình trẻ thơ tập trung vào sự phát triển thể chất, dinh dưỡng, tình cảm, nhận thức và tâm lý xã hội của trẻ. - Giai đoạn nhi đồng ( từ 6 – 11 tuổi). Đây là giai đoạn tập trung phát triển giáo dục trường học cho trẻ, đảm bảo cho trẻ một cuộc sống an toàn và hài hoà với môi trường xã hội. - Giai đoạn thiếu niên ( 12 – 16 tuổi). Đây là giai đoạn giáo dục THCS, cùng với sự thay đổi nhanh chóng về thể chất và tâm lý tuổi dậy thì. Giáo đoạn này các em dễ bị tổn thương khi phải bỏ học vì nhiều lý do: Gia đình nghèo, đông con, phải tham gia lao động kiếm sống…ngoài ra cũng trong giai đoạn này, các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý, xâm hại tình dục, buôn bán trẻ em đều có thể dễ dàng xâm hại và gây ảnh hưởng tới cuộc sống các em. Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định các quyền cơ bản của trẻ em với nội dung như sau: - Trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch. - Trẻ em có quyền được chǎm sóc, nuôi dạy để phát triển thể chất, trí tuệ và đạo đức. - Trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em ở vùng cao, hải đảo, vùng xa xôi hẻo lánh, được Nhà nước tạo điều kiện trong việc bảo vệ, chǎm sóc và giáo dục. - Trẻ em tàn tật, trẻ em có khuyết tật, được Nhà nước và xã hội giúp đỡ trong việc điều trị, phục hồi chức nǎng để hoà nhập vào cuộc sống xã hội; được thu nhận vào các trường, lớp đặc biệt. - Trẻ em không nơi nương tựa, được Nhà nước và xã hội tổ chức chǎm sóc, nuôi dạy. - Trẻ em được Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự; được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình về những vấn đề có liên quan. - Trẻ em có quyền được học tập và có bổn phận học hết chương trình giáo dục phổ cập. Trẻ em học bậc tiểu học trong các trường, lớp quốc lập không phải trả học phí. - Cha mẹ, người đỡ đầu có trách nhiệm tạo điều kiện tốt cho con em học tập. - Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền học tập của trẻ em, khuyến khích trẻ em học tập tốt và tạo điều kiện để trẻ em phát triển nǎng khiếu. - Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động vǎn hoá, vǎn nghệ, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa tuổi. Như vậy học tập là một trong những quyền cơ bản của trẻ em. Để đảm bảo quyền lợi này trong điều 28 chương III luật đã quy định rõ trách nhiệm của gia đình và nhà trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em: - Gia đình nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập học hết chương trình giáo dục phổ cập, tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn. - Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác có trách nhiệm thực hiện giáo dục toàn diện về đạo đức, tri thức, thẩm mỹ, thể chất, giáo dục lao động hướng nghiệp cho trẻ em. Chủ động phối hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội trong việc bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. - Cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục phổ thông phải có điều kiện cần thiết về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để đảm bảo chất lượng giáo dục. - Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, chính sách miễn giảm học phí cấp học bổng, trợ cấp xã hội để thực hiện công bằng xã hội. Các quy định trên đã thấy rõ được sự quan tâm của nhà nước với trẻ em, ngoài ra Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn công ước quốc tế về quyền trẻ em. Hệ thống pháp luật đã giúp nước ta đạt được những thành tựu đáng kể trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em. Hiểu biết về các quyền này giúp mỗi người thấy được trách nhiệm của mình với trẻ em thế hệ tương lai của đất nước. 1.2.2. Trẻ em nghèo Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc UNICEF là tổ chức tiên phong trong các vấn đề về trẻ em với những hoạt động quy mô trên toàn thế giới. Nghiên cứu về trẻ em nghèo là một lĩnh vực mà tổ chức đặc biệt quan tâm. Năm 2007 UNICEF đã có một nghiên cứu toàn cầu về trẻ em nghèo và bất bình đẳng. Nghiên cứu đã chỉ ra: ''Trẻ em gái cũng như trẻ em trai, trải qua mọi hình thức của đói nghèo một cách trầm trọng hơn so với những người đàn ông đàn bà trưởng thành bởi vì trẻ em dễ bị tổn thương do tuổi còn nhỏ và sự phụ thuộc và bởi vì những cơ hội mất đi trong giai đoạn trẻ thơ thường không thể lấy lại được trong giai đoạn trưởng thành sau này''. Còn trong báo cáo tình hình trẻ em thế giới năm 2005 của UNICEF đã đưa ra một định nghĩa về trẻ em nghèo như sau: '' Trẻ em sống trong nghèo đói trải qua sự thiếu thốn các nguồn lực vật chất và tinh thần và tình cảm cần thiết để tồn tại phát triển và vươn lên, điều đó khiến cho trẻ em không được hưởng những quyền của mình cũng như không phát huy hết tiềm năng của bản thân hoặc không thể tham gia xã hội như một thành viên đầy đủ và bình đẳng''. Đối với một con người thì các nguồn lực vật chất, tinh thần và tình cảm luôn gắn bó, bổ trợ cho nhau vì thế mà trẻ em cũng như người lớn nếu thiếu những nguồn lực đó thì họ trở thành người nghèo. Tuy nhiên với trẻ em do độ tuổi nhỏ nên các đặc điểm tâm sinh lý, các nhu cầu cũng khác người lớn nên cũng có nhiều điểm khác nhau về các nguồn lực với người lớn. Định nghĩa trên được giải thích như sau: Nguồn lực vật chất bao gồm thu nhập, lương thực, sự tiếp cận dịch vụ y tế và giáo dục, sự bảo vệ trước những rủi ro về sức khỏe chẳng hạn những rủi ro liên quan tới công việc chân tay nặng nhọc, các công việc khác. Các nguồn lực tinh thần bao gồm: Sự động viên khuyến khích, ý nghĩa trong cuộc sống, kỳ vọng, các tấm gương và mối quan hệ đồng đẳng, còn các nguồn lực tình cảm bao gồm tình yêu, sự tin cậy, sự hòa nhập và việc không có các tình huống lạm dụng. Dựa vào định nghĩa về trẻ em nghèo, có 3 cách tiếp cận nghiên cứu như sau: - Trẻ em nghèo = Nghèo đói chung ( Mô hình A ) - Trẻ em nghèo = Sự nghèo đói của các gia đình nuôi trẻ ( Mô hình B ) - Trẻ em nghèo = Mặt đối lập của phúc lợi trẻ em ( Mô hình C ) Nghiên cứu mới nhất của bộ Lao Động - Thương Binh Xã Hội và quỹ nhi đồng liên hợp quốc về trẻ em nghèo Việt Nam đã sử dụng hai khía cạnh nghèo tiền tệ và nghèo đa chiều. Về khía cạnh tiền tệ: Dựa vào mức thu nhập chi tiêu của các hộ gia đình. Trẻ em nghèo là các em sống trong hộ gia đình nghèo. Quy định trong chuẩn nghèo của nước ta như sau: Ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng ( dưới 2.400.000 đồng/người/ năm ) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/ người/ tháng ( dưới 3.120.000 đồng/ người/ năm ) trở xuống là hộ nghèo. Về khía cạnh nghèo đa chiều: Trẻ em nghèo được xem xét bằng sử dụng mô hình có nhiều điểm tương đồng nhất với mô hình B. Các khía cạnh và chỉ số sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm: s Nơi ở: Trẻ em sống trong một nơi ở có từ 5 người trở lên một phòng hoặc với nền nhà không lát, ốp. s Công trình vệ sinh: Trẻ em không tiếp cận được với bất kỳ công trình vệ sinh nào. s Nước uống sạch: Trẻ em sử dụng nước sông, ao, hồ, đầm hoặc phải mất từ 30 phút trở lên để lấy nước (thời gian đi tới nguồn nước, lấy nước và đi về ). s Thông tin: Trẻ em ( trên 2 tuổi ) không tiếp cận với đài phát thanh hoặc truyền hình hoặc điện thoại hoặc báo chí ( tất cả các hình thức truyền thông). s Lương thực: Trẻ em có mức độ còi ( chiều cao theo tuổi ) hoặc thấp cân ( cân nặng theo tuổi ) hoặc còm ( chiều cao theo cân nặng ) thấp hơn mức tham khảo của từ 3 lần độ lệch chuẩn trở lên. Yếu tố này được coi là sự thất bại nghiêm trọng về nhân trắc học. s Giáo dục: Trẻ em ( trên 6 tuổi ) ở độ tuổi đi học không bao giờ được tới trường hoặc hiện đang không đi học. s Chăm sóc sức khỏe: Trẻ em không được tiêm chủng để chống lại các bệnh tật hoặc không chữa trị trong lần ốm đau có liên quan tới viêm nhiễm đường hô hấp cấp hoặc tiêu chảy. Phiên họp toàn thể của Liên Hiệp Quốc vào tháng 1 năm 2007 đã tổng hợp các khía cạnh trong nghèo đa chiều trên trong tuyên bố về trẻ em nghèo: '' Trẻ em sống trong nghèo khổ bị thiếu thốn dinh dưỡng, nước sạch và công trình vệ sinh, sự tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản, nơi ở, giáo dục, sự tham gia bảo vệ và mặc dù sự thiếu hụt đó đe dọa và gây nguy hiểm nhiều nhất cho trẻ em, khiến trẻ em không thể hưởng những quyền của mình, không thể phát huy hết khả năng của bản thân cũng như không thể tham gia xã hội như những thành viên đầy đủ''. Qua định nghĩa và các cách tiếp cận về trẻ em nghèo trên chúng ta đã có một cái nhìn toàn diện về trẻ em nghèo trên mọi khía cạnh vật chất, tinh thần, tình cảm. Hiểu được các vấn đề cần thiết với trẻ em nhất là về giáo dục, chăm sóc sức khỏe để mọi trẻ em đều được chăm sóc tốt nhất, phát triển thành những mầm non tương lai của đất nước. 2. Mối quan hệ giữa giáo dục với trẻ em nghèo 2.1 Vai trò của giáo dục với sự phát triển kinh tế xã hội và con người Tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục thể hiện ở vai trò thứ nhất: Là động lực phát triển kinh tế. Một nền kinh tế muốn có sức mạnh để phát triển cần phải tạo ra được một trình độ trí tuệ cao và nguồn chất xám cũng như nhân lực kỹ thuật đủ để luôn đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phát triển các hoạt động dịch vụ. Điều này phụ thuộc vào giáo dục, đáp ứng nhu cầu trình độ cao của nền kinh tế. Một nền kinh tế muốn phát triển cần có 3 nguồn lực : nhân lực ( nguồn lực con người), vật lực ( nguồn lực vật chất), tài lực( nguồn lực tài chính tiền tệ). Song chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra động lực cho sự phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy được tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con người. Nguồn lực con người quan trọng như vậy mà giáo dục là cơ sở phát triển nguồn nhân lực, là con đường cơ bản để phát huy nguồn lực con người. Thứ hai giáo dục là một bộ phận đặc biệt của cấu trúc hạ tầng xã hội, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh. Giáo dục là hoạt động có tính vượt lên trước, căn cứ vào nhu cầu của các hoạt động xã hội khác để đào tạo nhân tài phù hợp. Thứ ba giáo dục rèn luyện đạo đức và nhân cách con người, cung cấp kiến thức kỹ năng để con người xây dựng cuộc sống hạnh phúc văn minh. Con người được giáo dục tốt mới có khả năng giải quyết một cách sáng tạo và có hiệu quả tất cả những vấn đề do xã hội đặt ra. Vì thế mỗi người cần có giáo dục, tham gia vào hệ thống giáo dục rèn luyện đạo đức, trang bị kiến thức, giống như câu nói '' tiên học lễ hậu học văn ''. Có được hai điều đó mỗi người sẽ tự tin sống trong xã hội và đóng góp trí tuệ và công sức vào sự phát triển xã hội. 2.2 Mối quan hệ giữa giáo dục và trẻ em nghèo Bất cứ trẻ em nào khi sinh ra bắt đầu quá trình trưởng thành đều cần đến giáo dục, từ giáo dục của gia đình đến nhà trường và cả xã hội. Trẻ em nói chung và trẻ em nghèo nói riêng đều có nhu cầu được giáo dục như nhau, nhưng với những đặc điểm đặc thù của mình sự tiếp cận về giáo dục của trẻ em nghèo lại khác. Mối quan hệ giữa giáo dục với trẻ em nghèo được giải thích rõ hơn qua vòng luẩn quẩn đói nghèo sau: Hình 1.1: Vòng luẩn quẩn nghèo đói Tích lũy thấp Nghèo Thu nhập thấp Thu nhập thấp Trình độ giáo dục thấp Nhìn vào vòng luẩn quẩn thấy ngay giáo dục là một mắt xích quan trọng giải thích sự '' nghèo '' mà trẻ em là hình ảnh đầy đủ nhất giải thích vòng luẩn quẩn trên. Nghèo khó mà lại thiếu tri thức trẻ em sẽ gánh chịu nhiều thua thiệt nhất trong quá trình vận động phát triển của xã hội với những chuyển biến khôn lường phức tạp. Trình độ giáo dục của con người đi từ thấp đến cao, phải mất thời gian dài mới tích lũy được, trải qua từ bậc mẫu giáo đến tiểu học, trung học rồi các trường đào tạo ở cấp cao hơn và chi phí đóng góp cũng tăng theo từng cấp học. Như trong vòng luẩn quẩn trên ta thấy thu nhập tỷ lệ thuận với trình độ giáo dục. Thu nhập của gia đình thấp đồng nghĩa với việc con em họ khó có thể theo học ở những cấp cao hơn. Cấp 1, cấp 2, cấp 3 mới dừng lại ở việc giáo dục, trang bị cho học sinh kiến thức cơ bản về tự nhiên, xã hội. Giai đoạn sau giáo dục là đào tạo trang bị những kỹ năng để mỗi người đi vào làm ở từng lĩnh vực cụ thể. Nếu trẻ em tiếp cận với những bậc học thấp thì chỉ có thể làm những công việc phổ thông sử dụng chân tay nhiều như vậy không thể có mức thu nhập cao, chưa kể đến tầm hiểu biết hạn chế ảnh hưởng đến con cái sau này, không nhận ra được tầm quan trọng của giáo dục và cuối cùng con cái không được đầu tư học hành. Đó chính là một vòng luẩn quẩn, từ bố mẹ nghèo, thiếu kiến thức sinh ra con cái không được học tập đầy đủ cuối cùng lại nghèo giống bố mẹ. Như vậy mối quan hệ giữa giáo dục và trẻ em nghèo nằm ở tương lai của các em, có được sự giáo dục tốt ở hiện tại thì mới thoát khỏi chữ nghèo và bảo đảm một cuộc sống đầy đủ sau này. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo Trên phạm vi toàn thế giới, các dịch vụ thường không đến được với người nghèo. Với Việt Nam cũng vậy, giáo dục là một trong những dịch vụ khó tiếp cận của người nghèo. Tiến bộ xã hội không chỉ nằm ở sự tăng trưởng và phát triển kinh tế mà còn ở các vấn đề xã hội, quan tâm đến cuộc sống của người nghèo góp gần quan trọng cải thiện xã hội đưa đất nước đi lên. Có rất nhiều nhân tố tác động đến khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục cho trẻ em nghèo, vì quá trình học tập của các em không chỉ phụ thuộc ở năng lực tiếp thu kiến thức mà còn nhiều nhân tố của môi trường gia đình, nhà trường, xã hội… Ảnh hưởng rõ rệt nhất đó là các chính sách về trẻ em nghèo nói chung và về tiếp cận giáo dục của đối tượng này. Trong hệ thống giáo dục gồm có hai bên là gia đình và nhà trường. Nói rộng ra đó là nhà cung cấp và người tiếp nhận giáo dục. Vì thế mà ảnh hưởng đến sự tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo sẽ gồm hai nhân tố này. Ngoài ra còn các nhân tố ngoại sinh khác tác động vào cả hai nhân tố trên. Vậy có 3 nhóm nhân tố tác động đến khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo: Nhân tố thuộc về nhà cung cấp Nhân tố thuộc về người tiếp nhận giáo dục Nhân tố bên ngoài khác 3.1. Nhân tố thuộc về nhà cung cấp Nhà cung cấp giáo dục bao gồm có nhà nước và tư nhân. Cả hai đều có những đặc điểm đặc thù ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo. 3.1.1. Các yếu tố vật chất - Cơ sở hạ tầng như trường lớp học và các công trình phục vụ sinh hoạt như điện nước. - Các cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập như đồ đạc, phòng học, bàn ghế, tủ sách, bảng… - Đồ dùng dạy học và thư viện. - Sách giáo khoa và các sách tham khảo khác. - Văn phòng phẩm cho giáo viên. - Nguyên vật liệu dùng cho thí nghiệm, thực tập. Các yếu tố trên chính là đầu vào cần thiết phục vụ cho việc giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Nếu thiếu những đầu vào này thì ảnh hưởng đến chất lượng học tập ví dụ như: Không có các dụng cụ để thực hành sau bài giảng thì học sinh chỉ biết kiến thức qua lý thuyết, với giáo viên không có thước kẻ, bảng và các văn phòng phẩm khác thì cũng khó có thể truyền đạt kiến thức cho học sinh. Những yếu tố đó ảnh hưởng đến chất lượng học tập của tất cả học sinh trong đó có cả học sinh là trẻ em nghèo. 3.1.2. Các yếu tố phi vật chất - Giáo viên và cán bộ phục vụ giáo dục : Bao gồm chất lượng và số lượng. Về giáo viên mặt chất lượng thể hiện ở năng lực và phương pháp giảng dạy, số lượng thể hiện ở tỷ lệ giáo viên trên học sinh. Cán bộ phục vụ giáo dục như ban giám hiệu nhà trường điều hành các công việc của trường lớp… cũng có vai trò quan trọng. Học sinh nghèo thường tiếp thu kiến thức chậm hơn những học sinh khác vì thế mà khi giảng dạy cần chú ý phương pháp truyền đạt và quan tâm đến hoàn cảnh gia đình động viên khuyến khích các em học tập. Cán bộ phục vụ giảng dạy là người điều hành công việc trường lớp đưa ra các quy định chế độ liên quan đến giảng dạy và học tập, nắm được hoàn cảnh các em học sinh. Nếu đội ngũ này điều hành có hiệu quả thì mỗi học sinh sẽ có được cơ hội học tập tốt hơn, nhất là trẻ em nghèo. Yếu tố này thể hiện ở rõ nhất ở các vùng miền núi nơi mà tập trung nhiều nhất trẻ em nghèo thì lượng giáo viên thiếu trầm trọng, thiếu giáo viên không chỉ trẻ em nghèo mà những trẻ em lứa tuổi đi học cũng không thể tiếp cận với giáo dục. - Các chương trình giảng dạy Các chương trình giáo dục đó là quy định môn học lượng kiến thức truyền đạt… đến học sinh ở mỗi cấp học, các chương trình phải phù hợp với sự tiếp thu từng lứa tuổi của trẻ. - Chi phí đóng góp khi đi học : Bao gồm các khoản như học phí học thêm, xây dựng, sách giáo khoa, quỹ đoàn…chi phí mà nhà cung cấp giáo dục đưa ra bắt buộc gia đình đóng góp để con em được đi học. Với các gia đình nghèo chi phí này là yếu tố quan trọng nhất để cân nhắc có nên cho con em đến trường không vì các chi phí này cần được tính toán sau những chi tiêu khác trong cuộc sống. 3.2. Nhân tố thuộc về người tiếp nhận giáo dục Trẻ em là người trực tiếp hưởng thụ nền giáo dục nhưng gia đình cũng đóng vai trò quan trọng trong sự tiếp nhận này. Họ quyết định cho con em đi học và tạo điều kiện cho các em học tập hay không. Vì thế người tiếp nhận giáo dục là trẻ em nhưng có liên hệ quan trọng với gia đình các em. - Trình độ tiếp nhận giáo dục của trẻ em: Lượng kiến thức giảng dạy không phải bất cứ học sinh nào cũng tiếp thu được hết, mỗi em có mức học lực riêng: giỏi, khá, trung bình, yếu. Vì thế mà có nhiều em không theo được chương trình giảng dạy phải bỏ học, trẻ em nghèo thường có học lực kém hơn trẻ em khác, nên sự tiếp thu của các em là một điều đáng lưu ý. -Thời gian của trẻ em giành cho học tập: có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến thời gian học tập của các em. Đó là thái độ của các em với học tập, nếu học sinh thực sự muốn đến lớp thì sẽ đi học đầy đủ và thời gian học bài ngoài giờ lên lớp cũng nhiều hơn. Ngoài thái độ thái độ với học tập ra còn có ảnh hưởng của các công việc khác làm thời gian dành cho học tập ít hơn, nhưng nhìn chung đều làm cho sự tiếp thu kiến thức giảm sút. Như với trẻ em nghèo phải lao động kiếm sống thì thời gian dành cho học tập của các em chắc chắn không nhiều do phải tham gia lao động giúp đỡ gia đình cải thiện cuộc sống, ảnh hưởng lớn đến sự tiếp cận giáo dục. - Thu nhập của gia đình: Nếu mức thu nhập của gia đình cao thì ngoài học ở trường con em họ còn có thể đi học thêm, hay tham gia những lớp đào tạo khác. Ngược lại khi thu nhập của gia đình hạn hẹp chi tiêu cho học tập không thể nhiều. Đến trường không phải là miễn phí, trừ bậc tiểu học được miễn giảm học phí ra thì các bậc khác đều phải đóng học phí, nhưng đi học không phải chỉ có học phí mà nhiều khoản khác như phần trên đã nêu. Trẻ em trong gia đình nghèo thu nhập thấp, tiếp cận giáo dục kém là điều tất nhiên. - Tâm lý thái độ của gia đình với giáo dục: thể hiện ở mức độ đánh giá của gia đình về tầm quan trọng của giáo dục. Có gia đình thì chỉ cần con cái học lấy cái chữ có gia đình thì muốn con cái học càng lên cao càng tốt. Một khi đã muốn con cái học hành đến nơi đến chốn thì gia đình sẵn sàng tạo điều kiện dù khó khăn đến mấy. Trẻ em nghèo thì phần lớn gia đình không quan tâm đến giáo dục vì đến cả bố mẹ cũng không được học hành đầy đủ họ không thấy hết được tầm quan trọng của giáo dục, nhưng cũng có trường hợp điển hình bố mẹ dù nghèo đến mấy cũng cho con cái đi học. Vì thế cải thiện thái độ với giáo dục cho người nghèo cũng là một vấn đề ảnh hướng đến khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo. 3.3. Các nhân tố khác 3.3.1. Tăng trưởng và phát triển kinh tế Khi nền kinh tế tăng trưởng và phát triển làm tăng tổng thu nhập quốc gia, phát triển mọi lĩnh vực của xã hội. Cùng với đó là sự phát triển con người, thu nhập của người dân và chất lượng cuộc sống nâng cao. Nó tác động đến khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo qua các mặt sau: Thứ nhất vì thu nhập của người dân tăng lên làm giảm tỷ lệ nghèo, số trẻ em nghèo cũng giảm. Mức thu nhập tăng các gia đình sẽ đầu tư vào giáo dục và tạo điều kiện cho con em mình đến trường nhiều hơn. Thứ hai thu nhập quốc dân tăng lên thì nguồn lực dành cho giáo dục cũng nhiều hơn, sẽ có nhiều khoản đầu tư, giúp trẻ em nghèo tiếp cận với giáo dục nhiều hơn như hỗ trợ học phí, sách vở… Tuy nhiên không phải tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với phát triển con người. Nhiều nước đạt tăng trưởng kinh tế nhưng lại kèm theo lạm phát cao, bất bình đẳng hơn, thất nghiệp cao và tình trạng đói nghèo trầm trọng. Tỷ lệ nghèo không giảm, số trẻ em nghèo tăng. Điều ngược lại xảy ra, khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo kém đi. 3.3.2. Vị trí địa lý Yếu tố này ảnh hưởng đến mật độ và bố trí trường lớp. Nếu vị trí thuận lợi thì việc đầu tư xây dựng trường lớp dễ dàng và cũng dễ tìm một địa điểm hợp lý để thuận lợi trong việc đến trường của các em. Thể hiện rõ nhất ở vùng sâu, vùng xa, nơi này đường xá đi lại khó khăn, trường học không có nhiều và ở những nơi đó không có một chỗ thuận lợi để bố trí cho học sinh đến trường dễ dàng nhất. Quãng đường từ nhà đến trường quá xa làm các em có thể từ bỏ việc đi học hoặc đi học nhưng không đầy đủ. Trẻ em nghèo lại càng khó khăn hơn vì các em thiếu phương tiện đi lại, thời gian đến trường nhiều và có thể phải học bán trú, chi phí cơ hội cho việc đi học nhiều như thời gian giúp việc cho gia đình hay làm thêm, chi phí cho đi lại…Vì thế mà giảm khả năng tiếp cận giáo dục của các em. 3.3.3. Dân tộc tôn giáo Các dân tộc sống chung trong địa phương quốc gia, nhưng lại có các nhu cầu văn hóa, giáo dục khác nhau, tập quán sống và sản xuất khác nhau. Cần nắm bắt được đặc tính, bản sắc dân tộc để cung cấp dịch vụ phù hợp nhất với truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo và văn hóa mỗi dân tộc. Yếu tố này ảnh hưởng đến sự tiếp cận giáo dục chung của trẻ em trong đó có trẻ em nghèo. 3.3.4. Nhân tố thuộc về chính sách Mục đích cuối cùng của sự phát triển một đất nước là mang lại một cuộc sống đầy đủ ấm no cho tất cả người dân, vì thế mà luôn cần có các chính sách quan tâm đến những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, trong đó có trẻ em nghèo. Chính phủ thường cam kết quan tâm tới việc đáp ứng nhu cầu và chất lượng cuộc sống của người nghèo, của trẻ em nghèo tuy nhiên để biến những cam kết này thành các chương trình, chính sách có hiệu quả thực sự thì cần nhiều yếu tố và cho dù chính phủ có những chính sách đầu tư trực tiếp cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo thì không phải lúc nào những dịch vụ và kết quả đầu tư cũng có thể đến được với các em một cách hiệu quả. Vì thế mà nhìn chung thì những chính sách làm tăng khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo nhưng mà cũng cần phải xem xét hiệu quả thực sự của nó. 3.4.5. Phân bổ nguồn lực hợp lý Phân bổ nguồn lực hợp lý là một bước quan trọng để cung cấp các dịch vụ. Bao gồm chất lượng và số lượng phân bổ. Nếu ngân sách chi cho giáo dục trong đó có các chính sách liên quan đến tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo được phân bổ hợp lý trong cơ cấu chi ngân sách và hiệu quả thì sẽ làm tăng khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo. Phân bổ ở đây bao gồm hai sự phân bổ chính là tài chính và nguồn lực con người. Mỗi vùng có số lượng trẻ em nghèo khác nhau và đặc điểm cũng khác nhau… vì thế mà cần phân bổ tài chính và nguồn lực con người hiệu quả. 4. Các chỉ tiêu và phương pháp đánh giá khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo. 4.1. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo. Đánh giá khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo có thể dùng các chỉ tiêu sau : - Mức chi tiêu cho giáo dục : bao gồm mức chi tiêu theo mỗi khoản đóng góp, mức chi tiêu cho giáo dục một trẻ em trong mỗi cấp học. + Mức chi tiêu theo mỗi khoản đóng góp bao gồm các khoản như học phí, sách vở , quần áo… Cho thấy được chi phí của từng khoản trong quá trình học tập c._.ủa trẻ em, khoản đóng góp nào chiếm tỷ lệ cao nhất là ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo nhất. + Mức chi tiêu cho giáo dục một trẻ em trong mỗi cấp thể hiện tổng chi phí khi trẻ em đi học từng cấp : mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học cơ sở, trung học phổ thông. So sánh mức chi tiêu này với tỷ lệ trẻ em nghèo đi học tìm ra mối quan hệ giữa chúng. - Tỷ lệ trẻ em đi học đúng độ tuổi ở mỗi cấp. Được xác định như bảng 1.1 dưới đây. Các tỷ lệ trong bảng có thể tính riêng cho nam và nữ, tính riêng cho từng vùng, tính riêng cho nhóm di dân và không di dân, tính riêng cho nhóm nghèo và nhóm không nghèo… để có thể tiến hành so sánh. Bảng 1.1 : Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi trẻ em các cấp Cấp học Tỷ lệ trẻ em đi học đúng độ tuổi Mầm non Số đi học nhà trẻ đúng độ tuổi Số 6 tháng - 3 tuổi Số đi học mẫu giáo đúng độ tuổi Số 4 - 5 tuổi Tiểu học Số đi học tiểu học đúng độ tuổi Số 6 - 10 tuổi Trung học cơ sở Số đi học trung học cơ sở đúng độ tuổi Số 11- 14 tuổi Trung học phổ thông Số đi học trung học phổ thông đúng độ tuổi Số 15- 17 tuổi . - Tỷ lệ người đi học thêm: coi việc học thêm đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục, cung cấp đầy đủ kiến thức cho học sinh. Nếu tỷ lệ đi học thêm của người nghèo thấp có nghĩa là học không nhận được dịch vụ giáo dục một cách đầy đủ và chất lượng tốt. - Tỷ lệ hỗ trợ việc học tập của gia đình với các em: Phản ánh sự hỗ trợ của các thành viên trong gia đình trong quá trình học tập của trẻ. Sự hỗ trợ này thể hiện ở mua sách vở học tập cho trẻ, dành thời gian vui chơi dạy bảo trẻ. Sự hỗ trợ này thấp chứng tỏ các em được ít tiếp cận với giáo dục hơn. -Tỷ lệ lao động trẻ em bao gồm các tỷ lệ về lao động trẻ em, số lao động trẻ em đang đi học, tỷ lệ học sinh tham gia lao động, các tỷ lệ này phản ánh chất lượng học tập của mỗi học sinh do ảnh hưởng của lao động, phản ánh thiếu thốn vật chất khiến trẻ em phải đi làm mà đang trong độ tuổi lao động. 4.2. Phương pháp đánh giá khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo Để đánh giá khả năng tiếp cận giáo dục, chúng ta có thể sử dụng một số phương pháp sau: 4.2.1. So sánh trực tiếp giữa nhóm nghèo và nhóm không nghèo Trong mỗi chỉ tiêu đã trình bày ở phần trên chia ra làm 5 nhóm nghèo nhất, gần nghèo nhất, trung bình, gần giàu nhất, giàu nhất. Số liệu này bao gồm từ 1 đến 2 hoặc 3 năm. Với phương pháp so sánh trực tiếp có thể: so sánh chuỗi có nghĩa là về xu hướng biến động của số liệu về nhóm nghèo nhất qua các năm, so sánh nhóm nghèo nhất với tỷ lệ chung của cả nước, so sánh nhóm giàu và nhóm nghèo tìm ra khoảng cách chênh lệch giữa hai nhóm này, từ đó rút ra các nhận xét. 4.2.2 Phương pháp đường cong Lorenz Đánh giá mức độ công bằng trong khả năng tiếp cận giáo dục giữa nhóm trẻ em nghèo và không nghèo. Đường cong này biểu diễn tỷ lệ phần trăm tích lũy của biến giáo dục trên trục tung (y) và tỷ lệ tích lũy của nhóm dân số tương ứng trên trục hoành (x), được sắp xếp theo nhóm thu nhập, bắt đầu từ nhóm nghèo nhất cho tới nhóm giàu nhất trong dân số. Ví dụ như đường cong Loren có thể chỉ ra tỷ lệ phần trăm tích lũy của nhóm trẻ nghèo nhất đi học mẫu giáo đúng độ tuổi tương ứng với tỷ lệ phần trăm tích lũy nhóm nghèo nhất từ 3-6 tuổi. Nếu tất cả trẻ em, không phân biệt mức thu nhập , có tỷ lệ % tích lũy đi học mẫu giáo bằng nhau ở tất cả các nhóm thì sẽ hình thành nên một đường thẳng 450, chia đôi trục hoành thành hai đường bằng nhau, gọi là đường công bằng. Còn nếu tỷ lệ phần trtích lũy của biến giáo dục có giá trị thấp hơn ( cao hơn ) trong số những người nghèo thì đường cong sẽ nằm ở dưới đường công bằng, thể hiện tình trạng khó ( dễ ) tiếp cận với giáo dục hơn đối với người nghèo. Đường cong nằm càng xa đường công bằng bao nhiêu, càng thể hiện nhóm người nghèo khó tiếp cận hơn với giáo dục bấy nhiêu 4.2.3 Chỉ số đánh giá khả năng tiếp cận giáo dục của nhóm nghèo và không nghèo ( EAAI) Chỉ số này được xây dựng dựa trên nguyên tắc chuyển các tỷ lệ thành chỉ số rồi tổng hợp thành một chỉ số duy nhất theo các trọng số thể hiện mức độ quan trọng của từng tỷ lệ. Các tỷ lệ được chuyển thành chỉ số theo công thức sau : Tmax - Tth I= Tmax - Tmin Trong đó: I là chỉ số, T là tỷ lệ với Tmax là mức cực đại của các tỷ lệ ( 100%); Tmin là mức cực tiểu của các tỷ lệ ( 0 %) , Tth là mức thực tế của các tỷ lệ. Giá trị của các chỉ số I dao động trong khoảng từ 0 - 1. Tùy thuộc vào loại chỉ số mà giá trị của chỉ số có ý nghĩa khác nhau. Đối với chỉ số nhập học, giá trị chỉ số càng gần 0 càng cho thấy khả năng tiếp cận giáo dục càng dễ dàng , tuy nhiên với chỉ số bỏ học thì với giá trị càng gần 1 thì mới phản ánh khả năng tiếp cận giáo dục hiệu quả hơn. Và vì vậy , đối với chỉ số tổng hợp, giá trị của nó càng lớn , càng gần 1 bao nhiêu phản ánh khả năng tiếp cận giáo dục càng dễ dàng và hiệu quả bấy nhiêu. Riêng chỉ số nhập học giáo dục mầm non được tổng hợp từ hai chỉ số nhập học nhà trẻ và mẫu giáo theo trọng số thể hiện vai trò quan trọng của giáo dục tiền học đường ( 4 - 5 ) với trẻ em : IdNT + 3IdMG Id = 4 Sau khi có đầy đủ các chỉ số tổng hợp, chúng ta tiến hành tính chỉ số đánh giá khả năng tiếp cận giáo dục EAAI theo công thức bảng dưới, trong đó các trọng số Ci được xác định với giả thiết rằng giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học là các dịch vụ xã hội cơ bản và đóng vai trò quan trọng hơn giáo dục cấp phổ thông. 5. Kinh nghiệm của thế giới về tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo Trên thế giới hiện nay còn khoảng hơn 2 tỷ người sống trong nghèo khổ, vì thế mà lượng trẻ em nghèo còn rất nhiều. Vấn đề tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo là một chủ đề được chính phủ nhiều nước trên thế giới quan tâm thể hiện bằng nhiều chương trình chính sách cụ thể. Dưới đây là kinh nghiệm của một số nước và những bài học bổ ích cho Việt Nam. Các chương trình của họ đã được thực hiện rất thành công, có chương trình chỉ tập trung vào đối tượng trẻ em nghèo như Mêhicô, Brazil. Cũng có chương trình không tập trung hẳn vào đối tượng trẻ em nghèo nhưng có tác động sâu sắc tới đối tượng này vì có nhiều vấn đề liên quan đến giáo dục không chỉ liên quan đến trẻ em nghèo mà là tất cả đối tượng trẻ em khác. Nếu tổng thể chung làm tốt thì tất cả trẻ em đều được tiếp cận giáo dục công bằng như nhau, đó là các chương trình của Hàn Quốc… 5.1. Kinh nghiệm của các nước 5.1.1. Kinh nghiệm của Mêhicô Vào năm 1995 khi tổng thống mới của Mêhicô lên cầm quyền, 1% dân số Mêhicô không có khả năng chi trả cho nhu cầu dinh dưỡng của mình, hơn 1,5 triệu trẻ em thất học, tình trạng học sinh bỏ tiết, trốn học ở các vùng nghèo, xa xôi cao gấp 3 lần so với các nơi khác trong nước. Các chương trình xóa đói giảm nghèo trước đây rất ít tác dụng. Chính quyền mới đã quyết định cần phải có một cách tiếp cận mới đối với vấn đề xóa đói giảm nghèo. Chương trình giáo dục, y tế, dinh dưỡng của Mêhicô còn gọi là Progresa, đã ban hành một hệ thống trợ cấp tiền mặt có điều kiện cho các gia đình nghèo - nếu con họ đến trường. Chương trình này nhằm giải quyết hàng loạt các nhược điểm của các chương trình trước đây. Thứ nhất nó chống lại xu hướng trong các gia đình nghèo thiên về tiêu dùng hiện tại bằng cách thúc đẩy cho đầu tư vào vốn con người. Thứ hai chương trình này đã nhận thức được quan hệ lẫn nhau giữa giáo dục, y tế và dinh dưỡng. Thứ ba, để dàn rộng nguồn lực có hạn của mình, chương trình này đã gắn việc trợ cấp tiền mặt với hành vi của hộ gia đình nhằm mục đích thay đổi thái độ của họ. Theo chương trình này trẻ em trên 7 tuổi được nhận quyền trợ cấp giáo dục. Lợi ích sẽ tăng theo cấp học và cao hơn cho các em gái ở trường cấp 2 để khuyến khích các em đi học. Để tiếp tục được hưởng lợi ích này, trẻ em cần duy trì 85% hồ sơ theo học và không lưu ban quá một lần. Tiền trợ cấp được trao cho người mẹ, vì họ được coi là chịu trách nhiệm chăm sóc con cái. Chương trình này đã ấn định mức trợ cấp hàng tháng với mức cao nhất là 75 USD một hộ gia đình. Chẳng hạn, năm 1999 mức trợ cấp trung bình cho một hộ gia đình hàng tháng là 24 USD gần bằng 20% tiêu dùng trung bình của hộ gia đình trước khi có chương trình. Với tính tập trung cao, chương trình chỉ có cầu nối duy nhất giữa cán bộ chương trình và người hưởng thụ. Đến cuối năm 1999 chương trình đã phục vụ được khoảng 2,6 triệu gia đình nông thôn và 1/9 số hộ gia đình ở Mehico. Ngân sách cho chương trình này là 780 triệu USD và 20% ngân sách xóa nghèo liên bang. Đặc biệt gần 60% các khoản trợ cấp của chương trình được tài trợ cho nhóm 20% dân số nghèo nhất và hơn 80% ngân sách 40% dân số nghèo nhất. Kết quả của chương trình này được đánh giá rất cao. Tỷ lệ nhập học của các em gái đã tăng từ 67% lên gần 75% và của các em trai tăng từ 73% lên 78%. Chương trình đã có tác dụng chủ yếu là giữ được học sinh ở trường, chứ không khuyến khích những học sinh bỏ học quay lại lớp. Như vậy có thể thấy chương trình trợ cấp bằng tiền có điều kiện có thể là một cách hữu hiệu để thúc đẩy các kết quả về giáo dục cho người nghèo. Thành công của chương trình Progresa đã dẫn đến sự ra đời của nhiều chương trình tương tự ở các nước châu Mỹ La Tinh khác như Côlômbia, Jamaica… 5.1.2 Kinh nghiệm của Brazil Ở Brazil tình trạng lao động trẻ em là một vấn đề bức xúc nhất là ở vùng nông thôn. Nhận thức được nguyên nhân của lao động trẻ em là do nghèo đói và tình trạng này cũng ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng giáo dục, năm 1996 chính phủ Brazil đã đưa ra chương trình ''Xóa bỏ lao động trẻ em''( PETI ). Chương trình này được khởi xướng tại các vùng nông thôn với mục tiêu tăng thành tích giáo dục giảm nghèo và xóa bỏ ''các hình thức tồi tệ nhất'' của lao động trẻ em. Chương trình cung cấp khoản tiền bồi dưỡng với mức xấp xỉ 25 Ringit một tháng cho các gia đình nghèo có trẻ em trong độ tuổi từ 7 đến 14 và đang phải lao động; tiền được trao cho mẹ của những đứa trẻ là đối tượng hưởng thụ của chương trình. Để đủ tiêu chuẩn nhận tiền tất cả trẻ em trong độ tuổi đi học trong gia đình phải đi học, tham gia vào các hoạt động sau giờ lên lớp và phải nhất trí không làm việc. Các hoạt động sau giờ lên lớp là một cách thức để đảm bảo rằng trẻ em không kết hợp đi học với việc đi làm. Chương trình mục tiêu này được hỗ trợ bởi các công đoàn lao động nông thôn. Các tổ chức này giúp lựa chọn những trẻ em được tham gia vào chương trình, đồng thời giúp giám sát tác động của chương trình. Cho đến năm 1999, chương trình đã vươn tới 166 thành phố tại 8 bang với tổng số trẻ em được hưởng thụ là 131.000. Chương trình đã được thiết lập trên toàn quốc vào năm 2000. Các nghiên cứu được tiến hành trong suốt giai đoạn mở rộng của chương trình, đã cho thấy sự thuyên giảm mạnh mẽ trong tỷ lệ bỏ học cũng như sự gia tăng trong mức nhập học vào các trường tiểu học. Hơn nữa sự tham gia của trẻ em trong độ tuổi từ 10 đến 14 vào lực lượng lao động trẻ em đã giảm 36% tại Brazil. Chương trình đã đạt được thành công trong việc tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục cho đối tượng trẻ em khó khăn nhất đó là trẻ em nghèo tham gia lao động, chính là tạo cơ hội tiếp cận giáo dục đồng đều cho mọi trẻ em. 5.1.3. Kinh nghiệm của các nước khác - Tại Trung Quốc ngày càng có nhiều sự quan tâm được dành cho việc trợ giúp các nhóm thiệt thòi nhất. Có kế hoạch tăng mức đầu tư tiền bạc cho khu vực phía tây và các khu vực dân tộc thiểu số, sử dụng ngôn ngữ địa phương, tuyển dụng giáo viên địa phương và các chương trình GD tốt hơn dành cho cha mẹ học sinh. - Tại nước Mỹ, GD rất được coi trọng trong các chương trình nghị sự chính trị. Năm 2002, chính phủ liên bang đã phát động một kế hoạch 12 năm với tên gọi '' không để đứa trẻ nào bị tụt hậu''. Cho tới năm 2013 - 2014 tất cả trẻ em đều sẽ thành thạo việc đọc ngữ văn, làm toán và các môn khoa học. Điều này có nghĩa thành tích học tập thấp của những đứa trẻ là con em của các gia đình có nhóm thu nhập thấp, các nhóm thiểu số và trẻ em khuyết tật phải được loại bỏ trước năm 2014. Để thực hiện điều này các tiểu bang phải áp dụng chương trình: ''các tiêu chuẩn về thành tích học tập'' trước năm 2006. Đối với các năm 2002 - 2008, đạo luật có giới hạn thời gian gồm 40 quy định, trong đó có quy định về kinh phí bổ sung cấp cho các trường học có nhiều học sinh nghèo, một hệ thống giám sát trên mạng sẽ chỉ ra bang nào không thực hiện, bang nào thực hiện và cho phép các tiểu bang học hỏi lẫn nhau. - Còn dưới đây là kinh nghiệm của Hàn Quốc, không phải là một chương trình cụ thể nào và cùng không tập trung vào trẻ em nghèo nhưng chính sách giáo dục của họ đã tạo ra một đất nước với tài sản lớn nhất là dân số biết chữ và cần cù. Học hỏi kinh nghiệm của Hàn Quốc để thấy được tại sao họ lại có một nền giáo dục tốt như vậy, rút ra kinh nghiệm nâng cao sự tiếp cận giáo dục cho mọi trẻ em nói chung và trẻ em nghèo nói riêng. Ngay từ đầu những năm 1950, Hàn Quốc đã xác định xây dựng một ngành giáo dục mạnh là một phần nằm trong chiến lược phát triển kinh tế quốc gia. Nhiều viện, trường năng động ngay lập tức đã triển khai những chính sách mở rộng giáo dục. Hàn Quốc tập trung vào quyền tiếp cận và chất lượng cho tất cả bằng khát vọng mọi người dân đều được tiếp cận với giáo dục để xây dựng một lực lượng lao động có trình độ tay nghề cao. Các bậc phụ huynh đã đóng góp vào chi phí mở rộng giáo dục vì những giá trị cao họ tin tưởng vào chất lượng giáo dục. Giáo viên được đào tạo dài hơn, nâng cấp cơ sở vật chất của nhà trường. Với định hướng tốt về giáo dục và thực hiện với một quyết tâm cao ngành giáo dục Hàn Quốc nhanh chóng đạt được những kết quả to lớn. Sự tiếp cận với giáo dục tiểu học và trung học ở Hàn Quốc dễ dàng và công bằng. Tổng số nhập học ở cấp trung học đạt tới 90% cả nam và nữ. Học sinh Hàn Quốc nằm trong tốp giỏi nhất của thế giới. Với tỷ lệ nhập học ở các cấp cao như vậy cho thấy ở Hàn Quốc trẻ em được tiếp cận giáo dục khá tốt, định hướng giáo dục đúng đắn và thực hiện hiệu quả đã tạo nên thành công của nước này. Kinh nghiệm này của Hàn Quốc tuy không tập trung hẳn vào đối tượng trẻ em nghèo nhưng có tác dụng tích cực với đối tượng này. Chính sách giáo dục cho trẻ em nghèo cũng phải nằm trong tổng thể các chính sách dành cho giáo dục, vì thế mà khi chính sách tổng thể đạt kết quả tốt chắc chắn tác động và là bài học cho chính sách của những nhóm đối tượng cụ thể, trong đó có trẻ em nghèo. 5.2. Bài học với Việt Nam Chương trình của các nước được trình bày đã được thực hiện và rất thành công, để lại cho chúng ta rất nhiều bài học quý báu: Thứ nhất, các chương trình của các quốc gia trên được đưa ra với các mục tiêu cụ thể, với từng nhóm đồi tượng và được thực hiện với một quyết tâm cao thể hiện ngay từ tên gọi của các chương trình đó. Như chương trình '' không để đứa trẻ nào tụt hậu'' của Mỹ, chương trình '' xóa bỏ lao động trẻ em'' của Brazil. Đó cũng là xu hướng chung càng ngày các chính phủ càng đưa ra những mục đích và mục tiêu giáo dục với giới hạn thời gian trong phạm vi các kế hoạch và các chương trình cụ thể. Thứ hai, các cam kết đưa ra có tính khả thi cao, việc thực hiện được điều hành và giám sát chặt chẽ. Các mục tiêu giáo dục tập trung vào cải thiện chất lượng và số lượng tiếp cận của trẻ em nghèo. Hai khía cạnh này được tách ra. Như với Mêhicô chương trình Progresa hỗ trợ tài chính để cho trẻ em nghèo đến trường nhiều hơn, Brazil thì tập trung vào lao động trẻ em, các chương trình này nhằm tăng số lượng trẻ đi học. Với chương trình của Mỹ và Trung Quốc thiên về tăng cường chất lượng học tập cho trẻ em nghèo với những biện pháp cụ thể riêng. Đặc biệt ở Mỹ còn có sự giám sát, học hỏi giữa các bang, một chương trình có thể được áp dụng ở nhiều khu vực, trong mỗi khu vực sẽ có cách áp dụng riêng theo định hướng đặt ra từ cấp trung ương, sự đánh giá chéo nhau này khiến cho chất lượng các chương trình nâng cao, có nhiều bài học được rút ra để các chương trình sau hoạt động hiệu quả. Thứ ba là bài học rút ra từ kinh nghiệm của Hàn Quốc, chính sách giáo dục dành cho trẻ em nghèo nằm trong hệ thống chính sách giáo dục chung, tuy không có nhiều nguồn lực dành cho giáo dục nhưng Hàn Quốc đã huy động được sự ủng hộ của người dân cả về vật chất và tinh thần, người dân hiểu được tầm quan trọng của giáo dục nên đầu tư cho con em họ đi học và đóng góp nguồn lực cho nhà nước. Liên hệ với vấn đề tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo ta thấy rằng điều quan trọng nhất là làm cho các gia đình hiểu được tầm quan trọng của giáo dục để tạo điều kiện cho con em đi học, tạo được quyết tâm cao với tất cả mọi người. Thứ tư, các chương trình với mục tiêu gì đi chăng nữa thì kết quả đáng quan tâm nhất là thay đổi được hành vì thái độ của người nghèo với giáo dục. Đưa cho họ một nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của giáo dục, có như thế thì họ mới tạo điều kiện thực sự cho con em họ đến trường dù hoàn cảnh như thế nào, dù có nhận được sự hỗ trợ hay không. Ngoài ra cũng cần chú ý các dịch vụ khác như y tế vì nó cũng nằm trong lĩnh vực tinh thần mà người nghèo dễ bị tổn thương, nắm được sự tiếp cận của người nghèo cả về những dịch vụ khác nữa thì hiệu quả của chính sách tăng lên rất nhiều. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG TIẾP CẬN GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM NGHÈO VIỆT NAM 1. Bức tranh chung về trẻ em nghèo Việt Nam Để có một cái nhìn chính xác, toàn diện về trẻ em nghèo đầu tiên chúng ta cùng xem xét vấn đề nghèo đói chung của Việt Nam. Việt Nam đã đạt được những thành tựu khá ấn tượng trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, đã được thế giới và bạn bè đánh giá cao. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước, thu nhập của dân cư đã tăng rõ rệt trong những năm gần đây. Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người năm 2000 tính bằng USD theo phương pháp tỷ giá hối đoái thực tế khoảng 400 USD, năm 2006 là 725USD, năm 2008 là 1028 USD. Tăng trưởng kinh tế đi cùng với kết quả xóa đói giảm nghèo. Chính phủ đã có chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, các chính sách về giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cho người nghèo. Các ngành địa phương triển khai các biện pháp xóa đói giảm nghèo như: tạo điều kiện về vốn qua hình thức tín dụng cho hộ nghèo có nhu cầu vay. Đối với vùng đặc biệt khó khăn, nhà nước xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia đã giảm mạnh, giai đoạn trước năm 1990 tỷ lệ nghèo chung của cả nước là 70%, năm 1993 là 58,1%, năm 1998 là 37,4%, năm 2007 là 14,7% đến năm 2008 là 13,5% những con số trên đã phản ánh sự chuyển biến sâu sắc trong việc giảm tỷ lệ hộ nghèo.  Tuy nhiên tốc độ giảm nghèo trong những năm gần đây có xu hướng giảm, năm 2008 giảm 1,2% so với năm 2007 trong khi từ năm 1993 đến năm 1998 giảm 20,7% mỗi năm giảm trung bình hơn 3% . Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn và đặc biệt ở khu vực miền núi vẫn còn cao, gấp từ 1,7 đến 2 lần tỷ lệ nghèo bình quân của cả nước. Nếu như tỷ lệ hộ nghèo của vùng Đông Nam Bộ là 6,1%, tỷ lệ nghèo của vùng đồng bằng sông Hồng là 12,9% thì vùng Tây Bắc vẫn còn tới 46,1% tức còn gần một nửa, vùng Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên tuy giảm nhanh nhưng vẫn còn gần 1/3, vùng Đông Bắc vẫn còn 23,2%, vùng duyên hải Nam Trung Bộ 21,3%, ngay cả vùng đồng bằng sông Cửu Long một vựa lúa của cả nước vẫn còn 15,3% người nghèo ( Số liệu tổng cục thống kê 2004). Không chỉ có chênh lệch tỷ lệ nghèo ở các vùng mà còn có sự chênh lệch cao giữa nhóm giàu và nhóm nghèo. Theo báo cáo phát triển con người của UNDP 2007 - 2008 : Chênh lệch giàu nghèo của nước ta hiện nay là 34,4 lần 10% dân số nghèo nhất chỉ chiếm 4,2% thu nhập và chi tiêu quốc gia 10% dân số giàu nhất chiếm 28,8% thu nhập và chi tiêu quốc gia 20% dân số nghèo nhất chiếm 9% tổng thu nhập và chi tiêu quốc gia 20% dân số giàu nhất chiếm 44,3% tổng thu nhập và chi tiêu quốc gia Bảng 2.1 : Chuyển biến của tỷ lệ nghèo và hệ số Gini Việt Nam 1993 - 2006 Năm 1993 1998 2002 2004 2006 Tỷ lệ nghèo (%) 58,1 37,4 28,9 19,5 16,0 Hệ số Gini tính từ chi tiêu 0,34 0,35 0,37 0,37 0,36 Hệ số Gini tính từ thu nhập 0,35 0,39 0,42 0,41 0,43 Nguồn: Tổng cục thống kê Bảng 2.2: Tỷ lệ hộ nghèo các vùng 2004 Nguồn: Tổng thống kê Hộ nghèo số nhân khẩu bình quân thường cao hơn hộ giàu từ 1,5 người trở lên, nhân khẩu bình quân/ hộ vùng nông thôn thường cao hơn thành thị, cao nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long hộ nghèo nhiều hơn hộ giàu tới 2,4 người. Vùng núi phía Bắc là 2,1 người, Tây nguyên 1,9 người, Bắc Trung Bộ là 1,8 người. Tình trạng phổ biến của cả nước là các hộ đã thuộc diện nghèo đói lại thường có nhiều trẻ em, thiếu lao động. Số liệu của các cuộc điều tra mức sống dân cư của tổng cục thống kê cho thấy rằng tỷ lệ trẻ em trên mỗi người lao động ở nhóm hộ nghèo cao nhất và tỷ lệ này giảm dần khi nhóm mức chi tiêu bình quân đầu người tăng dần. Ở thành phố số người nghèo ít hơn rất nhiều ở nông thôn không chỉ là biểu hiện đơn thuần về mức sống mà còn phải ánh bức tranh đói nghèo nông thôn, sự nghèo đói ở nông thôn đã thúc đẩy người dân di cư ra thành phố và dân di cư tự do thường làm cho môi trường xã hội ở các đô thị them phức tạp, khó quản lý, tệ nạn xã hội gia tăng và làm trầm trọng thêm đội quân thất nghiệp ở thành thị. Vì vậy mà có thể nói nghèo đói là vấn đề ở khu vực nông thôn xuất phát từ khu vực nông thôn nhưng lan toả ra cả nước trở thành vấn đề cấp bách chung của toàn xã hội. Có sự chênh lệch về học vấn giữa người giàu và người nghèo. Người nghèo có ít cơ hội học lên bậc cao hơn. Các hộ nghèo không có điều kiện học tập văn hoá, các con em họ không có điều kiện đến trường, nhất là con em vùng dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Những số liệu về điều tra mức sống cho thấy nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo. Ngoài chi tiêu cho ăn uống hộ nghèo cũng phải dành một một khoản tiền khá lớn( về tỷ trọng trong ngân quỹ gia đình cho chữa bệnh và giáo dục) Mặc dù thu nhập thấp nhưng người nghèo cũng phải trang trải các chi phí cần thiết cho đời sống sinh hoạt tuy khiêm tốn nhưng mục nào khoản nào cũng phải có. Ngoài ra người nghèo cũng phải chi phí cho các khoản đóng góp khác như: an ninh địa phương, khắc phục bão lụt, quốc phòng, trường học. Khi mùa màng thất bát, thì tầng lớp những người nông dân nghèo thường bị ảnh hưởng trực tiếp nhất đến đời sống của họ. Chẳng hạn những người dân ở khu vực miền trung hay phải gánh chịu thiên tai, làm ảnh hưởng đến sinh hoạt đời sống của tất cả người dân nhưng nặng nề nhất vẫn là người nghèo, khi mà nhà cửa không chắc chắn sẽ dễ bị hư hỏng, mùa màng thất bát…cuộc sống của người nghèo khó khấm khá lên được. Hiện nay chính phủ ta đã có những biện pháp hỗ trợ người nghèo như vay vốn. Nhưng sự hỗ trợ đó đến được với người nghèo hay không và họ sử dụng nó như thế nào là cả một bài toán. Điều đó làm cho bức tranh về người nghèo Việt Nam thêm nhiều màu sắc. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói nhưng có thể tổng hợp thành như sau: w Đông con, thiếu lao động w Thiếu ruộng đất sản xuất, thiếu vốn sản xuất w Rủi ro tai nạn, không có kinh nghiệm làm ăn wKhông có kế hoạch w Bệnh tật ốm đau w Không có nghề gì khác ngoài nông nghiệp và các yếu tố khác Đó là các số liệu để cho chúng ta nhìn rõ hơn về bức tranh nghèo đói của Việt Nam hiện nay, nhưng nhìn vào đó phải hiểu được là: Nghèo không chỉ đơn giản là mức thu nhập thấp mà còn thiếu thốn trong việc tiếp cận dịch vụ, như giáo dục, văn hóa, thuốc men, không chỉ thiếu tiền mặt, thiếu những điều kiện tốt hơn cho cuộc sống mà còn thiếu thể chế kinh tế thị trường hiệu quả, trong đó có các thị trường đất đai, vốn và lao động cũng như các thể chế nhà nước được cải thiện có trách nhiệm giải trình và vận hành trong khuôn khổ pháp lý minh bạch cũng như một môi trường kinh doanh thuận lợi. Mức nghèo còn là tình trạng đe dọa bị mất những phẩm chất quý giá, đó là lòng tin và lòng tự trọng. Vì thế mà khi các chính sách hướng về người nghèo không chỉ cải thiện những thiếu thốn về vật chất mà còn về tinh thần và tình cảm cho họ. Có thể nói những người nghèo, những hộ thu nhập thấp, những người phải chạy ăn từng bữa trên thực tế chỉ được hưởng thụ rất ít các kết quả tăng trưởng khi mà họ gần như lãnh trọn những hậu quả do lạm phát đang diễn ra. Mà khi gia đình rơi vào cảnh nghèo đói thì trẻ em là những người luôn gánh chịu những ảnh hưởng nhiều nhất. Trong khi tỷ lệ nghèo chung năm 2008 là 13,5% thì mức nghèo tiền tệ của trẻ em là 23% và nghèo đa chiều 31% ( nghèo đa chiều xét trên 7 lĩnh vực như phần trên đã nêu ) Những con số đáng lưu ý trong chương trình đánh giá giữa kỳ chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo và chương trình 135 II. Có 1/3 trẻ em dưới 5 tuổi suy sinh dưỡng thể còi 1/3 vào thời điểm 5 tuổi chưa được tiêm phòng đầy đủ 1/2 số trẻ không được tiếp cận công trình vệ sinh đủ tiêu chuẩn 2/3 không có tranh truyện hoặc sách cho trẻ em. Trẻ em nghèo thì càng lên bậc học cao hơn thì tiếp cận giáo dục càng kém. Nếu như ở bậc tiểu học số trẻ em đến trường của nhóm nghèo và nhóm không nghèo không chênh lệch nhiều, thì lên bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông thì sự chênh lệch càng rõ, về vấn đề y tế trẻ em nghèo bị ốm nhiều hơn so với trẻ em không thuộc hộ nghèo ( 12,4% so với 11,7% ) điều này cho thấy trẻ em trong các hộ không nghèo được chăm sóc tốt hơn. Nghiên cứu về trẻ em nghèo trên còn cho thấy sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng địa lý đồng bằng và miền núi. Tỷ lệ nghèo ở nông thôn là 40%, ở thành thị là 10%, theo vùng địa lý CPR cao nhất ở miền núi phía bắc 64 - 78%, đồng bằng sông Cửu Long 56 - 60%, CPR ở trẻ em dân tộc thiểu số 65% cao hơn so với trẻ em dân tộc kinh hoa ( 25%). Trong số trẻ em từ 3 đến 6 tuổi có 14,2% không đi học mẫu giáo tập trung chủ yếu vào trẻ em thuộc các hộ dân tộc thiểu số và các vùng nông thôn. 75,18% tỷ lệ trẻ em thuộc hộ thiểu số sống bằng nhà tranh vách đất. Trẻ em thuộc hộ dân tộc thiểu số không có nhà vệ sinh cao hơn 2 lần so với trẻ em sống trong các hộ người kinh. ( 74,1% và 5,8%). Các tỷ lệ phản ánh chênh lệch mức sống cao của hai nhóm giàu và nghèo, ngoài ra còn cả quy mô, các gia đình nghèo thường đông con, khoảng gần 50% số trẻ em sống trong các hộ nghèo và cận nghèo, trong khi đó chỉ có khoảng 15% trẻ em thuộc nhóm giàu nhất. Trên đây là những con số còn những thực trạng sự việc thực tế về trẻ em nghèo nghèo hiện nay thế nào nhất là trong lĩnh vực giáo dục. Một tình trạng nhức nhối đang được quan tâm là hiện tượng học sinh bỏ học hàng loạt. Theo số liệu báo chí công bố năm học 2003 - 2004 số học sinh bỏ học, năm học 2005 - 2006 có hơn 600000 em, còn theo báo cáo giám sát toàn cầu giáo dục cho mọi người 2008 thì Việt Nam có khoảng 1 triệu học sinh bỏ học. Số học sinh bỏ học tăng cao trong 2 năm lạm phát chứng tỏ các hộ gia đình nhất là gia đình nghèo bị ảnh hưởng bởi lạm phát, họ không có đủ tiền cho con đi học. Những học sinh bỏ học này đóng góp vào lực lượng lao động và cũng là những đối tượng có nguy cơ mắc các tệ nạn xã hội cao. 2. Thực trạng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo Việt Nam Dựa trên số liệu điều tra mức sống hộ gia đình 2002, 2004 và 2006, khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nghèo ở Việt Nam được đánh giá thông qua sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp giữa nhóm trẻ em nghèo và không nghèo, được chia theo các cấp học mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Phân tích các chỉ tiêu: Tỷ lệ trẻ em đi học đúng độ tuổi, mức chi tiêu cho giáo dục, tỷ lệ người đi học thêm trong 12 tháng 2006, tỷ lệ hỗ trợ của gia đình, tỷ lệ lao động trẻ em. Các nhóm nghèo nhất, gần nghèo nhất, trung bình, gần giàu nhất tương ứng với nhóm I, II, III, IV, V. 2.1. Tỷ lệ trẻ em đi học đúng độ tuổi t Mầm non: Cấp học mầm non bao gồm nhà trẻ và mẫu giáo. Tình trạng phổ biến hiện nay là các bé trong độ tuổi này được các bà mẹ chăm sóc, kết hợp việc nhà, vừa buôn bán nhỏ vừa trông nom vì sợ tốn kém. Có một khoảng cách lớn về tiếp cận dịch vụ giáo dục mầm non giữa nhóm giàu và nhóm nghèo, khoảng cách này đang có xu hướng tăng lên, cùng với xu hướng xã hội hoá giáo dục mầm non. Sự khác biệt trong tỷ lệ nhập học rất lớn thể hiện khả năng tiếp cận dịch vụ GDMN của trẻ em nghèo kém hơn trẻ em không nghèo. Thể hiện ở bảng 2.2 Nhà trẻ Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi nhà trẻ ở các nhóm chi tiêu nhìn chung là thấp và thấp nhất là ở nhóm nghèo. Từ năm 2002 đến 2006 tỷ lệ trẻ em đi học đúng độ tuổi nhà trẻ tăng với tốc độ chậm, giai đoạn 2002 - 2004 tăng 3,58%, giai đoạn 2004 - 2006 tăng 5,33%. So với tỷ lệ chung của cả nước nhóm nghèo nhất thấp hơn trung bình 5,24%, khoảng cách chênh lệch có giảm qua các năm nhưng chưa cao. Khoảng cách chênh lêch giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất cũng cao, năm 2002 tỷ lệ chênh lệch là 2,5 lần, đến năm 2006 là 1,77 lần tuy có giảm nhưng vẫn cao. Bảng 2.3 : Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi nhà trẻ Đơn vị : Phần trăm Nhóm thu nhập 2002 2004 2006 Cả nước 10,05 13,04 16,97 I 3,95 7,53 12,86 II 8,1 10,89 13,05 III 8,31 11,74 15,96 IV 12,85 16,56 18,67 V 25,87 22,24 30,04 Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình 2002, 2004, 2006 Mẫu giáo Tỷ lệ nhập học của mẫu giáo cao hơn so với nhà trẻ nhưng vẫn còn thấp Bảng 2.4 : Tỷ lệ trẻ em đi học đúng độ tuổi mẫu giáo Đơn vị : Phần trăm Năm Nhóm 2002 2004 2006 Cả nước 46,77 50,2 57,1 I 32,68 33,7 35,7 II 45,4 46,8 48,9 III 47,44 52,3 56,7 IV 56,47 59,8 61,7 V 73,27 76,7 80,7 Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình 2002, 2004, 2006 Tỷ lệ nhập học của nhóm nghèo nhất tăng qua các năm từ 2002 đến 2006 nhưng mức tăng chưa cao, giai đoạn 2002 - 2004 tăng 1,02%, giai đoạn 2002 - 2006 tăng 2%. So với tỷ lệ nhập học chung của cả nước chênh lệch khá lớn năm 2006 mức chênh lệch là 21,4%, năm 2004 mức chênh lệch là 16,5%. Sự chênh lệch lớn cũng xảy ra ở nhóm nghèo nhất và nhóm giàu nhất năm 2002 là 2,24 lần, năm 2004 là 2,27 lần đến năm 2006 là 2,26 lần. Tỷ lệ chênh lệch vẫn chưa có xu hướng giảm. Như vậy với cấp giáo dục mầm non trẻ em nghèo đi học ít với mức tăng chậm qua các năm. Cấp học mầm non là một cấp học quan trọng là nền tảng cho cấp học tiểu học vì thế mà nếu không được giáo dục ở cấp này thì trẻ em thiệt thòi rất nhiều. t Tiểu học : Đây là bậc có tỷ lệ đi học cao nhất và đồng đều giữa các nhóm và tỷ lệ cao c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2264.doc
Tài liệu liên quan