Thực trạng đầu tư vào hoạt động du lịch và khách sạn ở Việt Nam

Mục lục trang Lời mở đầu Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực, đời sống của nhân dân dần được cải thiện, thu nhập quốc dân tính trên đầu người ngày càng tăng… Trong đó có một phần đóng góp không nhỏ của ngành du lịch. Sau 46 năm hình thành và phát triển (hình thành tháng 7 năm 1960), du lịch Việt Nam đã có những bước tiến và thành công đáng kể, đặc biệt từ những năm 90 trở lại đây nó góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

doc57 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1513 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng đầu tư vào hoạt động du lịch và khách sạn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đảng và Chính phủ đã xác định: “Phát triển du lịch là một định hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước”. Mặt khác trong những năm gần đây khi Nhà nước ta có chủ trương phát triển ngành du lịch đưa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước nhằm đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo thì chúng ta đã có sự đầu tư đáng kể về cơ sở vật chất, đầu tư tôn tạo các khu du lịch, nghỉ mát, các di tích, danh lam thắng cảnh và có chiến lược quảng bá thương hiệu du lịch Việt Nam tới các nước trên thế giới thì các du khách đã biết tới Việt Nam nhiều hơn và du khách đến Việt Nam nhiều hơn, cụ thể là: năm 2005 chúng ta đã đón được 3,5 triệu lượt khách quốc tế. Và không chỉ các du khách quốc tế mà khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về vật chất đã được đáp ứng thì nhu cầu về hưởng thụ sẽ tăng, vì thế người dân cũng đã rất quan tâm đến việc đi du lịch, thăm quan nghỉ mát nên các du khách trong nước cũng ngày càng tăng. Khi du lịch phát triển thì cũng thúc đẩy các nghành nghề dịch vụ khác phát triển, người đi du lịch nhiều thì sẽ có nhu cầu về nhiều loại hình dịch vụ và vì thế các dịch vụ như ăn uống, giải trí, vận chuyển… phát triển theo và tất nhiên trước khi đi du lịch thì du khách phải quan tâm đến nơi lưu trú vì vậy các khách sạn cũng được xây dựng, nâng cấp và phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Phát triển du lịch không những góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn góp phần tuyên truyền quảng bá về một đất nước Việt Nam với bề dày lịch sử và truyền thống văn hoá… Xét thấy tầm quan trọng của du lịch đối với nền kinh tế xã hội và vai trò của đầu tư đối với nền du lịch nên em đã chọn đề tài: “Thực trạng đầu tư vào hoạt động dịch vụ du lịch và khách sạn ở Việt Nam”. Hoàn thành bài viết này em đã nhận được sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của cô giáo Lê Hoài Phương. Em xin chân thành cảm ơn cô. Chương I: Một số nội dung về kinh tế đầu tư 1.1. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển 1.1.1. Khái niệm đầu tư Theo các góc độ khác nhau có các khái niệm đầu tư khác nhau: Theo góc độ tài chính: Đầu tư là chuỗi những hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng nhằm hoàn vốn và sinh lời. Theo góc độ tiêu dùng: Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu được mức độ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Khái niệm chung nhất: Đầu tư là sự bỏ vốn (chi tiêu vốn) cùng với các nguồn lực khác nhau trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó (tạo ra hoặc khai thác sử dụng một tài sản) nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai. Như vậy, đầu tư chính là sự kí sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. 1.1.2. Khái niệm đầu tư phát triển Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra sản phẩm mới cho nền kinh tế làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện để tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Hoạt động đầu tư phát triển là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kĩ thuật của nền kinh tế nói chung, của ngành và của các cơ sở sản xuất dịch vụ nói riêng. 1.2. Đặc điểm của du lịch 1.2.1. Vốn đầu tư cho một dự án tương đối lớn Đối với du lịch, thường các dự án đầu tư xây dựng các khách sạn đạt tiêu chuẩn cao hoặc các khu thể thao, khu vui chơi giải trí quy mô lớn sẽ sử dụng một lượng vốn đầu tư lớn. Do đó để tránh và giảm rủi ro thì phải chuẩn bị tốt công tác nghiên cứu cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi và khả thi. Trong quá trình thực hiện phải phân bổ và huy động vốn phù hợp tiến độ. Đặc biệt cần xem xét khả năng của đơn vị để ra quyết định đầu tư phù hợp. Còn đối với những dự án khác như xây dựng nhà hàng khách sạn, vừa và nhở hay tôn tạo, sửa chữa các khu di tích… thường lượng vốn không lớn nên công tác quản lý và sử dụng đơn giản hơn. Thời gian thực hiện đầu tư không dài Các dự án đầu tư vào ngành du lịch có thời gian thực hiện thường từ 2 - 3 năm. Và các công trình, thành quả đầu tư phát huy tác dụng khi đã hoàn thành toàn bộ. Vì thế phải có kế hoạch phân tách hoặc kết hợp các công việc sao cho đảm bảo đúng tiến độ thi công, xây lắp, đảm bảo đúng tiến độ thi công, xây lắp, đảm bảo tiết kiệm và công trình có chất lượng. Thời gian sản xuất kinh doanh dài Tuổi đời của các dự án trong du lịch thường dài, do đó phải có biện pháp khấu hao hợp lí nhanh thu hồi vốn đầu tư. Đồng thời phải có kế hoạch xúc tiến đầu tư, nâng cấp, mở rộng đối với các dự án kinh doanh và nhà hàng, kế hoạch đầu tư sang các khu di tích, danh lam thắng cảnh khác kết hợp cải tạo tu bổ công trình trước. Đầu tư vào lĩnh vực này khả năng thu hồi vốn nhanh, thường 2 - 4 năm sau khi đi vào hoạt động là thu hồi đủ vốn. Vì thế đây là ngành được sự chú ý lớn của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Sản phẩm của đầu tư hoạt động ngay nơi mà nó được tạo nên Do đặc điểm này nên nó chịu ảnh hưởng của địa lý, địa hình, dân cư của vùng đó. Đặc điểm các di tích văn hoá lịch sử cần phải có sự bảo vệ lớn của dân cư. Thường là ít rủi ro hơn đầu tư vào các lĩnh vực khác Thời hạn thu hồi vốn đầu tư nhanh, vì thế mức độ rủi ro cũng giảm. 1.3. Nguồn vốn đầu tư vào ngành du lịch Đầu tư vào du lịch bao gồm hai nguồn: nguồn trong nước và nguồn ngoài nước. 1.3.1. Nguồn trong nước 1.3.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách Đây là nguồn vốn do Nhà nước cấp cho cơ sở thực hiện đầu tư (thành quả đầu tư thuộc sở hữu nhà nước) hoặc nhà nước hỗ trợ một phần cùng với vốn để sửa chữa, nâng cấp các khu di tích đã được xếp hạng, các cảnh quan, nơi lưu trú của khách du lịch,…, nơi mà đầu tư vốn để thu hút nhiều du khách, tạo nhiều việc làm cho người lao động và bảo vệ cảnh quan. 1.3.1.2. Vốn tích luỹ của các doanh nghiệp Đó là nguồn từ lợi nhuận để lại, vốn vay từ các tổ chức hoặc cá nhân, vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết, vốn từ việc phát hành trái phiếu,…. 1.3.1.3. Nguồn tiết kiệm của dân Nguồn này còn khá lớn ở trong dân. Người dân thường để tiền ở dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt, cho vay lấy lãi hoặc gửi Ngân hàng hoặc góp vốn vào các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch đã cổ phần hoá, nhất là trong điều kiện thị trường chứng khoán đã được khai trương ở nước ta thì đây là một nguồn thu hút mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển du lịch. 1.3.2. Nguồn vốn nước ngoài 1.3.2.1. Vốn đầu tư trực tiếp Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi số vốn bỏ ra. 1.3.2.2. Vốn đầu tư gián tiếp Vốn đầu tư gián tiếp là nguồn vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, kể cả vay theo hình thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới hình thức ODA, viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường không lớn, cho nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư. 1.3.2.3. Nguồn kiều hối Số người Việt Nam ở nước ngoài khá nhiều và có một số lớn có vốn và kiến thức khoa học công nghệ. Hiện nay, nguồn vốn này đang được khuyến khích đầu tư về nước. Chương II Thực trạng đầu tư dịch vụ du lịch khách sạn Việt Nam 2.1. Vài nét về du lịch 2.1.1. Khái niệm Xét từ góc độ tiếp cận khác nhau ta có các khái niệm về du lịch khác nhau: Xét từ góc độ khách du lịch: Khách du lịch là loại khách đi xa nhà một thời gian nhất định, tiêu những khoản tiền tiết kiệm. Xét về phạm vi và thời gian lưu trú: Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình, lưu trú của những người ngoài địa phương; nếu việc lưu trú đó không phải cư trú thường xuyên và không dính dáng đến hoạt động kĩ thuật, kinh tế; tổ chức liên quan đến các cuộc hành trình của con người và việc lưu trú của họ ngoài nơi ở thường xuyên với nhiều mục đích khác nhau, loại trừ mục đích hành nghề, kiếm lời hoặc đến thăm có tính chất thường xuyên. Khái niệm tổng thể: Du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là cảm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lợi được bằng đồng tiền. 2.1.2. Phân loại du lịch Căn cứ vào nhu cầu của khách du lịch, tiềm năng du lịch và khả năng thực tế để hình thành các loại hình du lịch. Loại hình du lịch phát triển không ngừng, nhu cầu ngày càng đa dạng và nâng cao của du lịch. Nhìn chung xu thế du lịch thế giới hiện nay diễn ra theo chiều hướng: du lịch xanh và du lịch văn hoá. 2.1.2.1. Du lịch xanh Du lịch xanh là du lịch hoà mình vào thiên nhiên xanh với rất nhiều mục tiêu khác nhau như ngoạn cảnh, tắm biển, săn bắn, leo núi, nghỉ dưỡng bệnh. Trong Du lịch xanh, xu hướng du lịch điền dã - đến các làng quê, bản làng đang thu hút ngày càng nhiều khách du lịch. Các công ty du lịch thuộc các tỉnh phía Nam nước ta cũng đang đẩy mạnh du lịch điền dã như: du lịch kênh rạch, du lịch miệt vườn. Phía Bắc, điểm du lịch bản làng Hoà Bình, du lịch sông Côn, du lịch rừng Cúc Phương, Làng Vải Thanh Hà cũng đang chú trọng phát triển. Chúng ta phải hết sức coi trọng du lịch điền dã, bởi đây là thế mạnh của ta, vì Việt Nam là quê hương của làng lúa nước và mỗi làng vẫn còn giữ được nét nguyên bản của nó, phản ánh nền văn minh nông nghiệp, rất thú vị và hấp dẫn cho mọi khách du lịch. 2.1.2.2. Du lịch văn hoá Du lịch văn hoá là loại hình mà khách muốn được thẩm nhận bề dày lịch sử, bề dày văn hoá của một nước, thông qua các di tích lịch sử, các di tích văn hoá, những phong tục tập quán còn hiện diện bao gồm hệ thông đình, đền, chùa, nhà thờ, lễ hội, các phong tục tập quán về ăn, mặc, ở, giao tiếp. Nước ta rất có điều kiện để phát triển loại hình du lịch này đặc biệt các tỉnh vùng đồng bằng tỉnh Bắc Bộ, trong đó có thủ đô Hà Nội và vùng phụ cận có mật độ về di tích lớn. Do đó cần chú trọng đầu tư tôn tạo, sửa chữa các di tích để thu hút ngày càng nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế. 2.1.3. Nguồn lực để phát triển du lịch 2.1.3.1. Nguồn lực nhân văn Nước ta có bề dày truyền thống văn hoá lâu đời. Hiện nay có nhiều di tích văn hoá, di tích lịch sử đã xếp hạng như: Văn Miếu (Hà Nội), Cố đô Huế, Phố cổ Hội An (Đà Nẵng), Yên Tử (Quảng Ninh), Thánh địa Mỹ Sơn (Đà Nẵng), Chùa Hương (Hà Tây),… Dựa vào các yếu tố này để tổ chức các lễ hội truyền thống hàng năm nhằm thu hút thập phương về tham gia và tham quan. 2.1.3.2. Nguồn lực thiên nhiên Tiềm năng ở dạng tự nhiên bao gồm: cảnh quan, hệ sinh thái thực vật, khí hậu, thổ nhưỡng, sông ngòi, hang động, triền núi,… và rải khắp đất nước như: du lịch Sa Pa (Lào Cai), du lịch động Nhất Thanh, Nhị Thanh, Tam Thanh (Lạng Sơn); Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh); du lịch Bạch Long Vĩ, Đồ Sơn, Cát Bà (Hải Phòng); Vườn quốc gia Ba Vì (Hà Tây); Rừng quốc gia Tam Đảo (Vĩnh Phúc); Bích Động, Sầm Sơn, Cửa Lò, Phong Nha,… Nếu có chiến lược đầu tư và khai thác hợp lí những tiềm năng này, chúng ta sẽ tạo đà cho kinh tế vùng đó phát triển, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. 2.1.3.3. Dân cư và lao động Lao động của con người là yếu tố quan trọng đảm bảo cho nền sản xuất tồn tại và phát triển. Trong các tổ chức kinh doanh du lịch cũng vậy, lực lượng lao động đóng vai trò quan trọng, họ thực hiện nhiệm vụ kinh doanh, tạo ra thu nhập quốc dân, làm cho ngành du lịch vận động và phát triển. Hơn thế nữa, những người lao động trong lĩnh vực du lịch còn thực hiện chức năng quan trọng thứ hai của mình là chức năng văn hoá giao tiếp, là đại diện cho một đất nước, một nền văn hoá trước du khách nước ngoài. Khách du lịch nước ngoài tiếp xúc với một đất nước mới lạ với nền văn hoá mới mẻ, trước hết là thông qua hướng dẫn viên, lái xe, đến phục vụ buồng, bếp, bàn, những nhân viên này là cầu nối tình hữu nghị, mang những thông điệp đặc trưng về đất nước mình và nền văn hoá của đất nước mình, thuyết phục khách du lịch bằng những việc làm cụ thể và bằng những việc cụ thể và bằng văn hóa du lịch của mình. Như vậy, số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động trong ngành du lịch nói chung, trong tổ chức kinh doanh du lịch nói riêng, sẽ quyết định chất lượng công tác kinh doanh của ngành và của tổ chức du lịch đó. 2.1.3.4. Cơ sở vật chất kĩ thuật, thiết bị hạ tầng Cơ sở vật chất kĩ thuật, thiết bị hạ tầng có vai trò đặc biệt đối với việc đẩy mạnh du lịch. Trong hoạt động du lịch, nếu mạng lưới và các phương tiện giao thông vận tải phục vụ cho việc đi lại của con người mà tốt sẽ thu hút được nhiều người đi du lịch bởi vì những người đi du lịch có ít thời gian vẫn có thể tham gia du lịch dưới hình thức “du lịch ngắn ngày”. Cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch cũng đóng góp một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khác các tiềm năng du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. Do đó để phát triển du lịch thì chúng ta phải đầu tư xây dựng và hoàn thành cơ sở vật chất kĩ thuật như: các khách sạn, nhà hàng, camping, cửa hiệu, trạm cung cấp xăng dầu, trạm y tế, nơi vui chơi thể thao,… 2.1.3.5. Đường lối chính sách Đường lối chính sách là điều kiện quan trọng có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm phát triển du lịch. Có một cơ chế thông thoáng, rõ ràng, thống nhất về đầu tư phát triển du lịch, về vấn đề đón khách quốc tế (thủ tục vào tham quan Việt Nam),… sẽ tạo điều kiện cho khách du lịch phát triển và khuyến khích mọi thành phần kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài vào du lịch thu hút ngày càng đông khách đến tham quan các điểm du lịch. 2.1.3.6. Nguồn lực bên ngoài Việc đặt các văn phòng đại diện ở nước ngoài sẽ giúp cho sự quảng bá ngày càng tộng rãi về các di tích, lễ hội, danh lam thắng cảnh,…, của Việt Nam với bạn bè quốc tế để thu hút mọi người đến tham quan và đầu tư ở Việt Nam. Đồng thời cũng tạo điều kiện cho các nước hợp tác với Việt Nam để hành thành tuyến du lịch xuyên quốc gia, đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. 2.1.4. Đặc điểm của tiêu dùng du lịch Ngành du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước và của một vùng thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Do đó hiểu rõ những đặc điểm tiêu dùng du lịch sẽ giúp các nhà đầu tư định hướng và đưa ra những chiến lược đầu tư đúng đắn nhằm khai thác triệt để những lợi thế của mình. 2.1.4.1. Nhu cầu tiêu dùng Nhu cầu tiêu dùng du lịch là những nhu cầu đặc biệt: nhu cầu hiểu biết kho tàng văn hoá, lịch sử, nhu cầu vãn cảnh văn hoá, bơi tắm biển, hồ, sông,…, của con người. Từ đó ta có thể lựa chọn địa điểm đầu tư phù hợp. Chẳng hạn để phù hợp với nhu cầu trên, ta sẽ xây dựng những nhà nghỉ ở gần các bãi tắm, mua sắm phương tiện để đưa đón khách đi tham quan,… Đồng thời đào tạo nhân viên để tiếp đón hướng dẫn khách du lịch chu đáo tận tình giúp đỡ du khách hiểu rõ văn hoá, du lịch, lịch sử và con người Việt Nam. 2.1.4.2. Tiêu dùng du lịch Tiêu dùng du lịch thoả mãn nhu cầu về hàng hoá (thức ăn, hàng hoá mua sẵn, hàng lưu niệm,…) và đặc biệt chủ yếu là nhu cầu về dịch vụ (lưu trú, vận chuyển hành khách, dịch vụ y tế, thông tin,…). Mặt hàng lưu niệm ở nước ta chưa phát triển và chưa chú trọng đầu tư khai thác, nhiều điểm du lịch du khách đến không biết mua gì để làm lưu niệm, hoặc các điểm du lịch có hàng lưu niệm tương tự nhau và ít chủng loại, kiểu dáng, mẫu mã chưa thật độc đáo, chưa thoả mãn tính hiếu kì của du khách. Nắm được yếu điểm này nếu ta biết dụng những điều kiện có sẵn của Việt Nam cộng với việc học hỏi bên ngoài để làm ra các mặt hàng lưu niệm phù hợp với từng nơi từng vùng và có ý nghĩa đối với những danh thắng cảnh của vùng đó thì sẽ tạo ra một nguồn thu không nhỏ. Cũng tương tự như vậy các nhà đầu tư có thể đầu tư vào lĩnh vực ăn uống, nơi ở của du khách. Thưởng thức ẩm thực cũng là một trong những mục tiêu quan trọng trong chuyến du lịch của du khách. 2.1.4.3. Tiêu dùng các dịch vụ Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hoá (thức ăn) xảy ra cùng một thời gian và cùng một địa điểm sản xuất ra chúng. Trong du lịch không phải vận chuyển du lịch và hàng hoá đến cho khách hàng mà ngược lại tự khách du lịch phải đến nơi có hàng hoá. Điều đó là một lợi thế đối với nhà kinh doanh họ đồng thời sẽ giảm được chi phí vận chuyển hàng hoá, chi phí bảo quản, đồng thời sản phẩm của họ sẽ được quảng cáo bởi du khách đến tham quan. 2.1.4.4. Tiêu dùng du lịch xảy ra đồng thời theo thời vụ Nhờ thế ta biết được nên sản xuất mặt hàng gì theo từng mùa để chủ động trong việc kinh doanh và thay thế sản phẩm để tận dụng được lợi thế. Chính khoảng cách các thời vụ là thời gian nhằm tôn tạo, đầu tư, chuẩn bị tốt cho thời vụ sắp tới, để có thể chủ động và phục vụ tốt trong thời vụ này. 2.1.5. Vai trò của du lịch 2.1.5.1. Thông qua tiêu dùng, du lịch Thông qua tiêu dùng, du lịch tác động mạnh lên lĩnh vực lưu thông, do vậy gây ảnh hưởng lớn lên các lĩnh vực khác của quá trình tái sản xuất xã hội. 2.1.5.2. Kinh tế du lịch Kinh tế du lịch gây biến đổi lớn trong cơ cấu cán cân thu chi của đất nước và vùng du lịch. Đối với du lịch quốc tế, việc khách mang ngoại tệ đến đổi và tiêu ở khu du lịch làm tăng tổng số tiền trong cán cân thu chi của vùng và của đất nước. Như vậy hoạt động của du lịch quốc tế là nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Ngoại tệ thu được từ du lịch quốc tế làm sống động cán cân thanh toán của đất nước du lịch và thường được sử dụng để sắm máy móc, thiết bị cần thiết cho quá trình sản xuất xã hội. Do vậy, du lịch quốc tế góp phần xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho đất nước. Còn đối với du lịch nội địa, việc tiêu tiền của dân ở vùng du lịch chỉ gây biến động trong cơ cấu cán cân thu chi của nhân dân theo vùng, chứ không làm thay đổi tổng sô như tác động vủa du lịch quốc tế. Trong quá trình hoạt động du lịch đòi hỏi số lượng lớn vật tư và hàng hoá đa dạng. Ngoài việc khách hàng mang tiền kiếm được từ nơi khác đến tiêu ở vùng du lịch góp phần làm sống động kinh doanh của vùng du lịch và đất nước du lịch. 2.1.5.3. Du lịch Du lịch góp phần làm tăng thu nhập quốc dân (đối với du lịch quốc tế, hoạt động ăn uống trong du lịch nội địa, sản xuất hàng lưu niệm, xây dựng cơ sở vật chất…) trên hai mặt sáng tạo và sử dụng. 2.1.5.4. Thông qua lĩnh vực lưu thông Thông qua lĩnh vực lưu thông mà du lịch có ảnh hưởng tích cực lên sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp và nông nghiệp như: công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp gỗ, công nghiệp dệt, ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi,… Du lịch luôn đòi hỏi hàng hoá có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, mỹ thuật và hình thức. Do vậy, du lịch góp phần định hướng cho sự phát triển các ngành ấy trên các mặt: số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm và việc chuyên môn hoá của các doanh nghiệp trong sản xuất, ảnh hưởng của du lịch lên sự phát triển các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân như: thông tin, xây dựng, y tế, văn hoá,… cũng rất lớn. Sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch của một vùng không chỉ thể hiện ở chỗ những nơi đó có tài nguyên du lịch, mà bên cạnh chúng phải có cơ sở vật chất kĩ thuật, hệ thống đường sá, nhà ga, sân bay, bưu điện, Ngân hàng, mạnh lưới thương nghiệp,… Việc tận dụng đưa những nơi có tài nguyên du lịch vào sử dụng, kinh doanh đòi hỏi phải xây dựng ở đó hệ thống đường sá, mạng lưới thương nghiệp, bưu điện,…, qua đó cũng kích thích sự phát triển tương ứng của các ngành liên quan. Ngoài ra, du lịch phát triển còn đánh thức một số ngành sản xuất thủ công truyền thống phát triển. 2.1.5.5. Du lịch góp phần huy động nguồn vốn nhàn rỗi Du lịch góp phần huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân vào trong chu chuyển, vì chi phí cho hành trình du lịch là từ tiền tiết kiệm của dân. 2.1.5.6. Việc xuất khẩu bằng du lịch quốc tế Việc xuất khẩu bằng du lịch quốc tế luôn đảm bảo doanh thu lớn hơn nhiều nếu cùng những hàng hoá đó đem xuất theo đường ngoại thương. Hàng hoá trong du lịch được xuất khẩu với giá bán lẻ, luôn đảm bảo cao hơn giá xuất theo đường ngoại thương là bán buôn. Trong nhiều trường hợp qua giá hàng trong du lịch quốc tế còn đảm bảo thu được “địa tô du lịch”. Điều đó thể hiện ở giá của những cơ sở du lịch nằm trong trung tâm du lịch. Ví dụ: giá các du lịch trung tâm thành phố, các khách sạn nằm gần biển, quay ra biển luôn cao hơn giá khách sạn xa trung tâm thành phố, xa biển. Đó là chưa kể đến những trường hợp ở ngoại thương do nhu cầu ngoại tệ, phải xuất khẩu với giá hàng thấp hơn giá thành sản xuất ra chúng và do vậy số lỗ càng tăng khi xuất khẩu đi càng nhiều. 2.1.5.7. Du lịch là phương tiện giáo dục lòng yêu nước Du lịch là phương tiện giáo dục lòng yêu nước, giữ gìn và nâng cao truyền thống dân tộc. Thông qua các chuyến đi tham quan, nghỉ mát, vãn cảnh,…, người dân có điều kiện làm quen với cảnh đẹp, với lịch sử văn hoá dân tộc, qua đó thêm yêu đất nước mình. Sự phát triển du lịch còn góp phần khai thác, bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên xã hội. 2.2. Tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư trong những thời gian qua 2.2.1. Thành quả đạt được 2.2.1.1. Về vốn đầu tư Trong những năm qua, ngành du lịch đã huy động được một lượng lớn vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau (ngân sách Nhà nước, tư nhân, nguồn hợp tác và đầu tư nước ngoài,…). Trong thời gian từ năm 1988 đến 2004 đã có 500 dự án đầu tư vào du lịch với số vốn đăng kí là 9885 triệu USD, chủ yếu đầu tư xây dựng khách sạn văn phòng cho thuê, phát triển đô thị,… Với chính sách mở cửa, hợp tác Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới và hành lang pháp lí ngày càng thông thoáng nên chúng ta đã thu hút được rất nhiều nguồn vốn đầu tư từ cả trong và ngoài nước. Nguồn vốn đầu tư vào ngành du lịch trong những năm qua được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội 2000 - 2004 phân theo ngành kinh tế tính theo giá hiện hành Đơn vị: tỷ VND chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng số 151183,0 170496,0 199104,5 231616,2 275000,0 Khách sạn & nhà hàng 4453,2 2974,7 3827,2 4095,2 4800,0 Nguồn niên giám thống kê Qua bảng trên ta thấy tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản qua các năm đều tăng nhưng vốn đầu tư vào xây dựng khách sạn, nhà hàng không ổn định cụ thể: Năm 2000, số vốn đầu tư vào khách sạn nhà hàng đạt 4453,2 tỷ đồng chiếm 2,95% trong tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội (151183 tỷ đồng). Năm 2001, tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội đạt: 170496 tỷ đồng (+ 19313 tỷ đồng) nhưng số vốn đầu tư vào khách sạn và nhà hàng lại chỉ đạt 2974,7 tỷ đồng giảm 1478,5 tỷ đồng so với năm 2000 và chỉ đạt 1,4% trên tổng số. Năm 2002, số vốn đầu tư vào khách sạn và nhà hàng chiếm tỷ lệ 1,42% trên tổng số với số vốn đầu tư tuyệt đối là 3827,2 tỷ đồng tăng 852,4 tỷ đồng. Năm 2003, số vốn đầu tư vào khách sạn và nhà hàng chiếm tỷ lệ 1,77%, với số vốn đầu tư tuyệt đối là 4095,2 tỷ đồng tăng 268 tỷ đồng. Năm 2004, số vốn đầu tư vào khách sạn và nhà hàng chiếm tỷ lệ 1,75%, với số vốn đầu tư tuyệt đối là 4800 tỷ đồng tăng 704,8 tỷ đồng. Bảng 2: Vốn đầu tư theo giá so sánh với năm 1994 phân theo ngành kinh tế Đơn vị: tỷ VND chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng số 115089,0 129454,5 148067,1 167228,0 186555,8 Khách sạn & nhà hàng 3390,0 2258,6 2846,2 2956,7 3256,2 Nguồn niên giám thống kê Như vậy tỉ lệ vốn đầu tư xây dựng cơ bản vào ngành khách sạn, nhà hàng giảm dần qua các năm, song xét về tuyệt đối thì vốn đầu tư vào nghành hàng năm vẫn tăng nhưng do tốc độ tăng của vốn đầu tư vào ngành chậm hơn tốc độ tăng của vốn đầu tư vào xã hội nên đã dẫn tới sự giảm dần về tỷ lệ. Xét về đầu tư nước ngoài (FDI): giai đoạn 2001-2005 tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng kí tăng trung bình 73,5% trên năm và đạt 2.580 triệu USD; tổng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt khoảng 1.080 triệu USD (tương đương khoảng 16.600 tỷ đồng). Tổng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đã tăng mạnh trong những năm cuối kì kế hoạch. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư đã đóng góp 16% GDP và đóng góp cho hoạt động xuất khẩu tăng từ 12% (năm 2001) lên 32% (năm 2005), trong khi đó nhập khẩu chỉ tăng từ 7% lên 14%. Xét về lượng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào du lịch trong những năm qua thể hiện trong bảng sau: Bảng 3: Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (1988 - 2004) phân theo ngành kinh tế Đơn vị: tr VND chỉ tiêu Số dự án Tổng vốn đăng kí (tỷ USD) Vốn pháp định (tỷ USD) Tổng số 6164,0 59847,9 30006,5 Khách sạn & nhà hàng 215,0 5056,8 2085,9 Nguồn niên giám thống kê Qua bảng trên ta thấy trong khoảng thời gian 1988 - 2004 số dự án đầu tư vào khách sạn và nhà hàng chiếm 3,488% trên tổng số dự án đầu tư với số vốn đăng kí lên tới 5.056,8 tỷ đồng chiếm xấp xỉ 8,45% và vốn pháp định là 2.085,9 tỷ đồng chiếm 6,95%. Như vậy Việt Nam đã ngày càng thu hút đươc sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài bởi các chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta đã đưa Việt Nam hội nhập với nền kinh tế, văn hoá của nhiều quốc gia trên thế giới, tạo điều kiện cho thế giới biết đến Việt Nam là một đất nước giàu tiềm năng, vì thế trong những năm qua đã có nhiều đối tác nước ngoài đầu tư vào Việt Nam như các nước ở Tây Âu, châu á, châu úc, Bắc Mỹ,… Bên cạnh đó, với chính sách khuyến khích tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước phát triển nên các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư vào lĩnh vực du lịch dịch vụ cũng ngày càng tăng, số khách sạn nhà hàng của tư nhân và nhà nước đã được đầu tư và đưa vào phục vụ khá nhiều đáp ứng tốt nhu cầu được phục vụ của du khách tạo được đà góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Nhưng theo các nhà phân tích thì Việt Nam cần phải đầu tư 5,5 tỷ USD để nếu muốn đạt mục tiêu đón 5,5 triệu lượt khách quốc tế, 25 - 26 triệu lượt khách nội địa, thu nhập du lịch đạt 4,5 - 5 tỷ USD. Riêng về vốn đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch giai đoạn 2005 - 2010 số vốn cần thiết là 1,5 tỷ USD. 2.2.1.2. Đóng góp vào sản phẩm quốc nội Trong những năm qua với những cố gắng, nỗ lực của mình, ngành du lịch đã thu hút được nhiều du khách và đã có những đóng góp tích cực vào tổng sản phẩm quốc nội. Thể hiện qua bảng sau: Bảng 4: Tổng sản phẩm trong nước phân theo ngành kinh tế Đơn vị: Tỷ VND chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng số 273.666 292.535 313.247 336.242 362.092 Khách sạn & nhà hàng 8,863 9,458 10,125 10,646 11,432 Nguồn niên giám thống kê Bảng 5: Tổng sản phẩm trong nước phân theo ngành kinh tế Đơn vị: % chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng số 100 100 100 100 100 Khách sạn & nhà hàng 3,238 3,233 3,232 3,166 3,157 Nguồn niên giám thống kê Bảng 6: Chỉ số phát triển Đơn vị: Tỷ VND chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng số 106,79 106,89 107,08 107,34 107,69 Khách sạn & nhà hàng 104,09 106,71 107,05 205,15 107,38 Nguồn niên giám thống kê Qua bảng 4, 5, 6 ta thấy ngành du lịch (khách sạn và nhà hàng) đã đóng góp vào sản phẩm quốc nội ngày càng tăng về số tuyệt đối. Năm 2000 đạt 8863 tỷ đồng và đạt tỷ trọng là 3,238% trên tổng số và với chỉ số phát triển là 104,09%. Năm 2001 đạt 9458 tỷ đồng, tăng 595 tỷ đồng và đạt tỷ trọng là 3,233% trên tổng số (giảm 0,005%) và với chỉ số phát triển đạt được 106,71%. Năm 2002 đạt 10125 tỷ đồng, tăng 667 tỷ đồng và chiếm tỷ trọng là 3,232% trên tổng số (giảm 0,001%) và với chỉ số phát triển đạt được 107,5%. Năm 2003 đạt 10646 tỷ đồng, tăng 521 tỷ đồng và đạt tỷ trọng là 3,166% trên tổng số (giảm 0,066%) và với chỉ số phát triển đạt được 105,1%. Năm 2004 đạt 11,432 tỷ đồng, tăng 786 tỷ đồng và đạt tỷ trọng là 3,157% trên tổng số (giảm 0,009%) và với chỉ số phát triển đạt được 107,38%. Như vậy xét về mức độ tuyệt đối thì hàng năm ngành đều đóng góp vào GDP năm sau cao hơn năm trước nhưng xét về mặt tương đối thì giảm dần theo các năm, kết quả này là do tốc độ tăng của ngành chậm hơn tốc độ của các ngành khác. Để có đánh giá rõ hơn về nguyên nhân trên, ta xem xét kết quả kinh doanh trong những năm qua được thể hiện qua bảng sau: Bảng 7: Kết quả kinh doanh của ngành du lịch chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 Doanh thu của các cơ sở lưu trú (tỷ đồng) 3268,5 3860,4 5425,5 6016,6 Doanh thu của các cơ sở lữ hành (tỷ đồng) 1190,0 2009,0 2430,4 2633,2 Số lượt khách do các cơ sở lưu trú phục vụ (nghìn lượt người). Khách quốc tế Khách trong nước 10330,0 7674,0 2656,0 1492,0 9982,0 410,0 19610,6 14676,4 4934,2 20684,2 16497,0 4187,2 Số lượt khách do các cơ sở lữ hành phục vụ (nghìn lượt người). Khách quốc tế Khách trong nước Khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài 2397,8 1359,3 939,5 99,0 3113,4 1439,1 1577,3 97,0 4669,9 1947,6 2624,5 97,8 3976,2 1425,0 2400,5 150,8 Nguồn niên giám thống kê Doanh thu từ hoạt động du lịch năm 2000 đạt mức 4458,5 tỷ đồng trong đó của các cơ sở lưu trú đạt 3268,5 tỷ đồng tương ứng với 10330 nghìn lượt người. Năm 2001 các cơ sở lưu trú phục vụ được 14092,0 nghìn lượt người trong đó khách quốc tế là 4110 nghìn lượt người và khách trong nước là 9982 nghìn lượt người và đã đạt doanh thu 3860,4 tỷ đồng, với việc phục vụ 3113,4 nghìn lượt người, các cơ sở lữ hành đã đạt doanh thu là 2009,0 tỷ đồng đưa tổng doanh thu của ngành du lịch năm 2001 đạt 5869,4 tỷ đồng, tăng 1410,9 tỷ đồng so với năm 2000. Năm 2002 doanh thu của ngành đạt 7.855,9 tỷ đồng (tăng 1.986,5 tỷ đồng). Năm 2003 đạt mức doanh thu là 8.649,8 tỷ đồng (tăng 7.939,9 tỷ đồng), Như vậy doanh thu từ hoạt động du lịch ngày càng tăng trong các năm chứng tỏ ngành công nghiệp không khói của nước ta ngày càng phát triển trong đó doanh thu từ hoạt động du lịch phục vụ khách quốc tế chiếm tỷ lệ lớn bởi số lượt khách quốc tế đến Việt Nam là cao và chi tiêu bình quân của khách du lịch quốc tế tại Việt Nam lớn hơn chi tiêu bình quân của khách đi du lịch trong nước. Ví dụ như năm 2003 chi tiêu bình quân của một lượt khách du lịch quốc tế tại Việt Nam là 902,7 USD/lượt khách đi du lịch trong nước là 1.522,3 ngìn đồng và bình quân chung một người là 439,5 nghìn đồn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36315.doc
Tài liệu liên quan