Thực trạng điều hành cstt ở Việt Nam tồn tại và giải pháp

Phần I: Cơ sở lý luận chung Khái niệm chính sách tiền tệ (CSTT) Ta có thể định nghĩa: “Chính sách tiền tệ là một chính sách của Nhà nước, của NHTƯ trong việc thay đổi cung cầu tiền trong nền kinh tế, trên cơ sở đó tác động vào các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác như lạm phát, thất nghiệp, ....”. Tiền tệ ở đây được hiểu như là tổng các phương tiện thanh toán mà người ta sẵn sàng chấp nhận để mua bán hàng hoá, dịch vụ, thanh quyết toán các khoản nợ của mình, bao gồm các loại giấy bạc và tiền kim lo

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng điều hành cstt ở Việt Nam tồn tại và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại do NHTƯ phát hành, các chứng khoán và giấy tờ có giá khác. Nhiệm vụ của CSTT là phải cung cấp đầy đủ các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân, bảo đảm lượng tiền cung ứng cho quá trình lưu thông hàng hoá. Nếu thừa phương tiện thanh toán sẽ gây ra những chi phí về phát hành giấy bạc, công trái, ... và dẫn tới lạm phát do thừa phương tiện thanh toán để mua hàng hoá trên thị trường nội địa cũng như làm tăng tỷ giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ. Nhưng nếu thiếu phương tiện thanh toán thì có thể làm ách tắc quá trình lưu thông hàng hoá, gây ra hàng loạt các hậu quả xấu. Vì thế điều tiết tốt lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế là rất quan trọng. Có hai loại CSTT: CSTT mở rộng (lỏng) là chính sách được thực hiện nhằm mục tiêu tăng lượng cung tiền trong nền kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên sôi động hơn, đầu tư tăng lên và sản xuất kinh doanh mở rộng vì trong giai đoạn đầu thì lãi suất vốn vay ngân hàng có thể giảm và các nhà đầu tư dự tính tới một nền kinh tế mạnh hơn, dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống, sau đó lãi suất có thể tăng vì người tiêu dùng tính rằng việc tăng lượng tiền có thể dẫn tới lạm phát, họ tiêu dùng nhiều hơn....; ngược lại, CSTT thắt chặt (chặt) nhằm làm cho giảm mức cung tiền trong nền kinh tế, dẫn tới những hiệu ứng trái ngược với CSTT mở rộng. Các tác nhân trong quá trình cung ứng tiền tệ Quá trình cung ứng tiền tệ có bốn tác nhân: Ngân hàng trung ương (NHTƯ), các ngân hàng thương mại (NHTM- hay tổ chức nhận tiền gửi), những người gửi tiền, và những người vay tiền. Trong một quốc gia thì CSTT có thể do NHTƯ xây dựng và quyết định, cũng có thể do cơ quan khác quyết định tuỳ theo trình độ phát triển của công nghệ ngân hàng và cơ cấu tổ chức Nhà nước của quốc gia đó. Tuy nhiên trong mọi nền kinh tế hiện đại thì CSTT luôn là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước, và là hoạt động cơ bản nhất của NHTƯ. Lịch sử hình thành các NHTƯ cũng dựa trên hai cơ sở là do nhu cầu của các NHTM (là “ngân hàng của các ngân hàng”) và nhu cầu của quản lý Nhà nước. Hoạt động của NHTƯ nhằm hai mục đích chính là ổn định giá trị đồng nội tệ và đảm bảo cho hoạt động của các ngân hàng trong nước được an toàn và hiệu quả. Khi NHTƯ độc lập với Chính phủ, độc lập và có thể cho vay với Kho bạc nhà nước thì nó thực hiện chức năng ổn định giá cả đồng tiền thông qua các biện pháp nghiệp vụ, bao gồm cả việc quyết định CSTT. Còn trong điều kiện NHTƯ không độc lập với Chính phủ (Thống đốc NHTƯ là một thành viên của Chính phủ) thì việc thông qua CSTT phải được sự đồng ý của Chính phủ. Các ngân hàng và tổ chức nhận tiền gửi khác nhận tiền gửi từ các cá nhân và tổ chức và thực hiện cho vay đến các đối tượng trong nền kinh tế. Tại các nước có trình độ công nghệ ngân hàng cao thì các tổ chức nhận tiền gửi có thể bao gồm các NHTM, các công ty tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết kiệm tương trợ, và các liên hiệp tín dụng. Còn tại các nước có trình độ công nghệ ngân hàng thấp hơn thì loại hình tổ chức nhận tiền gửi kém đa dạng hơn do khả năng quản lý kém hơn. Những người gửi tiền là các cá nhân và tổ chức có quyền chiếm hữu và định đoạt với tiền gửi ở ngân hàng, còn ngân hàng chỉ có quyền sử dụng vốn huy động được cho hoạt động tín dụng và đầu tư khác của ngân hàng ngoài phạm vi tiền dự trữ bắt buộc. Những người vay tiền là mọi cá nhân và tổ chức vay tiền từ các tổ chức nhận tiền gửi hoặc từ các tổ chức phát hành trái khoán, các trái khoán đó được các tổ chức nhận gửi mua. Điều hành chính sách tiền tệ là do NHTƯ của mỗi quốc gia, nhưng không thể không xem xét trong mối quan hệ tác với các tác nhân này. 3. Mục tiêu của CSTT Việc thực hiện CSTT ở bất kỳ một quốc gia nào cũng nhằm vào những mục tiêu cơ bản sau: 3.1. Tăng việc làm. Mọi quốc gia đều cần tính đến mục tiêu tăng việc làm nhằm ổn định xã hội, giảm bớt các tệ nạn do tình trạng thất nghiệp gây ra như trộm cắp, ma tuý, ... và tận dụng các tài nguyên về con người cũng như vật chất của đất nước, ngày càng nâng cao mức sống của người dân. Tuy nhiên tỷ lệ công ăn việc làm cao không phải ở quốc gia nào cũng như nhau. Những quốc gia có nền kinh tế phát triển cao có thể xem xét đến tỷ lệ thất nghiệp (hay tỷ lệ có việc làm) nên là bao nhiêu để vừa kích thích sự phát triển của nền kinh tế, vừa tạo ra động lực cạnh tranh cho người lao động- vì nếu không có thất nghiệp thì sẽ không có sự cạnh tranh trong lực lượng lao động và do đó làm giảm năng suất lao động- tỷ lệ này gọi là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Sức ép phải giảm tỷ lệ thất nghiệp ở đây không lớn như ở các nước nghèo vì mức thu nhập bình quân đầu người của họ đã cao hơn nhiều so với nhu cầu để duy trì cuộc sống. Còn các nước đang phát triển kinh tế chưa thể xem xét đến tỷ lệ đó, mà mục tiêu của mọi chính sách kinh tế là làm sao để giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống càng thấp càng tốt. Khi đó để tạo ra thêm công ăn việc làm cần phải thực hiện CSTT lỏng, làm giảm lãi suất, tăng hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh,... từ đó tăng dần lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế. 3.2. Mục tiêu ổn định lãi suất, giá cả, thị trường tài chính và thị trường ngoại hối. Mục tiêu ổn định lãi suất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho dân cư trong việc tính toán mua bán lâu dài các tài sản lớn và tiện cho các doanh nghiệp trong việc khảo sát nhu cầu thị trường để dự báo lập kế hoạch sản xuất kinh doanh. Với xu hướng phát triển loại hình mua bán trả góp để tăng nhanh vòng quay vốn và tạo công ăn việc làm cho người lao động thì việc ổn định lãi suất ngày càng quan trọng. Mục tiêu ổn định giá cả là điều ai cũng mong muốn vì khi giá cả tăng lên (lạm phát) sẽ gây nên tình trạng bấp bênh trong nền kinh tế. Khi đó cả người tiêu dùng và những người lập kế hoạch phát triển kinh tế vĩ mô cũng như vi mô đều khó ra quyết định. Hơn nữa các nhóm người khác nhau trong xã hội liên quan đến các nhóm hàng có sự tăng giá khác nhau sẽ gây nên những cạnh tranh căng thẳng không đáng có nhằm giữ quyền lợi của mình gây mất ổn định xã hội. Tất nhiên hoàn toàn không có lạm phát cũng không tốt vì khi đó sẽ không có sự tăng cung tiền và do đó không thể có sự tăng tổng sản phẩm trong nền kinh tế, không có sự đầu tư mở rộng nên không tạo công ăn việc làm.... Vì vậy mục tiêu hiện nay của CSTT ở mọi quốc gia là giữ cho lạm phát ở một mức độ vừa phải tuỳ theo đánh giá của mỗi nước về tình hình kinh tế nước mình, thông thường tỷ lệ này dao động dưới 10% (lạm phát vừa phải một con số). Mục tiêu ổn định thị trường tài chính luôn được các quốc gia có nền kinh tế phát triển đặc biệt quan tâm vì các nước này có những thị trường tài chính phát triển cao, lưu chuyển một khối lượng lớn vốn của đất nước. Trong các thị trường này thường xuyên có những biến động lớn về lãi suất và đây cũng là xu hướng trong những năm gần đây nên các tổ chức kinh doanh hoạt động trong khu vực này chịu rủi ro cao hơn, mỗi sự mất ổn định về lãi suất đều có thể làm cho một tổ chức kinh doanh tài chính gặp khó khăn lớn với các trái khoán dài hạn và cầm cố mà họ nắm giữ. Khi đó rất cần có sự can thiệp giúp đỡ của các NHTƯ để cho các thị trường hoạt động ổn định thông qua các khoản cho vay và sự điều chỉnh lãi suất của NHTƯ. Với các nước có thị trường tài chính chưa phát triển thì mục tiêu này chưa thực sự cấp bách nhưng không thể không quan tâm vì đó là bài học của các nước đi trước mà chắc chắn mỗi quốc gia sẽ phải trải qua trong quá trình phát triển kinh tế. Mục tiêu ổn định thị trường ngoại hối cũng không kém phần quan trọng. Khi NHTƯ can thiệp vào thị trường ngoại hối thì họ thu được hoặc mất đi một lượng dự trữ ngoại hối trong tổng lượng tiền dự trữ của mình, từ đó ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và sau đó là cung ứng tiền tệ, chưa kể đến ảnh hưởng do sự biến động của tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia đó. Khi tỷ giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ mạnh càng tăng thì các nhà xuất khẩu của nước đó được lợi do ưu thế giá cạnh tranh của hàng hoá, còn các nhà nhập khẩu của nước đó lại chịu thiệt, và trên tổng thể nếu quốc gia này nhập siêu thì có thể phải chịu thiệt nhiều hơn cái lợi thu được. Nếu một quốc gia có cán cân thanh toán thiếu hụt, tức là phải mất đi dự trữ ngoại tệ mạnh cũng làm cho tỷ giá của đồng tiền nước đó tăng lên, hoặc phải thực hiện CSTT thắt chặt, rồi sau khi ổn định cán cân thanh toán lại thực hiện CSTT lỏng, gây ra một sự mất ổn định trong nền kinh tế vốn đã đầy những biến động. 3.3. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên của tổng sản phẩm quốc dân, và chỉ có thể đạt được khi các mục tiêu trên được kết hợp hài hoà. Một sự tăng việc làm, ổn định giá cả và lạm phát, ổn định thị trường tài chính cũng như lãi suất tiền gửi và tỷ giá đồng nội tệ sẽ đảm bảo cho một sự tăng trưởng của nền kinh tế. Cần lưu ý là không phải tất cả các mục tiêu luôn có sự thống nhất với nhau, đặc biệt là trong thời gian ngắn. Sự tăng việc làm đòi hỏi phải có CSTT lỏng lại mâu thuẫn với mục tiêu ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát cần CSTT chặt. Về lâu dài thì sự mâu thuẫn này có thể được giải quyết thông qua việc sử dụng kết hợp với các chính sách khác, đặc biệt là chính sách tài khoá của ngân sách nhà nước. Đồng thời tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể mỗi quốc gia có sự chọn lựa những mục tiêu ưu tiên trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế để chọn lựa CSTT là chặt hay lỏng, và chặt hay lỏng ở mức độ nào, trong thời gian bao lâu. 4. Công cụ của CSTT Mỗi NHTƯ trong cơ chế thị trường có ba công cụ rất hiệu quả để thực hiện CSTT của mình thông qua việc điều tiết lượng cung tiền cho nền kinh tế, bao gồm: nghiệp vụ thị trường tự do- ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ, thay đổi lãi suất chiết khấu- ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ bằng cách ảnh hưởng đến lượng vay chiết khấu, và thay đổi dự trữ bắt buộc- ảnh hưởng đến số nhân tiền tệ. Ngoài ra còn một số công cụ khác cũng được sử dụng như lãi suất, tỷ giá hối đoái.... 4.1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa mức tiền dự trữ bắt buộc so với tổng số tiền gửi của khách ở NHTM, tỷ lệ này do pháp luật quy định, số tiền dự trữ bắt buộc đó không được sử dụng vào hoạt động tín dụng. Để xem xét cơ chế tác động của tỷ lệ này đến tổng cung tiền ta hãy xem xét cơ chế tạo tiền gửi của NHTM. Trong nền kinh tế thì có tới khoảng 90-95% tổng lượng tiền lưu hành và tiền gửi không kỳ hạn (hay tiền gửi có thể phát séc) ở các NHTM (gọi là khối tiền M1) là do các NHTM tạo ra, còn lại tiền lưu hành do các NHTƯ tạo ra chỉ chiếm khoảng 5-10% của M1. Ta có: M1= Tiền gửi có thể phát séc + Tiền mặt lưu hành Tiền gửi có thể phát séc= Tiền dự trữ * (1/Tỷ lệ dự trữ bắt buộc) Tiền dự trữ = Mọi giấy bạc do NHTƯphát hành đang lưu lại trong hệ thống ngân hàng (do NHTM dự trữ). Ta cũng có thể viết: M1= Cơ số tiền tệ * hệ số nhân tiền tệ Với: Hệ số nhân tiền tệ= 1/ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Tiền NHTƯ(Tổng tài sản nợ)= Tiền mặt lưu hành+ Tiền dự trữ Cơ số tiền tệ = Tổng tài sản nợ NHTƯ+ tài sản nợ tiền tệ của kho bạc Nhà nước. Thường người ta chỉ xem xét đến cơ số tiền tệ như là tổng tài sản nợ của NHTƯ vì thực tế là tổng nợ tài sản tiền tệ của kho bạc nhà nước chỉ chiếm không quá 10% của cơ số tiền tệ này. Ngoài ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn ảnh hưởng tới lãi suất của các NHTM, vì sự thay đổi tỷ lệ này làm cho lượng tiền có khả năng cho vay của ngân hàng và do đó lãi suất cho vay của ngân hàng thay đổi, làm cho lượng cung tiền cho nền kinh tế thay đổi, chẳng hạn các nhà đầu tư tranh thủ các nguồn vốn huy động với lãi suất thấp hơn. Như vậy ta có thể thấy sự thay đổi của tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể làm ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Việc sử dụng tỷ lệ này còn có thuận lợi là NHTƯ được chủ động quyết định, và bảo đảm sự bình đẳng giữa các ngân hàng. Tuy nhiên còn một số nhược điểm lớn khi áp dụng như sự thiếu linh hoạt do việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có tính chất pháp lý buộc phải được quốc hội thông qua không thể nhanh chóng, việc áp dụng chỉ phù hợp khi NHTƯ muốn điều chỉnh một lượng tiền quy mô lớn, lại gây chi phí tốn kém và rất phức tạp cho quản lý, hoặc nếu cần tăng tỷ lệ này sẽ làm cho các NHTM gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo tỷ lệ dự trữ. (Hơn nữa, xem xét kỹ hơn ta sẽ thấy rằng hệ số nhân tiền tệ không phản ánh đúng sự tăng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế . Nó chỉ đạt được một sự tăng như thế với giả định đồng tiền tạo ra chỉ được luân chuyển trong hệ thống ngân hàng và không có sự giữ lại phần tiền dự trữ vượt quá mức dự trữ bắt buộc trong các NHTM. Điều này là quá lý thuyết đến mức hầu như không thể xảy ra). 4.2. Chính sách chiết khấu Chính sách chiết khấu là chính sách NHTƯ cho NHTM vay vốn dưới hình thức tái chiết khấu, trên cơ sở đó làm thay đổi tiền dự trữ trong hệ thống NHTM, từ đó làm thay đổi lượng cung tiền trong nền kinh tế. Cơ chế tác động của chính sách chiết khấu là thông qua việc tăng hay giảm lãi suất tái chiết khấu và khối lượng vay chiết khấu mà NHTƯ làm cho các NHTM tăng hay giảm lãi suất vay (huy động vốn) và cho vay (sử dụng vốn) của mình, từ đó làm thay đổi lượng tiền vay và cho vay, làm thay đổi lượng cung tiền tệ. Một sự tăng lên của cho vay chiết khấu làm cho cơ số tiền tệ tăng lên vì tăng lượng tiền dự trữ trong các NHTM, làm cho lượng tiền cung ứng có thể tăng lên. Qua việc thực hiện cho vay chiết khấu với các đối tượng khác nhau nhằm đáp ứng từng nhóm NHTM về nhu cầu tạm thời, nhu cầu thời vụ và nhu cầu cho hoàn cảnh đặc biệt khác. Thông thường thì lãi suất tái chiết khấu thường thấp hơn lãi suất chung trên thị trường ngân hàng, và có thể là cơ hội cho một số ngân hàng đi vay từ NHTƯ rồi cho vay lại lấy lãi chênh lệch- điều này rất cần được hạn chế vì nó làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. Nó cũng có thể là cơ sở để các nhà đầu tư dự đoán xu hướng của lãi suất để có các quyết định hợp lý. Và một vai trò khác vô cùng quan trọng của chính sách chiết khấu là với tư cách người cho vay cuối cung, NHTƯ có thể giúp cho các NHTM chống đỡ được những cơn khủng hoảng tài chính- mà nguyên nhân có thể từ phía các ngân hàng hoặc không- có thể dẫn đến sụp đổ hàng loạt ngân hàng do thiếu hụt tiền dự trữ để thanh toán, khi đó các ngân hàng sẽ được NHTƯ lựa chọn ưu tiên cho vay làm tăng dự trữ và do đó làm tăng khả năng thanh toán tạm thời. Ngày nay các cuộc sụp đổ của các ngân hàng ngày càng nhiều, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển thì vai trò này càng trở nên quan trọng. Việc thực hiện chính sách chiết khấu có ưu điểm là linh hoạt hơn hẳn sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và vẫn bảo đảm vai trò của NHTƯ trong việc giám sát, quản lý các NHTM, đặc biệt trong hoạt động tín dụng (vay và cho vay). Qua chính sách chiết khấu NHTƯ cũng có thể tác động điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế với việc ưu tiên cho các ngân hàng hoạt động cho vay với các dự án trong các lĩnh vực đó. Hoặc với vai trò người cho vay cuối cùng cũng là một ưu điểm lớn của chính sách chiết khấu. Nhưng chiết khấu cũng có nhược điểm là NHTƯ chưa được thực sự chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng, vì còn phụ thuộc vào các NHTM và các doanh nghiệp cũng như dân cư. Do đó việc kiểm soát lượng tiền cung ứng trở nên vất vả hơn. Từ thông báo về lãi suất chiết khấu đến sự phản ứng của các NHTM làm thay đổi về lãi suất vay và cho vay, thay đổi về lượng tiền vay chiết khấu mà NHTƯ không thể tự quyết định được, và cuối cùng là NHTƯ cho vay chiết khấu thì dễ nhưng thu hẹp lượng tiền cung ứng bằng chiết khấu thì không phải là đơn giản. Hiện nay có hai quan điểm cải cách chiết khấu. Quan điểm thứ nhất là bỏ chính sách chiết khấu và chỉ cần có một tổ chức bảo hiểm cho các ngân hàng để tránh sự sụp đổ của các ngân hàng, từ đó tránh được sụp đổ tài chính, nhưng thực tế không tổ chức bảo hiểm nào có thể đủ lớn để bảo hiểm cho tất cả các ngân hàng nếu có sụp đổ tài chính xảy ra, và hơn nữa các sụp đổ tài chính có thể không hẳn có nguyên nhân từ sự sụp đổ các ngân hàng. Quan điểm thứ hai là có thể ràng buộc lãi suất chiết khấu với lãi suất thị trường để giảm sự biến động do chênh lệch giữa lãi suất chiết khấu và lãi suất thị trường, làm giản đơn các thủ tục vay vốn chiết khấu, và không còn những nhận định sai lầm về xu hướng của lãi suất chiết khấu, các ngân hàng cũng không còn cơ hội để đi vay chiết khấu kiếm lợi vì sẽ bị phạt. Quan điểm thứ hai đang được ủng hộ tuy chưa được áp dụng thử nghiệm. 4.3. Nghiệp vụ thị trường tự do Trong nghiệp vụ này NHTƯ mua bán các chứng khoán, trái phiếu trên thị trường tài chính làm cho cơ số tiền tệ thay đổi, và là nguồn chính gây nên những thay đổi trong cung ứng tiền tệ. Việc mua trên thị trường tiền tệ sẽ làm cho cơ số tiền tệ của NHTƯ tăng lên (do phát hành thêm tiền) và do đó làm tăng cung tiền tệ. Có hai loại nghiệp vụ thị trường tự do là nghiệp vụ thị trường tự do năng động nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ, và nghiệp vụ thị trường tự do thụ động nhằm bù đắp những chuyển động của các nhân tố khác đã ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ. Thông qua các xem xét về tổng số tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng cũng như lãi suất, các dự đoán giá cả chứng khoán mà thường là tín phiếu ngắn hạn của kho bạc nhà nước vì có tính lỏng cao và độ rủi ro thấp đồng thời có khối lượng lớn- ngoài ra còn có các chứng khoán và giấy tờ có giá khác cũng có thể được giao dịch, và cuối cùng là qua quyết định về lượng tăng cung tiền hay thắt chặt tiền tệ như thế nào để NHTƯ tiến hành các nghiệp vụ mua bán trên thị trường tự do để đạt mục tiêu của mình. Ưu điểm của nghiệp vụ thị trường tự do là NHTƯ có thể kiểm soát hoàn toàn lượng tiền tệ mình cung ứng ra thị trường, là một nghiệp vụ linh hoạt và chính xác có thể được sử dụng bất cứ lúc nào, giúp cho NHTƯ luôn chủ động trong điều tiết lượng cung tiền. Và nó cũng có thể tác động để đạt được những mục tiêu về dự trữ cũng như cơ số tiền tệ. Hơn nữa nếu có sai lầm cũng rất dễ sửa chữa bằng nghiệp vụ mua bán ngược lại. Chi phí cho nghiệp vụ này cũng là ít hơn so với hai nghiệp vụ trước, và lại đơn giản dễ thực hiện hơn. Vì thế đây luôn là nghiệp vụ được các NHTƯ sử dụng nhiều nhất và hiệu quả nhất, can thiệp vào phần lớn lượng tiền cung ứng. Nhược điểm duy nhất của nghiệp vụ này là việc mua bán trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào NHTƯ mà còn phụ thuộc vào những người mua và bán khác, vì khi kinh doanh ai cũng phải tính đến lợi nhuận, còn NHTƯ cũng không thể mua bán với bất cứ mức giá nào. 4.4. Hạn mức tín dụng. Thực hiện công cụ này có nghĩa là NHTƯ xác định tổng hạn mức tín dụng mà NHTM cho vay ra nền kinh tế và NHTƯ cần quản lý được hạn mức đó. Căn cứ để xác định hạn mức tín dụng bao gồm: tốc độ tăng trưởng kinh tế (x%), tỷ lệ lạm phát (y%), và có thể một số yếu tố khác như tỷ giá, thất nghiệp....(ta có thể bỏ qua). Khi đó hạn mức tín dụng tăng: x% + y%= z% và NHTƯ sẽ phân bổ các hạn mức tín dụng cho các NHTM. Đây là công cụ can thiệp trực tiếp mà NHTƯ sử dụng khi ba công cụ trên đã không có hiệu quả. Ưu điểm duy nhất của công cụ này là giúp cho NHTƯ quản lý và điều chỉnh lượng tiền cung ứng (M1) khi tất cả các công cụ tác động gián tiếp nêu trên đều đã vì những lý do nào đó mà hoạt động không hiệu quả, và thể hiện một trình độ công nghệ ngân hàng kém. Tuy chỉ có một ưu điểm nhưng nhược điểm của công cụ này có thể kể ra rất nhiều như: triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các ngân hàng vì đánh đồng giữa các ngân hàng hoạt động tốt và kém để phân chỉ tiêu tín dụng, rồi hạn mức tín dụng cố định mà lượng cầu tiền biến động cũng gây ra những hậu quả xấu, hơn nữa có thể các ngân hàng hoạt động kém không sử dụng hết hạn mức tín dụng gây lãng phí, chưa kể đến các hoạt động tín dụng không lành mạnh nằm ngoài pháp luật có thể xảy ra, các NHTM cũng ưa lựa chọn những dự án lớn cũng như dự án đầu tư cần vay tiền ưa chọn ngân hàng hoạt động tốt gây sai lệch trong đánh giá đầu tư, làm khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ và dự án nhỏ trong việc vay vốn...... 4.5. Quản lý lãi suất NHTM Biện pháp NHTƯ quản lý lãi suất NHTM cũng chỉ bất đắc dĩ mới được sử dụng. Theo đó NHTƯ trực tiếp quy định lãi suất của các NHTM qua các cơ chế về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chiết khấu và cho vay với các NHTM, thậm chí là quy định trực tiếp lãi suất của NHTM. Những biện pháp mạnh như vậy có thể làm thay đổi lượng cung tiền, nhưng là một sự can thiệp quá thô bạo vào hoạt động của NHTM, làm giảm tính độc lập tự chủ của NHTM trong hoạt động của mình huy động vốn và cho vay). Hơn nữa lãi suất cố định làm mất tính cạnh tranh giữa các ngân hàng, làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng, cũng như làm mất cơ hội làm giảm lãi suất trên thị trường vì không có sự cạnh tranh về giá cả tiền vay(lãi suất) đối với người đi vay. Hai công cụ sau cùng chỉ được áp dụng sau cùng trong cơ chế thị trường để can thiệp trực tiếp vào những mục tiêu trung gian của CSTT khi có những biến động lớn xảy ra mà NHTƯ không thể sử dụng ba công cụ đầu tiên tác động gián tiếp thông qua các tổ chức tín dụng trung gian có hiệu quả. Ngoài ra nó chỉ được áp dụng trong cơ chế quản lý kinh tế bao cấp của các quốc gia xã hội chủ nghĩa trong những năm trước đây. Có thể nói việc sử dụng các công cụ nào để điều hành CSTT của mỗi quốc gia là tuỳ theo những điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng nước để vận dụng linh hoạt sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Tên gọi hay cách thức sử dụng các công cụ có thể biến tướng nhưng mục tiêu cuối cùng của các CSTT đều giống nhau. Phần II. Thực trạng điều hành CSTT ở Việt Nam Tồn tại và giải pháp 1. Sơ lược quá trình phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam. Mới đây các ngân hàng quốc doanh Việt Nam đã tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm thành lập ngành 6/5/1951- 6/5/2001. Trong quá trình hoạt động của mình, ngành ngân hàng Việt Nam có thể chia ra các thời kỳ trước và sau khi đổi mới. Thời kỳ trước khi đổi mới có thể được tính ngay từ khi cách mạng tháng Tám thành công cho đến trước Đại hội Đảng toàn quốc năm 1986. Ngay khi cách mạng mới giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhìn thấy nhu cầu cần thiết nắm lấy nền tài chính để có điều kiện thực hiện cuộc kháng chiến của dân tộc, vì thế mặc dù không chiếm lĩnh nhà băng Đông Dương thuộc Pháp nhưng với quan điểm chính quyền cách mạng phải có một ngân hàng quốc gia lớn mạnh đã khẩn trương chuẩn bị một số biện pháp về tiền tệ và tín dụng, vừa đảm bảo đáp ứng yêu cầu trước mắt của cuộc kháng chiến, vừa chuẩn bị tiền đề cho sự ra đời của ngân hàng quốc gia Việt Nam. Đến đầu tháng 5/1951, để đáp ứng những yêu cầu mới của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL ngày 6/5/1951 thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Thực hiện sắc lệnh trên, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã có Nghị định số 94/TTg ngày 27/5/1951 quy định hệ thống tổ chức của Ngân hàng quốc gia, trong đó có các Ngân hàng xuất nhập khẩu đặt tại các vùng giáp ranh giữa vùng tự do và vùng địch tạm chiếm với nhiệm vụ đấu tranh tiền tệ giữa vùng ta và địch nhằm góp phần trao đổi hàng hoá dịch vụ, phục vụ cuộc kháng chiến. Đến năm 1954, vai trò của các ngân hàng này chấm dứt, chúng ta tiếp quản Ngân hàng Đông Dương thuộc Pháp, riêng hoạt động quản lý ngoại hối được giao cho Sở quản lý ngoại hối trực thuộc Ngân hàng quốc gia Việt Nam (thành lập theo Nghị định 43/TTg ngày 20/1/1955 của Chính phủ). Ngày 26/10/1961, Hội đồng Chính phủ có Nghị định số 171/CP đổi tên Ngân hàng quốc gia Việt Nam thành Ngân hàng nhà nước (NHNN) Việt Nam, đổi tên Sở quản lý ngoại hối thành Cục ngoại hối trực thuộc NHNN. Lúc này hệ thống ngân hàng Việt Nam là hệ thống ngân hàng một cấp, NHNN là ngân hàng duy nhất đảm nhiệm tất cả các nghiệp vụ ngân hàng, vừa làm chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng, vừa làm chức năng kinh doanh. Trong bộ máy tổ chức nhà nước Việt Nam quy định NHNN là cơ quan trực thuộc Chính phủ, Thống đốc ngân hàng là thành viên Chính phủ. Sau đó để mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế đối ngoại, ngày 30/10/1962, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 115/CP thành lập Ngân hàng ngoại thương Việt Nam để có một ngân hàng có tư cách pháp nhân trong các quan hệ giao dịch thanh toán quốc tế, và đến ngày 1/4/1963 Ngân hàng ngoại thương chính thức xuất hiện trên thương trường quốc tế. Ngân hàng ngoại thương là một NHTM hoạt động với tư cách một pháp nhân độc lập, có vốn và có trụ sở độc lập với NHNN Việt Nam, có Hội đồng quản trị, có Ban điều hành và hoạt động theo Điều lệ được công bố. Tuy nhiên trong quan hệ đối nội thì ngân hàng ngoại thương vẫn đảm nhiệm chức năng của Cục ngoại hối, làm đơn vị tham mưu cho NHNN về các chính sách quản lý ngoại tệ và kinh tế đối ngoại, cho đến năm 1977 khi NHNN thành lập Vụ kinh tế ngoại tệ thì ngân hàng ngoại thương mới hoạt động như một NHTM thuần tuý. Ngoài ra, trong thời kỳ bao cấp còn có một ngân hàng khác trực thuộc NHNN là Ngân hàng đầu tư & phát triển, được thành lập theo Nghị định số 177/TTg ngày 26/4/1957 của Thủ tướng Chính phủ. Ban đầu tên gọi của ngân hàng này là Ngân hàng kiến thiết Việt Nam từ ngày 26/4/1957, rồi đổi thành Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Việt Nam từ ngày 26/4/1981, đến ngày 14/11/1990 chính thức lấy tên là Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam. Ngân hàng được thành lập với mục tiêu như tên gọi của nó là phục vụ cho công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước, bảo đảm giao thông vận tải, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ chiến tranh, sau đó là công cuộc khôi phục đất nước kể từ sau ngày giải phóng. Như vậy chức năng hoạt động ban đầu của ngân hàng này không phải là một NHTM, tuy nó còn được thành lập sớm hơn cả Ngân hàng ngoại thương. Như vậy, hệ thống ngân hàng cho đến năm 1964 đã chia ra NHNN, Ngân hàng ngoại thương và Ngân hàng kiến thiết. Nhìn chung các ngân hàng đã thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình trong giai đoạn đất nước có chiến tranh, góp phần không nhỏ vào sự lưu thông hàng hoá tiền tệ, ổn định nền kinh tế đất nước, xây dựng được một nền kinh tế hậu phương vững chắc để hỗ trợ cho tiền tuyến. Khi đất nước thống nhất năm 1975, cũng hệ thống ngân hàng này đã tiếp quản hệ thống tài chính ngân hàng của miền Nam, mở rộng hoạt động thống nhất trên toàn quốc. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế ngày càng lớn mạnh, quan hệ kinh tế ngày càng mở rộng, đồng thời do tình hình trong nước và quốc tế mà đến đầu những năm 80 thì chúng ta đã nhận thấy phải có sự phân biệt rạch ròi giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh của các ngân hàng, không thể để tình trạng ngân hàng một cấp hoạt động với hai chức năng mà thực tế không thể chung chạ được. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI năm 1986 đưa ra chủ trương thực hiện đường lối kinh tế đổi mới, đến ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT đã đánh dấu một sự chuyển đổi của hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp, phân định rạch ròi hai chức năng quản lý tiền tệ và kinh doanh tiền tệ. Vai trò lịch sử của ngân hàng một cấp đã chấm dứt, cần có mô hình ngân hàng hai cấp cho phù hợp với thời kỳ mới. Nhưng do các bất cập về tư duy và cán bộ lúc đó chỉ có vậy nên bản thân Nghị định 53 chưa thể thiết kế được hệ thống ngân hàng hai cấp. Đến năm 1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước CHXHCNVN chính thức ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng là Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, khẳng định sự ra đời mô hình ngân hàng hai cấp theo cơ chế thị trường ở nước ta là NHNN và NHTM, với sự ra đời của các NHTM quốc doanh mới là Ngân hàng công thương và Ngân hàng nông nghiệp, cùng hoạt động với các NHTM khác là Ngân hàng đầu tư & phát triển và Ngân hàng ngoại thương. Đến năm 1997 thì chúng ta có Luật NHNN và Luật các TCTD được thông qua. Kể từ đây NHNN hoạt động theo Luật NHNN và có chi nhánh ở 61 tỉnh thành trong cả nước, độc lập với chính quyền địa phương và chỉ chịu sự chỉ đạo theo ngành dọc từ NHTƯ. NHNN là cơ quan trực thuộc Chính phủ, Thống đốc NHNN là thành viên của Chính phủ. Ngành ngân hàng cũng được tổ chức theo ngành dọc, quan hệ giữa các UBND và HĐND địa phương đối với chi nhánh NHNN ở địa phương không phải là quan hệ lãnh đạo- phục tùng, mà các chi nhánh NHNN chỉ có trách nhiệm cố vấn cho chính quyền địa phương và thực hiện các nghiệp vụ của NHNN đối với các NHTM địa phương. Bên cạnh NHNN, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng đã phát triển mạnh mẽ, có đủ mọi thành phần kinh tế, bao gồm bốn NHTM quốc doanh là Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng công thương, Ngân hàng Nông nghiệp & phát triển nông thôn, và Ngân hàng đầu tư & phát triển, hơn 50 NHTM cổ phần, hơn 20 chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện thuộc 47 ngân hàng và công ty tài chính của 21 quốc gia, chưa kể đến các ngân hàng liên doanh và các công ty tài chính, các ngân hàng chính sách như Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng phát triển nhà ở ĐBSCL....Ngoài ra còn có hàng ngàn các quỹ tín dụng cơ sở, một quỹ tín dụng trung ương, các quỹ tín dụng khu vực tỉnh thành,.... Đối với bốn NHTM quốc doanh, hiện nay tỷ phần thị trường của bốn ngân hàng này chiếm tới khoảng 80% thị phần toàn ngành. Mặc dù ban đầu khi được thành lập mới như Ngân hàng công thương và Ngân hàng Nông nghiệp, hoặc thành lập lại như Ngân hàng ngoại thương và Ngân hàng đầu tư & phát triển, mục tiêu hoạt động của mỗi ngân hàng theo đúng với tên gọi của nó chỉ chuyên trách về một mảng trong nền kinh tế, song thực tế hoạt động cho thấy mục tiêu đó là không phù hợp. Vì thế khi Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 90/TTg ngày 7/3/1994 cho các doanh nghiệp lớn nhà nước hoạt động theo mô hình Tổng công ty đã quyết định thành lập lại các ngân hàng này hoạt động theo mô hình Tổng công ty nhà nước, có các chi nhánh là các đơn vị thành viên có thể hạch toán độc lập và có thể kinh doanh tổng hợp trên nhiều lĩnh vực. Hiện nay các ngân hàng được phép đầu tư hoặc cho vay vào những lĩnh vực mà ngân hàng và khách hàng vay vốn của ngân hàng có liên quan và hoạt động có hiệu quả. Các ngân hàng cũng có thể hợp tác với nhau để đầu tư cho những dự án lớn mà một ngân hàng không thể đủ khả năng cho vay hoặc cần phải phân tán rủi ro đầu tư. 2. Thực hiện CSTT thời kỳ trước đổi mới. Khi cách mạng giành được chính quyền, giấy bạc Đông Dương của Nhà băng Đông Dương thuộc Pháp phát hành vẫn được Chính phủ chủ trương cho lưu thông thêm một thời gian vì đó là tài sản của nhân dân. Sau một thời g._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33645.doc
Tài liệu liên quan