Thực trạng & Giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động ở tỉnh Thanh Hoá

LỜI NÓI ĐẦU Sau hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tỉnh Thanh Hóa đã đạt được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế - chính trị và xã hội. Tuy nhiên cùng với mục tiêu chung của cả nước, Thanh Hóa vẫn đang nỗ lực hết sức mình để thực hiện thành công quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Do vậy, em chọn đề tài “ chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh Thanh Hóa” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình với mong muốn góp phần và

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1802 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động ở tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của tỉnh nhà. Đề tài này được thực hiện nhằm chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay của cả nước. Trong quá trình hoàn thành đề tài, do hạn chế về mặt kiến thức và thời gian nghiên cứu ngắn nên đề tài vẫn còn nhiều thiếu sót. Vậy em kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến nhiệt tình của các thầy cô giáo, để kết quả nghiên cứu của đề tài là những đóng góp thiết thực vào thực tiễn của xã hội. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, các cô chú ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội và GSTS. Tống Văn Đường, là những người đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu chuyên đề tốt nghiệp của mình. Phần mở đầu 1. Sự cần thiết của đề tài Thanh Hóa là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, nằm trên tuyến đường quốc lA có vị trí địa lý thuận lợi và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Với thế mạnh đó, Thanh Hóa hướng tới mục tiêu trở thành một tỉnh công nghiệp vào năm 2020. Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI khóa XV của tỉnh Thanh Hóa đã xác định “ tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh, đưa nền kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững, nhanh chóng hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế” Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI là nhiệm vụ chủ yếu và trọng tâm của tỉnh trong giai đoạn 2006 – 2010. Tuy nhiên để giải quyết được nhiệm vụ này, ngoài việc phải phát huy tối đa các thế mạnh của mình, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thanh Hóa cần phải có sự đánh giá khách quan và nhìn nhận đúng đắn về quá trình chuyển cơ cấu lao động của tỉnh nhà. Thông qua đó tạo ra những cú hích đúng nhằm tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động để tạo ra một cơ cấu mới hợp lý hơn. Vì một cơ cấu lao động không hợp lý sẽ làm nảy sinh các vấn đề tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế xã hội như: thất nghiệp, khoảng cách giàu nghèo, mất cân đối, bình đẳng trong xã hội. Mặt khác, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động với xu hướng tăng số lao động trong ngành xây dựng và dịch vụ, đồng thời giảm lực lượng lao động trong ngành nông, lâm và ngư nghiệp sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, tạo điều kiện để thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, chính trị và xã hội của tỉnh, giúp Thanh Hóa bắt nhịp được với xu hướng toàn cầu hóa. 2. Nội dung của đề tài Với mục đích nghiên cứu sự dịch chuyển cơ cấu lao động ở tỉnh Thanh Hóa, nội dung của đề tài bao gồm: Lý thuyết về cơ cấu lao động và sự cần thiết của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Khái quát về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay của tỉnh Thanh Hóa. Phân tích và đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của Thanh Hóa trong những năm gần đây Mục tiêu và giải pháp để thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động đối với tỉnh Thanh Hóa trong những năm tới. 3. Phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu: Tỉnh Thanh Hóa. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng và xu hướng phát triển kinh tế xã hội tỉnh Thanh Hóa Số lượng và chất lượng lực lượng lao động tỉnh Thanh Hóa phân chia theo các chỉ tiêu. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích theo mô hình toán, phương pháp đánh giá và dự báo, phương pháp tổng hợp. 4. Kết cấu của đề tài. Chương I : Tính tất yếu và sự cần thiết của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Chương II: Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2000 – 2006. Chương III: Một số giải pháp để thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý ở tỉnh Thanh Hóa Phần nội dung Chương I TÍNH TẤT YẾU VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA QUÁ TRÌNH DỊCH CHUYỂN CƠ CẤU LAO ĐỘNG 1. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu lao động. Ngày nay có rất nhiều người biết đến khái niệm “cơ cấu” theo nhiều cách hiểu khác nhau. Trong đó theo điển tiếng Việt, khái niệm “cơ cấu” được hiểu là “sự xắp xếp và tổ chức các phần tử tạo thành một toàn thể, một hệ thống phức hợp và thường là trìu tượng, xét về mặt biểu thị những đặc tính lâu dài: cơ cấu kinh tế; cơ cấu nhà nước” Từ điển tiếng Việt – NXB Khoa học Xã hội năm 1994 tr 215 - 216 . Còn theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu hoạt động trên lĩnh vực xã hội thì “cơ cấu là sự phân chia tổng thể ra những bộ phận nhỏ theo những tiêu thức chất lượng khác nhau, những bộ phận đó thực hiện từng chức năng riêng biệt nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm phục vụ mục tiêu chung” Giáo trình phân tích Lao động Xã hội – NXB Lao động Xã hội 2002 tr 31 . Như vậy có nhiều quan niệm khác nhau về “cơ cấu” nhưng trong đề tài này khái niệm “ cơ cấu” được hiểu theo một cách chung nhất là “ tập hợp các cấu phần, theo một tỷ lệ nhất định, trong mối quan hệ ràng buộc hữu cơ với nhau, tạo nên một chỉnh thể thống nhất”. Vận dụng vào quan điểm này ta đồng ý với khái niệm: “Cơ cấu lao động là quan hệ tỷ lệ lao động được phân chia theo một tiêu thức kinh tế nào đó” Đề tài “ Các căn cứ lý luận và thực tiễn để tiếp tục đổi mới chính sách và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn” – Viện Khoa học Lao động và Xã hội . Tuy nhiên, để thống nhất trong việc nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động thì ta xem xét khái niệm này dưới 2 góc đọ khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thứ nhất, cơ cấu lao động xét về mặt nguồn lực tức là mặt “ cơ cấu cung lao động” được phân chia theo các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu ( tỷ lệ) số lượng và chất lượng nguồn lao đông. Bao gồm: Cơ cấu số lượng lao động: Dân số trong độ tuổi lao động. Dân số không hoạt động kinh tế thường xuyên. Dân số hoạt động kinh tế thường xuyên (lực lượng lao động). Cơ cấu chất lượng lực lượng lao động: Lao động chia theo trình độ văn hóa Lao động chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật. Lao động chia theo độ tuổi. Thứ hai, cơ cấu lao động xét về mặt phân công lao động xã hội tức là cơ cấu cầu lao động, phản ánh tình trạng việc làm và nhu cầu sử dụng lao động trong các ngành, các thành phần kinh tế. Cơ cấu cầu lao động được biểu thị qua các tiêu thức sau: Lao động phân chia theo ngành/ hoặc khu vực kinh tế( nông/ lâm/ ngư nghiệp; công nghiệp/xây dựng; thương mại/ dịch vụ) Lao động phân chia theo địa phương,vùng lãnh thổ (nông thôn và thành thị, 8 vùng kinh tế, tỉnh/ thành phố) Lao động phân chia theo thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, và các thành phần kinh tế khác). Lao động phân chia theo dạng việc làm (tự làm việc, làm công ăn lương)… Như vậy cơ cấu lao động dù xét theo mặt nào cũng được xác định bằng tỷ lệ lao động được phân chia theo một tiêu thức nhất định nào đó. Tuy nhiên lực lượng lao động luôn biến đổi theo những biến đổi của xã hội cả về số lượng, chất lượng cũng như tình trạng việc làm. Do vậy mà quan hệ tỷ lệ lao động được phân chia theo một tiêu thức nào đấy không phải là cố định mà nó thay đổi theo từng giai đoạn, từng hoàn cảnh, thời kỳ khác nhau. Tạo ra sự dịch chuyển cơ cấu lao động. Dịch chuyển cơ cấu lao động là quá trình biến đổi, chuyển hóa khách quan từ cơ cấu lao động cũ sang cơ cấu lao động mới tiến bộ hơn, phù hợp với quá trình và trình độ phát triển kinh tế xã hội Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới dịch chuyển lao động nông thôn Việt Nam – Viên Lao động Khoa học và Xã hội , tức là một quá trình nhằm làm thay đổi cấu trúc và mối liên hệ về lao động theo một mục tiêu nhất định. Hay nói cách khác, “chuyển dich cơ cấu lao động là quá trình phân phối, bố trí lao động theo những quy luật, những xu hướng tiến bộ, nhằm mục đích sử dụng đầy đủ và có hiệu quả cao các nguồn nhân lực để tăng trưởng và phát triển” Ts. Nguyến Ngọc Sơn, Chuyển dịch cơ cấu lao động và việc làm ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005. Tạp chí Kinh tế và dự báo số 2(3/2006) Ở Việt Nam chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra trên cơ sở quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng suất lao động, tạo nhiều việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Do đó có thể coi chuyển dịch cơ cấu lao động là cách mạng trong phân công lại lao động với mục tiêu và xu hướng là tăng tỷ lệ lao động kỹ thuật, có trình độ tay nghề, lao động làm việc trong các ngành công nghiệp và dịch vụ và giảm tỷ lệ lao động giản đơn, thiếu chuyên môn, lao đông làm việc trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Theo đó chuyển dịch cơ cấu lao động được biều hiện thông qua sự dịch chuyển trong cơ cấu cung lao động (là sự dịch chuyển theo hướng thay đổi cơ cấu phân chia theo các chỉ tiêu số lượng và chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu của sản xuất và thị trường lao động) và cơ cấu cầu lao động ( là sự dịch chuyển cơ cấu lao động đang làm việc phân chia theo các ngành/ khu vực kinh tế, vùng lãnh thổ, thành phần kinh tế, dạng việc làm). Giữa chuyển dịch cơ cấu cung và cơ cấu cầu lao động có mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau và kết quả là sự dịch chuyển cơ cấu lao động. Một mặt muốn chuyển dịch cơ cấu cầu lao động thì cung lao động ( cả về số lượng và chất lượng) phải phát triển đến một trình độ cần thiết phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế (thể hiện vai trò quyết định của cung lao động tới cầu lao động). Mặt khác, sự chuyển dịch khách quan có tính quy luật của cơ cấu cầu lao động, phản ánh quá trình xã hội hóa và sự phân công lao động ngày càng hợp lý, tiến bộ là một trong những các yếu tố giúp cho nền kinh tế tăng trưởng. Đến lượt mình, nền kinh tế tăng trưởng đời sống nhân dân được cải thiện, giáo dục, y tế phát triển là điều kiện để cung lao động phát triển cả về số lượng và chất lượng, tạo ra một sự dịch chuyển trong cơ cấu cung lao động.Vì vậy dịch chuyển cơ cấu lao động hợp lý còn là quá trình biến đổi để cung lao động phù hợp với cầu lao động. Phân biệt sự dịch chuyển cơ cấu lao động và dịch chuyển cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế là khái niệm “được dùng để chỉ các bộ phận cấu thành (cấu phần) nền kinh tế của một quốc gia, địa phương, vùng lãnh thổ. Nền kinh tế đó được hình thành từ các bộ phận với một quan hệ tỷ lệ nhất định được phân loại theo các chỉ tiêu (ngành, vùng, khu vưc, các thành phần kinh tế) và giữa chúng có mối quan hệ với nhau không thể tách rời được” Đề tài “ Các căn cứ lý luận và thực tiễn để tiếp tục đổi mới chính sách và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn” – Viện Khoa học Lao động và Xã hội . Cơ cấu kinh tế phản ánh trình độ phát triển kinh tế trong từng thời kỳ nhất định của một địa phương nào đó. Cơ cấu kinh tế được xác định dựa trên tỷ lệ cấu phần của các bộ phận, và được tính theo công thức sau: Tỷ lệ cấu phần A (B,C) = Giá trị trong GDP của cấu phần A (B,C) Tổng giá trị của toàn bộ nền kinh tế Vậy cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào giá trị GDP của từng cấu phần so với tổng giá trị GDP của toàn nền kinh tế. Do đó cơ cấu kinh tế sẽ phụ thuộc vào số lượng và năng suất lao động hoạt động theo các cấu phần đó. Vì vậy khi có sự dịch chuyển trong cơ cấu cung lao động sẽ dẫn đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế.Mặt khác sự dịch chuyển của cơ cấu kinh tế lại quyết định tới sự thay đổi của cơ cấu cầu lao động. Khi cơ cấu kinh tế thay đổi thì cơ cấu cầu lao động sẽ thay đổi theo. Do vậy mà giữa sự chuyển dịch cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ quyết định tới sự thay đổi của cơ cấu lao động và đến lượt mình sự chuyển dịch cơ cấu lao động có tính độc lâp tương đối và tác động trở lại tới khả năng thay đổi nhanh hay chậm của cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động không có cùng tỷ lệ và cũng không dịch chuyển với một tốc độ như nhau. Thông thường tốc độ dịch chuyển cơ cấu cầu lao động dịch chuyển chậm hơn cơ cấu kinh tế. 2. Các yếu tố tác động tới cơ cấu lao động. Cơ cấu lao động bao gồm cơ cấu cung lao động và cơ cấu cầu lao động do đó những yếu tố tác động tới cung cầu lao động sẽ ảnh hưởng tới quan hệ tỷ lệ giữa các cấu phần trong cơ cấu lao động. Các yếu tố đó bao gồm: 2.1 . Các yếu tố dân số. Các yếu tố dân số biểu hiện ở các chỉ tiêu mức sinh, mức chết, tình hình di dân và tỷ lệ dân số trong từng nhóm tuổi. Những chỉ tiêu này ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và cơ cấu cung lao động. Nếu mức sinh của dân cư trong một thời kỳ bào đó tăng nhanh đồng thời mức chết giảm thì quy mô dân số sẽ càng gia tăng. Dẫn đến cơ cấu dân số càng trẻ với tỷ lệ thanh niên cao, tỷ lệ tham gia lao động của các nhóm tuổi ( trong tuổi lao động) càng lớn thì cung lao động sẽ càng lớn. Mặt khác quá trình di dân sẽ làm thay đổi quy mô và cơ cấu lao động ở các địa phương có lao động chuyển đến và lao động rời đi. . Các yếu tố kinh tế, văn hóa và xã hội. Tiền lương và thu nhập trên thị trường tác động tới quyết định có tham gia vào thị trường lao động hay không của người lao động. Khi mức tiền lương tiền lương thị trường tăng sẽ làm cho tỷ lệ tham gia thị trường lao động của các nhóm lao động tăng và ngược lại nếu mức tiền lương trên thị trường quá thấp thì người lao động sẽ không làm việc. Chính vì vậy mà yếu tố tiền lương và thu nhập biến động sẽ làm biến động cung lao động, tuy nhiên mức biến động của cung lao động sẽ chậm hơn so với biến động của tiền lương và thu nhâp. Mặt khác tiền công và tiền lương trong nền kinh tế thị trường sẽ là cơ sở chính để người chủ có thể ra quyết định thuê lao động hay không thuê họ. Vì vậy nếu với mức tiền công và tiền lương thấp thì các nhà sản xuất sẽ thuê nhiều lao động nên cầu lao động tăng lên. Sự chênh lệch mức tiền công và tiền lương ở mỗi ngành nghề, mỗi khu vực kinh tế khác nhau là động lực để lao động di chuyển từ nghề này sang nghề khác và từ khu vực này sang khu vực khác. Do đó mà tiền công và tiền lương sẽ tác động mạnh mẽ tới sự dịch chuyển cơ cấu lao động Yếu tố xã hội bao gồm sở thích, hành vi, nghề nghiệp hứng thú và hoàn cảnh gia đình cũng góp phần ảnh hưởng tới sự dịch chuyển của cung lao động. Đối với quan niệm nam nữ bình đẳng, người phụ nữ có quyền tham gia vào các công việc của xã hội thì cơ cấu lao động chia theo giới tính sẽ thay đổi, lực lượng lao động là nữ giới sẽ tăng lên. Hoặc hoàn cảnh gia đình khó khăn, trẻ em không được đến trường, đời sống thấp là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng cung lao động. Đồng thời sự tiêu dùng của dân cư là yếu tố ảnh hưởng tới cầu lao động. Khi những nhân tố khác không đổi thì sự thay đổi cầu một loại sản phẩm đang được sản xuất, sẽ làm thay đổi cầu lao động. Vì khi nhu cầu tiêu dùng của khách hàng về một loại hang hóa nào đó tăng, tức là cầu sản phẩm tăng, làm cho giá trị sản phẩm có xu hướng tăng, giá trị sản phẩm biên tăng mặt khác cần phải sản xuất ra khối lượng sản phẩm đó nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu của thị trường nên phải thu hút thêm lao động vào sản xuất sản phẩm đó, do vậy mà người chủ sẽ quyết định thuê lao động. Dẫn đến cơ cấu cầu lao động giữa các ngành, nghề sẽ thay đổi. Các chương trình phúc lợi xã hội, các chế độ, chính sách, quy định của nhà nước cũng góp phần làm tăng chất lượng của đội ngũ lao động. Mặt khác với các chính sách như giảm mức sinh, khuyến khích kế hoạch hóa gia đình, quy đinh độ tuổi lao động sẽ làm cho cung lao động giảm về số lượng và tỷ lệ lực lượng lao động trẻ trong toàn bộ cung lao động sẽ giảm xuống. Tuy nhiên các chính sách như quy định về bảo đảm việc làm cho người lao động, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chính sách quy định ngày giờ làm việc… Các chế độ và chính sách này làm thay đổi số lao động mà doanh nghiệp mong muốn. Do vậy mà nó cũng ảnh hưởng tới cầu lao động. Các nguồn lực và lợi thế so sánh là cơ sở để hình thành cơ cấu kinh tế một cách hợp lý. Dựa vào nguồn lực và lợi thế so sánh để lựa chọn ngành nghề cần được đầu tư và ưu tiên phát triển, từ đó thu hút lực lượng lao động từ ngành nghề kem hiệu quả vào làm việc trong các ngành nghề đó. Làm biến đổi cơ cấu lao động theo ngành. Tình hình kinh tế là môi trường bên ngoài tác động mạnh tới cung và cầu lao động. Khi nền kinh tế phát triển, do huy động và phối hợp hợp lý các yếu tố nguồn lực như vốn, tài nguyên, công nghệ.. tạo điều kiện cho đàu tư phát triển, mở rộng sản xuất dẫn đến cầu lao động sẽ tăng lên. Mặt khác khi nền kinh tế ổn định thì tránh được tình trạng mất việc, thất nghiệp của người lao động do đó hạn chế được việc di chuyển lao động từ công việc nay sang công việc khác không phù hợp với người lao động. Mỗi sự biến động về kinh tế đều kéo theo sự biến động trong cơ cấu lao động . Khoa học công nghệ Khoa học và công nghệ cao tác động tới cơ cấu lao động theo các chiều hướng khác nhau. Một mặt sự tiến bộ của khoa học công nghệ đã giải phóng người phụ nữ ra khỏi các công việc nội trợ, tạo điều kiện cho họ tham gia vào thị trường lao động nhiều hơn. Đồng thời sự tiến bộ trong lĩnh vực hóa học, chế tạo máy móc đã giúp người nông dân giảm bớt thời gian lao động trên các cánh đồng, tăng thời gian để tìm kiếm và tham gia vào các công việc khác. Dẫn tới cơ cấu cung lao động biến đổi. Mặt khác khoa học công nghệ tác động tới cầu lao động. Khi khoa học công nghệ phát triển làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, tạo ra nhiều việc làm cần thu hút lao động dẫn đến cầu lao động tăng lên. Cuộc cách mạng công nghệ đã làm cho nhiều ngành nghề cũ, truyền thống mất đi và cũng xuất hiện nhiều ngành nghề mới; cơ cấu ngành nghề và tỷ trọng của chúng trong các lĩnh vực kinh tế cũng thay đổi nhanh chóng, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ ngày càng tăng. Điều này làm thay đổi quan hệ tỷ lệ lực lượng lao động giữa các ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân. Khoa học công nghệ còn đặt các nhà đàu tư trước sự lựa chọn các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Họ có thể chọn đầu tư nhiều vào vốn và công nghệ hoặc đầu tư thuê thêm lao động, điều này làm thay đổi cầu lao động trên thị trường lao động. 2.4 . Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế. Toàn cầu hóa đang diễn ra như một xu thế tất yếu. Trong đó toàn cầu kinh tế là sự lưu chuyển ngày càng tự do hơn và nhiều hàng hóa, vốn, công nghệ và lao động vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Toàn cầu hóa kinh tế cho phép mỗi quốc gia thu hút một lượng vốn và lao động lớn vào sản xuất đồng thời tìm kiếm những thị trường tiêu thụ nhiều tiềm năng. Do đó mà nhu cầu về lao động cũng tăng lên, lượng lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Mặt khác toàn cầu hóa tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia nhưng cũng không ít thách thức, nó làm cho cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia ngày càng quyết liệt hơn. Đối với các nhóm lao động yếu thế sẽ gặp phải vấn đề mất việc làm, bị sa thải và không có thu nhập trong bối cảnh toàn cầu hóa này. Vì vậy mà lực lượng lao động thất nghiệp sẽ có thể gia tăng và chủ yếu là ở những lao động thiếu trình độ chuyên môn. Toàn cầu hóa còn cho phép sự di chuyển của lao động, trao đổi công nghệ giữa các quốc gia. Và vì vậy mà năng xuất lao động xã hội tăng, đồng thời quy mô, cơ cấu lao động ở mỗi quốc gia sẽ thay đổi cùng với quá trình xuất khẩu lao động. Toàn cầu hóa là yếu tố tác động mạnh đến xu thế và tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động. Một mặt toàn cầu hóa kích thích năng cao chất lượng lao đông để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế, mặt khác nó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của một số ngành nghề mới ( tạo thêm nhiều việc làm ), trong đó những ngành nghề sử dụng công nghệ sẽ thu hút nhiều lao động nhất. . Sự phát triển kinh tế thị trường Cơ cấu lao động dịch chuyển dựa trên sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển kinh tế thị trường dẫn đến sự hình thành và phát triển thị trường lao động. Do đó mà người lao động có cơ hội lựa chọn việc làm, tự do chuyển đổi việc làm từ việc làm có thu nhập thấp, ít hấp dẫn sang việc làm có thu nhập cao, phù hợp hơn, từ vùng này sang vùng khác và từ khu vực kinh tế này sang khu vực kinh tế khác, từ đó dẫn tới sự dịch chuyển cơ cấu lao động. Thị trường lao động phát triển làm cho người lao động năng động hơn, là yếu tố thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động ngày càng hợp lý hơn. 3. Tính tất yếu và sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu lao động Từ nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng cung cầu lao động ở trên ta nhận thấy rằng khi các yếu tố này thay đổi nó sẽ kéo theo sự biến đổi trong cơ cấu lao động. Mà theo quy luật của sự vận động và phát triển, các yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa và khoa học công nghệ luôn biến đổi không ngừng theo hướng phát triển, đó là nguyên nhân dẫn đến sự chuyển dịch trong cơ cấu lao động. Vì thế có thể khẳng định quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình biến đổi khách quan và phù hợp với quy luật phát triển. Như chúng ta đã nghiên cứu ở trên chuyển dịch cơ cấu lao động và quá trình phát triển kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trình độ phát triển kinh tế biểu hiện mức độ dịch chuyển cơ cấu lao động nhanh hay chậm đến lượt mình chuyển dịch cơ cấu lao động đúng hướng sẽ tác động tới quá trình phát triển kinh tế xã hội, biểu hiện ở các khía cạnh sau: Chuyển dịch cơ cấu lao động sẽ thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Vì khi đó lao động ở ngành nông, lâm, ngư nghiệp sẽ bị thu hút sang các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Nhưng muốn đảm bảo sản phẩm nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu của thị trường và tiêu dùng của chính người dân thì phải áp dụng những tiến bộ khoa học vào nông, lâm, ngư nghiệp nhằm tăng năng suất lao động trong các ngành này. Từ đấy thúc đẩy lao động tiếp cận và học hỏi những ứng dụng khoa học kỹ thuật. Mặt khác khi lao động được thu hút vào các ngành công nghiệp dịch vụ thúc đẩy sản xuất chế biến nông, lâm, thủy sản tăng giá trị đầu ra cho sản phẩm nông, lâm ngư nghiệp. Đồng thời tăng lao động trong các ngành công nghiệp nhẹ như may mặc, da giầy, điện tử- tin học, và một số ngành tiểu thủ công nghiệp tạo ra cơ sở vật chất thế mạnh để phát triển nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, tăng sức cạnh tranh sản phẩm nội địa với sản phẩm nước ngoài. Chuyển dịch cơ cấu lao động sẽ giải quyết được các vấn đề tăng tiền công, thu nhập và mức sống. Lao động chuyển từ việc làm có năng suất và hiệu quả thấp sang việc làm có năng suất và hiệu quả lao động cao thì họ sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn, do đó mà mức thu nhập của họ sẽ tăng lên nên người lao động sẽ có điều kiện để cải thiện mức sống. Chuyển dich cơ cấu lao động còn ảnh hưởng đến cơ cấu lực lượnglao động thất nghiệp. Vì trước đây đại bộ phận lao động nông thôn đều làm việc trong khu vực nông nghiệp nên ai cũng có cơ hội để làm một công việc gì đó( cho dù việc làm đó có hiệu quả thấp) cũng như khả năng chia sẻ việc làm với nhau ( trong hộ gia đình) tương đối dễ dàng nên không có tình trạng người lao động hoàn toàn không có việc làm. Chính vì thế mà tỷ lệ lao động thiếu việc làm cao. Nhưng sau khi quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động được hoàn tất thì tình trạng thiếu việc làm sẽ mờ dần và biến mất thay vào đó sẽ xuất hiện một bộ phận hoàn toàn không có việc làm và trở thành thất nghiệp. Do vậy mà tỷ thất nghiệp hữu hình sẽ tăng lên. Ngoài ra chuyển dịch cơ cấu lao động còn làm tác động đến đào tạo nghề và tạo việc làm cho người lao động. Lực lượng lao động sẽ có nhu cầu đào tạo các nghề phi nông nghiệp và xuất hiện mong muốn được làm việc trong các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Do đó mà các chính sách đào tạo và tạo việc làm của nhà nước phải phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động. Kết luận Chuyển dich cơ cấu lao động là quá trình phân phối, bố trí lao động theo những quy luật, những xu hướng tiến bộ, nhằm mục đích sử dụng đầy đủ và có hiệu quả cao các nguồn nhân lực để tăng trưởng và phát triển. Tuy nhiên, quá trình đó diễn ra nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khách quan và chủ quan, nhất là chính sách, thể chế vĩ mô của nhà nước, cơ cấu đầu tư của xã hội, sự phát triển của khoa học công nghệ, sự năng động của người lao động… chính vì thế chúng ta phải nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động để tạo ra các điều kiện cần và đủ để tác động vào các yếu tố khách quan và chủ quan nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Đó cũng chính là cụ thể hóa xu hướng, bước đi và giải pháp thực hiện con đường phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa Chương II ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU Ở THANH HÓA 1. Đặc điểm của Thanh Hóa ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu lao động. 1.1. Tổng quan về Thanh Hóa. 1.1.1. Điều kiện tự nhiên. Thanh hóa nằm ở cực Bắc Miền Trung, cách Thủ đô Hà Nội 150 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.560 km. Phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp với tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp với Lào, phía Đông là Vịnh Bắc Bô. Thanh Hóa nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ, ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm trọng điểm kinh tế Trung Bộ. ở hệ thống giao thông thuận lợi như: đường sắt xuyên Việt, đường Hồ Chí Minh, các quốc lộ 1A,10, 45, 47, 217… Cảng biển nước sâu Nghi Sơn và hệ thống sông ngòi thuận tiện cho lưu thông Bắc Nam, với các vùng trong tỉnh và đi quốc tế. Địa hình Thanh Hóa rất phức tạp, vùng núi và Trung du có diện tích đất tự nhiên 869.037 ha, chiếm 75,44% diện tích toàn tỉnh thuận lợi cho việc trong việc khai thác tài nguyên gỗ, trồng rừng và nuôi giữ các loài động vật quý hiếm. Vùng đồng bằng có diện tích đất tự nhiên là 162.341 ha, chiếm 14,61% diện tích toàn tỉnh, được bổi tụ bởi các hệ thống Sông Mã, sông Yê và sông Hoạt. Ngoài ra vùng ven biển Thanh Hóa có diện tích 110.655 ha, chiếm 9,95% diện tích toàn tỉnh, với bờ biển dài 102 km, địa hìn tương đối bằng phẳng. Chạy dọc theo bờ biển là các cửa sông. Vùng đất cát ven biển có độ cao trung bình 3 – 6m có bãi tắm Sầm Sơn nổi tiếng và các khu nghỉ mát khác như Hải Tiến( Hoằng Hóa) và Hải Hòa ( Tĩnh Gia) ..; có những vùng đất đai rộng lớn thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản và phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ kinh tế biển. Thanh Hóa nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 4 mùa rõ rệt, lượng mưa lớn, nhiệt độ cao, ánh sáng dồi dào là điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Thanh Hóa được coi là một tỉnh giàu tiềm năng phát triển với nhiều lợi thế về tài nguyên và khoáng sản. Với có 296 mỏ và điểm khoáng sản gồm 42 loại khác nhau, nhiều loại có trữ lượng lớn so với cả nước như: Đá granit và marble ( trữ lượng 2 – 3 tỉ m3) đá vôi làm xi măng( trên 370 triệu tấn), sét làm xi măng ( 85 triệu tấn), crôm ( khoảng 21 triệu tấn), quặng sắt( 2 triệu tấn), secpentin (15 triệu tấn), đôlômit (4,7 triệu tấn), ngoài ra còn có vàng sa khoáng và các loại khoáng sản khác. 1.1.2. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật Kết cấu hạ tầng giao thông vận tải: Thanh Hóa có hệ thống giao thông thuận lợi cả về đường sắt, đường bộ và đường thủy. Tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua địa bàn Thanh Hóa dài 92 km với 9 nhà ga, thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa và hành khách Đường bộ có tổng chiều dài trên 8.000 km, bao gồm hệ thống quốc lộ quan trọng như : quốc lộ 1A, quốc lộ 10 chạy qua vùng đồng bằng ven biển, đường chiến lược 15A, đường Hồ Chí Minh xuyên suốt vùng trung du và miền núi; quốc lộ 45,47 nối các huyện đồng bằng ven biển với vùng miền núi, trung du của tỉnh, quốc lộ 217 nối liền Thanh Hóa với tinh Hủa Phăn của Lào. Thanh Hóa có hơn 16.000 km đường sông, trong đó có 487 km đã được khai thác cho các loại phương tiện có sức chở từ 20 đến 1.000 tấn. Cảng Lễ Môn cách trung tâm thành phố Thanh Hóa 6 km với năng lực thông qua 300.000 tấn/ năm, các tàu có trọng tải 600 tấn cập bến an toàn. Cảng biển nước sâu Nghi Sơn có khả năng tiếp nhận tàu trên 5 vạn tấn, hiện nay đang được tập trung xây dựng thành đầu mối về kho vận và vận chuyển quốc tế Hệ thống điện Mạng lưới cung cấp điện của Thanh Hóa ngày càng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo cung cấp điện ổn định cho sản xuất và sinh hoạt. Hiện tại điện lưới quốc gia đã có 508 km đường dây điện cao thế; 3.908 km đường điện dây trung thế, 4.229 km đường dây hạ thế; 9 trạm biến áp 110/35/6 -10 kv; 38 trạm trung gian; 2.410 trạm phân phối. Năm 2005, điện năng tiêu thụ trên 1,2 triệu Kwh. Đến nay, 27/27 huyện, thị, thành phố với 94% số xã phường và 91% số hộ được dung điện lưới quốc gia.Tiềm năng phát triển thủy điện tương đối phong phú và phân bố đều trên các sông với công suât gần 800 MW. Hệ thống bưu chính viễn thông Trong những năm qua, hệ thống bưu chính viễn thông của Thanh Hóa đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thông tin liên lạc trong tỉnh, trong nước và quốc tế với các phương thức hiện đại như telex, fax, internet. Hiện nay, có 598/ 636 xã phường thị trấn có điện thoại, đạt tỷ lệ 94%; mạng di động đã phủ sóng được 26/27 huyện, thị, thành phố. Tốc độ phát triển máy diện thoại hằng năm tăng nhanh, năm 2005 đạt bình quâ 5,9 máy điện thoại / 100 người dân, tháng 6 năm 2006 đạt 8,69 máy điện thoại/ 100 dân. Hệ thống cấp nước Hệ thống cung cấp nước ngày càng được mở rộng, đáp ứng yêu cầu cho sinh hoạt và sản xuất, nhất là khu vực thành phố, thị xã, thị trấn và các khu công nghiệp. Nhà máy nước Mật Sơn và Hàm Rồng với công suất 30.000 m3/ ngày đêm, đang chuẩn bị mở rộng lên 50.000 m3/ ngày đêm đảm bảo cấp nước sạch đủ cho thành phố Thanh Hóa, thị xã Sầm Sơn và các khu công nghiệp Lễ Môn, Đình Hương. Tỉnh đang áp dụng triển khai xây dựng nhà máy cấp nước cho khu kinh tế Nghi Sơn và các thị trấn cấp huyện. đảm bảo các cơ sở sản xuất kinh doanh đều được cung cấp đủ nước theo yêu cầu. 1.1.3. Tình hình phát triển kinh tế chính trị, văn hóa và xã hội. Diện tích và Dân số Tính tới năm 2006 Thanh Hóa có 3,6466 triệu người; có 7 dân tộc anh em sính sống, đó là: Kinh, Mường, Thái, Dao, Thổ, Hoa, H’Mông. Các dân tộc ít người sống chủ yếu ở các huyện vùng núi cao và biên giới. Với diện tích là 1116,3 km2 , gồm 27 huyện, thị, thành phố và 636 xã phường, thị trấn. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu thời kỳ 2001 – 2005 Tốc độ tăng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0076.doc
Tài liệu liên quan