Phần mở đầu
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết vĩ mô của nhà nước theo định hướng XHCH là một tất yếu khách quan đối với Việt Nam, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập, toàn cầu hiện nay. Thực tế hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều bước phát triển vượt bậc: sản xuất hàng hoá phát triển, tốc độ tăng trưởng cao, đời sống nhân dân không ngừng tăng lên... Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì cơ chế thị trườn
40 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp chống hàng giả & gian lận thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cũng có rất nhiều mặt tiêu cực mà người ta hay gọi nó là "mặt trái của cơ chế thị trường". Một trong những mặt tiêu cực đó là nạn hàng giả và gian lận thương mại.
Nói đến hàng giả có lẽ không ai trong chúng ta là không biết tới và thậm chí cũng đôi ba lần là nạn nhân của hàng giả. Hiện nay hàng giả vẫn ngang nhiên chen vai hích cánh cùng hàng thật ở mọi lúc, mọi nơi, bất kỳ một thứ gì cũng có nguy cơ bị làm giả từ hàng tiêu dùng, vật tư cho đến thuốc chữa bệnh... Hàng giả gây tác hại trực tiếp cho con người như ảnh hưởng an toàn tính mạng, an toàn sức khoẻ, và nguy hại hơn là làm mất uy tín của nhà sản xuất kinh doanh. Do đó hàng giả vẫn đang là vấn đề bức xúc với các cơ quan nhà nước, nỗi lo của nhà sản xuất kinh doanh và sự bất bình của người tiêu dùng.
Gian lận thương mại là một hành vi vi phạm pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng đối với xã hội, rất nhiều kẻ vì ham tiền đã tìm mọi thủ đoạn buôn gian, bán lận, lừa bịp người khác để thu lợi bất chính làm thất thu ngân sách nhiều tỷ đồng làm cho nhiều doanh nghiệp dở khóc dở cười thậm chí bị phá sản vì bị lừa. Thật đáng lo khi mà số vụ gian lận thương mại ngày một gia tăng và thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn.
Thực tế những hậu quả do nạn hàng giả và gian lận thương mại gây ra là hết sức nghiêm trọng do đó đặt ra cho chúng ta một yêu cầu cấp bách là phải tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất để diệt trừ tận gốc nạn hàng giả và gian lận thương mại. Và đó cũng chính là lý do mà em nghiên cứu đề tài này.
Do điều kiện hiểu biết cũng như kinh nghiệm có hạn do đó trong đề tài sẽ không tránh khỏi sai sót nếu không có sự giúp đỡ của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn!
Kết cấu của đề tài bao gồm:
- Chương I: Cơ sở lý luận về hàng giả và gian lận thương mại.
- Chương II: Thực trạng nạn hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam thời gian qua.
- Chương III: Giải pháp chống hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam.
Chương I
Cơ sở lý luận về hàng giả và gian lận thương mại.
I. Tổng quan về hàng giả và gian lận thương mại
I.1. Hàng giả
I.1.1. Khái niệm hàng giả.
Việc đưa ra một khái niệm chính xác, đầy đủ và dễ hiểu về hàng giả là một điều hết sức quan trọng. Bởi vì trước hết ta phải hiểu hàng giả là gì thì ta mới có thể có những biện pháp để chống lại nó.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về hàng giả do các nhà nghiên cứu có những quan điểm, khác nhau về hàng giả. Tuy nhiên ở Việt Nam chúng ta chỉ nghiên cứu hàng giả với hai khái niệm chủ yếu sau:
- Khái niệm 1: Trong bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá VII thông qua tại kỳ họp thứ 9 ngày 27/6/1985, có hiệu lực từ ngày 1/1/1986 quy định tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả tại điều 167. "Hàng giả là loại hàng có giá trị và giá trị sử dụng không đúng với tên gọi của nó, không đúng với tiêu chuẩn đã quy định của Nhà nước trong việc sản xuất các loại hàng hoá hoặc sử dụng trái phép nhãn hiệu của một cơ sở sản xuất khác".
- Khái niệm 2: Trong điều 3 Nghị định số 140/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 25/4/1991 nêu rõ: Hàng giả là những sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra trái pháp luật và có hình dạng giống như những sản phẩm, hàng hoá được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường, hoặc những sản phẩm hàng hoá không có giá trị sử dụng đúng với bản chất tự nhiên tên gọi và công dụng của nó, là loại sản phẩm hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giống hệt hoặc tương tự có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với sản phẩm hàng hoá thực mà có cơ sở sản xuất kinh doanh đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hoặc được bảo hộ theo điều ước quốc té mà Việt Nam có tham gia.
Hiện nay ta thống nhất dùng loại khái niệm thứ 2 này trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả.
Khái niệm này đã đáp ứng được yêu cầu đầy đủ, dễ hiểu tuy nhiên để có nhận thức đầy đủ và có một bức tranh tổng quan về hàng giả ta cũng cần phải nghiên cứu bản chất của sản xuất và buôn bán hàng giả và các dạng hàng giả.
I.1.2. Bản chất của sản xuất và buôn bán hàng giả
Bản chất của sản xuất và buôn bán hàng giả là hành vi cướp đoạt giá trị vật chất và tinh thần của người khác, lừa dối người tiêu dùng để thu lợi bất chính.
Sản xuất và buôn bán hàng giả là hành vi cướp đoạt giá trị vật chất và giá trị tinh thần của người khác điều này được thể hiện rất rõ đối với mọi loại hàng giả. Đã là hàng giả thì bao giờ chất lượng cũng kém hơn so với hàng thật, thậm chí có những loại hàng giả có độc tố ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ sinh mạng của người tiêu dùng. Chính vì vậy số tiền mà người tiêu dùng bỏ ra và giá trị sử dụng công dụng của hàng giả không tương xứng với nhau.
Để cướp đoạt được giá trị vật chất và giá trị tinh thần của người khác bọn sản xuất và buôn bán hàng giả dùng rất nhiều thủ đoạn để lừa dối che mắt người tiêu dùng để thu lợi bất chính. Chúng chủ yếu dựa vào sự thiếu hiểu biết của khách hàng để lừa dối như hàng nội giá ngoại ăn cắp sử dụng nhãn mác của sản phẩm nổi tiếng làm cho người tiêu dùng thường là bị động trước những trò lừa dối ngày càng tinh vi của bọn chúng.
I.1.3. Những dấu hiệu để nhận biết hàng giả.
I.1.3.1. Dấu hiệu của hàng giả
Có những loại hàng giả khi mua đem sử dụng ta có thể biết ngay nhưng có những sản phẩm làm giả rất khó nhận biết vì tính năng sử dụng bị giảm sút khó phân biệt hoặc mức độ ảnh hưởng của nó dai dẳng, ngấm ngầm. "Trong điều kiện hiện nay công tác chống hàng giả cần tập trung vào những hàng hoá bị làm giả ở những dấu hiệu sau:
- Sản xuất và sử dụng nhãn giả và bao bì mang nhãn hiệu giả hoặc sử dụng nhãn của người khác, của cơ sở sản xuất khác mà không được phép của chủ nhãn (bao gồm nhãn sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá và dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam).
- Hàng hoá không có giá trị sử dụng, không đúng với nguồn gốc bản chất tên gọi công dụng của nó hoặc có mức chất lượng dưới mức tối thiểu do Nhà nước quy định nhằm đánh lừa gây thiệt hại cho người tiêu dùng nhằm thu lợi bất chính.
(Trong Điều 4. Nghị định số 140/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng 25/4/1991).
I.1.3.2. Phân biệt giữa hàng giả và hàng kém chất lượng
Sản phẩm hàng hoá có mức chất lượng thấp hơn mức chất lượng đã đăng ký và ghi nhãn sản phẩm (ê-tihét) song chưa vi phạm mức chất lượng tối thiểu thì chưa bị coi là hàng giả mà chỉ là những hàng kém chất lượng. Những hàng hoá này được xử lý theo Nghị định số 327/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành pháp lệnh chất lượng hàng hoá.
Việc phân biệt giữa hàng giả và hàng kém chất lượng là rất quan trọng trong công tác chống hàng giả bởi có phân biệt ta mới biết đâu là hàng giả, đâu làm hàng kém chất lượng để xử lý đúng người đúng tội theo đúng quy định và luật pháp của nhà nước.
I.1.3.3. Mức chất lượng tối thiểu.
Mức chất lượng tối thiểu là mức chất lượng (chủ yếu là các chỉ tiêu liên quan đến an toàn, vệ sinh và môi trường) được cơ quan nhà nước có thẩm quyền (như Uỷ ban Khoa học Nhà nước, Bộ Y tế, Bộ Lao động Thương binh và xã hội) quy định dưới dạng tiêu chuẩn hoặc văn bản quy định khác. Những hàng hoá có mức chất lượng dưới mức tối thiểu thì bị coi là hàng giả và bị xử lý theo Nghị định số 140 - HĐBT.
I.1.4. Phân loại hàng giả
Có rất nhiều tiêu thức khác nhau làm căn cứ để phân loại hàng giả, một trong những tiêu thức đó là phân loại theo hàng hoá sản xuất trong nước hay nước ngoài. Với căn cứ đó hàng giả được xem xét dưới những dạng sau: - Nội giả nội như xe đạp VIHA, diêm thống nhất, thuốc lá Du lịch, Vinataba, xà phòng, xi măng, nước mắm, thóc giống, quần áo, bia, rượu, thuốc tân dược giả.
- Nội giả ngoại như các rượu Henessy, Johnie Walker, Remy Mar-tin, phụ tùng xe máy, xe đạp, thuốc lá...
- Giả sản phẩm của liên doanh với nước ngoài như mỳ chính, nước khoáng Lavie.
- Ngoại giả ngoại: như mỳ chính Ajnomoto, máy điện thoại Nukio, băng hình, đĩa CD...
- Ngoại giả nội: như thuốc bảo vệ thực vật do nước ngoài sản xuất, giả nhãn mác Việt Nam...
Ngoài ra, người ta cũng có thể phân loại theo hình thức của hàng giả: - Hàng giả sử dụng nhãn mác bao bì của hàng thật, loại hàng giả này rất nguy hiểm với người tiêu dùng vì thường là phải sử dụng rồi mới biết là thật hay giả.
- Hàng giả nhái theo kiểu dáng của hàng thật. Loại hàng giả n ày dễ nhận biết hơn nhưng hiện nay lại phổ biến trên thị trường do người tiêu dùng không có những hiểu biết đầy đủ về hàng hoá định mua.
I.2. Gian lận thương mại
I.2.1. Khái niệm
Gian lận thương mại là một thuật ngữ mà cho đến nay rất ít người hiểu về nó một cách đầy đủ thậm chí ta cũng không thể tìm thấy một khái niệm cụ thể nào về gian lận thương mại trong các văn bản pháp luật của nhà nước. Thuật ngữ này đang được tranh luận gay gắt về khái niệm cũng như nội hàm của nó.
Để đưa ra được một khái niệm về gian lận thương mại ta phải quay trở về với lịch sử ra đời của thuật ngữ này. Gian lận thương mại theo từ điển tiếng Việt là "dối trá, lừa lọc"(1), trong hoạt động thương mại. Người có hành vi gian lận thương mại gọi là "gian thương" tức là "người có nhiều mưu mô lừa lọc", "kẻ buôn bán gian lận và trái phép"(2).
Gian lận thương mại được coi là hành vi của con người cụ thể có lời nói hoặc cử chỉ hành động không đúng với bản chất của sự vật hiện tượng nhằm mục đích đánh lừa người khác. Trong dân gian, gian lận thương mại gắn liền với thành ngữ "buôn gian, bán lận" và dùng để chỉ những thủ đoạn mánh khoé lừa lọc khách hàng hoặc người khác để thu lợi bất chính. Hành vi "buôn gian, bán lận" trong dân gian được hiểu bao gồm một số thủ đoạn đơn giản như: hàng xấu nói tốt, ít nói nhiều, rẻ nói đắt, cân đo điêu, buôn bán hàng cấm lén lút, giấu giếm, lậu thuế...
Từ sự phân tích trên, theo tôi, gian lận thương mại có thể hiểu là "hành vi có ý gian dối trong khai báo hải quan".
I.2.2. Các loại hình gian lận thương mại.
Tại Hội nghị của tổ chức Hải quan quốc tế về chống gian lận thương mại được tổ chức từ ngày 9 đến ngày 13-10-1995 ở Brúcxen (Bỉ) đã thống nhất phân chia các hình thức gian lận thương mại thành 16 loại:
1) Buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát của hải quan (thí dụ: buôn bán động vật quý hiếm, sản phẩm văn hoá,...)
2) Khai báo sai chủng loại hàng hoá.
3) Khai tăng, giảm trị giá hàng hoá.
4) Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ hàng hoá (thí dụ, Nhà nước ta có chính sách ưu đãi về thuế đối với hàng hoá của các nước ASEAN).
5) Lợi dụng chế độ ưu đãi đối với hàng gia công.
6) Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập (đây là hàng hoá được miễn thuế XNK nhưng đã sử dụng sai mục đích).
7) Lợi dụng các yêu cầu về giấy phép về XNK (thí dụ các loại giấy phép theo nhu cầu chuyên ngành như hàng cho an ninh, quốc phòng; cho y tế, văn hoá, xã hội,...).
8) Lợi dụng chế độ quá cảnh đem dùng trong nước (thí dụ: hàng của Lào, Trung Quốc vận chuyển qua lãnh thổ Việt Nam).
9) Khai báo sai về số lượng, chất lượng hàng hoá.
10) Lợi dụng chế độ mục đích sử dụng buôn bán trái phép hàng hoá được ưu đãi về thuế nhập khẩu dành cho những đối tượng sử dụng nhất định (thí dụ: hàng cho đồng bào bị lũ lụt; cho các dân tộc miền núi để xoá đói giảm nghèo, hàng cho các cơ quan ngoại giao,...).
11) Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại, hoặc quy định bảo vệ người tiêu dùng.
12) Buôn bán hàng giả, hàng ăn cắp mẫu mã.
13) Buôn bán hàng không có sổ sách.
14) Làm giả làm khống việc hoàn hay truy hoàn thuế hải quan (thí dụ: làm giả chứng từ về hàng đã xuất...)
15) Kinh doanh "ma", doanh nghiệp ma đăng ký kinh doanh bất hợp pháp nhằm hưởng tín dụng thuế trái phép.
16) Thanh lý phá sản có chủ đích để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế (thí dụ: công ty đăng ký kinh doanh một thời gian ngắn, nợ thuế rồi tuyên bố phá sản), loại gian lận này thường được gọi là "Hội chứng phượng hoàng".
I.2.3. Phân biệt giữa gian lận thương mại và
Gian lận thương mại và buôn lậu là hai khái niệm khác nhau. Tuy nhiên một thức tế hiện nay là hai khái niệm này chưa được tách bạch. Phân biệt rõ ràng và và chúng vẫn luôn tồn tại bên nhau trong nhận thức xã hội. Thực tế đó đặt ra yêu cầu là phải phân định rõ ranh giới giữa hai khái niệm này để tránh tình trạng xử lý tuỳ tiện, buông lỏng bỏ lọt tội phạm, đảm bảo xử lý nghiêm minh đúng người đúng tội, đúng pháp luật làm hậu thuẫn tích cực cho công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Tuy gian lận thương mại không phải là một tội danh trong luật hình sự, nhưng các dấu hiệu đặc trưng của nó lại trùng hợp với buôn lậu. Một bộ phận của gian lận thương mại là buôn lậu, và buôn lậu cũng bao gồm gian lận thương mại. Từ thực tiễn đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại, chúng ta có đủ cơ sở pháp lý để phân định ranh giới giữa hai "tội danh" này.
Trong điều 97 Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận tội danh buôn lậu "Buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá...". Tính "trái phép" ở đây được thể hiện rõ: không chấp hành các quy định xuất khẩu, nhập khẩu của nhà nước, không khai báo hải quan hoặc khai báo gian dối, giả mạo giấy tờ; giấu giếm hàng hoá, tiền tệ... không có giấy tờ hợp lệ của các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước (thương mại, hải quan, ngân hàng, văn hoá...) không đi qua các cửa khẩu quy định, cố tình trốn tránh sự kiểm tra kiểm soát của hai quan hoặc cơ quan chức năng cửa khẩu, trốn thuế, lậu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các sắc thuế khác có liên quan.
Như vậy sự khác nhau cơ bản giữa gian lận thương mại và buôn lậu là: Buôn lậu trước hết phải là hành vi gian lận thương mại nhưng ở mức cao hơn, tính chất nghiêm trọng hơn. Trong khi gian lận thương mại là việc cố ý làm trái các quy định của pháp luật, lợi dụng sự sơ hở của luật pháp để thực hiện hành vi gian dối, lừa gạt người khác nhằm thu lợi bất chính.
Về phạm vi, khái niệm gian lận thương mại bao gồm 16 hành vi đã nêu do đó rộng hơn khái niệm buôn lậu.
Về mức độ nhận biết, hành vi buôn lậu dễ nhận thấy, dễ phát hiện trong khi hành vi gian lận thương mại khó phát hiện, nhiều khi hành vi này được núp dưới vỏ bọc rất hợp pháp, hợp lệ.
Về việc xử lý, xử lý hành vi buôn lậu dễ dàng hơn do đã có quy định cụ thể rõ ràng về các hình thức xử lý và các mức xử lý. Còn đối với việc xử lý hành vi gian lận thương mại là rất khó khăn. Nguyên nhân chính của hiện tượng này lại chính là do chưa phân định rõ ranh giới giữa buôn lậu và gian lận thương mại.
II. Nguyên nhân của nạn hàng giả và gian lận thương mại.
II.1. Nguyên nhân hay động cơ của nạn sản xuất và buôn bán hàng giả.
Nền kinh tế nước ta đi vào xây dựng và phát triển trên cơ sở một nền sản xuất nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu kéo dài, trình độ dân trí nói chung còn thấp, nhất là tri thức về pháp luật. Đại bộ phận dân cư sống còn mang nặng lối suy nghĩ cá nhân hẹp hòi chỉ nhìn thấy cái lợi thiển cận. Có khi chỉ vì cái lợi không đáng là bao mà họ vẫn sẵn sàng làm hàng giả ảnh hưởng đến tính mạng, sức khoẻ của bao nhiêu người khác. Thêm vào đó là cơ chế thị trường, nền kinh tế chuyển hướng dựa trên cơ sở phát triển nhiều thành phần, chấp nhận sự cạnh tranh. Đó là một nguyên nhân, một điều kiện cho tện nạn làm hàng giả phát triển.
II.2. Nguyên nhân hay động cơ dẫn đến gian lận thương mại.
Có nhiều nguyên nhân (động cơ) thúc đẩy hành vi gian lận thương mại. Nhưng nói chung động cơ chủ yếu đó là chủ hàng hay những người có hành vi gian lận thương mại muốn thu lợi riêng cho bản thân mình và không muốn làm nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, chẳng hạn như:
- Trốn thuế xuất nhập khẩu.
- Trốn tránh các thuế nội địa.
- Nhập hoặc xuất những mặt hàng cấm để thu lợi.
III. Tác động của hàng giả và gian lận thương mại.
III.1. Tác động đến nền kinh tế.
1. Tác động của hàng giả đến nền kinh tế.
Hàng giả là hành vi vi phạm pháp luật có tính chất nghiêm trọng đối với toàn xã hội. Việc sản xuất và buôn bán hàng giả ngày càng gia tăng đều trực tiếp hay gián tiếp gây ra những hậu quả xấu đối với nền kinh tế. Một tác động điển hình là nạn hàng giả làm giảm hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đặc biệt là với những loại hàng giả thuộc dạng nội giả ngoại này càng nhiều hơn làm cho các doanh nghiệp, các chủ đầu tư nước ngoài không dám bước chân vào thị trường Việt Nam.
Hàng giả còn ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước. Thông qua sự tác động tới các doanh nghiệp Nhà nước, hàng giả làm thiệt hại ngân sách hàng tỷ đồng. Thêm vào đó ngân sách Nhà nước luôn phải chi ra những khoản tiền tương đối lớn cho công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Và như vậy hàng giả sẽ luôn là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước nếu như chúng ta không có những biện pháp mạnh để chặn đứng hành vi này.
2. Tác động của gian lận thương mại đến nền kinh tế.
Như chúng ta đã biết động cơ chủ yếu của các hành vi gian lận thương mại là chốn thuế. Chính vì lẽ đó mà gian lận thương mại làm cho Nhà nước thất thu thuế lớn, làm ảnh hưởng đến quá trình tích luỹ vốn của Nhà nước để cân đối thu chi ngân sách, để đầu tư cho quá trình CNH HĐH đất nước. Khi ngân sách mất cân đối Nhà nước sẽ phải cắt giảm các chương trình, dự án. Các chính sách kinh tế, tài chính ít nhiều cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Do đồ ngoại trốn thuế rất rẻ cho nên, gian lận thương mại đã tạo ra sự mất ổn định về giá cả, gây rối loạn thị trường nội địa, gây ách tắc cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
III.2. Tác động của hàng giả và gian lận thương mại đến các doanh nghiệp
1. Tác động cảu hàng giả đến các doanh nghiệp.
Những sản phẩm hàng hoá có uy tín là kết quả của quá trình nghiên cứu đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, quảng cáo tiếp thị, có sản phẩm mang tính gia truyền hoặc xuất xứ ở những vùng có điều kiện đặc thù mà trở nên nổi tiếng. Hàng giả được làm giống hệt hoặc tương tự hàng thật nhưng không phải đầu tư vào những công việc trên cho nên chi phí sản xuất thấp vì vậy dễ thu được lợi nhuận cao, có "lợi thế cạnh tranh" cao.
Cuộc "cạnh tranh" không cân sức này đã làm hàng thật điêu đứng, các doanh nghiệp luôn có nguy cơ đứng bên bờ vực của sự phá sản. Bởi vì:
Thứ nhất: hàng giả rẻ hơn và bán được nhiều (khi người tiêu dùng chưa biết là hàng giả) do đó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh số bán của các doanh nghiệp. Doanh số bán của doanh nghiệp sẽ liên tục giảm, hàng hoá tồn đọng không tiêu thụ được dẫn đến ứ đọng vốn, nợ ngày một nhiều và nếu cứ kéo dài tình trạng này thì tất yếu doanh nghiệp sẽ bị phá sản.
Thứ hai: khi người tiêu dùng biết có hàng giả thì doanh nghiệp cũng bị mất uy tín và khách hàng có thể không mua nữa (VD: Mì chính Ajinomoto) và doanh nghiệp bị đẩy vào nguy cơ phá sản.
2. Tác động của gian lận thương mại đối với các doanh nghiệp.
Cũng giống như hàng giả, hàng hoá gian lận sẽ có chi phí thấp do chốn được thuế do đó "tính cạnh tranh" cao hơn đặc biệt là cạnh tranh bằng giá cả. Điều đó làm cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính nếu có cạnh tranh được thì cũng bị thiệt hại nặng nề, tuy nhiên đa phần là không cạnh tranh được và kết quả có thể dẫn tới phá sản.
III.3. Tác động của hàng giả và gian lận thương mại đến người tiêu dùng.
1. Tác động của hàng giả đến người tiêu dùng.
Hàng giả luôn là nỗi kinh hoàng cho mỗi người tiêu dùng, bất kỳ ai cũng có thể là nạn nhân của hàng giả và nó có thể ảnh hưởng đến sinh mạng, sức khoẻ của người tiêu dùng.
Nguy hiểm nhất trong số các loại hàng giả phải kể đến là thuốc chữa bệnh. Nhiều bệnh nhân mua phải thuốc giả giá thì đắt mà bệnh vẫn hoàn bệnh, thậm chí bệnh còn nặng thêm và gây chết người. Với người nông dân hàng giả làm cho họ dở khóc dở cười, tiền mất tật mang khi mua phải phân bón, thuốc trừ sâu giả... Và còn rất nhiều những hậu quả mà hàng giả gây ra cho người tiêu dùng mà trong phạm vi bài viết này không thể liệt kê hết được. Nhưng qua đó chúng ta cần phải biết rằng tron khi chúng ta đang "loay hoay" tìm những biện pháp chống hàng giả từ người tiêu dùng đang hàng ngày hàng giờ phải "chung sống" với hàng giả và đang phải hứng chịu những hậu quả do hàng giả gây ra.
2. Tác động của gian lận thương mại đến người tiêu dùng.
Gian lận thương mại gây ra tình trạng hàng ngoại tràn ngập vào thị trường nội địa với giá rẻ tạo ra tâm lý ưa dùng hàng ngoại cho người tiêu dùng. Tuy nhiên nguồn hàng này là không ổn định và rất bấp bênh cho nên nó luôn tạo ra những cơn sốt về hàng hoá và giá cả.
Hơn nữa những người tiêu dùng không khỏi lo ngại khi trên thị trường lại có những hàng ngoại nhập có tính chất đồi truỵ, phản động... có thể ảnh hưởng đến con em mình...
Chương II
Thực trạng nạn hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam thời gian qua
I. Thực trạng nạn hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam
I.1. Thực trạng sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam thời gian qua.
I.1.1. Những loại hàng hoá hay bị sản xuất giả ở Việt Nam.
Thời bao cấp, hàng giả hầu như ít có đất phát triển bởi sản phẩm sản xuất theo chỉ tiêu do các cơ quan sản xuất thuộc lĩnh vực quốc doanh và khu vực tập thể đảm nhiệm. Cung không đủ cầu nên họ không phải lo cải tiến mẫu mã, không cần thiết thị hiếu của khách hàng, không phải lo tiếp thị thị trường mà chỉ lo hoàn thành kế hoạch trên giao. Người tiêu dùng hầu như không có quyền lựa chọn, không cần mặc cả về giá. Vì vậy hàng giả khó "chen chân".
Song từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá phát triển nhưng cũng là những mảnh đất có đủ "độ ẩm" "nhiệt độ"... thích hợp cho hàng giả phát triển, từ những mặt hàng cao cấp đắt tiền như đá quý, vàng bạc, rượu ngoại, nước hoa, mỹ phẩm... đến các mặt hàng chuyên dụng như tân dược, thuốc trừ sâu, phân bón... rồi đến các mặt hàng điện tử như các thiết bị điện tử, đĩa CD... rồi đến các mặt hàng công nghiệp như máy bơm nước, các phụ tùng ôtô, xe máy... tiếp đến là các mặt hàng vật liệu xây dựng (sắt, thép, xi măng...). Các mặt hàng may mặc, giầy dép và cả đến các loại hàng thông dụng, rẻ tiền như viên phấn, giấy vệ sinh.... Nhưng có lẽ nhiều nhất vẫn là mặt hàng thực phẩm, đồ uống.
Hiện nay trên thực tế hàng giả tồn tại ở khắp mọi nơi với hầu hết các loại hàng hoá. Chỉ cần thị trường có nhu cầu mà khả năng làm được thì đều có nguy cơ bị làm hàng giả.
I.1.2. Những thủ đoạn làm hàng giả.
Hàng giả trên thị trường phổ biến là sử dụng nhãn mác bao bì của hàng thật, nhái theo kiểu dáng của hàng thật trong nước và ngoài nước trong khi đó ruột lại là hàng giả (VD: rượu, bia, nước hoa,...).
Theo thống kê thời gian qua các vi phạm này chủ yếu về sở hữu công nghiệp chiếm gần 75%, về kiểu dáng công nghiệp chiếm gần 25%.
Mấy năm gần đây còn thấy xuất hiện một số loại hàng sản xuất từ nước ngoài mang nhãn mác hàng nội nhập vào để trà trộn tiêu thụ trong nước chủ yếu là những mặt hàng có chất lượng được người tiêu dùng ưa chuộng như quạt bàn, giày dép... Vừa qua, lực lượng cảnh sát kinh tế Hà Nội, Thái Bình, Thừa Thiên - Huế... còn phát hiện một loại hàng giả là những túi nilon in mác nhãn bột ngọt Ajinomoto được nhập qua đường biên giới phía Bắc vào để bán cho những ổ nhóm làm bột ngọt giả.
Đáng chú ý còn có hình thức liên doanh làm hàng giả như trường hợp Công ty Golden Desire (Hồng Kông) liên doanh với Công ty LOTABA và Công ty KHATACO với hình thức Công ty Golden Desire đưa nguyên vật liệu vào để sản xuất thuốc lá Malbro giả, Công ty Golden Desire chịu trách nhiệm tiêu thụ ra nước ngoài, Công ty LOTABA và Công ty KHATOCO nhận tiền gia công từ 8 đến 16 USD/thùng (500 bao)... Liên doanh này đã sản xuất tiêu thụ trên 20 triệu bao mới bị phát hiện...
Nguy hại là loại hàng giả độc hại mà bọn tội phạm không cần biết đến tính mạng người sử dụng, chỉ vì lợi nhuận, bọn chúng làm những loại hàng giả gây tác hại trực tiếp đến sức khoẻ của người tiêu dùng như pha thuốc trừ sâu, phân đạm urê vào rượu để tăng nồng độ rượu (alcol), dùng da trâu nhựa đường nấu làm cao hổ cốt, cao khỉ toàn tính, dùng phẩm hồng hoà vào nước máy giả làm thuốc bổ B12...
Ngoài cách bắt chước mẫu mã, kiểu dáng, bọn tội phạm còn dùng thủ đoạn bày bán cùng với hàng thật, đưa vào các cửa hàng, thậm chí cả siêu thị. Đa số các vụ sản xuất hàng giả thường là ở quy mô nhỏ, khép kín trong gia đình hoặc một số ít người đảm bảo từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ. Phương tiện sản xuất thô sơ, đơn giản... tổ chức sản xuất không thừ xuyên, không liên tục, thường là theo thời vụ, thấy thị trường khan hiếm, tiêu thụ dễ, có lợi mới tổ chức sản xuất.
Để che dấu hành vi phạm pháp và dễ dàng phi tang khi bị kiểm tra, từ sản xuất tập trung, quy mô bọn làm hàng giả đã chuyển sang phân tán và chia nhỏ công đoạn, làm tới đâu tiêu thụ ngay tới đó, sản xuất ở các hẻm sâu, vùng ven đô, gần bờ ao, sông, rạch v.v.. Mặt khác để tiêu thụ được, với kỹ thuật tinh vi làm cho hàng giả giống hệt, hoặc tương tự làm cho hàng giả giống hệt hoặc tương t ự, người mua dễ nhầm lẫn với hàng thật, nhưng chất lượng kém hơn, khối lượng ít hơn, có trường hợp hàng giả toàn bộ hay từng phần.
I.1.3. Nguyên nhân của nạn hàng giả.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nạn sản xuất và buôn bán hàng giả ngày một gia tăng, bao gồm cả những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là cơ bản nhất.
1. Nguyên nhân khách quan.
Do cơ chế thị trường phát triển, bên cạnh những mặt tích cực, những thành tựu mà nó đem lại cho nền kinh tế nước ta thì nó ngày càng bộc lộ những hạn chế, những hậu quả to lớn cho nền kinh tế mà không phải một sớm một chiều mà khắc phục được. Hàng giả là một trong những hạn chế đó.
Do trình độ dân trí nước ta còn thấp cộng thêm lối suy nghĩ cá nhân hẹp hòi chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt mà dẫn đến động cơ làm hàng giả.
Do cơ sở vật chất kỹ thuật nước ta nói chung là thấp kém, những thiết bị, máy móc chuyên dụng cho công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá là không có. Các công nghệ tiên tiến để bảo vệ hàng hoá như mã số, mã vạch, nhãn hiệu... hầu như chưa phát triển.
2. Nguyên nhân chủ quan.
Thứ nhất, do hệ thống pháp luật của nhà nước ta về công tác đấu tranh chống sản xuất kinh doanh buôn bán hàng giả còn tản mạn, một số quy định chưa chặt chẽ, thậm chí còn chồng chéo gây khó khăn, cản trở công tác kiểm tra xử lý.
Thứ hai, do việc quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các cấp các ngành quản lý sản xuất kinh doanh có liên quan còn lỏng lẻo thiếu sự kiểm tra kiểm soát hoặc kiểm tra kiểm soát không chặt chẽ không khách quan, không chính xác... Hơn nữa cá doanh nghiệp chưa có những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ cho sản phẩm của mình.
Thứ ba, nguyên nhân xuất phát từ người tiêu dùng, một phần do họ không có đủ những thông tin về sản phẩm của các doanh nghiệp, một phần do họ chưa có ý thức cao trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Người tiêu dùng ít liên hệ với các cơ quan chức năng như cục quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế... để cung cấp những thông tin về hàng giả.
Tất cả những nguyên nhân trên đã chứng tỏ vì sao nạn sản xuất và buôn bán hàng giả vẫn không hề giảm bất chấp mọi nỗ lực, cố gắng của Nhà nước, của các cơ quan chức năng trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả.
I.2. Thực trạng gian lận thương mại ở nước ta hiện nay
Hiện nay hành vi gian lận thương mại phát sinh phát triển đa dạng, phức tạp với những thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn, nổi bật là tình hình nhập hàng sai khai báo như có ít khai nhiều không có hàng xuất vẫn khai có hàng hoặc khai tăng giá để hưởng nhiều kim ngạch xuất khẩu, tình hình nhập thừa, nhập hàng đã qua sử dụng trốn thuế; phát hiện nhiều vụ vận chuyển chứa hàng ngoại, không có chứng từ nhập, bán hàng không lập hoá đơn xuất khẩu, vi phạm chế độ chứng từ hoá đơn sổ sách trốn thuế. Thị trường trong nước xuất hiện nhiều hàng hoá vi phạm nhãn hiệu sản phẩm, không có giấy phép không đăng ký chất lượng, không có giấy chứng nhận vệ sinh thực phẩm...
Hàng ngoại thông qua hành vi gian lận thương mại và buôn lậu đang tràn ngập thị trường nội địa Việt Nam, bao gồm đủ loại từ hàng cao cấp đắt tiền cho đến những hàng tiêu dùng bình thường, từ xe hơi, xe máy, ti vi, máy đông lạnh... cho đến rượu, bia, thực phẩm, thuốc lá...
Một số ví dụ điển hình:
- Mặt hàng giấy in báo, giấy thường thuế suất 30-40% chủ hàng khai báo giấy cao cấp (thuế suất chỉ 10%).
- Mặt hàng ôtô: có trọng tải từ 5 đến dưới 10 tấn khi nhập khẩu phải chịu thuế suất 50%, chủ hàng man khai thành xe chuyên dùng đông lạnh, xe có trọng tải trên 10 tấn chỉ chịu mức thuế suất 10-30% v.v...
- Một số doanh nghiệp lợi dụng quy chế cho phép không phải nộp thuế nhập khẩu đối với các loại hàng "Nhập nguyên liệu, tái sản xuất sản phẩm" để nhập khẩu hàng gia công xuất khẩu nhưng lại tiêu thụ nội địa.
- Lợi dụng chính sách khuyến khích phát triển "nội địa hoá xe máy" để nhập phụ tùng rời, phụ tùng đã đăng ký sản xuất trong nước kèm theo để về lắp ráp.
- Nhiều doanh nghiệp còn lợi dụng cơ chế "hàng đổi hàng" giữa ta và lào tạo dựng hồ sơ xuất khẩu đổi hàng giả, vận chuyển trái phép ngoại tệ qua biên giới để buôn lậu hàng hoá mà điển hình là vụ Công ty TNHH Bình Minh (Nghệ An) cấu kết với một số cá nhân, doanh nghiệp ở Hà Nội làm hồ sơ mua bán giả, nhập lậu từ Lào về 357 xe máy Dream trị giá gần 500.000 USD.
Thủ đoạn gian lận thương mại ngày càng tinh vi và phức tạp hơn đã làm thất thu ngân sách rất nhiều. Theo đánh giá của chính phủ, thất thu thuế mà gian lận thương mại gây ra là vào khoảng 25% trong tổng số thuế xuất nhập khẩu (theo chỉ thị số 426-TTg ngày 16/8/1994 của thị trường chính phủ về tăng cường công tác Hải quan). Tuy con số 25% đã là rất lớn nhưng so với thực tế của thực trạng gian lận thương mại hiện nay thì nó vẫn chưa thể phản ánh hết được những khoản thất thu thuế mà những đường dây gian lận thương mại ngầm chưa bị chúng ta phát hiện vẫn ngang nhiên đục khoét ngân sách nhà nước.
I.2.1.1. Buôn bán hàng cấm qua biên giới khai báo sai chủng loại hàng hoá, khai tăng giảm trị giá hàng hoá
1. Buôn bán hàng cấm qua biên giới.
Hiện nay tình trạng buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc qua khỏi sự kiểm soát của hải quan (có thể gọi là buôn lậu) đang diễn ra rất phổ biến ở hầu hết các cửa khẩu trên cả nước, số vụ vi phạm không ngừng tăng lên đặc biệt tình trạng buôn lậu, vận chuyển trái phép ma tuý, vũ khí, chất cháy nổ, cổ vật, ngoại tệ, động vật quý hiếm vẫn còn diễn ra trên các tuyến biên giới.
Một số số liệu cụ thể:
- 1991-1995: Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất thu giữ hàng nghìn cổ vật quy địn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0771.doc