Thực trạng & Giải pháp của nhà nước trong việc giải quyết vấn đề môi trường nước ở đô thị hiện nay

MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU 3 B. PHẦN NỘI DUNG 5 Chương I: Vai trò của nhà nước trong quản lí môi trường nước ở đô thị 1.QLNN về môi trường nước ở đô thị 5 1.1.Quản lí môi trường nước ở đô thị 5 1.2.Quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị 6 1.3.Chức năng, nội dung của QLNN về môi trường nước ở đô thị 6 2.Những công cụ quản lí môi trường nước ở đô thị 8 2.1.Công cụ kinh tế 8 2.2.Công cụ pháp lí 13 2.3.Công cụ kĩ thuật 17 2.4.Công cụ giáo dục và truyền thông 21 3.Tính tất yếu khác

doc44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp của nhà nước trong việc giải quyết vấn đề môi trường nước ở đô thị hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h quan của QLNN về môi trường nước ở đô thị 23 ChươngII:Thực trạng môi trường nước ở đô thị & nguyên nhân 1.Thực trạng 26 1.1.Cấp nước 26 1.2.Úng ngập đô thị 28 1.3.Nước thải 30 2.Nguyên nhân 31 2.1.Nguyên nhân ô nhiễm từ nguồn nước thải 31 2.2.Nguyên nhân tình trạng úng ngập 34 ChươngIII: Giải pháp của nhà nước trong QLMT nước ở đô thị 1.Sử dụng các công cụ quản lí vào quản lí môi trường nước ở đô thị 36 1.1.Sử dụng công cụ pháp lí 36 1.2.Sử dụng công cụ kĩ thuật trong quản lí môi trường nước 36 1.3.Sử dụng công cụ kinh tế 37 1.4.Sử dụng công cụ giáo dục và truyền thông 38 2.Kiến nghị với cơ quan nhà nước 39 2.1.Về vấn đề xử lí nước thải ở đô thị 39 2.2.Về vấn đề giải quyết úng ngập 40 2.3.Về vấn đề cung cấp nước sạch 40 2.4. Về vấn đề xử lý vi phạm nguồn nước ở đô thị 40 C. PHẦN KẾT LUẬN 42 D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 43 LỜI MỞ ĐẦU Nước là tài sản chung của nhân loại, là một trong bốn nhân tố tạo nên môi trường, nó có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự sống của con người và sinh thực vật. Không có nước thì sự sống của muôn loại trên hành tinh không thể tồn tại được. Con người khai thác từ nguồn tự nhiên và sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như phục vụ ăn uống, sinh hoạt của chính con người, nước dùng cho sản xuất công nghiệp, cho sản xuất nông nghiệp và cho rất nhiều hình thức dịch vụ khác…Nước sử dụng cho những mục đích trên lại thải vào chính nguồn nước nơi mà con người đã khai thác cho mục đích sử dụng của mình. Tất cả những hoạt động đó do thiếu quản lí hay hiểu biết đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước và ở nhiều nơi đã trở nên trầm trọng. Nước có vai trò quan trọng đối với sự sống nhưng nước không phải là vô tận. Khoảng 97% khối lượng nước trên bề mặt trái đất là nước mặn chỉ có một phần nhỏ lượng nước ngọt phục vụ cho nhu cầu của con người. Nguồn nước ngọt vốn đã hạn chế đối với nhu cầu ngày càng gia tăng của con người vậy mà tại nhiều khu vực kể cả nước mặt lẫn nước ngầm đang bị ô nhiễm nghiêm trọng: như nước thải không được xử lí từ các nhà máy, xí nghiệp, từ các loại dịch vụ và các khu đô thị…vào các nguồn nước nhận. Đã có rất nhiều ví dụ về sự ô nhiễm nước tại một số khu vực và thành phố lớn đặc biệt là các khu đô thị và khu công nghiệp lớn như Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà Đông… Sự phát triển các đô thị cùng với việc gia tăng tỷ lệ dân số đô thị gây áp lực rất lớn đến môi trường đô thị, bên cạnh sự phát triển mạnh ngành công nghiệp một mặt góp phần rất lớn vào sự phát triển kinh tế nhưng lại gây ảnh hưởng môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là môi trường nước. Ở Việt Nam bảo vệ tài nguyên nước và tránh sự ô nhiễm ở các khu đô thị gây ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng là vấn đề được nhà nước và xã hội quan tâm rất nhiều. Tình trạng úng ngập đô thị sau mỗi trận mưa lớn và cung cấp nước sạch, nước thải chưa qua xử lí đã thật sự là vấn đề nan giải cần giải quyết. Đã có rất nhiều chính sách, biện pháp được áp dụng nhằm bảo vệ nguồn nước, ngăn chặn hành vi gây ô nhiễm nguồn nước của nhà nước ta, song vì để giải quyết vấn đề phức tạp này đòi hỏi phải có sự quản lí thật chặt chẽ của nhà nước phối hợp với ý thức bảo vệ môi trường nước của toàn dân, nó đòi hỏi một thời gian khá dài và nguồn lực rất lớn…nên hiện nay vấn đề về môi trường nước vẫn còn tồn tại và nhiều bất cập. Để góp phần nghiên cứu các giải pháp của nhà nước trong việc giải quyết các vần đề về môi trường nước đô thị hiện nay tôi đã lựa chọn đề tài : “Thực trạng và giải pháp của nhà nước trong việc giải quyết vấn đề môi trường nước ở đô thị hiện nay’’. Mục tiêu của đề tài nghiên cứu là: Thứ nhất, tìm hiểu về vai trò của nhà nước trong quản lí môi trường nước ở đô thị . Thứ hai, các công cụ quản lí môi trường nước áp dụng vào quản lí môi trường nước ở các khu đô thị. Thứ ba, thực trạng môi trường nước các khu đô thị hiện nay và nguyên nhân của tình trạng đó. Thứ tư, các giải pháp của nhà nước để giải quyết vấn đề môi trường nước ở đô thị. Thứ năm, kiến nghị với cơ quan nhà nước về công tác quản lí môi trường nước ở đô thị hiện nay. Trong quá trình tìm hiểu về đề tài tôi đã nhận được sự hướng dẫn của T.S Phạm Vũ Thắng và góp phần cho Đề án của tôi hoàn thiện hơn, tôi xin gửi lời cảm ơn đến T.S Phạm Vũ Thắng! PHẦN NỘI DUNG Chương I VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÍ MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở ĐÔ THỊ 1.Quản lí nhà nước về môi trường 1.1. Quản lí môi trường nước Quản lý môi trường nước là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách Kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường nước ở các khu đô thị nhằm đảm bảo đời sống kinh tế - xã hội cho đời sống dân cư đô thị và phát triển kinh tế gắn liền với phát triển bền vững Giáo trình kinh tế và quản lí môi trường – NXB Thống kê- PGS.TS Nguyễn Thế Chinh. Tr338 . Xét về đối tượng của quản lí môi trường nước: Thực chất của quản lí môi trường nước là quản lí các hoạt động phát triển, thường xuyên diễn ra lien quan đến môi trường nước và có tác động tích cực và tiêu cực đến trạng thái ổn định của nó. Nhưng hoạt động phát triển không tự thân chúng tiến hành mà đều do con người với những mục đích, lợi ích khác nhau thực hiện. Bởi thế quản lí môi trường nước chính là quản lí hành vi cá nhân, tập thể con người trong hoạt động sản xuất, tiêu thụ, sinh hoạt,v.v…, là điều tiết các lợi ích sao cho hài hoà trên nguyên tắc ưu tiên lợi ích quốc gia, của toàn xã hội . Mục tiêu quản lí môi trường là ba mục tiêu cơ bản sau : Một là, phải khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường nước phát sinh trong hoạt đống sống của con người. Hai là, phát triển kinh tế và xã hội quốc gia theo 9 nguyên tắc của một xã hội bền vững do hội nghị Rio-92 đề xuất và được tuyên bố Johannesburg, Nam Phi về phát triển bền vững (9/2002) tái khẳng định. Ba là, xây dựng các công cụ có hiệu lực quản lí môi trường nước ở các khu đô thị. Các công cụ trên phải thích hợp cho từng ngành, từng địa phương và cộng đồng dân cư. Giáo trình quản lí môi trường bằng công cụ kinh tế - NXB Lao động- Trần Thanh Lâm. Tr 21 1.2. Quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị Quản lý nhà nước về môi trường nước ở đô thị là quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường xác định rõ chủ thể là nhà nước, bằng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đưa ra các bịên pháp, luật pháp, chính sách Kinh tế, kĩ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường nước và phát triển bền vững kinh tế - xã hội đô thị. Như vậy, chúng ta thấy rằng Quản lí nhà nước về môi trường nước xét về bản chất khác với những hình thức quản lí khác như: Quản lí môi trường nước do các tổ chức phi chính phủ đảm nhiệm; Quản lí môi trường nước dựa trên cơ sở cộng đồng; quản lí môi trường nước có tính chất tự nguyện… Hình thức quản lí nhà nước về môi trường nước chủ yếu là điều hành và kiểm soát. Giáo trình kinh tế và quản lí môi trường – NXB Thống kê- PGS.TS Nguyễn Thế Chinh. Tr 342 1.3.Chức năng, nội dung của quản lí nhà nước về môi trường nước ở các khu dô thị Theo từng giai đoạn, quản lý nhà nước về môi trường nước có các chức năng chính sau đây: Thứ nhất, chức năng hoạch định chính sách và chiến lược bảo vệ môi trường nước, cung cấp nước, thoát nước : là chức năng quan trọng nhất, nhằm định ra mục tiêu, chính sách, chiến lược, chương trình, kế hoạch bảo vệ môi trường nước. Thứ hai, chức năng tổ chức: nhằm hình thành các nhóm chuyên môn hoá, các phần tử cấu thành môi trường nước để góp phần vào hệ thống định hướng cho các mục tiêu mong muốn trước mắt và lâu dài. Thứ ba, chức năng điều khiển: nhằm phối hợp hoạt động chung của nhóm, của phân hệ trong việc giải quyết vấn đề liên quan đến môi trường nước. Thứ tư, chức năng kiểm tra: nhằm phát hiện kịp thời những sai sót trong quá tình hoạt động và các cơ hội đột biến liên quan đến môi trường nước ở các khu đô thị. Đây là chức năng quan trọng nhất của cá nhân người lãnh đạo, chủ thể quản lí môi trường nước. Thứ năm, chức năng điều chỉnh: nhằm sửa chữa những sai sót nảy sinh trong quá trình hoạt động phát triển, tận dụng các cơ hội để thúc đẩy, bảo đảm cho hệ thống cung cấp nước, thoát nước, xử lí nước thải… hoạt động phát triển một cách bình thường Giáo trình quản lí môi trường bằng công cụ kinh tế - NXB Lao động- Trần Thanh Lâm. Tr 26 . Nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường nước bao gồm những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất: Ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ, các hệ thống tiêu chuẩn về môi trường nước Thứ hai: Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế hoạch phòng chống, khắc phục suy thoái, sự cố môi trường nước, xây dựng,quản lý các công trình bảo vệ môi trường nước. Thứ ba: Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thông quan trắc, định kì đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường nước Thứ tư: Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường nước của các dự án và các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Thứ năm: Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường nước Thứ sáu: Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, giải quyết các tranh chấp, xử lý các vi phạm pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường nước ở các khu đô thị. Thứ bảy: Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường nước, giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về môi trường nước. Thứ tám: Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, cấp nước và thoát nước. 2. Những công cụ quản lí môi trường nước ở đô thị Công cụ quản lí môi trường nước là các phương thức hay biện pháp hành động thực hiện công tác quản lí môi trường nước của Nhà nước, các tổ chức khoa học và sản xuất. Công cụ quản lí môi trường nước rất đa dạng, mỗi công cụ có một chức năng và phạm vi tác động nhất định, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau Giáo trình quản lí môi trường bằng công cụ kinh tế - NXB Lao động- Trần Thanh Lâm. Tr 52 . Có thể phân loại công cụ quản lí môi trường nước theo chức năng hoặc theo bản chất của công cụ. Phân loại theo bản chất của công cụ ta có các loại công cụ sau: 2.1.Công cụ kinh tế Trước tiên, chúng ta nên hiểu về khái niệm công cụ kinh tế trong quản lí môi trường: Công cụ kinh tế là các công cụ chính sách được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong hoạt động kinh tế của các cá nhân và tổ chức kinh tế để tạo ra các tác động ảnh hưởng đến hành vi của các tác nhân kinh tế theo hướng có lợi cho môi trường nước Giáo trình kinh tế và quản lí môi trường – NXB Thống kê- PGS.TS Nguyễn Thế Chinh. Tr 422 . Các công cụ kinh tế trong quản lí môi trường là: Phí/ lệ phí môi trường, thuế môi trường, giấy phép môt trường, hệ thống đặt cọc hoàn trả, kí quỹ môi trường.. Công cụ kinh tế trong quản lí môi trường nước được cụ thể hoá bằng hệ thống lệ phí ô nhiễm nước. Các lệ phí ô nhiễm này là công cụ quan trọng, bổ sung cho các công cụ pháp lí, kiểm soát ô nhiễm trực tiếp, nhằm khuyến khích những người gây ô nhiễm môi trường nước giảm bớt lượng xả thải ô nhiễm. Áp dụng phổ biến hiện nay là hai loại phí mà các nước khác đã sử dụng là phí xả thải nước và phí người sử dụng 2.1.1.Phí xả thải nước : Phí xả nước thải là khoản thu của nhà nước nhằm bù đắp một phần chi phí thường xuyên và không thường xuyên về xây dựng, bảo dưỡng, tổ chức quản lí hành chính của nhà nước đối với hoạt động của người nộp thuế. Ở Trung Quốc, theo quy định của nhà nước, tất cả các xí nghiệp hoặc bất kì cơ sở nào xả chất ô nhiễm vào môi trường nước đều phải trả phí thải nước. Phí này là phí mua quyền sử dụng môi trường tiếp nhận các chất ô nhiễm xả thải. Phí xả thải nước được xác định trên số lượng, nồng độ và tính chất của các chất ô nhiễm trong nước thải. Đối với trường hợp các chất thải của nguồn thải vượt qúa tiêu chuẩn môi trường cho phép thì các cơ sở sản xuất còn phải trả thêm các phí nước thải bổ sung, đồng thời phaỉ có trách nhiệm trong một thời hạn nhất định phải áp dụng biện pháp kiểm tra và xử lí ô nhiễm cho đạt tiêu chuẩn môi trường. Tiền thu phí này được tách một phần nhỏ để chi phí cho công tác quản lí môi trường, số còn lại sẽ nộp vào qũy môi trường, dùng để hỗ trợ, cho vay nhẹ lãi và khuyến khích các cơ sở đầu tư vào thiết bị xử lí ô nhiễm môi trường. Các phí người sử dụng : Lệ phí sử dụng nguồn nước là khoản thu bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức ở các khu đô thị được hưởng một lợi ích hoặc được sử dụng một dịch vụ nào đó do nhà nước cung cấp. Đối với các nguồn xả thải nước gây ô nhiễm môi trường từ các hộ gia đình và các cơ sở sản xuất nhỏ thì rất khó xác định lượng xả thải chất ô nhiễm của các hộ, các cống nước thải của mỗi hộ. Chúng ta nên học tập cách tính phí của Thuỵ Điển: loại phí này được chia làm hai phần: Phần phí cố định, tính đồng đều cho các hộ và phần phí thay đổi, liên quan đến mức tiêu dùng nước của mỗi hộ. Loại phí này còn có tác dụng khuyến khích các hộ gia đình, cũng như các hộ sản xuất nhỏ tiết kiệm sử dụng nước sạch, nhưng lại làm tăng nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải. Hay như Trung Quốc, tiền phí nước thải ra cống đối với mỗi hộ gia đình hay cơ sở sản xuất được tính gộp với tiền mua nước sạch, tức là trong giá mua nước cấp đã bao gồm cả phí xả thải nước ra cống. Cách thức thu phí này tránh được sự thất thu phí xả thải nước ô nhiễm đối với các hộ hay cơ sở sản xuất trốn tránh sự kiểm tra và đổ thải nứơc thải bất hợp pháp vàp sông ngòi, cống rãnhrường, quỹ môi trường, trợ cấp môi trường và nhãn sinh thái. 2.1.2.Thuế môi trường nước Thuế môi trường nước được sử dụng khá phổ biến tại các nước công nghiệp phát triển (OECD), đó là công cụ kinh tế nhằm đưa chi phí môi trường vào giá sản phẩm theo nguyên tắc “ người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Thuế môi trường nước nhằm hai mục đích chủ yếu: Khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường nước ở đô thị, hạn chế các tổn thất tài nguyên trong quá trình sử dụng, và tăng nguồn thu cho Ngân sách nhà nước Trên thực tế, thuế môi trường nước được áp dụng dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ thuộc mục tiêu và đối tượng ô nhiễm như: Thuế đánh vào ô nhiễm, Thuế đánh vào nguồn gây ô nhiễm, thuế đánh vào sản phẩm gây ô nhiễm, phí đánh vào người sử dụng. Thuế môi trường nước ở các khu đô thị cũng được áp dụng tương tự như thuế môi trường nói chung 2.1.2.Giấy phép và thị trường giấy phép môi trường nước( Cota gây ô nhiễm ) Đây là một loại giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng mà thông qua đó nhà nước công nhận quyền các nhà máy, xí nghiệp v.v… được phép thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường nước. Nhà nước xác định tổng lượng chất gây ô nhiễm tối đa có thể cho phép thải vào môi trường nước, sau đó phân bổ cho các nguồn thải bằng cách phát hành những giấy phép thải gọi là cota gây ô nhiễm và chính htức công nhận quyền được xả một lượng nước gây ô nhiễm nhất định vào môi trường nước chung trong một giai đoạn xác định cho các nguồn thải. 2.1.3.Hệ thống đặt cọc hoàn trả: Đặt cọc - hoàn trả được sử dụng trong hoạt động bảo vệ môi trường nước ở đô thị bằng cách quy định các đối tượng tiêu dùng các sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường nước phải trả thêm một khoản tiền (đặt cọc) khi mua hàng, nhằm đảm bảo cam kết sau khi tiêu dùng sẽ đem sản phẩm đó ( hoặc phần còn lại của sản phẩm đó ) trả lại cho các đơn vị thu gom rác thải hoặc tới những địa điểm quy định để tái chế, tái sử dụng hoặc tiêu huỷ theo cách an toàn đối với môi trường. Nếu thực hiện đúng, người tiêu dùng sẽ nhận lại khoản đặt cọc do các tổ chức thu gom hoàn trả lại. 2.1.4.Kí quỹ môi trường Kí quỹ môi trường nước là công cụ kinh tế áp dụng cho các hoạt động kinh tế có tiềm năng gây ô nhiễm và tổn thất môi trường nước ở đô thị. Nguyên lí hoạt động của hệ thống kí quỹ môi trường nước cũng tương tự như hệ thống đặt cọc hoàn trả. Nội dung chính của kí quỹ môi trường nước là yêu cầu các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh trước khi tiến hành một hoạt động đầu tư phải kí gửi một khoản tiền tại ngân hàng hay tổ chức tín dụng, nhằm đảm bảo sự cam kết về thực hiện các biện pháp để hạn chế ô nhiễm, suy thoái môi trường nước. Mục đích chính của việc kí quỹ là làm cho người có khả năng gây ô nhiễm luôn nhận thức được trách nhiệm của họ, từ đó tìm ra các biện pháp thích hợp ngăn ngừa ô nhiễm. 2.1.5.Quỹ môi trường nước: Quỹ môi trường nước ở đô thị là một thể chế hoặc một cơ chế tài chính được thiết kế để nhận tài trợ vốn từ các nguồn khác nhau, và từ đó phân phối các nguồn này để hỗ trợ quá trình thực hiện dự án hoặc các hoạt động cải thiện môi trường nước Nguồn thu này có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: Phí và lệ phí môi trường nước, đóng góp tự nguyện của mỗi cá nhân và doanh nghiệp ở đô thị, đóng góp của các tổ chức tài trợ quốc tế, tiền lãi và các khoản thu được từ hoạt động của quỹ, tiền xử phạt hành chính do vi phạm quy định về bảo vệ môi trường nước. Ở Việt Nam với quyết định của thủ tướng chính phủ số 82/2002/QĐ-TTg ngày 26/06/2002 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam là cơ hội tốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nỗ lực giảm thiểu ô nhiễm, có nguồn tài chính cho các doanh nghiệp có cơ hội vay để khắc phục những vấn đề về môi trường với lãi suất ưu đãi. 2.1.6.Nhãn sinh thái Nhãn sinh thái là một danh hiệu nhà nước cấp cho các sản phẩm không gây ra ô nhiễm môi trường nước trong quá trình sản xuất hoặc quá trình sử dụng sản phẩm đó. Được dán nhãn sinh thái là một sự khẳng định uy tín chất lượng sản phẩm và nhà sản xuất. Các sản phẩm có nhãn sinh thái thường có sức cạnh tranh cao và giá bán ra thị trường cũng thường cao hơn các sản phẩm cùng loại. Như vậy, nhãn sinh thái là công cụ kinh tế tác động vào nhà sản xuất thông qua phản ứng và tâm lí khách hàng. Rất nhiều nhà sản xuất đã và đang đầu tư để sản phẩm của mình được công nhận là sản phẩm “ xanh ’’ được dán nhãn sinh thái và điều kiện để dán nhãn sinh thái ngày càng khắt khe hơn. Nhãn sinh thái thường được xem xét và dán cho các sản phẩm tái chế từ phế thải, các sản phẩm thay thế cho các sản phẩm có tác động xấu đến môi trường, hoặc các hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm có ảnh hưởng tích cực với môi trường ở đô thị. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh…ở đô thị có thể áp dụng phổ biến công cụ này 2.1.7.Các khoản trợ cấp: Trợ cấp môi trường nước là công cụ kinh tế quan trọng được sử dụng rất nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển .Trợ cấp môi trường có thể dưới dạng sau: Trợ cấp không hoàn lại, các khoản cho vay ưu đãi, cho phép khấu hao nhanh, ưu đãi thuế ( miễn, giảm…) Chức năng chính của trợ cấp môi trường nước ở đô thị là giúp đỡ các ngành công nghiệp ở đô thị khắc phục ô nhiễm môi trường nước trong điều kiện khi tình trạng ô nhiễm môi trường nước quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của doanh nghiệp không chịu đựng được. Trợ cấp còn khuyến khích các cơ quan nghiên cứu và triển khai là các công nghệ sản xuất có lợi cho môi trường nước hoặc các công nghệ xử lí ô nhiễm. Tuy nhiên, trợ cấp môi trường nước chỉ là biện pháp tạm thời, nếu vận dụng không thích hợp hoặc kéo dài sẽ dẫn đến phi hiệu quả kinh tế, vì trợ cấp đi ngược với nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, vì thế cần có một chương trình có hoạch định và kiểm soát rõ ràng, thường xuyên. Ở nhiều nước trên thế giới đã dành các khoản trợ cấp, các khoản vay lãi suất thấp hoặc giảm nhẹ thuế để khuyến khích các cơ sở sản xuất đầu tư kĩ thuật để ngăn chặn hoặc giảm nhẹ ô nhiễm môi trường nước. Thí dụ như ở Philippin, theo Luật môi trường, giảm 50% thuế đối với các thiết bị kiểm soát ô nhiễm nhập khẩu, luật này cũng quy định miễn thuế cho tất cả thiết bị xử lí ô nhiễm môi trường được sản xuất trong nước. Ở nước ta hiện nay cũng đã có quy định miễn thuế nhập khẩu, áp dụng những hình thức trợ cấp hoặc cho vay với lãi suất rất thấp đối với các cơ sở sản xuất đầu tư cải tiến, đổi mới công nghệ để giảm lượng thải chất ô nhiễm, hoặc đối với nhà máy gây ô nhiễm trầm trọng phải di chuyển địa điểm từ nội thành ra các khu công nghiệp ở ngoại thành 2.2.Công cụ pháp lý Giáo trình kinh tế và quản lí môi trường – NXB Thống kê- PGS.TS Nguyễn Thế Chinh. Tr 417 Công cụ pháp lý trong quản lí môi trường nước ở đô thị hay còn gọi là công cụ luật pháp, chính sách bao gồm : các văn bản về luật quốc tế, luật quốc gia, các văn bản khác dưới luật, các kế hoạch, chiến lược và chính sách liên quan đến môi trường nước ở đô thị của một quốc gia, các ngành kinh tế và các địa phương. 2.2.1.Quy hoạch, kế hoạch hoá bảo vệ môi trường nước đô thị Bảo vệ môi trường nước đô thị là công tác được tiến hành trên quy mô lãnh thổ lớn, trong thời gian dài, có liên quan đến nhiều ngành, nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội .Vì vậy công tác này chỉ có thể được thực hiên tốt trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch hoá. Nội dung cơ bản của quy hoạch, kế hoạch hoá bảo vệ môi trường nước ở đô thị là: Điều tra cơ bản về chất lượng môi trường nước ở đô thị, trữ lượng tài nguyên, thu thập số liệu để làm cơ sở cho việc lập quy hoạch. Bảo vệ môi trường nước ở đô thị là làm sao phải duy trì được môi trường nước cơ bản, nhằm tạo điều kiện tái tạo môi trường nước ở đô thị, phát huy đặc điểm tự điều chỉnh của hệ thống môi trường nước ở đô thị. Vì vậy phải đặt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong kế hoạch chung, phù hợp với điều kiện bảo vệ và duy trì môi trường nước cơ bản, nhằm hướng tới sự phát triển bền vững. Quy hoạch, kế hoạch hóa môi trường nước ở đô thị phải đảm bảo tính đồng bộ, cân đối với mục tiêu và nguồn lực, gắn chặt với chính sách đầu tư phát triển. 2.2.2.Về pháp luật Thông thường, hệ thống luật của mỗi quốc gia bao gồm hai bộ phận chính là luật chung ( Luật Bảo vệ môi trường nước ở đô thị ) và luật về các thành phần của môi trường nước ở đô thị . Quy định là những văn bản dưới luật nhằm cụ thể hoá hoặc hướng dẫn thực hiện các nội dung của luật liên quan đến môi trường nước ở đô thị. Chế định là các quy định về chế độ, thể chế tổ chức quản lí bảo vệ môi trường nước ở đô thị. Chẳng hạn quy định chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan Bộ, Sở tài nguyên và môi trường . Hệ thống văn bản pháp luật về quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong bảo vệ môi trường nước ở đô thị và phát triển tài nguyên. Đây là công cụ hay biện pháp mang tính pháp lí do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các hoạt động phát triển của cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng, các ngành ,các cấp, các địa phương sao cho phù hợp với mục đích bảo vệ môi trường nước ở đô thị, đảm bảo cân bằng sinh thái, thông qua hàng loạt các văn bản pháp quy đối với việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tức là thực thi các biện pháp bắt buộc hoặc cưỡng chế đối với người gây ô nhiễm phải huỷ bỏ hay hạn chế bớt một số hoạt động gây tổn thất cho môi trường nước ở đô thị. Một trong những công cụ pháp lí quan trọng trong quản lí môi trường nước mặt là xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn, quy định về bảo vệ môi trường nước. Ở Mỹ và một số nước phát triển từ lâu đã thực hiện quy định : tất cả các cơ sở sản xuất công nghiệp cần phải có giấy phép xả thải vào hệ thống thoát nước chung của đô thị hoặc đổ thải vào nguồn nước mặt. Các giấy phép xả thải được cấp cho từng thời kì 5 năm và sau đó phải xin gia hạn hoặc cấp giấy phép mới mới được tiếp tục xả thải. Những cơ sở sản xuất xả nước thải thực hiện ghi chép lưu trữ hồ sơ và tiến hành tự quan trắc giám sát nước thải của mình. Ở Anh, giấy phép xả thải được cấp hai năm một lần, trong giấy phép xả thải thường quy định rõ lượng nước thải tối đa cho phép và các giới hạn đối với chỉ tiêu: BOD, COD, độ pH, nhiệt độ và một số kim loại nặng. Các cơ quan quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị định kì đến kiểm tra các cơ sở đổ thải nước, nếu phát hiện các cơ sở không tuân thủ tiêu chuẩn môi trường nước ở đô thị và các quy định trong giấy phép thì thực hiện ngay các biện pháp tương ứng như cảnh cáo, xử phạt, thu hồi giấy phép, bắt cơ sở tạm ngừng sản xuất, thậm chí là đóng cửa nhà máy. Mức độ xử phạt đến 400 USD đến 20,000 USD. Thực tế ở nhiều nước phát triển chứng tỏ sử dụng hiệu quả công cụ pháp lí này trong quản lí môi trường nước. Tuỳ theo tình hình cụ thể ở mỗi địa phương mà bổ sung thêm hoặc chi tiết hoá các quy định và tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường nước. Trong nhiều trường hợp giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường các dòng sông, các thuỷ vực cần có sự phối hợp giữa các địa phương với nhau, giữa các tỉnh, thành trong cùng khu vực, các địa phương ở đầu nguồn nước( thượng lưu) phải có trách nhiệm đối với bảo vệ môi trường nước ở hạ lưu. 2.2.3.Về chính sách Chính sách bảo vệ môi trường nước ở đô thị là công cụ chỉ đạo toàn bộ hoạt động bảo vệ môi trường nước ở đô thị trên một phạm vi lãnh thổ rộng lớn như một vùng hay một quốc gia trong thời gian dài (10 – 15 năm trở lên). Chính sách phải nêu lên mục tiêu và định hướng lớn để thực hiện mục tiêu. Chính sách đó phải hợp lí, có cơ sở vững chắc về khoa học và thực tiễn. Phải có chiến lược để cụ thể hoá chính sách ở một mức độ nhất định, chọn các mục tiêu khả thi, xác định các phương hướng biện pháp thực hiện các mục tiêu đề ra. Đây vừa là nhiệm vụ quan trọng vừa là công cụ trong quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị. Vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã đề ra chính sách bảo vệ môi trường nước ở đô thị gắn liền với chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở đó, Chính phủ đã xây dựng chiến lược bảo vệ môi trường nước quốc gia theo từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trên cơ sở chiến lược bảo vệ môi trường, các cơ quan quản lí nhà nước về tài nguyên và môi trường nước ở đô thị tiến hành nhiệm vụ cụ thể sau đây: 2.2.4.Xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường nước ở đô thị Nhà nước thực hiện chính sách xã hội hoá bảo vệ môi trường nước ở đô thị bằng pháp luật và các văn bản pháp lý, để huy động cộng đồng tham gia vào các hoạt động quản lí môi trường các cấp, vào việc ra quyết định của các cơ quan nhà nước bằng các phong trào quần chúng như phong trào tự quản vệ sinh - môi trường, phân loại phế thải tại nguồn, làng sinh thái, làng văn hoá, thông tin môi trường nước ở đô thị cho cộng đồng…theo hướng thân thiện với môi trường nước ở đô thị. Đầu tư bảo vệ môi trường nước ở đô thị phải được đa dạng hoá về hình thức và nguồn vốn nhằm huy động được mọi nguồn lực trong xã hội. Hình thức đầu tư bao gồm đầu tư bằng trí lực, vật lực, ngày công lao động hữu ích và bằng tiền. Đây là công cụ được nghiên cứu áp dụng rộng rãi do được đánh giá là có hiệu quả vì nó huy động nhiều nguồn lực cho quản lí và bảo vệ môi trường nước ở đô thị. 2.3.Công cụ kĩ thuật quản lí môi trường nước ở đô thị Các công cụ kỹ thuật quản lí môi trường nước ở đô thị thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát Nhà nước về chất lượng và thành phần môi trường nước ở đô thị, về sự hình thành và phân bố chất ô nhiễm trong môi trường nước ở đô thị . Công cụ kĩ thuật có thể bao gồm các đánh giá môi trường nước ở đô thị, kiểm toán môi trường nước ở đô thị, các hệ thống quan trắc môi trường , xử lí chất thải, tái chế và tái sử dụng chất thải. Các công cụ kĩ thuật được coi là những công cụ hành động quan trọng của các tổ chức trong công tác bảo vệ môi trường nước ở đô thị . Thông qua việc thực hiện các công cụ kĩ thuật, các cơ quan chức năng có thể có những thông tin đầy đủ, chính xác về hiện trạng và diễn biến chất lượng môi trường nước ở đô thị, đồng thời có những biện pháp, giải pháp phù hợp để xử lí, hạn chế những tác động tiêu cực đối với môi trường nước ở đô thị Các công cụ kĩ thuật cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tuân thủ các tiêu chuẩn, quy định về bảo vệ môi trường nước ở đô thị. Đây là công cụ thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà nước về sự hình thành và phân bố ô nhiễm. Công cụ kĩ thuật quản lí bao gồm các biện pháp chính sau đây: Thứ nhất, tăng cường thu thập thông tin giữ liệu môi trường nước : Công cụ bao gồm hệ thống quan sát, đo đạc, các thông số kĩ thuật về môi trường nước, tạo nên cơ sở dữ liệu thống nhất quốc gia. Các công cụ này có vai trò quyết định tính đúng đắn, độ chính xác của việc đánh giá hiện trạng, dự báo diễn biến môi trường nước trong tương lai Thứ hai, tổ chức bộ máy quản lí: Quản lí nguồn nước ở đô thị được tổ chức kết hợp theo ngành và lãnh thổ, cụ thể là: Ở Trung ương có Bộ Tài nguyên và Môi trường bao quát quan hệ vĩ mô về môi trường nước, thực hiện các hoạt động điều chỉnh trong cả nước. Bộ Tài chính, với tư cách là chủ sở hữu, đại diện cho nhà nước quản lí nguồn tài nguyên nước Bộ Kế hoạch và đầu tư làm tham mưu cho nhà nước trong việc huy động, sử dụng tài nguyên môi trường nước hợp lí, phù hợp với quá trình xây dựng đất nước, cũng như tư vấn trong việc giao trọng trách khai thác đúng đối tượng. Các Bộ kinh tế như Bộ công nghiệp, xây dựng …được nhà nước giao trách nhiệm quản lí các doanh nhân, các học giả được phép hay thuê mướn các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác tài nguyên nước phải tuân thủ pháp luật, các điều khoản hợp đồng mà họ đã cam kết với nhà nước. Ở mỗi địa phương, các khu đô thị lớn đều có cơ quan quản lí tương ứng làm chức năng quản lí nhà nước về môi trường Lực lượng bảo vệ môi trường nước, trực tiếp làm sạch môi trường nước rộng khắp và quan trọng là nhân dân, đựơc chính quyền cơ sở tổ chức, chỉ đạo. Đồng thời, trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp và các tổ chức công dân đều có lực lượng làm nhiệm vụ vệ sinh môi trường nước công sở, cơ quan. Thứ ba, nghiên cứu và triển khai khoa học kĩ thuật: Trước tiên là phát triển hệ thống thoát nước và hệ thống xử lí nước thải đô thị và công nghiệp đầy đủ và phù hợp: Tách hệ thống thoát nước mưa và hệ thống thoát nước bẩn thành hai hệ thống riêng. Xây dựng các trạm xử lí nước thải sinh hoạt đô thị tập trung cho từng khu vực. Tất cả các nhà máy, xí nghiệp, bệnh viện, khách sạn, các cơ sở dịch vụ có lượng nước thải lớn đều phải có trạm xử lí nước thỉ đảm bảo tiêu chuẩn môi trường mới được thải ra hệ thống thoát nước chung. Trong phát triển đô thị phải dành đất để xây dựng các trạm xử lí nước đô thị tập trung. Luôn luôn quan tâm bảo vệ an toàn hệ thống thoát nước đô thị, vì trong quá trình phát triển đô thị, hệ thống thoát nước đô thị bị lấn chiếm và hư hỏng, như san lấp hai bên bờ để mở rộng đất ở, mở rộng đường, sân bãi xây dựng nhà cửa đè lên hệ thống thoát nước, làm nứt gãy hệ thống thoát nước, đổ chất thải xây dựng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0257.doc
Tài liệu liên quan