Đề tài :
"Thực trạng và giải pháp để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại của nước ta trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới"
A/Phần mở đầu :
Thế giới đang ở đầu thế kỉ 21 với xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá xảy ra khắp mọi nơi trên thế giới.Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.Chúng ta đã gia nhập tổ chức ASEAN và đang phấn đấu gia nhập WTO trong những năm tới.Chính vì vậy kinh tế đối ngoại đã và đang được chú trọng phát triển ở nước ta,vậy thực trạng của
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng - Giải pháp để mở rộng & nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại trong quá trình hội nhập với khu vực & thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế đối ngoại của nước ta như thế nào va giải pháp để nâng cao hiệu qủa cuả nó là một vấn đề còn khá nan giải.Do vậy nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp chúng ta nhìn nhận một cách đúng đắn về kinh tế đối ngoại.Tại sao sản phẩm của chúng ta lại kém cạnh tranh trên thị trường quốc tế mặc dù chất lượng ,mẫu mã của chung ta không hề thua kém .Thậm chí ngay tại thị trường trong nước hàng hoá của chúng ta vẫn bị lấn át …Tất cả những vấn đề đó sẽ được giải đáp trong đề tài này ,nhưng quan trọng là chúng ta đưa ra được nhưng giải pháp để khắc phục hiện tượng đó,với mục tiêu phát triển nền kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về phương pháp luận ,khi nghiên cứu về vấn đề này chúng ta thường sử dụng phương pháp luận của kinh tế chính trị học,đó là những phương pháp nghiên cứu hiện tượng và quá trình kinh tế .Nó đưa ra quan điểm chung đối với nhận thức thực tiễn khách quan trên cơ sở lý thuyết đúng đắn.Chẳng hạn về kinh tế đối ngoại chúng ta sử dụng những quan điểm :quan điểm chủ quan ,quan điểm thực chứng kinh nghiệm ,quan điểm thích ứng,và quan điểm biện chứng duy vật.
Đây là một đề án môn học về kinh tế chính trị nên chúng ta sẽ nhìn nhận mọi vấn đề dưới góc độ của môn học này.Và đây cũng là lần đầu tiên em làm đề án môn học vì vậy chắc chắn không thể tránh khỏi nhưng sai lầm.Em kính mong thầy góp ý để đề án của em đạt kết quả tốt.Em xin chân thành cảm ơn!
B/Giải quyết vấn đề:
I/Một số vấn đề về cơ sở lí luận:
Khi đề cập đến vấn đề kinh tế đối ngoại ta cần chú ý tới những định nghĩa ,khái niệm phạm trù cơ bản sau:
1/ Kinh tế đối ngoại ,kinh tế quốc tế và vai trò của nó trong nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hội nhập với khu vực và thế giới.
Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế,là tổng thể các quan hệ quốc tế ,khoa học ,kĩ thuật ,công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác còn lai hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế khác ,được thực hiện dưới nhiều hình thức ,hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.Kinh tế đối ngoại và kinh tế quốc tế là hai khái niệm khác nhau tuy chúng có mối quan hệ với nhau nhưng không thể đồng nhất chúng với nhau được .Kinh tế đối ngoại là quan hệ kinh tế mà chủ thể của nó là một quốc gia với bên ngoài –với nước khác hoặc với tổ chức kinh tế quốc tế khác.Còn kinh tế quốc tế là mối quan hệ kinh tế với nhau giữa hai hoặc nhiều nước, là tổng thể quan hệ kinh tế của cộng đồng quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay kinh tế đối ngoại có vai trò to lớn thể hiện ở:Nó góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế ;nối liền thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới .Trong những năm gần đây kinh tế đối ngoại đã nối liền lưu thông hàng hoá giữa Việt Nam và các nước trong khu vực như Lào ,Thái Lan…và với các nước khác trên thế giới như các nước trong Liên minh châu Âu EU ,không chỉ với các quốc gia mà kinh tế đối ngoại còn giúp nước ta thông thương với các tổ chức kinh tế quốc tế như OPEC,FOB…điều này đã tao cho nước ta những cơ hội phát triển lớn dựa vào khoa học công nghệ của các nước phát triển để từ đó hiện đại hoá nền kinh tế trong nước.
Thứ hai hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và các tổ chức tiền tệ quốc tế(ODA);thu hút khoa học kĩ thuật ,công nghệ ;khai thác và ứng dụng những kinh nghiệm xây dựng quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta.Có kinh tế đối ngoại chúng ta mới có thể quan hệ rộng rãi với các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế khác từ đó mới có thể tận dụng được vốn đầu tư và kinh nghiệm quản lý của họ vào trong sản xuất và kinh doanh trong nước.Trong những năm gần đây quan hệ giữa Việt Nam và các nước tư bản phát triển đặc biệt là Mỹ đã có nhiều chuyển biến tích cực,chúng ta đã kí với Mỹ hiệp định thương mai tự do ,mua ban giữa hai nước là hợp tác bình đâửng hai bên cung có lợi.Đây là cơ hội lớn cho những ngành sản xuất đang tìm kiếm thị trường như ngành chế biến thuỷ hải sản,xuất khẩu đồ mĩ nghệ…
Thứ ba kinh tế đối ngoại góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước,đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên nước công nghiệp tiên tiến hiện đại.Trong 10 năm trở lại đây Đảng ,Nhà nước và nhân dân ta đang tích cực thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Công cuộc này chắc chắn phải có sự giúp sức của kinh tế đối ngoại,chúng ta nhờ kinh tế đối ngoại tiếp thu những khoa học kĩ thuật tiên tiến của thế giới vào áp dụng trong nước giúp nước ta cóthể đón đầu phát triển và như vậy công cuộc trên sẽ ngắn đi rất nhiều.
Tiếp theo kinh tế đối ngoại cũng góp phần tăng trưởng kinh tế ,tao ra nhiều công ăn việc làm ,giảm tỷ lệ thất nghiệp ,tăng thu nhập ,ổn định và cải thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng văn minh.
Trên đây là những đóng góp to lớn của kinh tế đối ngoại trong nền kinh tế hiên nay vậy thì những cơ sở khách quan nào dẫn tới việc hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại?
2/Những cơ sở khách quan của việc hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại ở VN
Đầu tiên ta phải đề cập đến sự xuất hiện của phân công lao động quốc tế :phân công lao động quốc tế xuất hiện như là hệ quả tất yếu của phân công lao động xã hội vượt qua khuôn khổ của mỗi quốc gia.Nó diễn ra giữa các ngành ,giữa các người sản xuất của những nước khác nhau và thể hiện như một hình thức đặc biệt của sự phân công lao động theo lãnh thổ trên phạm vi thế giới.
Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung việc sản xuất và cung cấp một hoặc một số loại sản phẩm và một dịch vụ của một quốc gia nhất định dựa trên những cơ sở lợi thế của những quốc gia đó về các đIều kiện tự nhiên ,kinh tế ,khoa học,công nghệ và xã hội để đáp ứng nhu cầu của quốc gia khác thông qua trao đổi quốc tế.Phân công lao động quốc tế còn xuất hiện những xu hướng mới trong vài thập niên gần đây:
Phân công lao động quốc tế diễn ra trên phạm vi ngày càng rộng lớn bao quát nhiều lĩnh vực và với tốc độ nhanh.Dưới tác động như vũ bão của khoa học công nghệ hiện đại ,phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu .Bởi vậy trong sản xuất kinh doanh các quốc gia thường chú ý phát triển loại sản phẩm “vô hình “,các sản phẩm có hàm lượng khoa học và công nghệ cao so với loại sản phẩm có hàm lượng nguyên liệu và lao động giản đơn nhiều như trước đây.Sự phát triển cao của phân công lao động quốc tế làm xuất hiện ngày càng nhiều và nhanh các hình thức mới về hợp tác kinh tế ,khoa học công nghệ ,chứ không đơn giản chỉ có hình thức ngoại thương như các thế kỉ trước.Phân công lao động quốc tế làm biến đổi nhanh chóng cơ cấu ngành và cơ cấu lao động trong từng nước và trên phạm vi quốc tế.Ngày nay trong cơ cấu ngành đã xuất hiện những ngành mới (ngành công nghệ cao,ngành dịch vụ …)những ngành có nhiều tiềm năng,đầy triển vọng và có hiệu quả cao trong tương lai.Ngoài cách chia cơ cấu ngành kinh tế thành các ngành công-nông nghiệp và dịch vụ ,người ta còn chia ngành sản xuất vật thành 4 loại ngành như sau:ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao;ngành có hàm lượng vốn lớn ;ngành có hàm lượng lao động sống và có hàm lượng nguyên vật liệu nhiều.Các nước giàu thường tập trung vào 2 ngành đầu ,còn các nước đang phát triển thường tập trung vào các ngành sau.Phân công lao động quốc tế thường được biểu hiện qua các tổ chức kinh tế quốc tế và các công ty xuyên quốc gia,khiến cho vai trò của chúng ngày một quan trọng trên trường quốc tế trong lĩnh vực phân phối tư bản và lợi nhuận theo nguyên tắc có lợi cho các nước phát triển.
Mặ khác từ những thập kỷ 70 của thế kỷ XX lại đây ,toàn cầu hoá ,khu vực hoá trở thành xu thế tất yếu của thới đại dẫn đến mở cửa và hội nhập của mỗi quốc gia vào cộng đồng quốc tế ,trong đó có xu hướng phát triển của thị trường quốc tế.Xu thế này có liên quan đến sự phân công lao động quốc tế và việc vận dụng lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong thương mại giữa các nước với nhau.Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật thương mại trong các ngành phát triển rất mạnh .Sự giao dịch trong nội bộ công ty xuyên quốc gia với công ty ở nước ngoài chiếm 40%.Thêm vào đó khối lượng thương mại trong nội bộ các tập đoàn kinh tế khu vực không ngừng mở rộng,thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng ,thậm chí vượt xa cả tốc độ tăng của hàng hoá (cứ 10 năm tăng lên gấp 4 lần).Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức cho nền kinh tế Việt Nam.Nếu chúng ta bắt kịp được với khoa học công nghệ thế giới chung ta sẽ co cơ hội hiện đại hoá đất nước nhanh chóng nếu không chúng ta sẽ bị tụt hậu. Chúng ta phải tìm cách thu hút thiết bị kỹ thuật của nước ngoài để phát triển sản xuất,mở rộng kinh tế đối ngoại.Đó là những cơ sở khách quan để chúng ta xây dựng kinh tế đối ngoại.Trong hơn 10 năm qua chúng ta đã xây dựng được một ngành kinh tế khá vững mạnh, vậy thì kinh tế đối ngoại có những hình thức chủ yếu nào?
3/Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại gồm nhiều hình thức như:hợp tác sản xuất (nhận gia công,xây dựng xí nghiệp chung ,khu chế xuất ,khu công nghệ ,khu kỹ thuật cao);hợp tác khoa học công nghệ (trong đó có hình thức đưa lao động và chuyên gia ra nước ngoài làm việc );ngoại thương;hợp tác tín dụng quốc tế;giao thông vận tải ;thông tin liên lạc quốc tế ;dịch vụ thu ,đổi ngoại tệ ;đầu tư quốc tế….Trong những hình thức đó thì ngoại thương,đầu tư quốc tế,dịch vụ thu đổi ngoại tệ là những hình thức quan trọng nhất.Chúng ta sẽ đi tìm hiểu từng hình thức một:
3.1/Ngoại thương
Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế ,là sự trao đổi hàng hoá ,dịch vụ giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu .Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại thì ngoại thương giữ vị trí trung tâm và co tác dụng to lớn :góp phần làm tăng sức mạnh tổng hợp ,tăng tích luỹ của mỗi nước nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong trao đổi quốc tế ;là động lực của phát triển kinh tế ;nâng cao trình độ công nghệ và ngành nghề trong nước .Tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người lao động nhất là trong các ngành nghề xuất khẩu.Ngoại thương bao gồm :xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá ,thuê nước ngoài gia công tái xuất khẩu ,trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng tâm của kinh tế đối ngoại nước ta vào giai đoạn hiện nay.
3.2/Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất
Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công ,xây dựng xí nghiệp chung chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất quốc tế …
Với dân số đông lực lượng lao động dối dào (đến 2010 sẽ có khoảng 58,6 triệu người ở độ tuổi lao động)nhưng do nhiếu nguyên nhân chủ yếu là thiếu thị trường,thiếu vốn ,thiếu tư liệu sản xuất nên chúng ta chưa khai thác được nguồn lực quý báu đó ,thậm chí còn xảy ra tình trạng thất nghiệp .Nhận gia công cho nước ngoài là một hình thức rất tốt ,giúp chúng ta tận dụng được nguồn dự trữ lao động ,tạo nhiều việc làm ,giải quyết nạn thất nghiệp ,tận dụng khoa học kỹ thuật hiện đại của nước ngoài.
Song song với hình thức trên còn có xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ từ nước ngoài.Xí nghiệp chung hay hỗn hợp là kiểu tổ chức tài chính tín dụng …Hiện nay những xí nghiệp này đang tồn tại một cách phổ biến ở nước ta.Những xí nghiệp này thường tập trung xây dựng ở những khu vực có ngành kinh tế hướng vào xuất khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu và trở thành nguồn thu ngoại tệ chủ yếu ở đó.Đây là hình thức đang được chú trọng phát triển ở nước ta.Ngoài ra chúng ta cũng không thể nhắc đến hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá ,đây là hình thức hợp tác dưới dạng các hợp đồng giữa các bên tham gia.Chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá những ngành khác nhau và chuyên môn hoá trong cùng một ngành (chuyên môn hoá theo sản phẩm ,theo bộ phận sản phẩm hay chi tiết và theo công nghệ ).
3.3/Hợp tác khoa học –kỹ thuật
Hợp tác khoa học –kỹ thuật được thực hiện dưới nhiều hình thức ,như trao đổi những tài liệu –kỹ thuật và thiết kế ,mua bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm ,chuyển giao công nghệ ,phối hợp nghiên cứu khoa học kỹ thuật ,hợp tác đào tạo ,bồi dưỡng cán bộ và công nhân…Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu vì vậy việc hợp tác khoa học với nước ngoài là vô cùng quan trọng ,đây là một điều kiện để chúng ta rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển và hiện đại hoá nền sản xuất trong nước .Ngoài ra việc đưa công nhân và chuyên gia đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài cũng là một hình thức hợp tác đào tạo cán bộ và công nhân .Vì vậy cùng với hợp tác lao động trong nước ,cần tổ chức tốt việc đưa lao động ra nước ngoài điều nay giúp chung ta vừa giải quyết được việc làm vừa nâng cao được trình độ lao động.
3.4/Đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại ,nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm sinh lợi .Đầu tư quốc tế có tác động hai mặt đến nước nhận đầu tư.Nó làm tăng thêm nguồn vốn ,tăng công nghệ mới ,nâng cao trình độ quản lý tiên tiến tạo thêm việc làm ,đào tạo tay nghề ,khai thác tài nguyên ,chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại ,tiếp cận thị trường quốc tế hiện đại trên thế giới .Mặt khác đầu tư quốc tế cũng có khả năng làm tăng sự phân hoá giữa các giai tầng trong xã hội giữa các vùng lãnh thổ ,làm cạn kiệt tài nguyên ,làm ô nhiễm môi trường sinh thái tăng tính lệ thuộc với bên ngoài .Những điều bất lợi trên cần được cân nhắc kỹ trong quá trình xây dựng ,thẩm định ,ký kết và triển khai dự án được ký kết trong thực tế Đầu tư quốc tế có hai hình thức :đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp .
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau ,tức là người đầu tư có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức ,quản lý và đIều hành dự án đầu tư ,chịu trách nhiệm về kết quả ,rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận .Đầu tư trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức:hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng ,xí nghiệp liên doanh mà vốn do hai bên cung góp theo tỷ lệ nhất định để hình thành xí nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban điều hành chung;xí nghiệp có 100% vốn nước ngoài ;hợp đồng xây dựng kinh doanh,chuyển giao công nghệ.
Còn về đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư ,tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điều hành dự án ,mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay(nếu là vốn vay)hoặc lợi tức cổ phần (nếu là vốn cổ phần)hoặc có thể không thu lợi trực tiếp (nếu cho vay ưu đãi).
Như vậy ta có thể thấy sự khác nhau rõ nhất giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp là người đầu tư trực tiếp có quyền khống chế xí nghiệp đầu tư,con người đầu tư gián tiếp thì khôngcó quyền đó mà chỉ có thể thu được lợi tức trái phiếu ,cổ phiếu và tiền lãi.
3.5/Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ ,du lịch quốc tế
Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại nước ta hiện nay,nó đang được Nhà nước ta chú trọng phát triển cả về chiều rộng cũng như chiều sâu.Các hình thức này gồm có:
-Du lịch quốc tế:hình thức này có thể nói là một ngành công nghiệp không khói mà không chỉ nước ta mà tất cả các nước đều muốn phát triển.Đây là một ngành kinh doanh tổng hợp bao gồm các hoạt động tổ chức ,hưỡng dẫn du lịch ,sản xuất ,trao đổi hàng hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại ,ăn uống,nghỉ ngơi,giải trí,tìm hiểu ,lưu niệm…của du khách.Với lợi thế của mình về truyền thống lịch sử,cảnh quan thiên nhiên Việt Nam đang phấn đấu là đIểm đến của thế kỷ mới.Muốn vậy chúng ta phải tiếp tục nâng cấp các khách sạn hiện co để đảm bảo phục vụ du khách tốt hơn,nhất là trong dịp Seagame 22 lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam.Chúng ta nên mở thêm các tua du lịch hấp dẫn ,phải có chính sách cho đầu tư cho du lịch mang tính tổng thể ,phải cải cách thủ tục hành chính ,tạo thuận lợi và sự hứng khởi cho du khách quốc tế ,đồng thời phải tích cực quảng bá hình ảnh của Việt Nam trên toàn thế giới để bạn bè thế giới biết đến Việt Nam là một điểm du lịch lý tưởng.
-Vận tải quốc tế:là hình thức vận chuyển hàng hoá và hành khách giữa hai hoặc nhiều nước .Sự ra đời của hình thức này xuất phát từ sự phân công lao động quốc tế và quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.Sự phát triển của vận tải quốc tế có tác dụng thu ngoại tệ thông qua vận tải và tiết kiệm chi ngoại tệ do phải thuê vận chuyển khi nhập khẩu hàng hoá.Vận tải quốc tế sử dụng các phương thức như :đường biển ,đường sắt ,đường bộ ,đường hàng không…Việt Nam có vị trí địa lý quan trọng ,lại có nhiều hải cảng thuận tiện cho vận tải đường biển nên có thể phát huy thế mạnh của mình thông qua việc đẩy mạnh vận tải quốc tế.
-Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ .Hình thức này đang được khuyến khích vi các nước phát triển có tỷ lệ tăng dân số thấp và có xu hướng giảm trong những năm tới ,đặc biệt với các ngành có cơ giới hoá và tự động hóa ,độc hại ,nguy hiểm hoặc cần nhiều lao động không lành nghề như xây dựng ,khai mỏ ,dịch vụ,công nghiệp nhẹ,công nghiệp lắp ráp ô tô ,điện tử đang rất cần lao động.Trong khi đó Việt Nam với dân số gần 80 triệu người ,kinh tế chưa phát triển ,là một nước có số lượng lao động lớn do đó việc xuất khẩu lao động mang lại rất nhiều lợi ích cả trước mắt cũng như lâu dài :thu được lượng ngoại tệ đáng kể cho người trực tiếp lao động và cho ngân sách Nhà nước,người lao động được rèn luyện tay nghề và thói quen hoạt động công nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển và khi trở vế nước họ sẽ trở thành lực lượng lao động có chất lượng.Xuất khẩu lao động còn giúp chúng ta giải quyết việc làm cho đất nước,giảm tỷ lệ thất nghiệp.Do đó việc xúc tiến xuất khẩu lao động là một nhiệm vụ quan trọng của kinh tế đối ngoại,nhưng chúng ta cũng cần chú ý đến tay nghề của công nhân trước khi đưa đi nước ngoài phải đáp ứng được nhu cầu của nước ngoài về trình độ công nhân .
-Ngoài ra chúng ta còn có những hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác như dịch vụ thu bảo hiểm ,thông tin bưu điện ,dịch vụ kiều hối ,dịch vụ ăn uống ,tư vấn,môi giới…Nhìn chung các dịch vụ này đang được phát triển mạnh ở nước ta nhưng đang ở giai đoạn bắt đầu phát triển với triển vọng to lớn.Tuy nhiên muốn phát triển chúng thành những ngành kinh tế chủ chốt trong nền kinh tế chúng ta phải có cách nhìn đúng đắn về chúng.
Như vậy tên đây chúng ta đã tìm hiểu về kinh tế đối ngoại và các hình thức của nó,vậy thì toàn cầu hoá -xu hướng tất yếu hiện nay có tác động gì tới kinh tế đối ngoại ở nước ta trên đường hội nhập?
4/Tác động của toàn cầu hoá tới kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
4.1/Tác động tích cực:
Toàn cầu hóa giúp chúng ta mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.Điều này thể hiện ở chỗ chúng ta ký kết các hợp định song phương ,đa phương ,chúng ta sẽ tiếp cận được với thị trường thế giới .Hiện nay chúng ta đang cố gắng để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO lúc đó Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất khẩu vì hàng rào thuế quan sẽ giảm đi,đặc biệt chúng ta còn được hưởng nhữnh ưu đãi cho nước đang phát triển.Mặt khác chúng ta còn tận dụng được cơ hội để thương lượng và giải quyết những tranh chấp thương mại ,như vụ tranh chấp thương mại giữa Việt Nam và Canada về giày và đế giày không thấm nước mà chúng ta đã thắng …nhằm bảo vệ quyền lợi cho quốc gia trên thị trường quốc tế.Toàn cầu hoá vừa tạo ra sức ép vừa thúc đẩy Nhà nước ta cải thiện thủ tục hành chính đặc biệt là khâu thủ tục xuất nhập khẩu và giảm tiêu cực để thúc đẩy thương mại quốc tế Việt Nam phát triển.Vì khi chúng ta gia nhập AFTA,WTO…chúng ta phải tuân thủ luật của các tổ chức này do đó chúng ta phải có những chính sách phù hợp .Điều này thể hiện rất rõ trong những năm gần đây ,Nhà nước ta luôn cải cách thủ tục hành chính theo hướng thông thoáng giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi phí đẻ nâng cao sức cạnh tranh.Bên cạnh đó Đảng và Nhà nước ta luôn tích cực phòng chống tham nhũng,chống quan liêu ,chống phiền nhiễu cho các doanh nghiệp .Trong thực tế hiện nay luôn tồn tại những doanh nghiệp đưa hối lộ cho công chức Nhà nước,điều này gây ảnh hưởng rất tiêu cực đến sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp với nhau và với doanh nghiệp nước ngoài.Toàn cầu hoá vừa đặt ra yêu cầu vừa thúc đẩy sự phát triển của các ngành dịch vụ phục vụ xuất khẩu của Việt Nam.Tự do hoá thương mại sẽ buộc chúng ta phải phát triển các dịch vụ hổ trợ cho xuất khẩu.Bằng chứng là ,do sức ép cạnh tranh đã làm phong phú và nâng cao chất lượng các hình thức cung cấp dịch vụ của các ngành như bưu chính viễn thông ,ngân hàng ,giao thông ,vận tải…Toàn cầu hoá giúp chúng ta đa dạng hoá và chuyển dịch cơ cấu theo hướng xuất khẩu thô ngày càng giảm và xuất khẩu hàng hoá tinh chế ngày càng tăng.Toàn cầu hoá cho phép chúng ta sử dụng được các nguồn lực từ bên ngoài như:vốn ,lao động…Bên cạnh đó toàn cầu hoá còn giúp chúng ta xoá bỏ đi cái tâm lý ỷ lại của thời bao cấp và sự bảo hộ quá cao của Nhà nước để lại.Cụ thể các doanh nghiệp của chung ta đã chủ động hơn trong việc tìm kiếm thị trường ,tăng năng suất ,giảm chi phí để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.Toàn cầu hoá giúp chúng ta thu hút được vốn đầu tư..Tóm lại toàn cầu hoá với những sức ép của nó đã có những tác động tích cực tới nền kinh tế của nước ta như trên đã trình bày ,tuy vậy nó cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực mà chúng ta phải lưu ý tới.
4.2/Tác động tiêu cực
Chúng ta có thể bị thua thiệt trong thương mại quốc tế với các nước khác đặc biệt là các nước có trình độ phát triển cao ,dễ xảy ra tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”.Các nước này thường ép buộc chúng ta đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại trong khi đó chúng ta chưa làm tốt công tác chuẩn bị khi công cuộc hội nhập quốc tế đòi hỏi phải chuyển qua những bước mới .Các doanh nghiệp của chúng ta còn yếu cả về quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh.Trong khi đó các nước này lại xây dựng các hàng rào bảo hộ ngày càng tinh vi hơn ,bảo hộ cho các ngành như nông sản ,dệt may mà chúng ta có lợi thế xuất khẩu.Mặt khác các doanh nghiệp của chúng ta chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ ,vốn ít ,kinh nghiệm thương trường chưa nhiều ,năng lực cạnh tranh còn yếu(năm 2001 chúng ta xếp hạng 62 trên tổng số 75 nước xếp hạng về năng lực cạnh tranh),như vậy toàn cầu hoá lại đặt nước ta vào cuộc cạnh tranh khốc quyết liệt với các nước có sức cạnh tranh hơn chúng ta rất nhiều.Xuất khẩu của chúng ta còn phụ thuộc vào sự thay đổi giá cả quốc tế. Phần lớn xuất khẩu các mặt hàng nông sản phẩm nhưng giá các sản phẩm này trên thị trường quốc tế lại giảm đáng kể trong thời gian gần đây gây ảnh hưởng tới xuất khẩu .Các tranh chấp thương mại quốc tế đang diễn ra khá phổ biến nhưng chúng ta lại chưa chuẩn bị tốt khả năng cung cấp các thông tin cần thiết cho các cơ quan chức năng nước ngoài trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại cũng như việc đề phòng xảy ra các tranh chấp đó.Đó là những ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hoá tới nền kinh tế nước ta nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng,điều này đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu để từ đó đưa ra được những giải pháp đúng đắn và thích hợp.Muốn vậy điều đầu tiên chúng ta phải quán triệt mục tiêu ,phương hướng,nguyên tắc cơ bản nhằm phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta.
5/Mục tiêu,phương hướng ,nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của nước ta trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới.
Trước hết chúng ta cần khẳng định lại hiệu quả của kinh tế đối ngoại đối với nền kinh tế quốc dân đó là sự đóng góp vào việc giải quyết các mục tiêu kinh tế –xã hội như phát triển sản xuất ,đổi mới cơ cấu kinh tế ,tăng năng suất lao động xã hội ,tích luỹ ngoại tệ ,tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước giải quyết việc làm ,cải thiện đời sống nhân dân…
5.1/Về mục tiêu
Đối nước ta việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng ,dân chủ và văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Trong thời kỳ quá độ này chúng ta mở rộng kinh tế đối ngoại để công nghiệp hoá,hiện đại hóa đất nước.Mục tiêu này phải được quán triệt một cách triệt để ở mọi ngành mọi cấp,cũng như trong các hoạt động của kinh tế đối ngoại.
5.2/Về phương hướng.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ :”Việt Nam sẵn sàng là bạn,là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế ,phấn đấu vì hoà bình ,độc lập và phát triển”,do vậy phương hướng cơ bản nhằm phát triển kinh tế đối ngoại là:đa phương hoá ,đa dạng hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia ,mọi tổ chức kinh tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập ,chủ quyền ,bình đẳng cùng có lợi .Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc và với bạn hàng truyền thống ;tích cực thâm nhập ,tạo chỗ đứng ở các thị trường mới.Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế –xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Chúng ta phải chủ động sáng tạo để hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và khu vực ;phát huy ý chí tự lực tự cường ,kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.Đó chính là phương hướng chính để nước ta phát triển kinh tế đối ngoại mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định,trên cơ sở lập trường chính trị xã hội chủ nghĩa do Bác Hồ đã vạch ra.
5.3/Về nguên tắc:
Để hội nhập tốt với nền kinh tế thế giới và khu vực chúng ta cần quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau:
-Nguyên tắc bình đẳng :đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiêt lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ giữa các nước.Nguyên tắc này xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền .Nó cũng bắt nguồn từ yêu cầu của sự hình thành và phát triển của thị trường quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên.Với tư cách là thành viên các quốc gia phải được đảm bảo có quyền tự do kinh doanh,
quyền tự chủ như mọi quốc gia khác .
-Nguyên tắc cùng có lợi:nếu nguyên tắc bình đẳng giữ vai trò chung cho việc hình thành và phát triển quan hệ đối ngoại ,thì nguyên tắc này lại giữ vai trò là nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi thế giới mà mỗi quốc gia phải được đảm bảo về lợi ích kinh tế .Trong nền kinh tế thị trường thế giới ,nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia sẽ là hình thức nếu các quốc gia tham gia không cùng lợi ích kinh tế.Nguyên tắc này còn là động lực kinh tế để thiết lập và duy trì lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.Cùng lợi ích kinh tế là một trong những nguyên tắc làm cơ sở cho chính sách kinh tế đối ngoại và luật đầu tư nước ngoài,nó được cụ thể hoá thành những điều khoản làm cơ sở để kí kết trong các nghị định giữa các quốc gia với nhau hay với các tổ chức kinh tế thế giới.
-Nguyên tắc thứ ba là tôn trọng độc lập ,chủ quyền ,không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia.Trong quan hệ kinh tế ,mỗi quốc gia đều có tư cách như nhau ,đều độc lập với nhau về chính trị ,kinh tế ,xã hội.Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ kinh tế đối ngoại và nó đòi hỏi mỗi quốc gia tham gia phải thực hiện đúng:tôn trọng các điều khoản dã được kí kết giữa chính phủ và các tổ chức kinh tế với nhau;không được đưa ra những điều khoản làm tổn hại đến lợi ích của nhau;không được dùng những thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước,nhất là thủ đoạn kinh tế kích động vào đường lối ,thể chế chính trị của các quốc gia đó.
-Một nguyên tắc quan trọng nữa mà chúng ta cần quán triệt trong quá trình hội nhập đó là:giữ vững độc lập ,chủ quyền dân tộc và củng cố cố định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ đã chọn.Đây là nguyên tắc chung cho tất cả các nước khi thiết lập và thực hiện quan hệ đối ngoại ,vừa là nguyên tắc có tính đặc thù đối với các nước xã hội chủ nghĩa,trong đó có nước ta.Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước với nhau không đơn thuần chỉ là phải xử lý tốt về lợi ích kinh tế mà còn phải xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị.Chúng ta phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ,phải chủ động đảm bảo sao cho vừa khai thác được nhiều nguồn lực bên ngoài ,vừa phát huy được nguồn lực bên trong,bảo đảm kinh tế phát triển,trả được nợ nhưng không phụ thuộc vào nước ngoài ,cảnh giác với các âm mưu sử dụng kinh tế để thay đổi chế độ nước ta.Đó là một nhiệm vụ vô cùng nặng nề của kinh tế đối ngoại.
Trên đây là bốn nguyên tắc để phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong thời gian trước mắt cũng như trong lâu dài.Chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau và đều có tác dụng chi phối hoạt động kinh tế đối ngoại giữa các nước trong đó có nước ta,vì vậy không được xem nhẹ nguyên tắc nào khi thiết lập phát triển,mở rộng kinh tế đối ngoại.
Như vậy chúng ta đã tìm hiểu về một số vấn đề lý luận của kinh tế đối ngoại
chúng ta đã hiểu thấu đáo về nó,tiếp theo chúng ta cùng tìm hiểu về thực trạng của kinh tế đối ngoại của nước ta trong khoảng thời gian gần đây.
II/Thực trạng của kinh tế đối ngoại nước ta trong những năm gần đây.
Trong hơn 15 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế nước ta nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng đã có những bước phát triển vượt bậc,chúng ta đã phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu,từng bước nâng cao được đời sống cho nhân dân ,song bên cạnh đó chúng ta vần còn những hạn chế rất cần khắc phục cả về trước mắt lẫn lâu dài.Sau đây chúng ta sẽ đi vào từng hình thức của kinh tế đối ngoại.
1/Về ngoại thương với các hoạt động xuất nhập khẩu
1.1/Xuất khẩu:Theo kết quả của Bộ thương mại và Tổng cục hải quan ,kim ngạch xuất khẩu tháng 12/2002 đã đạt mức kỷ lục từ trước tới nay,ước đạt 1539 triệu USD.Nhờ những nỗ lực vượt bậc trong 4 tháng cuối năm kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả năm 2002 ước đạt 16,53 tỷ USD(nếu kể cả xuất khẩu dịch vụ thì đạt trên 19,2 tỷ USD)tăng gần 10%so với n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0166.doc