Lời nói đầu
Trên bước đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Góp phần không nhỏ vào những thành công đó, ngoại thương Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí của mình.
Nếu như da giầy, may mặc, dầu thô, thuỷ sản... hiện là những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn thì hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam lại là ngành còn rất nhiều tiềm năng chưa khai thác hết. Cũng như các loại hàng thủ công mỹ nghệ khác, sành sứ thuỷ tinh Việt
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1303 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp đẩy mạnh hoạt động Xuất khẩu hàng sành sứ thuỷ tinh tại Công ty XNK sành sứ thuỷ tinh Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam là mặt hàng sản xuất truyền thống, mang đậm bản sắc dân tộc. Thế mạnh của sản xuất hàng sành sứ thuỷ tinh Việt Nam là dễ dàng hạ giá thành bởi nguồn nguyên liệu sẵn có, chi phí lao động rẻ, giá trị trực thu ngoại tệ cao( 95%-97%), chi phí đầu tư thấp.
Xét tới những lợi ích như trên, nếu như được quan tâm đúng mức trong tương lai gần, hàng sành sứ thuỷ tinh Việt Nam sẽ trở thành ngành hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước.
Với mục đích vận dụng những lý thuyết đã học để phân tích vấn đề kinh tế cụ thể đồng thời nâng cao kiến thức thực tế, em xin chọn đề tài “ Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng sành sứ thủy tinh tại công ty xuất nhập khẩu sành sứ thuỷ tinh Việt Nam – chi nhánh Hà Nội”.
Nội dung của bản thu hoạch gồm 3 phần:
Chương I: Khái quát về mặt hàng sành sứ thuỷ tinh
Chương II: Thực trạng xuất khẩu các mặt hàng sành sứ thuỷ tinh của Việt Nam giai đoạn 1990 – 2002 tại công ty xuất nhập khẩu sành sứ thuỷ tinh Việt Nam – chi nhánh Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng sành sứ thuỷ tinh của Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2020.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung phân tích thực trạng xuất khẩu của hàng sành sứ thuỷ tinh và kiến nghị một số giải pháp cơ bản. Với kiến thức còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong sự góp ý từ phía thầy cô và các bạn học sinh, sinh viên.
Em xin được bày tỏ lòng biết ơn của minh đối với TS. Nguyễn Như Tiến – giảng viên khoa Kinh tế Ngoại thương – trường Đại học Ngoại thương và các cán bộ của Công ty xuất nhập khẩu sành sứ thuỷ tinh Việt Nam đã hết lòng giúp đỡ để em hoàn thành bản thu hoạch cuối khoá này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2002
Người thực hiện
Ngô Hải Vân
Chương I
Khái quát về hàng sành sứ thuỷ tinh
I/ Khái niệm, đặc điểm hàng sành sứ thuỷ tinh:
1. Khái niệm
Danh từ gốm sứ dùng để chỉ những sản phẩm mà nguyên liệu sản xuất chúng gồm một phần hoặc tất cả là cao lanh và đất sét, hay còn được gọi chung là vật liệu silicát. Thí dụ: các đồ đất nung, gạch ngói, chum vại, đồ gốm sứ...
Ngày nay, danh từ gốm sứ dịch từ chữ ceramic được mở rộng hơn nhiều. Ngoài các vật liệu silicat con có các sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu không thuộc silicat như titanat, pherit, cermet...
2. Đặc điểm
Gốm sứ là những sản phẩm được tạo hình từ nguyên liệu dạng bột khi nung ở nhiệt độ cao, chúng kết khối rắn chắc lại như đá và có nhiều tính chất quý giá như cường độ cơ học cao, bền nhiệt, bền điện, bền hoá... Một số loại gốm kỹ thuật còn có các tính chất đặc biệt như tính áp điện, tính bán dẫn hoặc có độ cứng đặc biệt.
Với các tính chất quý giá như vậy, sản phẩm gốm sứ được sử dụng hầu khắp trong các lĩnh vực từ dân dụng cho đến các ngành công nghiệp hiện đại bao gồm: kỹ thuật điện và điện tử, vô tuyến điện tử, thông tin liên lạc, tự động hoá...
3.Phân loại
Có nhiều cách phân loại sản phẩm gốm sứ, mỗi cách dựa trên một cơ sở khác nhau:
Theo cấu trúc và tính chất sản phẩm có: gốm thô, gốm mịn, gốm đặc biệt.
Theo lĩnh vực sử dụng, phân loại như sau:
Gốm sứ dân dụng và mỹ nghệ gồm các sản phẩm gốm sứ sử dụng trong gia đình( ấm, chén, bát, đĩa...), gốm sứ trang trí( chậu hoa, lọ hoa, gốm trang trí...).
Những sản phẩm này chủ yếu được sản xuất tại công ty sứ Hải Dương, Thái Bình, Đồng Nai, Bình Dương, các làng nghề Bát Tràng, Quảng Ninh...
Sứ kỹ thuật gồm các sản phẩm sứ cách điện, sứ cho phòng thí nghiệm, được sản xuất chủ yếu tại công ty sứ kỹ thuật Hoàng Liên Sơn, công ty sứ Hải
Dương, công ty sứ kỹ thuật Minh Long 2( Bình Dương) và xí nghiệp sứ thuỷ tinh cách điện Bắc Ninh.
Gốm sứ xây dựng gồm các sản phẩm gạch ngói dùng trong xây dựng, gạch ceramic lát nền, ốp tường, gạch granit, ngói tráng men, sứ vệ sinh...Các công ty, nhà máy sản xuất chính là Tổng công ty sành sứ thuỷ tinh Việt Nam(VINACEGLASS),Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng (VIGLACERA), công ty gạch ốp lát Thái Bình, Hải Dương, Quảng Bình, Huế, Đồng Tâm...
4.Quy trình sản xuất:
Gia công và chế biến phối liệu
Tạo hình sản phẩm
Chuẩn bị nguyên liệu
Sấy
Vẽ trang trí
Tráng men
nung
Đóng gói
Nguyên liệu và phối liệu:
Nguyên liệu dùng trong sản xuất gốm sứ gốm hai loại chính: nguyên liệu dẻo( cao lanh, đất sét) và nguyên liệu gầy(trường thạch, thạch anh, Đôlômit, đá vôi, hoạt thạch).
Gia công và chế biến phối liệu:
Đây là quá trình chọn lựa sơ bộ, loại bỏ tạp chất, phân loại nguyên liệu. Sau đó tiến hành nghiền nguyên liệu bằng máy đập hàm và máy nghiền hai bánh đá.
Quá trình gia công và chế biến phối liệu là một bộ phận rất quan trọng trong nghề gốm sứ. Quá trình này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm và quyết định sự hoạt động của các khâu tiếp sau như tạo hình, nung sản phẩm.
Tạo hình sản phẩm:
Trong công nghệ sản xuất gốm sứ, tạo hình là khâu rất quan trọng. Nó không những ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm mà còn quyết định tới các thông số hình học của sản phẩm. Tỷ lệ phế phẩm ở khâu tạo thành khá cao, do đó phải đặc biết chú trọng. Phương pháp đổ rót và phương pháp dẻo là hai phương pháp tạo hình chủ yếu trong sản xuất gốm sứ dân dụng và mỹ nghệ.
Phương pháp đổ rót dùng để tạo hình những sản phẩm có hình dáng phức tạp hay có độ dày mỏng khác nhau mà các phương pháp khác không đáp ứng được. Có loại sản phẩm do hình dáng phức tạp, khuôn phải chia ra thành nhiều mảng để tháo khuôn dễ dàng. Có loại sản phẩm phải tạo hình các chi tiết riêng biệt rồi gắn chắp lại thành sản phẩm hoàn chỉnh như các loại ấm trà, các loại tượng phức tạp.
Phương pháp tạo hình dẻo chính là phương pháp vuốt tay trên bàn xoay( bình, lọ hoa...) hoặc gắn ráp trong khuôn thạch cao( chum, vại...) hay ép dẻo trên máy nén cơ khí hoặc thuỷ lực( gạch, ngói...).
Sấy
Nhằm đảm bảo sản phẩm có cường độ cao, tránh được nứt vỡ khi tráng men, vẽ trang trí và khi nung, người ta tiến hành sấy sản phẩm. Phương pháp sấy tự nhiên là phương pháp phơi nắng, chi phí thấp và không đòi hỏi kỹ thuật cao nhưng lại phụ thuộc vào thời tiết và tốn diện tích. Phương pháp sấy trong phòng, buồng đốt ở phía ngoài cho năng suất cao nhưng tiêu tốn nhiều năng lượng và chi phí.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy chi phí cho quá trình sấy chiếm tỷ lệ khá cao trong giá thành sản phẩm. Đối với sản phẩm có kích thước lớn, hình dạng phức tạp, khâu sấy có vai trò rất quan trọng, nếu xảy ra sai sót ở khâu này có thể dẫn đến hư hỏng toàn bộ sản phẩm ở khâu nung.
Vẽ trang trí:
Sau khi sản phẩm được tạo hình và sấy khô thì chuyển sang công đoạn vẽ trang trí. Khâu này đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ trong thao tác và sự chính xác trong pha màu.
Tráng men:
Việc tráng men nhằm đảm bảo về mặt thẩm mĩ, vệ sinh và tăng độ bền cho sản phẩm.
Các phương pháp chủ yếu bao gồm: nhúng men, dội men, phun men, quét men.
Nung
Các loại nhiên liệu nung gốm có : ánh sáng tự nhiên, củi, than đá, than cám, nhiên liệu lỏng( dầu hoả...) nhiên liệu khí( khí thiên nhiên: mêtan, khí nhân tạo, khí gaz hoá lỏng...)
Lò nung chủ yếu thường dùng là nung tuy nen. Sản phẩm được xếp trên xe goòng bằng bao nung hoặc tấm nung có các trụ đỡ và được đẩy vào lò bằng máy đẩy thuỷ lực.
Đóng gói:
Việc lựa chọn bao bì đóng gói sản phẩm là khâu quan trọng. Xuất phát từ tính chất hàng hoá, chúng ta cần lựa chọn bao bì vận chuyển thích hợp nhằm phòng chống va đập và bao bì bán lẻ ấn tượng hấp dẫn người tiêu dùng.
Đối với hàng hoá xuất khẩu thì bao bì không chỉ có tác dụng bảo vệ mà còn có tác dụng quảng cáo cho sản phẩm. Nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, hàng hoá không chỉ cạnh tranh về chất lượng mà còn cả hình thức bao gói bên ngoài. Thực tế cho thấy người tiêu dùng khi lựa chọn hàng hoá thì trước tiên đều lựa chọn hàng hoá có bao bi đẹp, hấp dẫn ngay cả khi chất lượng không được tốt cho lắm.
Trong thời kỳ trước, chúng ta hầu như không chú trọng đến vấn đề bao bì bán lẻ cho hàng sành sứ thuỷ tinh. Nguyên nhân là do nhà sản xuất thiếu ý thức cạnh tranh về bao bì và không muốn tốn nhiều chi phí cho bao bì. Nhiều bạn hàng quốc tế rất ưa chuộng đồ sứ Việt Nam nhưng khi nhìn thấy những đồ sứ cao cấp được bao gói trong những hộp bìa các tông thô sơ thì không muốn đặt hàng nữa.
Hiện nay, bao bì cho hàng sành sứ thuỷ tinh đã có những cải tiến rõ rệt. Nhũng mặt hàng sứ cao cấp như ấm, chén, bát, đĩa... được đóng gói trong hộp có xốp cứng đệm lót, bên ngoài gia cố bằng nilông trong suốt để tiện cho khách hàng vừa có thể nhìn thấy hàng hoá bên trong, vừa được hấp dẫn bởi hình thức bên ngoài.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm sao để hàng hoá có chất lượng tốt, bao bì đẹp mà không đẩy giá thành lên cao. Chúng ta nên thiết kế bao bì nhỏ gọn, ít tốn diện tích để tiết kiệm chi phí bao bì đồng thời phù hợp với việc xếp dỡ vận chuyển.
II. Lịch sử phát triển hàng sành sứ thuỷ tinh
Sản xuất gốm sứ là một trong những ngành cổ truyền được phát triển rất sớm. Những di vật bằng gốm sứ được phát hiện qua khảo cổ cho thấy rằng Ai Cập cách đây 4000 năm đã làm gốm sứ. ở Trung Quốc cách đây hàng ngàn năm cũng đã sản xuất gốm sứ, gốm sứ đời Khang Hy rất nổi tiếng là trắng trong, màu sắc đẹp.
ở Việt Nam, thời thượng cổ ông cha ta cũng đã sản xuất được đồ gốm. Các di vật lịch sử bằng gốm của nền văn hoá thời Hùng Vương được phát hiện ở nhiều địa điểm khảo cổ trên cả nước. Điều đó chứng minh thời kỳ này tổ tiên ta đã có nền văn minh khá rực rỡ. Đặc biệt các sản phẩm gốm thời Lý Trần với các hoạ tiết trang trí kiểu hoa văn và nhiều màu sắc, mang tính dân tộc rất độc đáo, men ngọc và men Lý đẹp và quý, được nhiều người ưa thích. Thời kỳ này hàng gốm Việt Nam được xuất sang Nhật Bản và các nước Đông Nam á.
Các cơ sở gốm sứ lâu đời và rất nổi tiếng ở nước ta là Hương Canh, Bát Tràng, Móng Cái, Lái Thiêu, Biên Hoà... là các cơ sở sản xuất gạch ngói, sành sứ dân dụng và mỹ nghệ.
Hiện nay, ở trong nước đã có nhiều nhà máy, xí nghiệp sản xuất gốm sứ có dây chuyền sản xuất tương đối hoàn chỉnh, hiện đại như công ty sứ Hải Dương, công ty sứ kỹ thuật Hoàng Liên Sơn, công ty sứ Thanh Trì, công ty sứ Minh Long...
III/ Vai trò của xuất khẩu các mặt hàng sành sứ thuỷ tinh đối với nền kinh tế Việt Nam.
1.Vai trò:
Đã từ lâu, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam nói chung và hàng sành sứ thuỷ tinh nói riêng đã được thị trường quốc tế biết đến. So với các ngành xuất khẩu chủ lực hiện nay là xuất khẩu da giày, dầu thô, thuỷ sản, may mặc... thì xuất khẩu thủ công mỹ nghệ có bề dày lịch sử tương đối lớn.
Đã có thời kỳ, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chiếm 40%-50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước( trước 1985). Sau này, mặt hàng không được quan tâm chú ý đúng mức nên tụt hậu nhanh chóng về kim ngạch xuất khẩu. Một phần nguyên nhân xuất phát từ việc mất đi thị trường rộng lớn khi Liên Xô( cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ.
Nói đến tác dụng của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và sành sứ thuỷ tinh nói riêng, chúng ta không chỉ thấy nguồn ngoại tệ lớn nhờ xuất khẩu mang lại mà còn thấy được tác dụng cân bằng cán cân thương mại( hàng thủ công mỹ nghệ đã có lúc là phương tiện để trả nợ). Không ai có thể phủ nhận vai trò của xuất khẩu sành sứ thuỷ tinh từ trước tới nay. Trong tương lai, sành sứ thuỷ tinh sẽ tìm hướng đi mới, trong môi trường mới nhưng luôn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Hiện Bộ thương mại đã đề ra kế hoạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ( trong đó bao gồm cả hàng sành sứ thuỷ tinh) đạt kim ngạch từ 900 triệu đến 1 tỷ USD vào năm 2005. Điều đó càng khẳng định vai trò của sành sứ thuỷ tinh Việt Nam ngày một lớn mạnh, vị thế không kém phần quan trọng so với bất cứ ngành hàng xuất khẩu nào.
2. Lợi thế so sánh của sản xuất hàng sành sứ thuỷ tinh
Thế mạnh của sản xuất hàng sành sứ thuỷ tinh Việt Nam là dễ dàng hạ giá thành bởi nguồn nguyên liệu sẵn có, chi phí lao động rẻ, giá trị trực thu ngoại tệ cao(95% - 97%), chi phí đầu tư thấp. Do đó, tiềm năng và lợi ích từ sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam nói chung và hàng sành sứ thuỷ tinh nói riêng là rất lớn.
Thế mạnh của sản xuất hàng sành sứ thuỷ tinh ngày một phát huy trong bối cảnh quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Dòng vốn đổ về các nước có nguồn nguyên liệu rẻ, giá lao động thấp và lượng nhân công dồi dào. Vì vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định sản xuất hàng sành sứ thuỷ tinh có nhiều lợi thế.
Chương II:
Thực trạng xuất khẩu các mặt hàng sành sứ thuỷ tinh của Việt Nam giai đoạn 1990 - 2002 tại công ty xuất nhập khẩu sành sứ thuỷ tinh Việt Nam - chi nhánh Hà Nội.
Giới thiệu về VINACEGLASS
Tên đầy đủ : Tổng công ty sành sứ thuỷ tinh Việt Nam
Tên giao dịch tiếng Anh: The VietNam Ceramic & Glass Corp.
Tên viết tắt : VINACEGLASS
Trụ sở chính : 20-24 Nguyễn Công Trứ, Quận 1, TP Hồ Chí Minh
Năm thành lập : 1975 và thành lập lại năm 1990
Công ty xuất nhập khẩu sành sứ thuỷ tinh
Trung tâm đào tạo và chuyển giao công nghệ
Công ty đèn điện quang
Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông
Tổng công ty
VINACEGLASS
Công ty thuỷ tinh Phả Lại
Công ty thuỷ tinh Hưng Phú
Công ty sứ Hải Dương
Công ty mỏ cao lanh Chí Linh
Công ty xuất nhập khẩu sành sứ thuỷ tinh Việt Nam ( VINACEGLASS IMP – EXP COMPANY) là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc tổng công ty sành sứ thuỷ tinh Việt Nam.
Chi nhánh Hà Nội: 18C Phạm Đình Hồ – Hai bà Trưng – Hà Nội
Chi nhánh Hưng Yên:
Chi nhánh Chí Linh: Đại Bồ, Hoàng Tân, Chí Linh, Hải Dương
Chi nhánh Đồng An: Đường số 2, Khu công nghiệp Đồng An
Chức năng, nhiệm vụ của chi nhánh Hà Nội: đại diện Tổng công ty thực hiện các hoạt động:
Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ bao gồm: đồ gốm, đồ sứ, chậu hoa cây cảnh, cốc chén thuỷ tinh, đồ sư trang trí nội ngoại thất...
Nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất gốm sứ thuỷ tinh, gạch lát, sứ vệ sinh...
Ngoài ra, công ty hiện đang là đại lý, nhà phân phối các loại nguyên vật liệu cho các công ty nước ngoài như Johnson Mathey Ceramic – Anh, Zshimmer & Schwars - Đức, Commercial Mineral Limited – australia, Lafrarge Prestia Co.,Ltd, Mineral resource development co. Ltd, ...
Tóm lại, các sản phẩm kinh doanh chủ yếu của công ty gồm có: gốm sứ dân dụng và mỹ nghệ gốm các sản phẩm gốm sứ sử dụng trong gia đình( ấm, chén, bát, đĩa...), gốm sứ trang trí( chậu hoa, lọ hoa, gốm trang trí...). Đây là những sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của công ty. Gốm sứ xây dựng gồm các sản phẩm gạch gói dùng trong xây dựng, gach ceramic lát nền, ốp tường, gạch granit, ngói tráng men, sứ vệ sinh... chủ yếu cung cấp cho thị trường nội địa. Các loại nguyên vật liệu phục vụ sản xuất gốm sứ xây dựng cũng là mặt hàng kinh doanh chủ yếu cuả công ty.
Trong phạm vị nghiên cứu của đề tài này, em xin đi sâu phân tích về thực trạng xuất khẩu để thấy được đóng góp của xuất khẩu đối với toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, đồng thời nhận thức được vai trò ngày một lớn mạnh của mặt hàng này đối với toàn ngành cũng như đối với nền kinh tế quốc dân.
Thực trạng
Tỷ trọng và cơ cấu kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng sành sứ thuỷ tinh 6 tháng đầu năm 2002.
STT
Mặt hàng
Mã số
Số lượng ( cái/ bộ)
Giá trị( USD)
1
Đồ gốm
VN 812/ 004
7133
4648,20
2
-
VN 813/ 004
10818
12833,86
3
-
VN 814/004
4960
12878,20
4
-
VN 827/ 004
4716
9813,6
5
-
VN 828/004
14146
14244,18
6
Chậu cảnh ( có men )
VN 637/012
6024
12778,02
7
-
VN 219/012
11112
11587,62
8
-
VN 792/ 002
6396
12402,44
9
-
VN 790/ 002
736
4294,10
10
-
VN 222/ 012
11638
13089,92
11
-
VN 801/ 012
1827
9441,59
12
Chậu hoa
VN 509/ 012
1324
11842,5
13
-
VN 423/ 018
1387
12125,68
14
-
VN 785/ 005
4640
14215,68
15
-
VN 787/ 005
4278
14697,78
16
-
VN 514/ 012
43888
27716,80
17
Đồ trang trí để bàn
VN 614/001
4252
14438,20
18
-
VN 613/ 001
5128
14129,20
19
-
VN 609/ 020
8403
13002,63
20
-
VN 608/ 020
7204
11956,67
21
-
VN 607/ 020
5679
14684,34
22
Cốc chén thuỷ tinh
VNG 114/ 028
5554
11602,66
23
-
VNG 115/ 028
5088
14922,84
24
-
VNG 116/ 028
4308
11136,40
25
-
VNG 117/ 028
6058
11898,16
26
Hàng TCMN khác
VN 773/ 002
7141
11288,92
27
-
VN 775/ 002
2822
763,58
28
-
VN 805/ 002
1819
6241,05
29
-
VN 743/ 025
1420
7909,5
30
-
VN 794/ 002
13640
25000,0
31
-
VN 771/ 002
1445
5886,29
32
-
VN 770/ 002
1510
10748,05
2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu các mặt hàng sành sứ thuỷ tinh trong vòng 10 năm trở lại đây
Nước
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
G.trị
(USD)
Tỷ trọng(%)
G.trị
(USD)
Tỷ trọng(%)
G.trị
(USD)
Tỷ trọng(%)
Pháp
1.297.413
68
539.321
35,9
172.958
20,9
Hồng Kông
66.008
3,6
205.877
13,7
114.695
13,9
Nhật Bản
42.908
2,4
283.124
18,8
114.139
13,8
Đức
115.292
6
96.930
6,5
120.523
14,6
Nước khác
381.453
20
377.124
25,1
305.026
36,9
Đánh giá chung về tình hình xuất khẩu sành sứ thuỷ tinh
Những thành tựu đạt được
Nhìn chung, tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và hàng sành sứ thuỷ tinh nói riêng và hàng sành sứ thuỷ tinh nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Những thành tựu này đạt được trong một bối cảnh có rất nhiều khó khăn: Giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu giảm nghiêm trọng, đối thủ cạnh tranh lớn nhất là Trung Quốc đã gia nhập WTO...
Theo thống kê từ Bộ thương mại, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 2001 đạt 235 triệu USD, tăng gấp 3 lần so với năm 2002, mặc dù tình hình xuất khẩu chung suy giảm nhưng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ vẫn đạt mức tăng trưởng cao. 7 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu đạt 191 triệu USD.
Nhờ tận dụng làng nghề truyền thống, công nhân lành nghề, giá nhân công rẻ mạt, một số nguyên liệu trong nước chất lượng ổn định, giá thành hợp lý có thể dùng thay thế nguyên liệu nhập khẩu, sành sứ thuỷ tinh Việt Nam đã từng bước xây dựng được lòng tin với khách hàng trong và ngoài nước về chất lượng. Hơn nữa, chúng ta đã không ngừng mở rộng thị trường: bên cạnh các khách hàng thường xuyên( Hà Lan, Bỉ...) công ty còn chú trọng xây dựng quan hệ với khách hàng mới( tập đoàn ATR- Thuỵ Điển).
Những tồn tại và nguyên nhân
Mặc dù hàng sành sứ thuỷ tinh Việt Nam đã thâm nhập thị trường thế giới nhưng số lượng còn khiêm tốn, mẫu mã chưa phong phú, đa dạng, giá cả cao hơn so với các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc.
Trước năm 1985, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nước ta chiếm 40% - 50% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, mặc dù về mặt giá trị đã tăng nhiều nhưng tỷ trọng hàng thủ công mỹ nghệ trong tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt chưa đầy 1%. Nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút nghiêm trọng về tỷ trọng trên xuất phát từ nhiều phía:
a.Về vốn:
Đối với mỗi một doanh nghiệp thì vấn đề vốn luôn luôn là vấn đề bức xúc. Tình trạng chung thường thấy là thiếu vốn cho nhập khẩu nguyên liệu đầu vào. Các nguyên liệu đầu vào chủ yếu như cao lanh, men màu đòi hỏi chất lượng tốt thì hầu hết phải nhập khẩu từ bên ngoài. Hiện nay chúng ta đang tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước thay thế, để tìm cách hạ giá thành mà chất lượng không đổi, từ đó giảm dần sự phụ thuộc vào bên ngoài.
Một nguyên nhân khác khiến vấn đề thiếu vốn càng trở nên trầm trọng là yêu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị và chi đầu tư nghiên cứu khoa học. Để giao hàng với số lượng lớn thì không thể dựa trên làng nghề. Trình độ sản xuất thủ công, năng lực lao động thấp mà không đồng đều về chất lượng. Nhu cầu trang bị dây chuyền máy móc kỹ thuật tiên tiến là cần thiết nhưng đồng thời cũng đặt ra cho công ty nhiều khó khăn đáng kể.
b.Về cơ chế quản lý xuất khẩu:
Cơ chế quản lý xuất khẩu là vấn đề thời sự có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Mỗi một thời kỳ, Nhà nước đều có những điều chỉnh cụ thể nhằm phù hợp hoá với thực tiễn, đồng thời bảo đảm quyền lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Trước kia, chúng ta áp dụng chế độ cơ quan chủ quản trong hoạt động xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp không được tự do xuất khẩu hàng hoá của mình ra thị trường nước ngoài. Hơn nữa, những cản trở từ chính sách, thể chế, thủ tục... làm cho việc xuất khẩu tiến hành chậm chạp và gặp rất nhiều khó khăn.
Việt Nam tiến hành cải cách mở cửa tương đối muộn so với các nước trong khu vực(1986) nên hàng hoá Việt Nam còn ít được thị trường quốc tế biết đến, nhãn hiệu sản phẩm của Việt Nam chưa thực sự gây được sự chú ý cho khách hàng quốc tế.
Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần phải tự do hoá xuất khẩu tất cả những loại hàng hoá không phải là hàng quốc cấm, đơn giản hoá thủ tục xuất khẩu, cho phép các doanh nghiệp được tự do xuất khẩu hàng hoá mà không cần thông qua cơ quan chủ quản.
Trong thời gian gần đây, chúng ta đã từng bước thi hành giải pháp tự do hoá xuất khẩu nhưng chưa hoàn thiện. Trong những năm tới, giải pháp này vẫn được coi là không thể thiếu và tiếp tục được nghiên cứu để áp dụng một cách có lợi nhất nhằm thúc đẩy xuất khẩu nước nhà ngày một phát triển.
c. Về môi trường cạnh tranh quốc tế
Bên cạnh Trung Quốc là nước xuất khẩu gốm sứ lớn nhất thế giới, Việt Nam đã và đang gặp phải khó khăn và thách thức không nhỏ trong việc đưa sản phẩm tiếp cận thị trường thế giới.
Việc chinh phục những khách hàng khó tính và thay đổi thói quen tiêu dùng của họ là không đơn giản. Hàng sành sứ thuỷ tinh xuất khẩu bị cạnh tranh không những về kiểu dáng mẫu mã mà cả chất lượng, giá cả. Để khắc phục tình trạng này, doanh nghiệp nên tập trung nghiên cứu cách ứng xử của đối thủ cạnh tranh giúp doanh nghiệp hiểu được đối thủ của mình, từ đó học hỏi, rút kinh nghiệm để doanh nghiệm của mình có cách ứng xử đúng đắn và mang lại hiệu quả.
Chương III:
Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng sành sứ thuỷ tinh của Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2020.
Dự báo nhu cầu sành sứ thuỷ tinh của một số thị trường lớn của thế giới.
Thị trường EU: 30%
Đây là thị trường rộng lớn gồm 15 quốc gia và 367 triệu dân. EU và Việt Nam đã ký hiệp định khung hợp tác kinh tế thương mại, trong đó hai bên giành cho nhau quy chế tối huệ quốc(MFN) tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho việc buôn bán giữa hai bên.
Tỷ trọng xuất khẩu sang Châu Âu sẽ chiếm 30% xuất khẩu sành sứ thuỷ tinh Việt Nam, trong đó quan trọng nhất vẫn là thị trường Hà Lan.
Thị trường Nhật Bản: 15%
Nhật Bản là quốc đảo gồm 1,24 triệu dân, là một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới. Đây là thị trường tiêu dùng lớn thứ hai ( sau Mỹ) và cũng là một nước nhập khẩu lớn. Gần đây, nhập khẩu của Nhật Bản tăng khá mạnh, chủ yếu là từ các nước đang phát triển ở Châu á.
Nhật Bản là thị trường số một của Việt Nam trong nhiều năm nay: từ 1986 trở lại đây, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản tăng 13 – 14 lần; cán cân thương mại luôn trong tình trạng xuất siêu, đó là một điều hiếm thấy.
Thị trường Bắc Mỹ: 20%
Mỹ là thị trường rộng lớn, có tiềm lực lớn về tài chính. Ngày 3/2/1994, Mỹ xoá bỏ cấm vận đối với Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ ngoại thương Việt – Mỹ.
Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết (13/7/200) tạo bước ngoặt cho giao lưu thương mại giữa hai nước. Tuy hàng Việt Nam đã được xuất khẩu sang Mỹ nhưng kim ngạch còn nhỏ. Hàng năm, Mỹ phải nhập khẩu một lượng lớn( 34 tỷ USD hàng dệt may; 1,8 tỷ USD cà phê; 2,5 tỷ USD hàng thuỷ sản...) trong khi tỷ trọng những hàng này của Việt Nam sang Mỹ còn quá ít ỏi. Do đó, khả năng tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ còn rất lớn.
Thị trường ASEAN: 5%
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam gần giống với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của nhiều nước ASEAN. Đây là khó khăn của chúng ta khi duy trì và phát triển xuất khẩu ở thị trường này.
Liên bang Nga: 5%
Khi nền kinh tế nước ta chưa mở cửa, thị trường Nga và các nước Đông Âu được coi là thị trường chính.
Từ sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, chúng ta chưa chú ý đúng mức đến thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu ở thị trường này chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với các thị trường khác, gồm cả Trung Quốc mới đạt 20%.
Nhưng Nga và các nước Đông Âu là bạn hàng truyền thống đối với hàng thủ công mỹ nghệ. Do đó cần duy trì và phát triển mối quan hệ lâu năm này.
Các nước NICs khác( Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan): 25%
Trong đó, Hồng Kông là nước thường xuyên nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam để tái xuất sang thị trường khác.
Trên đây là dự báo về nhu cầu sành sứ thuỷ tinh ở một số thị trường lớn trên thế giới. Tuy nhiên, chúng ta nên tránh tập trung quá mức vào một khu vực thị trường nhằm tránh những biến động kinh tế, chính trị, xã hội. Vì vậy, cần theo dõi thường xuyên tình hình các khu vực thị trường để có những điều chỉnh kịp thời.
Giải pháp phát triển xuất khẩu hàng sành sứ thủy tinh
Giải pháp về phía Nhà nước
Về chính sách thuế
Để khuyến khích xuất khẩu đồng thời bảo vệ lợi ích cho nhà sản xuất, việc đưa ra những ưu đãi về thuế cho hàng hoá xuất khẩu là cần thiết: miễn giảm thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với nguyên liệu; miễn các loại thuế trong 5 năm cho các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và hàng sành sứ thuỷ tinh nói riêng để tạo sức bật cho doanh nghiệp.
Hiện, Bộ thương mại và các bộ ngành liên quan đang gấp rút rà soát lại các loại phí, lệ phí để miễn giảm cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Về ưu đãi đầu tư mở rộng sản xuất sành sứ thuỷ tinh
Nhà nước cần ban hành các chính sách đầu tư đối với các ngành, các doanh nghiệp sản xuất, khai thác hàng xuất khẩu. Để khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất kinh doanh các sản phẩm xuất khẩu, nhà nước cần tạo hành lang pháp lý thông thoáng cùng với những ưu đãi về tín dụng, tài chính, thuế...
Trong xu thế hội nhập và mở cửa hiện nay, thị trường trong nước chịu không ít những ảnh hưởng từ bên ngoài. Nhằm giúp nền kinh tế trong nước thích ứng với những thay đổi nhanh chóng đó, nhà nước cần phải có chính sách về tỷ giá hối đoái linh hoạt, nói cách khác là giữ cho kim ngạch xuất khẩu luôn cân bằng kim ngạch nhập khẩu trong mọi biến động ở thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
Về cải tiến chế độ thưởng xuất khẩu
Ngoài các biện pháp trên, nhà nước cần có những chính sách thưởng xuất khẩu đối với những doanh nghiệp nhiều năm liền đạt kim ngạch xuất khẩu lớn.
Về hỗ trợ vốn
Vấn đề thiếu vốn trong các doanh nghiệp không còn mới lạ nhưng để giải quyết vấn đề nan giải này cần có những biện pháp mới để phù hợp với bối cảnh hiện nay. Để thúc đẩy sản xuất các ngành hàng xuất khẩu, nhà nước đã hỗ trợ một phần vốn cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để cùng một lúc đáp ứng yêu cầu của tất cả các doanh nghiệp một lượng vốn lớn thì vẫn chưa được giải quyết ổn thoả.
Giải pháp về phía doanh nghiệp
Trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nhiều doanh nghiệp nhà nước hiện vẫn chưa thích ứng được với hoàn cảnh mới. Chúng ta cần sớm phát hiện những khiếm khuyết sẵn có trong lòng bản thân doanh nghiệp để đề ra những giải pháp khắc phục kịp thời, tạo đà phát triển một cách nhanh chóng đồng thời thích ứng với nhu cầu thời đại mới.
A/Về công nghiệp hóa làng nghề
Hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và hàng sành sứ thuỷ tinh nói riêng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ lối sản xuất thủ công vì có lịch sử khá lâu dài gắn bó với làng nghề. Công nghiệp hoá làng nghề là chủ trương đúng đắn và tích cực, góp phần giải phóng sức lao động và tạo đà phát triển cho hàng thủ công mỹ nghệ.
Để thực hiện tốt công nghiệp hoá làng nghề, chúng ta cần từng bước làm tốt các khâu sau: áp dụng vật liệu mới vào làng nghề, nhập khẩu dây chuyền công nghệ tiên tiến nước ngoài, tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học, thuê chuyên gia nước ngoài, xây dựng viện nghiên cứu chế tạo nguyên liệu đầu vào, tiến tới hạn chế được việc phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu nước ngoài, tiết kiệm ngoại tệ.
Đầu tư đổi mới kỹ thuật và công nghệ nhằm tăng năng suất lao động, giảm chi phí , làm tăng sức cạnh tranh cho hàng sành sứ thuỷ tinh Việt Nam. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng trong tương lai gần các làng nghề truyền thống sẽ có thay đổi về chất trong sản xuất.
Tuy nhiên, vấn đề cần thiết trước mắt cần giải quyết là: tập trung công suất( hiện nay chỉ giới hạn lò 20 mét khối trở xuống, trong tương lai tiến tới 50 mét khối). Về năng lượng, chúng ta sẽ lên những phương án tập trung khí đốt thiên nhiên, đốt thử bằng cồn, kiểm soát nhiệt độ lò nung... Nhu cầu lò nung gaz ngày càng cần thiết, hạn chế hoàn toàn nung củi, nung than gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khoẻ người lao động.
B/Về marketing
Marketing ngày càng giữ vai trò quan trọng xuyên suốt các khâu từ san xuất lưu thông, phân phối đến tiêu thụ. Dựa trên những lý thuyết marketing chủ yếu, chúng ta sẽ nghiên cứu các nội dung sau: tìm kiếm và phát triển thị trường, tổ chức mạng lưới tiêu thụ; xây dựng chính sách chất lượng, chính sách mặt hàng, xây dựng thương hiệu... từ đó đề ra những giải pháp hữu quan.
B1.Tìm kiếm và phát triển thị trường
Trước kia trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, những vấn đề cơ bản của hoạt động kinh tế như sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào đều được quyết định bởi nhà nước thông qua những kế hoạch mang tính mệnh lệnh, thống nhất từ trên xuống dưới. Cơ chế này làm triệt tiêu các động lực sản xuất, hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, kinh tế trì trệ.
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI ( 12/1986) đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh tế và sự chuyển đổi cơ chế quản lý đối với khu vực kinh tế quốc doanh đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhà nước. Một trong những biểu hiện là việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được thực hiện trên cơ sở doanh nghiệp điều tra thị trường, tự xây dựng và lựa chọn phương án sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả.
Để đưa ra quyết định cuối cùng về mặt hàng, số lượng cũng như chủng loại hàng hoá sản xuất thì mỗi doanh nghiệp đều phải trải qua nhiều bước khác nhau mà trước hết là điều tra nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường nhằm giải quyết những vấn đề: tìm ra thị trường triển vọng nhất đối với sản phẩm của doanh nghiệp, lĩnh vực phù hợp nhất đối với hoạt động doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường giúp nhà kinh doanh biết trước được khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là bao nhiêu, cần có những chiến lược và chính sách nào đó để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Xuất phát từ nhận thức đúng đắn đó, công ty nên xây dựng phương án tìm kiếm và điều tra thị trường để định hướng mặt hàng sản xuất, số lượng cũng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0462.doc