Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế ngày càng một phát triển như ngày nay thì đồng tiền và sự ổn định của đồng tiền là điều vô cùng quan trọng với mọi quốc gia trên thế giới. Tất cả các nền kinh tế luôn mong muốn ổn định giá trị đồng tiền. Sự ổn định này chịu sự tác động mạnh mẽ bởi hoạt động của hệ thống các ngân hàng. Thông qua việc quản lý và điều hành của mình, NHTW có thể làm thay đổi tiền tệ trên tất cả các mặt lưu lượng, chi phí hay giá trị… Tất cả những tác động từ phía NHTW đều mang

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1623 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tính chiến lược mà chúng ta vẫn gọi là chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ tập trung vào giải quyết vấn đề thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền tệ cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển theo những hướng đã định, kiểm soát giá trị đồng tiền trong nước cũng như xác định tỷ giá với ngoại tệ… hướng tới mục tiêu cuối cùng là là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hóa. Chính sách tiền tệ có ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia, nền kinh tế tăng trưởng hay khủng hoảng đều có tác động của chính sách tiền tệ. Ví dụ tiêu biểu mà chúng ta có thể thấy là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu mà nguồn gốc là cuộc khủng hoảng về cho vay bất động sản ở Mỹ. Trong cơn bão khủng hoảng ấy, nền kinh tế mới phát triển của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Việc nghiên cứu đánh giá hiệu quả việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam là cần thiết để nền kinh tế Việt Nam ổn định và phát triển vững chắc hơn. Chính vì thế mà em chọn đề tài “ Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” để có cơ hội tìm hiểu hơn về chính sách tiền tệ và việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC 1.1.Khái niệm và đặc trưng của chính sách tiền tệ 1.1.1.Chính sách tiền tệ Hoạt động của ngân hàng liên quan đến sự ổn định hay thay đổi của tiền tệ về lưu lượng, chi phí và giá trị, dẫn đến sự tác động vào giá cả hàng hóa về giá trị tài sản, thu nhập của dân cư, làm chuyển biến mức sống của họ theo hai hướng: khó khăn, đắt đỏ hay thuận lợi, tiện nghi. Vì vậy, để đạt được sự biến động về đời sống và sinh hoạt kinh tế của cả cộng đồng, người ta có thể bắt đầu tác động vào tiền tệ. Mối quan hệ đó đã tạo ra những biến động về tiền tệ được gọi là chính sách tiền tệ. Tùy theo trình độ phát triển của nền kinh tế, thể chế chính trị và giác độ nghiên cứu, người ta phân biệt chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường; chính sách tiền tệ của NHTW và chính sách tiền tệ quốc gia. Chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế, trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Chính sách tiền tệ theo nghĩa hẹp là chính sách đảm bảo sao cho khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế và chỉ số lạm phát nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chính sách tiền tệ quốc gia là tổng thể các biện pháp của Nhà nước pháp quyền nhằm cung ứng đầy đủ các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế phát triển trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước là tổng thể tất cả các biện pháp, công cụ mà ngân hàng nhà nước sử dụng nhằm điều tiết khối lượng tiền tệ, tín dụng, ổn định tiền tệ, góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế. Ở những nước mà NHTW trực thuốc Chính phủ thì không có sự tách biệt giữa chính sách tiền tệ của NHTW và quốc gia. Trong trường hợp này chính sách tiền tệ của NHTW thực hiện là chính sách tiền tệ quốc gia. 1.1.2. Đặc trưng của chính sách tiền tệ: 1.1.2.1. Chính sách tiền tệ là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách tài chính quốc gia. Trong tổng thể các chính sách kinh tế của một quốc gia, mỗi chính sách đều có vai trò riêng trong đó chính sách tiền tệ được coi là có vị trí trung tâm, quan trọng, gắn kết các chính sách lại với nhau. Mức độ tiền tệ hóa cao hay thấp của một nền kinh tế phản ánh trình độ phát triển kinh tế của nước ấy. Do đó, tiền tệ đã thâm nhập và trở thành một yếu tố hết sức quan trọng trong mọi nền kinh tế. Luật NHNN Việt Nam khẳng định chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách tiền tệ - tài chính của Nhà nước. Cùng với chính sách tài khóa thì chính sách tiền tệ có thể được coi là công cụ để NHTW điều tiết vĩ mô nền kinh tế. 1.1.2.2. Chính sách tiền tệ là công cụ vĩ mô của ngân hàng nhà nước. Để đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô đã được hoạch định, chính phủ cần phải sử dụng hệ thống các công cụ. Nếu xét riêng về chính sách kinh tế thì có 4 chính sách chủ yêu là: chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách đối ngoại và chính sách thu nhập. Chính sách tiền tệ được sử dụng để làm thay đổi lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế từ đó tác động đến lãi suất, tác động đến đầu tư và ảnh hưởng đến sản xuất, lưu thông hàng hóa, và do vậy chính sách tiền tệ là một chính sách thuộc tầm vĩ mô. 1.1.2.3 Mục tiêu tổng quát của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền và góp phấn thực hiện một số mục tiêu vĩ mô khác. Với bất kì một nền kinh tế nào, vai trò của ổn định kinh tế và nâng cao sức mua đồng tiền trong nước cũng luôn được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn. Trên cơ sở thực thi chính sách tiền tệ, nhằm tác động đến lượng tiền cung ứng để từ đó tác động đến các yếu tố khác trong nền kinh tế như lãi suất, lạm phát, đầu tư, việc làm, ổn định được tiền tệ thì mới khuyến khích tiết kiệm, có tiết kiệm mới có đầu tư, từ đó sẽ có tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp. 1.1.3. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ 1.1.3.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ. Có thể nói lạm phát luôn luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hóa, đặc biệt là khi nền sản xuất hàng hóa phát triển ở mức độ cao. Lạm phát có thể được hiểu là sự gia tăng giá cả trung bình của hàng hóa theo thời gian. Lạm phát tác động đến kinh tế - xã hội theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Khi lạm phát gia tăng, nó tác động đến mọi mặt của nền kinh tế, làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế, làm phân phối lại thu nhập, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng bạc… gây tình trạng khan hiếm hàng hóa giả tạo, giảm sức mua thực tế của dân chúng về hàng hóa tiêu dùng. Do đó, đời sống của người dân sẽ khó khăn hơn, gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng vì ngân hàng sẽ không thu hút được các nguồn tiền nhàn rỗi cho hoạt động của mình. Bên cạnh những tác động tiêu cực mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế thì một tỷ lệ lạm phát nhất định lại là yếu tố kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi đó lạm phát trở thành công cụ điều tiết. Các nhà kinh tế học còn gọi đó là liều thuốc bổ cho tăng trưởng kinh tế. Do đó cần chấp nhận sự tồn tại của lạm phát trong nền kinh tế để có những quyết sách kiềm chế chứ không phải là triệt tiêu nó. Vấn đề quan trọng là phải kiểm soát được lạm phát, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đảm bảo đời sống cho người lao động. 1.1.3.2.Tạo việc làm và giảm thất nghiệp Việc làm cho biết người lao động cũng là một trong các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Để đạt được mục tiêu này, chính sách tiền tệ hướng vào việc khuyến khích đầu tư, gia tăng sản xuất, từ đó việc làm gia tăng; mặt khác, khi các hoạt động kinh tế được mở rộng, sẽ có tác dụng chống suy thoái, nhất là suy thoái chu kỳ, để đạt được mức tăng trưởng ổn định. Nhìn tổng quát, giữa các mục tiêu vĩ mô: lạm phát, tăng trưởng kinh tế và việc làm có mâu thuẫn đối nghịch nhau. Khi kiềm chế lạm phát thì có nguy cơ tăng trưởng kinh tế sẽ giảm, dễ dẫn đến suy thoái và thất nghiệp: ngược lại khi mở rộng đầu tư, khắc phục suy thoái kinh tế, tạo việc làm và khuyến khích tăng trưởng kinh tế thì sẽ khó thực hiện được mục tiêu kiềm chế lạm phát. 1.1.3.3.Tăng trưởng kinh tế Về đại thể, khi tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội lớn hơn nhịp độ tăng dân số thì sẽ có sự tăng trưởng kinh tế. Việc thay đổi khối lượng tiền tệ cung ứng sẽ tác động lớn đến nền kinh tế. Tăng trướng kinh tế là mục tiêu vĩ mô của bất kì quốc gia nào. Tuy nhiên thực hiện mục tiêu này không có nghĩa là chỉ khuyến khích tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện việc kìm hãm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nếu nền kinh tế phát triển quá nóng. Điều này có nghĩa là mỗi quốc gia phải xác định một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế dự kiến phù hợp với điều kiện nội tại của nền kinh tế nước đó. Trên cơ sở đó, căn cứ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện nay là thấp hay cao để sự điều tiết của chính sách tiền tệ sẽ hướng vào khuyến khích hay kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nếu cần khuyến khích tăng trưởng, NHTW sẽ thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng nhằm tăng khối lượng tiền tệ, làm giảm lãi suất, do đó sẽ kích thích đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng tổng sản phẩm quốc nội. Mặt khác, tăng khối lượng tiền tệ sẽ làm tăng tổng cầu, sức mua hàng hóa trên thị trường tăng lên, hàng hóa tồn đọng được tiêu thụ hết là tiền đề cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất dẫn đến GDP tăng. Trong trường hợp kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế, NHTW sẽ thực hiện chính sách thặt chặt tiền tệ. Khi đó, khối lượng tiền tệ trong lưu thông giảm xuống, lãi suất có xu hướng tăng lên, đồng vốn đầu tư đắt lên, đầu tư giảm, dẫn đến tổng sản phẩm quốc nội giảm xuống. Mặt khác khi giảm khối lượng tiền tệ, sẽ làm giảm tổng cầu, sức mua giảm, làm tăng hàng hóa tồn đọng của các doanh nghiệp, do đó các doanh nghiệp không có cơ sở để mở rộng, vì vậy tốc độ tăng GDP giảm. Việc kiểm soát khối lượng tiền tệ cho nền kinh tế trong thời kì đầu thường được các quốc gia sử dụng thông qua công cụ hạn mức tín dụng. Khi nền kinh tế thị trường vận động một cách thuần thục thì việc cung ứng tiền chủ yếu được thực hiện thông qua các công cụ: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tín dụng… 1.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ 1.2.1.Công cụ tái cấp vốn Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM. Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng và tạo cơ sở cho các NHTM tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán của họ. Tùy từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác nhau. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, tái cấp vốn được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu. Vì vậy đối với các quốc gia này, công cụ này được gọi là công cụ tái chiết khấu. Ngoài ra hoạt động tái cấp vốn của NHTW với NHTM được thực hiện thông qua các hình thức khác: Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Cho vay dưới hình thức cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá ngắn hạn. Cho vay thanh toán bù trừ. Cho vay theo hình thức chỉ định. Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng. Cơ chế tác động: + Với công cụ này NHTM sẽ điều chỉnh tăng hay giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hay tăng lượng tiền cung ứng trong lưu thông. + Khi NHTW thấy rằng cần tăng thêm lượng tiền cho lưu thông, họ sẽ hạ thấp lãi suất tái cấp vốn xuống. Điều này sẽ khuyến khích các NHTM đến NHTW để vay vì giá cả tín dụng giảm, mặt khác khối lượng tín dụng được cấp tăng lên. Ngược lại, khi NHTW cần giảm khối lượng tiền trong lưu thông, họ sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn lên. Do đó chi phí tín dụng tăng lên sẽ hạn chế các NHTM đi vay, mặt khác làm giảm khối lượng tín dụng được cấp nếu NHTM vẫn quyết định vay. + Bên cạnh tác động thông qua lãi suất tái cấp vốn, NHTW còn sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM. Điều này có nghĩa là nếu NHTW tăng hạn mức tái cấp vốn thì NHTM sẽ được vay NHTW nhiều hơn, làm tăng vốn khả dụng của NHTM,từ đó tăng khả năng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Nếu NHTW giảm hạn mức tái cấp vốn thì các tác động sẽ diễn ra ngược lại. Ưu điểm của công cụ tái cấp vốn: + Ưu điểm: qua công tác tái cấp vốn, NHTW là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng của các NHTM, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kìm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Đối với các NHTM, với tư cách là người đi vay để cho vay khi vốn khả dụng bị đe dọa thì NHTW là chỗ dựa của họ. Bởi vì, với số tiền NHTW cung ứng, họ có khả năng điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán. + Nhược điểm: NHTW không thể nắm chắc được kết quả của sự điều tiết. Trong trường hợp này, quyền lực của NHTW và NHTM hầu như là ngang nhau. NHTW có quyền cho vay và để khuyến khích để khuyến khích cho vay, họ hạ lãi suất tái cấp vốn xuống. Nhưng NHTM lại có quyền quyết định vay hoặc không cho vay, nếu NHTM không vay thì mục đích điều tiết của công cụ tái cấp vốn không thực hiện được. 1.2.2.Công cụ tỷ lệ dữ trữ bắt buộc Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán của NHTM. Nếu khả năng thanh toán quá lớn thì việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm quy mô tín dụng từ đó giảm khối lượng tiền tệ. Ngược lại, nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng khả năng cho vay của các NHTM Cơ chế tác động của tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Thông qua công cụ dữ trữ bắt buộc, NHTW tác động đến cả khối lượng và giá trị tín dụng của các NHTM từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM: Về chi phí: giảm hay tăng dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hoặc tăng chi phí tín dụng của các NHTM. Tăng hay giảm số lượng tín dụng kép: việc tăng hay giảm chi phí, tăng giảm lãi suất cho vay dẫn đến giảm hoặc tăng lượng tín dụng. Công cụ này được áp dụng lần đầu tiên ở Mỹ nhằm đảm bảo vốn khả dụng tối ưu cho hệ thống NHTM, để các NHTM có thể thỏa mãn nhu cầu tiền mặt từ các khoản tiền gửi. Dự trữ bắt buộc nhanh chóng được sử dụng với vai trò là một công cụ của chính sách tiền tệ. Ưu nhược điểm của tỷ lệ dự trữ bắt buộc + Ưu điểm: Tác động đến lượng tiền cung ứng. Tạo nên mối quan hệ máy móc giữa tạo tiền do NHTM thực hiện và nhu cầu tái cấp vốn tại NHNN. Tăng cường quyền lực cho NHTW vì tùy theo mục đích của chính sách tiền tệ và tùy theo mức vốn khả dụng của NHTM, NHTW có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các NHTM có trách nhiệm thực hiện. Tôn trọng sự cạnh tranh giữa các ngân hàng vì nó áp dụng không phân biệt mọi ngân hàng trong toàn hệ thống ngân hàng. Đảm bảo khả năng thanh toán cho NHTM, giúp NHTM tránh được rủi ro do mất khả năng thanh toán. + Nhược điểm: Mặc dù có thể đạt được những thay đổi trong cung ứng tiền tệ bằng những thay đổi nhỏ trong dự trữ bắt buộc nhưng lại khá tốn kém về chi phí quản lý. Việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây ra vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức thấp. Việc không ngừng thay đổi dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng kém ổn định cho các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của ngân hàng khó khăn hơn. 1.2.3.Công cụ nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua, bán giấy tờ có giá chủ yếu là ngắn hạn ( tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHTW, chứng chỉ tiền gửi…) trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung – cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các NHTM, dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tỉền tệ: Bằng cách bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát. Ngược lại, khi NHTW mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng cường kinh tế, tăng khả năng thanh toán của các NHTM. Công cụ thị trường mở đang trở thành công cụ quan trọng bậc nhất để điều hòa lưu thông tiền tệ. Ưu điểm của công cụ nghiệp vụ thị trường mở NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác động trực tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kì mức độ nào. Mong muốn mức thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ lớn hay nhỏ thì NHTW cũng có thể thực hiện được bằng cách mua hay bán một khối lượng lớn, nhỏ chứng khoán. NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai lầm về việc sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Nếu NHTW thấy rằng việc cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do mua quá nhiều giấy tờ có giá trên thị trường mở thì ngân hàng có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở. Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng không gây nên những chậm chễ về mặt tài chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền tệ hoặc dữ trữ, NHTW có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch. 1.2.4.Công cụ kiểm soát hạn mức tín dụng Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp một cách trực tiếp mang tính hành chính của NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ chức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng là khác nhau, căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của từng ngân hàng, trong định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể và nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Cơ chế tác động của công cụ hạn mức tin dụng: Hạn mức tín dụng được sử dụng khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy cơ chế tác động của nó mang tính áp đặt đối với hệ thống ngân hàng. Qua sử dụng hạn mức tín dụng, NHTW điều chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Tránh tình trạng tổng khối lượng tiền tăng quá mức trong lưu thông, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM. Trong phần lớn các trường hợp những hạn mức riêng được xác định tối đa cho từng NHTM. Trong phần lớn các trường hợp những hạn mức riêng cho được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống ngân hàng, NHTM chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng được quy định. NHTW phải theo dõi hoạt động cho vay của các NHTM để nếu có vi phạm sẽ xử phạt. Ưu nhược điểm của công cụ hạn mức tín dụng + Ưu điểm: Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu thông. Bằng việc quy định hạn mức tín dụng, NHTW có thể kiểm soát chặt chẽ tổng lượng tiền cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao. + Nhược điểm: Bên cạnh các ưu điểm, kiểm soát trực tiếp hạn mức tin dụng đối với nền kinh tế có một số bất lợi sau: Hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung về vốn bị giới hạn không thỏa mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Hạn mức tín dụng có xu hướng làm giảm cạnh tranh giữa các NHTM. Bởi vì, một khi đã cho vay hết hạn mức tín dụng thì ngân hàng đó sẽ không muốn huy động thêm vốn nữa vì như thế sẽ gây ra ứ đọng vốn và làm thiệt hại cho NH. Hạn mức tín dụng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ, vì trước hết các NHTM lựa chọn khách hàng lớn để cho vay. Khi thị trường tiền tệ hoạt động chưa có hiệu quả thì hạn mức tín dụng có thể làm cho các khoản tín dụng được cấp ra nhỏ hơn so với tổng số hạn mức tín dụng đã được xác định từ trước. Bởi những ngân hàng có khả năng huy động vốn nhiều thì việc cho vay bị hạn chế trong khi các ngân hàng không có khả năng huy động vốn sẽ cho vay ít hơn so với hạn mức đã phân bổ. Điều này nguy hiểm hơn là sẽ làm phát sinh các tổ chức tài chính mới thực hiện nghiệp vụ ngân hàng ngoài phạm vi kiểm soát của NHTW. Kết quả cuối cùng làm chính sách tiền tệ dựa trên hạn mức tín dụng mất đi hiệu lực của nó bởi một số lượng tín dụng ngày càng thoát khỏi hạn mức đó. Công cụ này thường sử dụng trong trường hợp lạm phát cao, nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển, hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lãi suất, hay NHTW không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTM, thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của NHTM trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. 1.2.5.Quản lý lãi suất tín dụng Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế. Bởi vì lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhưng sự thay đổi của lãi suất có thể kích thích hay kìm hãm sản xuất. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định Việc điều hành lãi suất chủ yếu được thực hiện thông qua hai cơ chế: 1.2.5.1.Cơ chế điều hành gián tiếp: Thông qua cơ chế tái cấp vốn( chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay cầm cố chứng từ có giá…) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quả lý gián tiếp lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế. Cơ chế này thực hiện theo các nguyên tắc: trong điều hành chính sách lãi suất, NHTW chỉ công bố lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sở cung – cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường. Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ chức tín dụng. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với chủ thể trong nền kinh tế. 1.2.5.2.Cơ chế điều hành trực tiếp Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch lãi suất bình quân. Thực chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có các thay đổi về kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Nhìn chung, trong các nền kinh tế phát triển, lãi suất ngày càng được tự do hóa, còn ở các nước có hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý trực tiếp này. 1.2.6.Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của nội tệ, vừa là biểu hiện của quan hệ cung cầu ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối đoái lại là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tê, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén và mạnh mẽ đến sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất, tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ bởi lẽ tỷ giá không làm tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên có nhiều quốc gia đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển lại coi tỷ giá là công cụ bổ trọ quan trọng chi điều hành chính sách tiền tệ. Các phương pháp điều hành tỷ giá gồm có: Chính sách hối đoái Quỹ dự trữ bình quân hối đoái Phá giá tiền tệ Nâng giá tiền tệ Chính sách lãi suất chiết khấu CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN QUA 2.1. Thực trạng chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước. 2.1.1.Chính sách tiền tệ năm 2007: Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Việc ra nhập WTO vừa mang lại cho kinh tế Việt Nam những thuận lợi để hội nhập kinh tế quốc tế vừa kèm theo những khó khăn mà Việt Nam phải đối mặt như nhập siêu ở mức cao làm thâm hụt cán cân vãng lai, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều nhưng khả năng hấp thụ vốn còn hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn còn thấp, lạm phát có xu hướng tăng mạnh trong bối cảnh kinh tế và thị trường tài chính quốc tế có nhìều biến động khó lường gây sức ép đối với tỷ giá và việc kiểm soát tổng phương tiện thanh toán và tín dụng. Tăng trưởng kinh tế năm 2007 đạt mức 8.48% cao hơn mức 8,2% năm 2006 và là mức tăng cao nhất trong vòng 11 năm. Năm 2007, lạm phát có xu hướng tăng mạnh nên NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ lệ DTBB gấp 1,5-2 lần để hút tiền về, kiểm soát tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng với tiền gửi VND có kì hạn dưới 12 tháng tăng từ 5% lên 10%. Tỷ lệ DTBB áp dụng đối với tiền gửi ngoại tệ kì hạn dưới 12 tháng tăng từ 8% lên 10%. Tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi VND và ngoại tệ có kì hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 2% đến 4%. Việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc của NHNN với các tổ chức tín dụng đã làm tăng chi phí huy động vốn nhưng chỉ ở mức thấp. Nhìn chung vốn của các tổ chức tín dụng xét trên toàn hệ thống tiếp tục dư thừa. Trong khi đó, hoạt động thị trường liên ngân hàng chưa thực sự thông suốt nên một số NHTM có thiếu hụt tạm thời về vốn khả dụng, đã tiếp cận các kênh tái cấp vốn củat NHNN( dưới hình thức chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá) để đảm bảo khả năng thanh toán. Đối với hình thức cầm cố giấy tờ có giá, từ đầu năm 2007 NHNN đã hạn chế việc tái cấp vốn thông qua cầm cố giấy tờ có giá. Bên cạnh đó co các tổ chức tín dụng tiếp tục dư thừa vốn nên rất ít tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn này. Nghiệp vụ thị trường mở đã có những đổi mới như cố định phiên mua nhằm khắc phục đã có những đổi mới như cố định phiên mua nhằm khắc phục hạn chế của thị trường tiền tệ, thay đổi phương thức đấu thầu nhằm bám sát mục tiêu điều hành chính sách tiền tề và diễn biến vốn bằng VND của các tổ chức tín dụng. Để thực hiện một số biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường, thực hiện mục tiêu hút tiền về qua nghiệp vụ thị trường mởi. NHNN đã tăng số phiên giao dịch từ 3 phiên/ tuần lên thực hiện giao dịch hàng ngày; tăng khối lượng tín phiếu NHNN bán ra, đa dạng hóa các kì hạn tín phiếu NHNN từ 14 lên 364 ngày, xác định mức lãi suất hợp lý để rút tiền thông qua kênh này. Để tránh tác động không thuận lợi đối với tăng trưởng kinh tế, NHHN giữ nguyên các mức lãi suất do NHNN công bố. Tuy nhiên riêng với lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại tổ chức tín dụng kể từ ngày 01/07/2007, NHNN bỏ quy định bỏ quy định trần lãi suất, theo đó các tổ chức tín dụng được phép ấn định lãi suất tiền gửi bằng USD theo thỏa thuận. Lãi suất trên thị trường tiền tệ tương đối ổn định. Lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng biến động trong khoảng dưới 15%, lãi suất huy động của các NHTM biến động trong khoảng dưới 10%. Năm 2007 chính sách tỷ giá của NHHN được điều hành dựa vào diễn biến thị trường trước sức ép VND lên giá do cung ngoại tệ lớn hơn cầu, bên cạnh mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối, dự phòng đối phó với nguy cơ dòng vốn đảo chiều, giảm áp lực tăng giá VND, NHNN đã nới lỏng biên độ tỷ giá từ ± 0.25% lên ± 0.5% và ±0.75% nhằm giảm áp lực với lạm phát, tăng tính chủ động cho các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tế liên ngân hàng giữa VND và USD tương đối ổn định, cả năm tăng 0.08%. 2.1.2. Chính sách tiền tệ năm 2008: Năm 2008, kinh tế trong nước tăng trưởng chậm lại( tăng GDP ở mức 6.23%), lạm phát ở mức 19.98% nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm từ tháng 7 và chuyển sang âm trong tháng 10, tháng 11 và 12. Xuất nhập khẩu đều tăng trưởng nhưng nhập siêu ở mức cao. NHNN đã sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý. Để thực hiện thắt chặt tiền tệ, NHNN tăng tỷ lệ DTBB lên 1%. Trong năm cũng có điều chỉnh tăng lãi suất tỉền gửi DTBB bằng VND đối với các tổ chức tín dụng từ 3.5% lên 10% 1 năm và giảm 1 % tỷ lệ DTBB đối với VND và 2% tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi ngoại tệ áp dụng cho các tổ chức tín dụng. Ngày 13/2/2008, NHNN thông báo về việc phát hành tín phiếu bắt buộc, thực hiện vào ngày 17/3, tổng giá trị phát hành là 20300 tỷ đồng, kì hạn 364 ngày, lãi suất 7,8%/năm nhằm thu bớt tiền trong lưu thông. Ngày 19/5/2008 lãi suất cơ bản tăng lên 12%/năm và chưa đầy 1 tháng NHNN đã nâng thêm 2%, đưa lãi suất cơ bản lên mức 14%/năm. Điều này khiến các NHTM đã phải trải qua những ngày tháng rất khó khăn về thanh khoản. Trong thời gian này, đã có NHTM đẩy lãi suất tiền gửi từ 15%/ năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đúng lãi suất tối đa 21%/năm. Cũng trong 6 tháng đầu năm, NHNN đã 2 lần thay đổi các lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu theo hướng tăng để tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền. Trong năm 2008, lạm phát có xu hướng giảm nhưng vẫn còn ở mức cao trong khi tăng trưởng kinh tế đã có sự suy giảm mạnh so với năm 2007( 6 tháng đầu năm 2008 tăng trưởng kinh tế đạt 6,5% giảm so với mức 7,9% cùng kì năm trước. Do đó NHNN tiếp tục thực hiện kiểm soát lạm phát nhưng đồng thời cũng góp phần tăng đầu tư sản xuất, kinh doanh để ngăn chặn suy giảm kinh tế. NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn từ 15%/ năm xuống 14%/năm, 13%/năm và 9,5%/năm; lãi suất chiết khấu từ 13%/năm xuống 12%/năm, 11%/năm, 9%/năm và 7,5%/năm. Thời điểm giữa tháng 6 năm 2008, thị trường có nhiều đột biến, NHNN đã chủ động thực hiện giải pháp nhằm ổn định tỷ giá: điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 2% để phản ánh sát hơn nhu cầu thị trường; mở rộng biên độ tỷ giá giao dịch USD/VND từ mức ±1% lên mức ±2% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố. Tăng cường bán ngoại tệ cho các NHTN để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế, đáp ứng tối đa các nhu cầu thiết yếu, đồng thời hỗ trợ ngoại tệ cho các ngân hàng có phục vụ nhu cầu trả._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26552.doc