Lời Mở đầu
Bước sang thế kỉ 21 xu thế quốc tế hoá ngày càng mạnh mẽ, phân công lao động ngày càng sâu sắc, hầu hết các quốc gia đều mở cửa nền kinh tế để tận dụng triệt để hiệu quả lợi thế so sánh của nước mình.Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì ngành dệt may là một ngành đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong công cuôc xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh vai trò cung cấp hàng hoá cho thị trường trong nước,
29 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2539 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Thực trạng, định hướng và giải pháp phát triển ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngành dệt may hiện nay đã vươn ra các thị trường nước ngoài, ngày càng giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Với tốc độ tăng trưởng và khả năng mở rộng xuất khẩu của ngành, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy cần thúc đẩy hơn nữa xuất khẩu dệt may và các mặt hàng khác vì đó là giải pháp tốt nhất cho nền kinh tế của nước ta. Nhà nước đã kịp thời có những quy định nhằm tạo thuận lợi cho sản xuất hàng xuất khẩu, cụ thể là chiến lược phát triển kinh tế theo hướng thị trường mở, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Chính nhờ những chính sách và những quy định mới đó đã đưa lại cho ngành dệt may những động lực và định hướng phát triển mới.
Với xu hướng phát triển không ngừng của ngành dệt may Việt Nam trong môi trường kinh tế thế giới nhiều biến động thì đây chính là một sự kiện đáng mừng. Trước những thành quả to lớn đáng tự hào đó, tác giả đã chọn đề tài: "Thực trạng, định hướng và giải pháp phát triển ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam" với mục đích phân tích thực trạng của ngành dệt may Việt Nam, xu hướng của thị trường dệt may thế giới đánh giá những thuận lơị khó khăn của ngành dệt may trong tình hình hiện nay từ đó đưa ra các biện pháp thích hợp để nâng cao tính cạnh tranh của mặt hàng này.
II.nội dung.
Chương I
Khái quát về ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
I. Vài nét về ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
1.Tầm quan trọng của ngành dệt may:Dệt may Việt Nam – mũi nhọn xuất khẩu
Kinh tế đời sống xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu ăn mặc không chỉ dừng lại ở chỗ chỉ để phục vụ cho việc bảo vệ cơ thể, sức khoẻ con người mà còn để làm đẹp thêm cho cuộc sống .Thêm nữa,dệt may là ngành “tiên phong” trong chiến lược xuất khẩu hàng hóa Việt Nam ra thị trường thế giới, thu về cho đất nước một lượng ngoại tệ khá lớn.Nhiều năm qua đã cho thấy đây là ngành có đóng góp lớn và ổn định vào mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu của cả nước.
Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Trong hơn 10 năm qua ngành dệt may xuất khẩu đã trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, có những bước tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân là 24,8%/năm, vượt lên đứng ở vị trí thứ nhất trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu, vượt cả qua ngành dầu khí. Mặt hàng dệt may đã trở thành một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế, góp phần thúc đẩy nhanh tự do hoá thương mại. Hơn 10 năm qua ngành đã thu hút hơn nửa triệu lao động trong cả nước. Mặt khác nhờ có sự tăng trưởng mạnh của xuất khẩu nên đã đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Vị trí của ngành dệt may xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
Chỉ số
Đơn vị
1995
1999
2000
2001
1.GDP
Tỷ VNĐ
228,892
339,942
444,139
474,340
2.CNN
Tỷ VNĐ
34,318
70,767
82,992
94,780
3.Ngành dệt may
Tỷ VNĐ
3,100
7,700
9,120
10,260
4.Tỉ lệ 3/2
%
9,03
10,88
11,0
10,8
5.Tỉ lệ 3/1
%
1,4
1,9
2,1
2,1
6. Tổng giá trị XK
Triệu USD
5.449
11.540
14.308
15.810
7.XK dệt may
Triệu USD
850
1.747
1.892
1.962
8.Tỷ lệ 7/6
%
15,6
15,1
13,2
12,4
Nguồn: Theo thống kê của Hiệp hội VITAS, năm 2001
2.Quá trình hình thành và phát triển của ngành
a.Lịch sử hình thành dệt may ở Việt Nam
Mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của ngành dệt may là vào thế kỉ 18 khi máy dệt ra đời ở nước Anh và từ đó sức lao động đã được thay bằng máy móc nên năng suất dệt vải tăng chưa từng thấy trong lịch sử loài người.
ở Việt Nam,trước đây, vào thời phong kiến ngành dệt may đã hình thành từ ươm tơ, dệt vải với hình thức đơn giản thô sơ nhưng mang đầy kĩ thuật tinh sảo và có giá trị rất cao. Sau đó ươm tơ dệt vải đã trở thành một nghề truyền thống của Việt Nam được truyền từ đời này qua đời khác nhờ vào những đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ Việt Nam. Dù những công việc đó rất giản đơn nhưng đã tạo ra một phong cách rất riêng cho ngành dệt may Việt Nam ta mà không một nước nào có được.
Ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam bắt đầu phát triển từ những năm 1958 ở miền Bắc và đến năm 1970 ở miền Nam, nhưng mãi tới năm 1975 khi đất nước thống nhất, ngành dệt may mới được ổn định. Nhà máy được hình thành ở 3 miền: miền Bắc, miền Trung và miền Nam.
Lúc đầu, các nhà máy chỉ sản xuất hàng hoá để phục vụ nhu cầu trong nước. Sản lượng sản xuất ra không nhiều vì lúc đó máy móc, thiết bị còn lạc hậu nhập từ các nước xã hội chủ nghĩa,trình độ quản lý cũng còn rất hạn chế,không đáp ứng đủ yêu cầu về chất lượng, mẫu mã mà còn nghèo nàn ít ỏi.
Thời kì từ năm 1975 đến năm 1985,xuất khẩu trong giai đoạn này chỉ thực hiện trong khuôn khổ Hiệp định và Nghị định thư của nước ta kí kết với khu vực Đông Âu - Liên Xô trước đây. Do đó ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu đi nước ngoài chủ yếu là sang thị trường Liên Xô và thị trường Đông Âu.
Đến cuối năm 1990, khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa bị tan rã, nước ta rơi vào thế hoàn toàn cô lập. Nền kinh tế nước ta trở nên đình trệ, thất nghiệp tăng, nhiều xí nghiệp bị đóng cửa, ngành dệt may cũng không thoát khỏi tình trạng này.
Cùng thời gian đó Đảng và Nhà nước ta bắt đầu chính sách đổi mới nền kinh tế, chuyển đổi từ kinh tế bao cấp sang cơ chế quản lý tự hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Thời kì này, ngành dệt may gặp nhiều khó khăn phải đối mặt với việc: thiếu vốn, thiếu công nghệ, đặc biệt thiếu đối tác đầu mối tiêu thụ hàng hoá.
b.Sự phát triển
Giai đoạn 1990 - 1995 nhờ có chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam. Mặc dù phát triển chậm hơn so với các nước láng giềng Châu á, nhưng ngành đã tự đứng dậy vươn lên, phát triển một cách đầy ấn tượng. Bước đầu năm 1993 kim ngạch xuất khẩu đạt 350 triệu USD và đến cuối năm 1997 xuất khẩu đạt 1,35 tỷ USD. Không dừng lại ở con số này, hàng dệt may xuất khẩu đã trở thành một trong 10 mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam nằm trong chiến lược phát triển CNH, HĐH của đất nước trong thời gian tới.
Đặc biệt ngày 23 tháng 4 năm 2001 Thủ tướng Chính Phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2010 theo QĐ số 55/2001/QĐ-TTg. Với chiến lược này ngành dệt may có nhiều cơ hội mới để phát triển đó là: Chính phủ có nhiều chính sách đầu tư hỗ trợ, khuyến khích phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh như được hưởng ưu đãi về tín dụng đầu tư, được Ngân hàng đầu tư và phát triển, các Ngân hàng thương mại quốc doanh bảo lãnh hoặc cho vay tín dụng xuất khẩu, cho vay đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh với lãi suất ưu đãi, được hưởng thuế thu nhập ưu đãi 25%. Hiện nay, ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam đang từng bước đổi mới để hội nhập vào xu thế toàn cầu hoá của cả thế giới.
Chương II .hoạt động sản xuất và xuất khẩu của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam.
I.thực trạng về ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam.
1.Thực trạng
Việt Nam hiện có hơn 1000 nhà máy dệt may, thu hút trên 50 vạn lao động, chiếm đến 22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng năm tăng trên 10% nhưng quy mô còn nhỏ bé, thiết bị và công nghệ khâu kéo sợi và dệt vải lạc hậu, không cung cấp được vải cho khâu may xuất khẩu. Những năm qua, tuy đã nhập bổ sung, thay thế 1.500 máy dệt không thoi hiện đại để nâng cấp mặt hàng dệt trên tổng số máy hiện có là 10.500 máy, thì cũng chỉ đáp ứng khoảng 15% công suất dệt. Hình thức tổ chức sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
Số doanh nghiệp dệt may trong toàn quốc
Khu vực
Tổng
Quốc doanh
Tư nhân
Đầu tư nớc ngoài
Hội viên Vitas
1
Phía Bắc (28 tỉnh thành)
285
140
106
39
112
2
Miền Trung (7 tỉnh thành)
58
30
19
9
27
3
Miền Nam (26 tỉnh thành)
688
61
324
303
312
4
Tổng
1.031
231
449
351
451
Nguồn: Thống kê của VITAS năm 2002
Doanh nghiệp dệt may toàn quốc(theo loại hình sở hữu)
Loại hình sở hữu
Tổng
Dệt
May
Thương mại &dịch vụ
Quốc doanh
231
32
139
60
Tư nhân
449
229
65
FDI & Liên doanh
345
114
215
25
Tổng cộng
1.034
273
596
162
Nguồn: Theo số liệu của Hiệp hội VITAS năm 2002
Doanh nghiệp dệt may toàn quốc(theo ngành sản xuất)
Ngành sản xuất
Tổng
Quốc doanh
Tư nhân
FDI
1
Kéo sợi
99
42
17
40*
2
Dệt thoi
124
43
24
57*
3
Dêt kim
54
26
9
19
4
May mặc
659
139
299
221
5
Phụ liệu và các loại khác
150
60
65
25
Nguồn: Theo số liệu của Hiệp hội VITAS năm 2002
Ngành dệt may xuất khẩu hiện tại sản xuất hàng hoá theo 3 phương thức:
- Hình thức gia công xuất khẩu: Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay đối với ngành dệt may xuất khẩu, 80% hàng may mặc xuất khẩu là gia công cho các nước Nhật, EU…Thực chất đây là hình thức nhập nguyên phụ liệu, thậm chí cả kỹ thuật của nước ngoài, thực hiện sản xuất trong nước và sau đó tái xuất khẩu thành phẩm.
Ưu điểm là huy động được đội ngũ lao động nhàn rỗi, sử dụng được ngành nghề truyền thống, không cần huy động vốn lớn, tiết kiệm được các chi phí đào tạo, thiết kế mẫu, quảng cáo, tiêu thụ và tìm kiếm thị trường, không phải chịu rủi ro về tiêu thụ sản phẩm.
Tuy nhiên, có nhược điểm lớn: Giá gia công rẻ mạt do vậy lợi nhuận thu được từ gia công hàng cho nước ngoài là rất ít (giá gia công + chi phí quản lý) so với sức lực bỏ ra.
- Hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm: Hình thức này càng được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu như vải, sợi, phụ liệu cho hàng may mặc từ nước ngoài, sau đó tự tổ chức sản xuất trên cơ sở nguyên liệu nhập khẩu về. Khi hoàn thành sản phẩm sẽ tìm thị trường tiêu thụ. Hàng sản xuất ra sẽ được mang nhãn hiệu sản xuất tại Việt Nam.
Hình thức này khắc phục được một số nhược điểm chủ yếu của gia công sản xuất như: sản phẩm đưa ra thị trường, nếu gặp thuận lợi, giá cả hàng hoá cao sẽ thu được lợi nhuận lớn, phát huy được năng lực sáng tạo của cán bộ, tạo được tên tuổi uy tín trên thị trường thế giới.
Nhược điểm là việc nhập khẩu nguyên, phụ liệu từ nước ngoài chi phí rất tốn kém,giá cả của các loại nguyên phụ liệu này thường xuyên biến động không ổn định và so với những mặt hàng cùng loại mà chúng ta có thể sản xuất được ở trong nước thì tương đối đắt hơn .
- Hình thức sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước dành cho sản xuất hàng xuất khẩu: So với 2 hình thức trên, hình thức tự cung này có ưu điểm nhiều hơn vì tiết kiệm ngoại tệ, sử dụng nguồn nguyên phụ liệu trong nước sẽ kéo theo rất nhiều ngành nghề khác phát triển tạo đà phát triển ngành công nghiệp đất nước và thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên để đạt được kết quả thì đòi hỏi có sự kết hợp của các bộ ngành và sự đoàn kết của các doanh nghiệp trong nước.
Ba hình thức trên đều có ý nghĩa nhất định đối với ngành dệt may Việt Nam. Gia công xuất khẩu qua nhiều giai đoạn vẫn trở thành hoạt động chủ yếu của ngành may mặc. Hiện tại khi đất nước còn đang nghèo, các ngành sản xuất nói chung và ngành dệt may nói riêng vẫn còn lạc hậu thì phương thức gia công vẫn còn có ý nghĩa rất to lớn, là bàn đạp để chúng ta thực hiện mục tiêu đến năm 2010. Nếu biết kết hợp một cách nhịp nhàng khéo léo và có hiệu quả cả 3 phương thức trên thì chắc chắn trong thời gian gần ngành dệt may Việt Nam chúng ta sẽ đạt được mục tiêu đề ra.
Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền đồng bộ chuyên sản xuất một mặt hàng như dây chuyền may sơ mi, may quần âu, quần Jean, complet, hệ thống giặt là... nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao. Xuất khẩu hàng dệt may tuy đạt kim ngạch cao, nhưng chủ yếu làm gia công, ngành dệt vẫn nhập khẩu nhiều và nguyên liệu cho sản xuất của ngành dệt hầu như hoàn toàn nhập khẩu từ nước ngoài... Vấn đề cần quan tâm hiện nay là khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Eu được thực hiện qua các khâu trung gian như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc... Vì vậy, làm sao Việt Nam có thể tiếp cận và bán hàng trực tiếp sản phẩm dệt may, giảm bớt phụ thuộc vào các nhà đặt hàng trung gian, nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Trong các mặt hàng may mặc xuất khẩu vào Eu, mới chỉ tập trung vào các mặt hàng dễ làm như áo jacket, sơ mi... còn các mặt hàng có giá trị, đòi hỏi kỹ thuật cao hơn như bộ complet hay các loại áo sơ mi cao cấp thì ít doanh nghiệp có thể sản xuất được.Lại thêm việc có nhiều ý kiến lạc quan về xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ sau khi có Hiệp định thương mại Việt Mỹ. Hiệp hội Dệt May Việt Nam với vai trò trao đổi và cung cấp thông tin; tư vấn và xúc tiến thương mại; thay mặt các hội viên khuyến nghị với Chính phủ về những chính sách vĩ mô liên quan đến ngành đã và đang góp phần phát triển nền công nghiệp dệt may Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Trong nhiều năm qua Chính phủ luôn quan tâm và hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và ngành Dệt may nói riêng thông qua các chính sách về thuế, tín dụng, xúc tiến xuất khẩu, ưu đãi đầu tư, chính sách tỷ giá và ngoại hối... Chính nhờ có những chính sách đó của Nhà nước mà hoạt động xuất khẩu của nước ta trong những năm gần đây có bước phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt năm 2008, cả nước đã xuất khẩu được 63 tỷ USD, tăng 29%; trong đó ngành Dệt may đã có đóng góp đáng kể. Ngày 10 tháng 3 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 36/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã có uy tín trên thị trường quốc tế, được khách hàng trong và ngoài nước biết đến như Việt Tiến, Nhà Bè, Phương Đông, May Sài Gòn 3, May Sài Gòn 2, Dệt Phong Phú, Dệt Thành Công, Dệt sợi Hà Nội, May Scavi, May An Phước, May 10, May 28
sẽ có cơ hội tiếp nhận các đơn hàng lớn.
Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam làm ăn, góp phần tạo nên sự tăng trưởng mạnh về kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Mặc dù vậy,ngành may mặc xuất khẩu Việt Nam vẫn có khoản lép vế trước các đối thủ cạnh tranh do nguyên phụ liệu trong nước chưa chủ động được bao nhiêu. Vải nguyên liệu trong nước sản xuất mới đáp ứng được chưa đến 30% nhu cầu sản xuất hàng may mặc xuất khẩu, nhiều loại phụ liệu thời trang chưa được đầu tư sản xuất và khả năng thiết kế thời trang công nghiệp chưa được khách hàng chú ý.
Từ thực tế này cho thấy, các doanh nghiệp nhỏ cần có sự liên kết để cùng khai thác thiết bị các công đoạn đầu vào và hoàn tất sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Từ đó, sẽ hình thành tam giác xuất khẩu: doanh nghiệp dệt thuê doanh nghiệp có hệ thống mắc hồ tốt, sản xuất vải mộc xong đưa đến cơ sở nhuộm và hoàn tất để gia công.
2.một số thị trường xuất khẩu triển vọng vào thời điểm hiện tại của việt nam.
a.Thị trường Mỹ
thị trường Mỹ là một thị trường lớn và năng động nhất thế giới. Nhu cầu tiêu dùng ở thị trường này là rất lớn. Với dân số hơn 280 triệu người, vào năm 2001 người dân ở Mỹ tiêu thụ tới 272 tỷ USD cho quần áo, bình quân một người Mỹ mua khoảng 54 bộ quần áo.
Những hàng hiệu nổi tiếng là những sản phẩm dễ dàng được chấp nhận ở thị trường này. Tiêu chuẩn nhập khẩu của thị trường Hoa Kỳ đặt ra cũng tương đối khắt khe. Các công ty dệt may xuất khẩu cần đạt tiêu chuẩn ISO 9.000, ISO 14.000, SA 8000, WRPA…Đây là một yêu cầu hoàn toàn mới đối với phía Việt Nam.
Hiện nay, hàng may mặc Việt Nam còn đang ở mức thang điểm thấp trong đánh giá chất lượng của người tiêu dùng Mỹ - theo đánh giá của hiệp hội dệt may và da giầy Mỹ (AAFA).Hơn nữa, doanh nghiệp Mỹ cũng nhìn vào khả năng cung cấp hạn ngạch xuất khẩu, các chương trình ưu đãi thuế quan, nguồn cung cấp nguyên liệu, chất lượng lao động, sự ổn định của đồng tiền, năng lực xuất khẩu, mức độ tuân thủ các thủ tục hải quan Mỹ, môi trường lao động...
b.Thị trường EU
EU là một thị trường lớn với 378,5 triệu dân, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt trên 8.400 tỷ euro, sức tiêu thụ vải tương đối cao 17kg/ người, mỗi năm EU nhập khẩu bình quân 63 tỷ USD quần áo, trong đó có khoảng 35% là nhập khẩu từ Châu á, do vậy thị trường EU là thị trường không thể bỏ qua của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Lúng túng của nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn là thông tin: nên xuất gì, xuất như thế nào? Hàng Việt Nam vào thị trường này không chỉ phải cạnh tranh về chất lượng mà còn phải cạnh tranh bằng giá cả. Vì vậy, hàng muốn bán được, phải có những ưu điểm hơn sản phẩm cùng loại
EU là thị trường lớn và truyền thống của hàng dệt may Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này thường chiếm 45 - 50% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Do đó chúng ta phải có những biện pháp để không bị giảm kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này trong những năm tới.
c.Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là thị trường truyền thống của Việt Nam đối với mặt hàng dệt may xuất khẩu. Vốn là một thị trường Châu á nên có nhiều điểm tương đồng với thị trường Việt Nam.
Thị trường Nhật Bản có yêu cầu riêng về chất lượng của hàng hoá đó là Japan indutrial standard (JIS). Hàng hoá có đáp ứng được tiêu chuẩn của JIS đề ra sẽ dễ tiêu thụ trên thị trường Nhật Bản, bởi người Nhật Bản rất tin tưởng hàng hoá có đóng dấu JIS, nếu hàng hoá mà không có đóng dấu này thì khó mà tiêu thụ được ở Nhật Bản.
Các hoạt động xúc tiến thương mại vào thị trường Nhật Bản của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế do chi phí khảo sát thị trường hết sức tốn kém. Chính vì thế doanh nghiệp Việt Nam không nắm bắt được nhu cầu hàng hoá, thị hiếu tiêu dùng cũng như quy định về quản lý nhập khẩu của thị trường Nhật Bản. Với một thị trường hết sức năng động, mang nhiều nét đặc thù riêng như thị trường Nhật Bản thì việc thiếu thông tin sẽ hạn chế khả năng thâm nhập vào thị trường này.
II.lợi thế phát triển
Với số dân trên 83 triệu người, tỷ lệ nữ giới lại rất lớn, đó là đội ngũ lao động rất phù hợp cho ngành dệt may, một ngành đòi hỏi sự tỉ mỉ khéo léo, cần mẫn. Người dân Việt Nam đặc biệt là phụ nữ Việt Nam nổi tiếng là những người siêng năng chuyên cần, thông minh, nhanh nhẹn tháo vát, là điều kiện thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam. ở Việt Nam giá nhân công thấp ở mức dưới 2,5 USD/giờ (thuộc loại thấp nhất trong khu vực). Chi phí đầu tư thấp nhờ có sẵn nhà xưởng cho thuê với giá rẻ của các tổ chức Nhà nước và tiếp cận được nhiều chủng loại thiết bị cơ bản không đắt tiền mới cũng như đã qua sử dụng của một số nước thì chi phí sản xuất dệt may của Việt Nam thấp chỉ là 0,08 USD.
Bảng giá thành sản xuất tính theo các nước
Nước
Chi phí sản xuất (USD)
(không gồm chi phí vận chuyển)
Xu hướng
Trung Quốc
0,09
ổn định
Hồng Kông
0,19
ổn định
Thái Lan
0,16
Tăng
Đài Loan
0,2
Tăng mạnh
Indonesi
0,10
ổn định
Việt Nam
0,08
ổn định
Trung Bình
0,13
Nguồn: Phân tích chi phí sản xuất SECO, 2001
Ngành dệt may là ngành không đòi hỏi phải có nhiều vốn đầu tư lớn. Để có thể xây dựng chỗ làm việc cho ngành dệt may thì vốn bỏ ra không nhiều và thu hồi vốn cũng khá nhanh.
Ngoài ra, các công ty trong khu vực đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp các mối liên kết marketing thiết yếu với thị trường tiêu thụ và cung cấp gần như toàn bộ nguyên liệu cần thiết. Các đối tác thương mại khu vực Châu á và liên minh Châu Âu (EU) đã đem đến cho Việt Nam những cơ hội rất lớn trong việc tiếp cận thị trường nước ngoài, điều này ý nghĩa rất quan trọng đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Một điều cần nói đến là khi Việt Nam gia nhập WTO ,ngành Dệt May có đủ sức cạnh tranh và phát triển nếu trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, không cần ưu đãi. Với những điều kiện đó thì chắc chắn ngành Dệt May sẽ có 3 cái lợi là xuất khẩu không bị khống chế quota; một số thị trường đang đối xử phân biệt về thuế, sẽ đưa thuế nhập khẩu xuống bình thường; được hưởng những lợi ích từ môi trường đầu tư. Nhưng xét cho cùng thì nguy cơ cạnh tranh trong một sân chơi không bình đẳng của doanh nghiệp dệt may thời hội nhập là có thật. Bởi hàng rào bảo vệ thị trường nội địa bằng thuế thu nhập sẽ giảm xuống tới mức tối đa (thuế nhập khẩu hiện hành 40% với vải và 50% với hàng may mặc, hàng rào này sẽ được giảm còn bình quân khoảng 15%). Bên cạnh đó, các rào cản của nước ngoài sẽ được dựng lên, như các vấn đề về môi trường, chống bán phá giá…
Tuy nhiên, nói vậy không phải ngành dệt may của Việt Nam hoàn toàn chỉ có thuận lợi trên con đường phát triển. Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế các nước đang bị giảm sút, thị trường bị co hẹp lại, ngành dệt may bị chịu nhiều ảnh hưởng lớn của nền kinh tế thế giới.
III.Những khó khăn gặp phải của hàng dệt may của Việt Nam.
1.Năng lực sản xuất, công nghệ
Do trình độ công nghệ sản xuất chưa cao, thiết bị thiếu đồng bộ, 20% tổng số máy trong ngành may mặc tham gia sản xuất đã cũ và lạc hậu về công nghệ. Ngành dệt cũng ở trong tình trạng tương tự nên không có khả năng đáp ứng đủ nhu cầu. Trước hết, năng lực sản xuất vải trong nước theo công suất thiết kế là 800 triệu mét nhưng sản lượng sản xuất ra chỉ mới đạt 376 triệu mét, chưa được 50% công suất thiết kế. Trong gần 600 triệu mét vải sản xuất được thì phần lớn là đáp ứng nhu cầu trong nước, phần cung cấp cho ngành may xuất khẩu chỉ có hơn 100 triệu mét (năm 2001).
Năng lực sản xuất của ngành dệt may
Tiêu chí
Máy móc
Sản xuất
Đơn vị
Tổng máy
Đơn vị
Năng lực
1. Kéo sợi
Cọc sợi
OE
1.500.000
15.000
Tấn
150.000
2.Cán bông
Chuyền
4
Tấn
10.000
3.Dệt thoi
Thoi
Không thoi
10.000
5.500
Triệu m
500
4.Dệt kim
MáyDK tròn
Máy DK phản
1290
250
Tấn
70.000
5.May mặc
Máy may
200.000
Triệu sp
500
Nguồn: Thống kê của Vitas, năm 2002
Không chỉ thế, ngành dệt may còn có nhiều hạn chế khác nữa: khâu kéo sợi thiếu sợi chải kỹ; khâu dệt thiếu máy dệt khổ rộng, các công đoạn chuẩn bị dệt (như hồ, mắc) rất yếu, không tương ứng với hệ thống máy dệt. Khâu thiết kế mẫu dệt còn hạn chế. Số lượng mẫu vải nghèo nàn về kết cấu mật độ sợi ngang, sợi dọc và màu sắc. Khâu nhuộm, hoàn tất còn thiếu các công đoạn chống co, chống nhàu… Trong khi quy mô đào tạo và chất lượng lao động chưa được nâng cao nên ngành dệt may còn thiếu lao động do đó làm cho cơ cấu tổ chức sản xuất không hợp lý dẫn đến năng suất thấp.
2.Cơ cấu sản phẩm
Trong những năm gần đây, sản phẩm dệt may đã dần được đa dạng hoá. Trong khâu sản xuất sợi, tỷ trọng các mặt hàng polyester pha bông với nhiều tỉ lệ khác nhau 50/50, 65/35, 83/17...tăng nhanh; các loại sợi 100% polyester cũng bắt đầu được sản xuất; các loại sản phẩm cotton/visco, cotton/aceylic, wool/acrilic đã bắt đầu được đưa ra thị trường.
Trong khâu dệt vải, nhiều mặt hàng dệt thoi mới, chất lượng cao đã bắt đầu được sản xuất. Đối với mặt hàng 100% sợi bông, các mặt hàng sợi đơn chải kỹ chỉ số cao phục vụ cho may xuất khẩu, mặt hàng sợi bông dày được tăng cường công nghệ làm bóng, phòng co cơ học…đã xuất khẩu được sang EU và Nhật Bản. Một số mặt hàng sợi pha, các mặt hàng kate đơn màu sợi 76, 76 đơn hay sợi dọc 76/2, các loại vải dày như gabadin, kaki, simili, hàng tissus pha len, pha cotton và petex, pe/co/petex…tuy sản lượng chưa cao nhưng đã bắt đầu được đưa vào sản xuất rộng rãi ở nhiều doanh nghiệp. Đối với mặt hàng 100% sợi tổng hợp, nhờ được trang bị thêm hệ thống xe săn sợi với độ săn cao, thiết bị comfit, thiết bị giảm trọng lượng đã tạo ra nhiều mặt hàng giả tơ tằm, giả len…thích hợp với khí hậu nhiệt đới, bước đầu đã giành được uy tín trong và ngoài nước. Ngoài ra mặt hàng dệt kim, 75 - 80% sản lượng hàng dệt kim từ sợi pe/co được xuất khẩu.
3.Tình hình về cung cấp nguyên liệu, phụ liệu
Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn ở cả đầu ra và đầu vào: đó là vấn đề nguyên phụ liệu, vốn đầu tư. Nguyên phụ liệu để cung cấp cho ngành may xuất khẩu hầu như chưa sản xuất được đang phải nhập khẩu với một lượng khá lớn. Nguyên nhân là ở chỗ, việc sản xuất nguyên liệu trong nước và vùng nguyên liệu trong nước chưa được chú trọng đúng mức.
Doanh nghiệp may phần lớn là gia công xuất khẩu nên thường khách hàng nước ngoài chỉ định nguồn nguyên phụ liệu nước ngoài vì thế ít quan tâm khai thác vải của các doanh nghiệp dệt trong nước cho dù vải của các doanh nghiệp dệt trong nước có cùng chủng loại không thua kém gì về mặt chất lượng. Hơn nữa, mua vải của nước ngoài, ngoài yếu tố chất lượng đảm bảo, thì dịch vụ hậu mãi của họ lại rất tốt. Nếu như lô vải mua về không đảm bảo về yêu cầu chất lượng cũng như mẫu thì đối tác cung cấp sẽ sẵn sàng đổi lại, thậm chí bỏ cả lô hàng vải xấu đó, cung cấp lô vải mới khác cho doanh nghiệp Việt Nam
Một đặc điểm nữa mà doanh nghiệp nước ta cần chú trọng là giảm chi phí đầu vào, tăng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm ngành dệt may để tăng lợi nhuận cho ngành. Trong thời gian tới, Nhà nước ta sẽ đưa bông vào cơ cấu cây trồng để đảm bảo cho đến năm 2010 phải có 90.000 tấn bông xơ, trong đó chủ động 70% nguyên liệu và tiến tới làm chủ hoàn toàn nguyên liệu trong nước là mục tiêu của ngành dệt may.
Năm 2009: Khó khăn chồng chất khó khăn
Hồi giữa năm 2008, các giới chức Bộ Công Thương đặt chỉ tiêu 2009 cho ngành dệt may khá cao với kim ngạch 11,5 tỷ USD. Sau các biện pháp chống lạm phát rồi ảnh hưởng khủng hoảng tài chánh toàn cầu, các chuyên gia của Bộ Công Thương và ngành Dệt May Việt Nam đắn đo về việc hạ chỉ tiêu vừa nói xúông mức 9,5 tỷ USD
Theo nhận định của các doanh nghiệp trong ngành thì dệt may Việt Nam sẽ phải đối mặt với hai nguy cơ chính trong năm 2009:
Thứ nhất, từ trước tới nay sản phẩm của Việt Nam lấy trọng tâm phát triển hàng cao cấp khá nhiều, nhưng trong bối cảnh kinh tế suy giảm, phân khúc hàng cao cấp cũng sẽ bị thu hẹp bởi người tiêu dùng tiết kiệm chi tiêu từ cao cấp xuống trung cấp.
Thứ hai, là sự cạnh tranh về giá đối với những nước sản xuất lớn như Trung Quốc, Banglades, Indonesia, Ấn Độ… Ngay với thị trường trong nước, đã có những dự báo trong khoảng 3 – 6 tháng tới, hàng dệt may Trung Quốc sẽ được đẩy sang Việt Nam với khối lượng tương đối lớn.
III.Giải pháp
Xu hướng chuyển dịch việc sản xuất hàng dệt may trong khu vực và trên thế giới
Mặc dù đã được tự động hoá nhiều nhưng so với những ngành khác, ngành dệt may hiện vẫn là ngành sử dụng nhiều lao động. Việc sử dụng nhiều lao động trong điều kiện giá lao động có xu hướng ngày càng cao đang làm cho vị trí ngành dệt may trong cơ cấu sản xuất ở các nước phát triển suy giảm. ở các nước này, khối lượng hàng dệt may xuất khẩu giảm và khối lượng hàng dệt may nhập khẩu tăng nhanh.
Ngành dệt ở các nước EU cải tổ sâu sắc, một mặt do thế hệ thợ già đã rời khỏi ngành, mặt khác những nhà đầu tư thích đầu tư vốn vào các ngành dịch vụ nhẹ nhàng hơn như du lịch, mỹ nghệ, bất động sản…Ngoài ra, do các hãng lớn đang đẩy mạnh chuyên môn hoá với việc mua lại hàng hóa của các nước ngoài biên giới Châu âu, nhất là từ những nơi có giá nhân công rẻ để hạ giá thành sản phẩm
Hiện nay ngành dệt may Châu Âu đang diễn ra quá trình tích tụ tư bản lớn. Nhiều hãng nhỏ bị các hãng lớn mua, tiếp theo đó là số công nhân trong ngành tăng nhanh. ở Đức trước đây có 500 xí nghiệp và 320.000 chỗ làm việc thì đến đầu năm 1992 chỉ còn lại 137 xí nghiệp tư nhân hoá với 13.000 chỗ làm việc. Như vậy, ngược lại so với các nước đang phát triển, do mức tiền lương và giá nhân công thấp, ngành dệt may ngày càng được đẩy mạnh ở các nước đang phát triển và tạo cho các nước này một ưu thế đặc biệt trong cạnh trạnh.
Vào cuối những năm 1980, tất cả các nước ASEAN đều đạt mức cao về xuất khẩu sản phẩm dệt may và vị trí của các nước này trong mậu dịch thế giới tăng đáng kể so với trước đây. Xu hướng chuyển dịch này sẽ mở ra triển vọng to lớn cho ngành dệt may Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu ngành dệt may nói riêng vào thị trường thế giới.
Hệ số lợi thế so sánh giữa các nước ASEAN
Tên nước
Sợi, chỉ, vải, dệt may
Quần áo
Indonesia
Malaysia
Philippines
Singapore
Thái Lan
Việt Nam
1,6
0,4
0,4
0,2
1,2
1,8
2,1
1,4
4,4
0,5
2,2
3,1
Nguồn: Báo cáo của WB đánh giá tác động của việc
Việt Nam gia nhập AFTA
Định hướng, mục tiêu phát triển của ngành dệt may xuất khẩu đến năm 2010
Ngày 23.4.2001 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010 với các cơ chế chính sách cởi mở cho ngành dệt may phát triển. Theo đó, sẽ tạo điều kiện tối đa phát triển ngành này trở thành một trong những trọng điểm công nghiệp mũi nhọn về xuất khẩu.
Bộ thương mại đang phối với Bộ Công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát lại cơ chế điều hành hạn ngạch xuất khẩu đi EU để có sự điều chỉnh phù hợp, tăng năng lực sử dụng hạn ngạch.
Các chỉ tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010
Chỉ tiêu
Đơn vị
Đến 2010
1. Sản xuất:
-Bông xơ
-Xơ sợi tổng hợp
-Sợi các loại
-Vải lụa thành phẩm
-Dệt kim
-May mặc
2. Kim ngạch xuất khẩu
3. Sử dụng lao động
4. Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm may xuất khẩu
5.Nhu cầu vốn đầu tư phát triển
Vốn đầu tư mở rộng
Vốn đầu tư chiều sâu
Trong đó VINATEX
6. Vốn đẩu tư phát triển trồng bông
Tấn
Tấn
Tấn
Triệu m2
Triệu SP
Triệu SP
Triệu USD
Triệu người
%
Tỉ đồng
Tỉ đồng
Tỉ đồng
Tỉ đồng
Tỉ đồng
80.000
120.000
300.000
1.400
500
1.500
8.000-9.000
4-4,5
>75
30.000
20. 000
10.000
9.500
1.500
Nguồn : VINATEX
II. Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam
Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm
- Cải thiện chất lượng sản phẩm:
Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng hạn, bảo quản tốt nguyên phụ liệu, tránh xuống phẩm cấp.
Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, quy trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật do bên đặt hàng cung cấp về mã hàng, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì…Tuân thủ đúng quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu.
Đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân kĩ thuật lành nghề, có chuyên môn đảm bảo nâng cao năng suất, giảm giá thành sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh của mặt hàng dệt may Việt Nam.
- Chú ý nghiên cứu phát triển mẫu mốt: giá trị thẩm mỹ của sản phẩm được coi trọ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22560.doc