LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra rất phức tạp, tác động tiêu cực tới nền kinh tế Việt Nam nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Việc điều hành tiền tệ, tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ bị ảnh hưởng nhất định, hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) sẽ gặp nhiều khó khăn, nguy cơ nợ xấu tăng cao, hiệu quả hoạt động có nguy cơ giảm sút đáng kể. Việc điều hành các chính sách tiền tệ, ngân hàng vừa là tham mưu lại vừa là nòng cốt thực hiện. Hoạt động của n
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2385 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt Nam, kinh nghiệm thế giới và bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gân hàng vừa đáp ứng được việc thắt chặt chính sách tiền tệ lại vừa tạo được tính thanh khoản cho nền kinh tế.
Tính đến nay, NHNN đã hoàn thành quá trình tự do hóa lãi suất, tạo sân chơi bình đẳng cho các TCTD, góp phần khơi thông thị trường tiền tệ, đưa vốn từ nơi dư thừa đến nơi thiếu vốn. Cơ chế kiểm soát lãi suất của NHNN đã được hình thành, là một công cụ điều hành chính sách tiền tệ quan trọng, góp phần tác động có hiệu quả đến phát triển, ổn định hệ thống tài chính và kinh tế vĩ mô. Cơ chế điều hành được xác lập, vận hành chủ động, theo cơ chế thị trường, phù hợp với mục tiêu, định hướng chính sách tiền tệ, điều kiện thực tế thị trường tiền tệ, tín dụng trong nước và thông lệ quốc tế. Cơ chế điều hành lãi suất đã giữ được mặt bằng lãi suất thị trường tương đối ổn định, tạo thuận lợi cho các TCTD mở rộng huy động vốn và cho vay có hiệu quả, phục vụ tăng trưởng kinh tế.
Việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN bước đầu đã tạo được quan hệ tương đối phù hợp giữa lãi suất của NHNN - lãi suất thị trường liên ngân hàng- lãi suất thị trường sơ cấp, giữa lãi suất với các chỉ tiêu tiền tệ với các biến số kinh tế vĩ mô. Tỷ lệ vốn huy động/GDP và tín dụng/GDP liên tục tăng và ở mức cao, góp phần tạo điều kiện cho phát triển kinh tế – xã hội. Mối quan hệ giữa lãi suất VND, lãi suất USD và tỷ giá được bảo đảm phù hợp đã hạn chế sự chuyển dịch luồng vốn từ VND sang USD, duy trì được mức tăng trưởng và cơ cấu đồng tiền ổn định trong tổng nguồn vốn huy động cho vay. Chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các TCTD đối với khách hàng được duy trì ở mức phù hợp so với các biến số kinh tế vĩ mô cũng như mức chênh lệch của các NHTM trong khu vực, độ sâu tài chính được cải thiện. tuy nhiên, gần đây tình hình lãi suất biến động gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống tài chính, nền kinh tế tăng trưởng chậm nguy cơ giảm phát gia tăng.
Năm 2009 được đánh giá là năm khó khăn với hệ thống ngân hàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam cũng như nền kinh tế thế giới. Xuất phát từ vấn đề trên nhóm đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt nam, kinh nghiệm thế giới và bài học đối với Việt Nam”.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT, KINH NGHIỆM
THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC VỚI VIỆT NAM
1.1. Lí luận chung về chính sách lãi suất
1.1.1. Khái Niệm
Lãi suất là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
Lãi suất là phí tổn, là nghĩa vụ tài chính mà người vay phải thực hiện với người cho vay trong các quan hệ tín dụng, đồng thời cũng là một trong các biểu hiện và thước đo giá trị của 1 đồng tiền quốc gia. Lãi suất nội tệ tùy thuộc vào chính sách tín dụng - đầu tư của Chính phủ, vào lượng cung - cầu ngoại tệ, vào tỷ giá chính thức, cũng như vào quy mô mở rộng thị trường vàng, bạc, đá quý trong nước. Về nguyên tắc, sự lên xuống mạnh của lãi suất là một tín hiệu và biểu hiện của một cuộc chấn động kinh tế, và khi đó hiệu quả của chính sách lãi suất sẽ bị suy giảm rất nhiều trong việc thực thi mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh.
Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi tái cấp vốn.
Lãi suất chiết khấu, hay còn gọi là lãi suất tái chiết khấu là lãi suất mà ngân hàng trung ương (ngân hàng Nhà nước) đánh vào các khoản tiền cho các ngân hàng thương mại vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất thường của các ngân hàng này. Quy định lãi suất chiết khấu là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ nhằm điều tiết lượng cung tiền.
Có nhiều loại lãi suất như: lãi suất tiền vay; lãi suất tiền gửi; lãi suất tái cấp vốn; lãi suất liên ngân hàng, v.v.
John Maynard Keynes lập luận rằng lãi suất là một hiện tượng tiền tệ phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền. Cung tiền được xác định một cách ngoại sinh, cầu tiền phản ánh các nhu cầu đầu cơ, phòng ngừa và giao dịch về tiền.
Trái với Keynes, các nhà kinh tế học cổ điển trước đó đã coi lãi suất là một hiện tượng thực tế, được xác định bởi áp lực của năng suất - cầu về vốn cho mục đích đầu tư - và tiết kiệm.
1.1.2. Vai trò của lãi suất tác động tới nền kinh tế
Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động làm thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn các nước đã chứng minh, sự thay đổi lãi suất thực sẽ có tác động nhạy cảm đến sản lượng và giá cả. Vì vậy, Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) đã rất coi trọng việc điều tiết lãi suất nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ (CSTT) là kiềm chế lạm phát và góp phần tăng trưởng kinh tế.
1.1.2.1.Tác động của lãi suất đến tiêu dùng
Lý thuyết kinh tế học đã chứng minh, lãi suất tác động đến:
- Chi tiêu dùng và đầu tư: Một sự tăng lãi suất làm giảm sức hấp dẫn trong việc chi tiêu hiện tại hơn là chi tiêu trong tương lai của cá nhân và công ty. Tín dụng trong nước, tổng lượng tiền và cầu thực tế đều giảm (nếu lãi suất giảm sẽ có tác động ngược lại): Khi lãi suất thực tăng lên, đối với hộ gia đình sẽ giảm nhu cầu mua sắm nhà ở hoặc các hàng tiêu dùng lâu bền do chi phí tín dụng để mua các hàng hoá này tăng lên. Cùng với lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi thực cũng tăng lên. Sự gia tăng lãi suất này tác động tới quyết định tiêu dùng của khu vực hộ gia đình theo hướng giảm tiêu dùng hiện tại và tăng tiết kiệm để cho tiêu dùng trong tương lai. Đối với khu vực doanh nghiệp, sự gia tăng lãi suất làm tăng chi phí vốn vay ngân hàng. Điều này đòi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay ngân hàng phải có tỷ lệ lợi nhuận lớn hơn và kết quả là số dự án đầu tư có thể thực hiện với mức lãi suất cao hơn này có thể giảm hay nói cách khác, đầu tư cố định có thể giảm. Ngoài ra, lãi suất cao cũng làm tăng chi phí lưu giữ vốn lưu động (ví dụ như hàng trong kho) và do vậy, tạo sức ép các doanh nghiệp phải giảm đầu tư dưới dạng vốn lưu động.
- Phân phối lại thu nhập: Lãi suất tăng cao hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ người vay tiền sang người gửi tiền. Điều này làm tăng sức chi tiêu của người tiết kiệm, nhưng sự chi tiêu này bị hạn chế bởi mức tiêu dùng cận biên (phần chi tăng thêm cho tiêu dùng trong mỗi giá trị thu nhập tăng thêm), do vậy người tiết kiệm có xu hướng tăng chi tiêu dùng thấp hơn sự hạn chế chi tiêu đầu tư của người đi vay, nhất là khi lãi suất tăng cao vượt tỷ suất lợi nhuận đầu tư và các danh mục đầu tư và dự án, làm thu nhập của người đi vay giảm. Do vậy, dẫn đến tổng chi tiêu giảm, GDP giảm. Mặt khác, đối với các hộ gia đình nắm giữ nhiều cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất tăng sẽ làm giảm giá tài sản tài chính, do đó, giảm thu nhập, từ đó tạo sức ép giảm tiêu dùng của các hộ gia đình.
Tuy nhiên, tác động của lãi suất đến hành vi tiêu dùng và sản xuất của xã hội nhiều hay ít, nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, trong từng quốc gia thì mỗi giai đoạn phát triển của thị trường tài chính thì mức độ tác động của lãi suất cũng khác nhau.
1.1.2.2. Tác động của lãi suất đến đầu tư của doanh nghiệp
Đánh giá tác động của lãi suất đến đầu tư thông qua mô hình hiệu chỉnh, bao gồm các biến sau:
- Biến phụ thuộc: mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư của khu vực tư nhân (di_pri), mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư khu vực nhà nước (di_gov), tính theo giá cố định năm 1986 ;
-Biến giải thích: biến lãi suất dài hạn thực (drate_longr), đơn vị %/năm;
Mẫu số liệu từ 1990-2006 theo năm.
Đánh giá mối quan hệ giữa đầu tư và lãi suất dài hạn thực bằng hai mô hình:
Mô hình đánh giá tác động của mức thay đổi lãi suất dài hạn thực drate_longr đến mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư khu vực tư nhân di_pri
DI_PRI=-1.062687968*DRATE_LONGR(-1)- 1.373099517*DRATE_LONGR(-3)- 1.507964529*ECM1(-1)
Kết quả của mô hình cho thấy hệ số của biến drate_longr(-1) có dấu âm phù hợp với lý thuyết kinh tế. Nhìn vào mô hình thấy rằng mức thay đổi lãi suất dài hạn thực tác động đến mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư khu vực tư nhân có độ trễ thời gian, cụ thể mô hình này là trễ 1 năm và 3 năm. Mặt khác, hệ số của mức thay đổi lãi suất dài hạn thực trễ 1 năm là -1.062 có nghĩa là khi lãi suất thay đổi 1% thì làm cho tốc độ tăng đầu tư thay đổi 1.062%, mức độ tác động ngược chiều. Dường như, mức thay đổi lãi suất dài hạn thực trễ 3 năm tác động mạnh hơn mức thay đổi lãi suất dài hạn thực trễ 1 năm (1.37%).
R2=0.847 có nghĩa là mức thay đổi của lãi suất dài hạn thực giải thích khoảng 84.7% sự biến thiên của mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư khu vực tư nhân. Các kiểm định về chất lượng mô hình đều cho chúng ta kết quả mô hình này là một mô hình chấp nhận được.
Tương tự chúng ta có mô hình đánh giá tác động của mức thay đổi lãi suất dài hạn thực drate_longr đến mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư khu vực Nhà nước di_gov DI_GOR = -1.641768056*DRATE_LONGR(-1) - 1.496818822*ECM2(-1).
Kết quả mô hình cũng có ý nghĩa về mặt kinh tế (lãi suất và đầu tư có quan hệ ngược chiều), mức tác động là 1.64%. Khả năng mức thay đổi lãi suất giải thích sự biến thiên của mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư khu vực nhà nước khoảng 52%. Các kiểm định mô hình chấp nhận được.
Qua kết quả nghiên cứu trên có thể thấy, nhìn chung, lãi suất có tác động ngược chiều với đầu tư, trong đó tác động của lãi suất đến đầu tư của khu vực tư nhân là nhạy cảm hơn đầu tư khu vực Nhà nước. Điều này là do, các doanh nghiệp của Nhà nước được tiếp cận nhiều nguồn vốn ngoài ngân hàng hơn các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân và được hưởng nhiều nguồn vốn ưu đãi với mức lãi suất thấp hơn so với khu vực tư nhân (kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về nguồn vốn của các DNNN năm 2004-2004, cho kết quả là nguồn vốn vay ngân hàng chỉ chiếm 42% tổng nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp). Mặt khác, trong giai đoạn này, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh hơn giai đoạn trước (số doanh nghiệp khu vực tư nhân tăng từ 35.004 DN năm 2000 lên 84.003 DN năm 2004 và 123.392 năm 2006, số doanh nghiệp Nhà nước giảm từ mức 5.759 DN năm 2000 xuống còn 4.596 DN năm 2004 và 3.720 năm 2006). Việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng của khu vực tư nhân ngày càng thuận lợi hơn. Theo số liệu thống kê của NHNN, dư nợ cho vay doanh nghiệp tư nhân tăng từ mức 55,3% tổng dư nợ năm 2000 lên 68,7% tổng dư nợ năm 2007.
Qua phân tích trên, có thể thấy tác động của lãi suất trên thị trường tiền tệ đã có tác động tương đối rõ nét đến hành vi tiết kiệm, tiêu dùng của cá nhân và đầu tư của doanh nghiệp và phù hợp với lý thuyết, qua đó sẽ có tác động đến tổng cầu của nền kinh tế, đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Vì vậy, việc điều tiết lãi suất của NHNN để tác động đến tăng trưởng và lạm phát trong giai đoạn hội nhập này là rất cần thiết.
1.1.3.Vai trò điều tiết lãi suất của NHTƯ
NHTƯ với chức năng bẩm sinh, là cơ quan duy nhất điều tiết được cung tiền của nền kinh tế, chủ động tác động đến lãi suất thị trường, nhằm hướng tới mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trên thực tế, sự tăng lên của lãi suất chính thức của NHTƯ có thể có ảnh hưởng mạnh đến giảm lạm phát khi sự thay đổi lãi suất chính thức của NHTƯ có tác động nhanh, mạnh đến sự thay đổi lãi suất trong nền kinh tế và tỷ giá hối đoái.
Điều này càng đúng hơn trong nền kinh tế có hệ thống tài chính mở và cạnh tranh hơn, khi đó nhiều hợp đồng được ký kết trên cơ sở lãi suất thả nổi hơn là trên cơ cở lãi suất cố định, lúc đó những thay đổi trong lãi suất chính thức càng có ảnh hưởng đến lãi suất khác và tỷ giá. Mặt khác, sự tăng lên của lãi suất NHTƯ có thể có ảnh hưởng nhanh hơn trong việc giảm lạm phát và dẫn đến sản lượng giảm chút ít trong ngắn hạn, khi:
Kỳ vọng tiền lương và giá cả nhạy cảm hơn với những thay đổi trong lãi suất chính thức và tiền cung ứng( độ nhạy cảm này sẽ tăng lên nếu chính sách có độ tin cậy); hoặc/và tiền lương nhạy cảm với những thay đổi của sản lượng và việc làm ( sự nhạy cảm này tăng lên khi thị trường lao động linh hoạt); khi tỷ giá là linh hoạt; và khi giá cả trong nước nhạy cảm với những thay đổi trong tỷ giá (sự nhạy cảm này phụ thuộc vào những thay đổi của giá hàng nhập khẩu theo tỷ giá, theo đó cũng phụ thuộc vào những nhà xuất khẩu nước ngoài không thay đổi lợi nhuận cận biên của họ, và phụ thuộc vào ảnh hưởng của những thay đổi giá nhập khẩu lên giá cả trong nước. Mức độ ảnh hưởng càng lớn khi nhập khẩu chiếm tỷ lệ lớn trong GDP, như đối với những nước nhỏ, mở cửa hơn là những nước lớn mà đóng cửa).
Vấn đề ở đây là để phát huy cao hiệu quả cơ chế lãi suất này trong bối cảnh thị trường hiện nay, thì việc phối kết hợp các công cụ CSTT để bơm ra (hút tiền vào) ở mức độ để đảm bảo không tạo ra sức ép tăng lãi suất (giảm quá lãi suất) so với mức lãi suất mục tiêu. Đồng thời với việc đổi mới này, cần tiếp tục nâng cao năng lực quản trị điều hành của các thành viên thị trường, nâng cao kỷ luật thị trường, tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động của NHNN đối với các NHTM và NHNN xác định mức lãi suất chỉ đạo phù hợp với cung, cầu vốn trên thị trường cũng như khả năng chịu đựng được của nền kinh tế.
1.1.4. Các tác động tới lãi suất
Thông qua vay nợ: Lãi suất tăng làm giảm vay nợ. Cá nhân giảm đi vay và tăng gửi tiết kiệm, do đó giảm tiêu dùng và tác động tiêu cực tới tổng cầu.
Doanh nghiệp giảm vay mới và do đó giảm đầu tư mới, nên tác động tiêu cực tới tổng cầu. Mặt khác, lãi suất tăng còn có nghĩa là giá cả các khoản vay hiện thời của doanh nghiệp tăng, có nghĩa là giá vốn tăng hay chi phí sản xuất tăng. Điều này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, khiến doanh nghiệp có xu hướng thu hẹp sản xuất; do đó tác động tiêu cực tới tổng cầu. Giãn thợ còn làm giảm thu nhập của người lao động. Điều này khiến họ giảm tiêu dùng. Tổng cầu lại chịu tác động tiêu cực.
Đối với hoạt động vay cầm cố, khi lãi suất tăng người ta sẽ giảm nhu cầu vay để xây hay mua nhà, do đó đầu tư xây nhà giảm, ảnh hưởng tiêu cực tới tổng cầu. Nó còn khiến cho việc trả nợ các khoản vay cầm cố hiện thời trở nên khó khăn hơn khiến người đi vay phải giảm tiêu dùng để còn trả nợ. Tổng cầu vì thế chịu tác động tiêu cực.
Thông qua tỷ giá hối đoái: Sơ đồ DD-AA là sơ đồ biểu diễn cơ chế xác định điểm cân bằng về sản lượng và tỷ giá hối đoái của một nền kinh tế mở. Đây là một lựa chọn khác thay thế cho mô hình Mundell-Fleming. Sơ đồ DD-AA được xây dựng trên cơ sở kết hợp hai đường cong DD thể hiện các điểm cân bằng trên thị trường sản lượng và AA thể hiện các điểm cân bằng trên thị trường tài sản. Lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất ở nước ngoài sẽ khiến cho dòng vốn từ nước ngoài tăng cường chảy vào trong nước. Điều này làm cho tỷ giá hối đoái giữa nội tệ với ngoại tệ giảm xuống. Xuất khẩu ròng vì thế giảm đi, khiến cho tổng cầu giảm theo.
Đường cong DD
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa tăng khiến sản lượng cân bằng tăng theo sự dịch chuyển dọc theo đường DD. Y, I, G, P* tăng hoặc T, P giảm làm sản lượng cân bằng tăng theo sự dịch chuyển song song sang phía phải của đường DD.
Đường cong DD thể hiện tập hợp các điểm cân bằng trên thị trường sản lượng (nghĩa là tổng cầu bằng tổng cung). Để xây dựng được đường DD, trước tiên chúng ta cần rõ cơ chế xác định tổng cầu.
Gọi D là tổng cầu, Y là thu nhập quốc dân, T là tổng thu từthuế, I là đầu tư theo kế hoạch của các hãng, G là chi tiêu của chính phủ, E là tỷ giá hối đoái danh nghĩa, P* là mức giá chung của nước ngoài, P là mức giá chung trong nước. Khi đó ta có phương trình tính tổng cầu như sau:
D = D(Y,T,I,G,E,P*,P)
trong đó, dD/dY>0, dD/dT0, dD/dG>0, dD/dP*>0, dD/dP<0.
Tổng cầu sẽ tăng khi xảy ra một hoặc đồng thời các thay đổi sau: thu nhập quốc dân tăng lên, chính phủ giảm thuế, đầu tư theo kế hoạch của hãng tăng lên, chính phủ tăng chi tiêu, mức giá chung của nước ngoài tăng lên, mức giá chung trong nước giảm xuống.
Giả định, nền kinh tế mở ở trạng thái cân bằng, do đó tổng cầu bằng tổng cung. Đường cong DD thể hiện sự cân bằng này. Như vậy, DD có thể bị tác động khi xảy ra những thay đổi nói trên. Nếu biểu diễn DD trên một trục tọa độ hai chiều với trục hoành là các mức sản lượng cân bằng, còn trục tung là các mức tỷ giá hối đoái danh nghĩa, thì với bất cứ sự thay đổi nào của tỷ giá ta sẽ có sự dịch chuyển dọc theo đường DD. Còn với bất cứ sự thay đổi nào của các nhân tố còn lại (Y, T, I, G, P*, P) ta sẽ có sự dịch chuyển của chính đường DD.
Đường cong AA
Đường cong AA dốc xuống phía phải. Tỷ giá hối đoái tăng làm sản lượng giảm xuống với sự di chuyển dọc theo đường AA. Khi sản lượng cố định, cung tiền tăng, mức giá chung trong nước giảm, giá trị kỳ vọng tương lai của tỷ giá tăng, lãi suất các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tăng đều làm tỷ giá hối đoái tăng với đường AA dịch song song sang phía phải.
Đường cong AA thể hiện tập hợp các điểm cân bằng trên thị trường tài sản (cân bằng đồng thời cả thị trường ngoại hối lẫn thị trường tiền tệ trong nước).
Cân bằng trên thị trường ngoại hối có thể diễn đạt bằng phương trình sau:
R = R* + (e(E) -E)/E (2)
Trong đó R là lãi suất của các khoản tiền gửi bằng nội tệ, R* là lãi suất của các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ, e(E) là giá trị kỳ vọng tương lai của tỷ giá hối đoái danh nghĩa, E là tỷ giá hối đoái danh nghĩa.
Cân bằng trên thị trường tiền tệ trong nước có thể diễn đạt bằng phương trình sau:
M/P = L(R,Y) (3)
Trong đó M là cung tiền trong nước, P là mức giá chung trong nước, Y là sản lượng (tổng cung bằng tổng cầu).
Từ (2) và (3) ta có:
E = E(M,R*,e(E),Y,P) (4)
với dE/dY0, dE/dP0, de/dR*>0.
Dựa vào quan hệ dE/dY<0 để xây dựng đường AA trên một trục tọa độ với trục hoành là sản lượng (Y) và trục tung là tỷ giá hối đoái danh nghĩa (E), ta thấy đường AA phải là một đường dốc xuống phía phải. Hễ tỷ giá hối đoái tăng thì Y sẽ giảm và ngược lại. Đây là một sự dịch chuyển dọc theo đường AA. Các nhân tố khác thay đổi ngoại trừ sản lượng cố định đều sẽ làm tỷ giá hối đoái thay đổi. Đây là sự thay đổi bằng dịch chuyển bản thân đường AA.
Sơ đồ DD-AA
Sơ đồ DD-AA giúp xác định sản lượng và tỷ giá cân bằng trong ngắn hạn
Ghép hai đường DD và AA vào cùng một trục tọa độ, ta có sơ đồ DD-AA. Giao điểm của hai đường chính là điểm cân bằng đồng thời cả thị trường sản lượng (mức sản lượng ở trạng thái toàn dụng lao động) lẫn thị trường tài sản (tỷ giá hối đoái danh nghĩa ở mức dài hạn của nó).
1.1.5. Các công cụ điều hành chính sách lãi suất của NHNN
Như đã biết, một trong những nhiệm vụ trung tâm cơ bản của Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách lãi suất để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ. Để thực hiện nhiệm vụ này Ngân hàng nhà nước phải sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ .
Trong giai đoạn đầu, khi nền kinh tế kém phát triển, thì chính sách tiền tệ nói chung và việc điều tiết lãi suất trong nền kinh tế nói riêng mang ý chí chủ quan của Nhà nước. Khi ấy, các qui luật kinh tế không phát huy tác dụng. Trong bối cảnh đó cơ quan quản lý Nhà nước (cụ thể là Ngân hàng nhà nước) thường phải sử dụng các công cụ mang tính chất mệnh lệnh hành chính trực tiếp. Ngày nay những tiến bộ đã đạt được trong công cuộc đổi mới tạo được tiền đề để Ngân hàng nhà nước dần chuyển sang các công cụ điều hành gián tiếp. Mục đích của sử dụng điều hành công cụ gián tiếp nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong đó có điều tiết lãi suất thị trường thông qua một số biện pháp như:
a) Công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc (dự trữ bắt buộc)
Về mặt lý thuyết khi thực hiện công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc sẽ đạt được ba mục tiêu. Thứ nhất là đảm bảo khả năng thanh toán cho tổ chức tín dụng, đây là mục đích quan trọng nhất của công cụ này; thứ hai là khống chế bội số tiền tệ, tín dụng. Tỷ lệ dự trữ tối thiểu càng cao thì bội số tiền tệ, tín dụng càng nhỏ và ngược lại; thứ ba là gây nên hiệu ứng lãi suất của dự trữ tối thiểu. Do dự trữ tối thiểu không được trả lãi cho nên dự trữ tối thiểu càng nhiều thì tổ chức tín dụng càng phải nâng cao lãi suất cho vay để bù đắp cho cả phần lãi suất huy động vốn phải trả cho số vốn tăng lên đó của dự trữ tối thiểu.
Công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc lần đầu tiên được qui định trong pháp lệnh Ngân hàng nhà nước ban hành vào tháng 5/1990. Trên thực tế qua các năm thực hiện, công cụ dự trữ tối thiểu mới phát huy được tác dụng ở mức độ còn hạn chế nhưng ba năm trở lại đây tỷ lệ này ngày càng được giảm dần từ 15% xuống 12% v.v… và quyết định mới nhất gần đây của Ngân hàng nhà nước qui định dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng ở mức rất thấp là 2%/tổng tiền gửi để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có nguồn vốn dồi dào đáp ứng thanh toán đầu tư cho vay đó là quyết định số 581/2003/QĐ-NHNN ngày 9/6/2003 và QĐ831/QĐ-NHNN ngày 30/7/2003.
b) Công cụ lãi suất tái cấp vốn
Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất ngân hàng trung ương áp dụng khi cho các tổ chức tín dụng vay đáp ứng các nhu cầu tạm thời về vốn theo các điều kiện do ngân hàng trung ương qui định. Lãi suất tái cấp vốn được định thấp hơn lãi suất thị trường liên ngân hàng. Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất tái cấp vốn sẽ làm giảm nhu cầu vay ngân hàng trung ương của các tổ chức tín dụng đồng thời làm tăng nhu cầu vay giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng dẫn đến sẽ làm tăng lãi suất thị trường liên ngân hàng. Khi ngân hàng trung ương giảm lãi suất tái cấp vốn thì xảy ra hiện tượng ngược lại làm tăng nhu cầu vay ngân hàng trung ương của các tổ chức tín dụng, giảm nhu cầu vay vốn lẫn nhau như vậy làm giảm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Như đã đề cập, lãi suất thị trường liên ngân hàng thay đổi sẽ tác động làm thay đổi lãi suất cơ bản của các tổ chức tín dụng và mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế.
Từ tháng 10/1992, Ngân hàng nhà nước tiến hành cho vay tái cấp vốn đối với các Ngân hàng thương mại quốc doanh dưới hình thức cho vay lại các khế ước cho vay có chất lượng tốt. Lãi suất tái cấp vốn được qui định dưới dạng tỷ lệ phần trăm (nhỏ hơn hoặc bằng 100%) so với lãi suất trên khế ước cho vay của các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Mục đích của loại hình cho vay này là Ngân hàng nhà nước tạo thêm nguồn vốn cho các Ngân hàng thương mại quốc doanh để mở rộng cho vay đối với nền kinh tế .
Từ năm 1997 đến nay Ngân hàng nhà nước từng bước thực hiện mục tiêu làm thay đổi về bản chất hình thức cho vay tái cấp vốn biến nó thành công cụ của chính sách tiền tệ. Đối tượng được vay tái cấp vốn không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ các Ngân hàng thương mại quốc doanh mà được mở rộng đến các loại hình tổ chức tín dụng khác, làm tài sản cầm cố cho khoản vay không chỉ các hoạt động tín dụng cho vay có chất lượng tốt mà còn có các chứng từ có giá của tổ chức tín dụng, lãi suất tái cấp vốn được qui định lại theo các hình thức thông thường là tỉ lệ phần trăm của số tiền lãi phải trả so với khoản tiền vay.
c) Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Thực hiện nghiệp vụ thị trường mở là việc ngân hàng trung ương mua hoặc bán các chứng từ có giá trên thị trường chứng khoán (chủ yếu là thị trường OTC) thông qua đó thực hiện việc cung ứng hoặc rút khối lượng tiền khỏi lưu thông. Tín phiếu và trái phiếu kho bạc sẽ là công cụ chủ yếu của thị trường mở hiện nay có thêm trái phiếu chính phủ.
Như vậy khác với tái cấp vốn là hoạt động trong nội bộ hệ thống ngân hàng, trong hoạt động thị trường mở Ngân hàng nhà nước can thiệp trực tiếp vào thị trường chứng khoán, trong đó ngoài các tổ chức tín dụng còn có sự tham gia của các khu vực ngoài ngân hàng, tức là các đơn vị kinh tế và dân cư. Về nguyên tắc khi ngân hàng trung ương bán chứng khoán còn người mua bất kỳ có thể là tổ chức tín dụng, các tổ chức khác hay cá nhân thì cũng đều làm giảm tiền dự trữ của các tổ chức tín dụng, bởi vậy sẽ làm tăng nhu cầu vay mượn giữa các tổ chức tín dụng dẫn đến lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng lên. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương mua chứng khoán sẽ làm tăng tiền dự trữ của các tổ chức tín dụng, giảm nhu cầu vay mượn của các tổ chức tín dụng và dẫn đến giảm lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng.
Dù ở các nước tân tiến trên thế giới và ngay ở Việt nam ngành ngân hàng cũng đã có những cố gắng rất lớn để điều hành về lãi suất trên cơ sở phân tích, đánh giá các chỉ số vĩ mô trong nền kinh tế để có thể xác định được lãi suất trên thị trường là cao hay thấp, có tương ứng so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì việc lãi suất được hình thành tự do trên thị trường cũng chưa phải là lãi suất tối ưu. Điều đó được lý giải tại sao những nước có nền kinh tế thị trường phát triển ở mức cao Ngân hàng trung ương cũng phải có những biện pháp để tác động điều chỉnh lãi suất thị trường thông qua các công cụ gián tiếp. Chính vì thế ngoài các biện pháp can thiệp trên thì để có được các mức lãi suất cơ bản công bố phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô thì Ngân hàng nhà nước cần phải có sự điều chỉnh thích hợp được tính toán dựa trên kinh nghiệm thực tế trong quản lý, điều hành lãi suất trong nhiều năm qua.
1.2. Chính sách tiền tệ của một số nước và kinh nghiệm của Việt Nam
a) Hệ thống dự trữ liên bang Mỹ
Hệ thống dự trữ liên bang (viết tắt là FED – Federal Reserve System) là một tổ chức nhà nước của Mỹ, chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ của nước này trong quá trình cung ứng tiền tệ.
FED ra đời dựa trên Luật dự trữ liên bang năm 1913, nhằm điều tiết những mục tiêu về tối đa việc làm, ổn định giá cả và điều chỉnh lãi suất dài hạn. Cấu trúc chính thức của Hệ thống dự trữ liên bang là nhằm phân rộng quyền lực theo vùng lãnh thổ, giữa khu vực tư nhân và nhà nước; giữa các ngân hàng, giới kinh doanh và công chúng.
Cơ cấu hoạt động của FED
Sáu mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ mà Dự trữ Liên bang thường xuyên đề cập đến là: (1) công ăn việc làm cao; (2) tăng trưởng kinh tế; (3) ổn định giá cả; (4) ổn định lãi suất; (5) ổn định thị trường tài chính; (6) ổn định thị trường ngoại hối.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ được giải thích thông qua Luật Dự trữ Liên bang, cụ thể qua việc Hội đồng thống đốc và Uy ban thị trường tự do Liên bang điều hành một cách hiệu quả mục tiêu của việc tối đa việc làm, ổn định giá cả và điều tiết lãi suất dài hạn. Nằm ngoài tầm ảnh hưởng của mức giá và mức sản lượng trong ngắn hạn, FED co thể góp phần vào sự ổn định về tài chính và diễn biến của nền kinh tế tốt đẹp hơn bằng cách ngăn chặn sự phá vỡ tài chính và ngăn chặn lan rộng ra bên ngoài khu vực tài chính.
Mặc dù nhiều mục tiêu nêu ra nhất trí với nhau – việc làm cao với tăng trưởng kinh tế hoặc ổn định lãi suất với ổn định thị trường tài chính- nhưng điều đó không phải lúc nào cũng như vậy. Mục tiêu ổn định giá cả thường mâu thuẫn với mục tiêu ổn định lãi suất và việc làm cao trong thời gian ngắn. Ví dụ, khi nền kinh tế đang ổn định và thất nghiệp giảm xuống thì lạm phát và lãi suất có thể bắt đầu tăng lên. Nếu FED cố gắng tránh lãi suất tăng lên bằng cách mua trái khoán, làm giá cả trái khoán tăng lên và do đó lãi suất giảm xuống, thì việc mua trái khoán đó trên thị trường tự do sẽ làm cho cơ số tiền tệ và cung ứng tiền tệ tăng lên, thúc đẩy lạm phát. Mặt khác, nếu FED làm giảm việc tăng trưởng cung ứng tiền tệ để tránh lạm phát, thì trong thời gian ngắn cả lãi suất và thất nghiệp có thể tăng lên. Mâu thuẫn giữa các mục tiêu có thể đặt FED trước một số quyết định khó khăn.
Có ba công cụ mà FED có thể sử dụng để điều tiết cung ứng tiền tệ:
° Nghiệp vụ thị trường tự do là công cụ chính sách tiền tệ quan trong nhất bởi vì những nghiệp vụ này là yếu tố quyết định quan trọng đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ, và là nguồn chính gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ..
° Chính sách chiết khấu, mà chủ yếu làm thay đổi lãi suất chiết khấu, tác động đến cung ứng tiền tệ bằng cách ảnh hưởng đến khối lượng cho vay chiết khấu và cơ số tiền tệ. Những thay đổi trong dự trữ bắt buộc tác động đến cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra thay đổi số nhân cung ứng tiền tệ.
° Dự trữ bắt buộc: dự trữ bắt buộc tăng làm giảm số tiền gửi được nâng đỡ bởi một mức nhất định của cơ số tiền tệ và sẽ dẫn đến việc thu hẹp cung ứng tiền tệ. Mặt khác, một sự sụt giảm của dự trữ bắt buộc dẫn đến sự tăng lên cung ứng tiền tệ bởi vì có thể tạo thêm tiền gửi gấp nhiều lần.
Chính sách lãi suất của Mỹ tác động đến vị thế của đồng USD trên thị trường tài chính quốc tế.
Từ sau Thế chiến thứ II, đồng USD vẫn luôn giữ được vị trí số một trong nền kinh tế thế giới, thể hiện ở các điểm sau:
- Dự trữ ngoại hối của NHTW các nước bao gồm vàng và các ngoại tệ mạnh. Trong các ngoại tệ mạnh được dự trữ thì USD luôn chiếm tỷ lệ quyết định.
- Hầu hết hàng hóa cơ bản trên thế giới đều được yết giá qua USD trong các khoản nợ quốc tế.
- Đôla Mỹ là đồng tiền được sử dụng nhiều nhất trong thương mại quốc tế và trong các khoản nợ quốc tế.
- Trong lĩnh vực phi mậu dịch, nhất là du lịch quốc tế, USD được coi là đồng tiền vạn năng, được chấp nhận rộng rãi trên các thị trường bán lẻ ở mọi nơi.
Xu hướng phục hồi giá của đồng USD chủ yếu được châm ngòi bởi sự lạc quan của các nhà đầu tư và các thành viên thị trường trước những cam kết của Washington vào thời điểm đầu năm 2005 với chính sách một đồng đôla mạnh, nổ lực tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ, thắt chặt ngân sách và việc tăng lãi suất. Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2005, đồng USD đã tăng giá tới 13% so với đồng Euro, 7,5% so với đồng bảng Anh và đồng Yên Nhật. Lý do đầu tiên cho cuộc phục hồi này là do FED liên tục tăng lãi suất. Đến thời điểm bây giờ, tổng cộng FED đã tiến hành 17 lần tăng lãi suất chủ đạo.
Bảng 2: Diễn biến lãi suất chỉ đạo của FED trong năm 2004-2006
Việc giữ được ổn định của giá cả và kiềm chế lạm phát ở tỷ lệ thích hợp năm 2005 bất chấp những ảnhh hưởng của giá dầu thế giới tăng và thiệt hại sau hai cơn bão cho thấy sự đóng góp hữu hiệu của chính sách tài chính-tiền tệ linh hoạt của chính phủ Mỹ. Với quan điểm “FOMC (Ủy ban thị trường tự do Liên bang Mỹ) sẽ có những đối phó cần thiết với những thay đổi trong triển vọng kinh tế để đảm bảo trách nhiệm của chính phủ trong việc ổn định giá cả”, những thay đổi trong chính sách tiền tệ, mà cụ thể là những thay đổi trong lãi suất của FED đã có tác động tích cực đến sự tăng trưởng trở lại của nền kinh tế và tăng gi._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6112.doc