PHẦN I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
I. Nguồn nhân lực .
1.1 Khái niệm.
Nguồn nhân lực với tư cách là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội ,nó bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường (không bị khuyến khuyết hoặc dị tật bẩm sinh ).
Nguồn nhân lực có thể với tư cách là một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động .
Nguồn nhâ
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng đầu tư và sử dụng nguồn nhân lực ở Việt Vam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực bao gồm những người bắt đầu bước vào độ tuổi lao động trở lên có tham gia vào nền sản xuất xã hội.
Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định quy mô nguồn nhân lực, song đều có chung một ý nghĩa là nói lên khả năng lao động của xã hội.
Nguồn nhân lực được xem xét dưới góc độ số lượng và chất lượng. Số lượng được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên sau thời gian khoảng 15 năm (vì đến lúc đó con người mới bước vào độ tuổi lao động ). Về chất lượng, nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt: tình trạng sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn và năng lực phẩm chất …
Cũng giống như các nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và văn hóa cho xã hội.
1.2 Các yếu tố cơ bản của nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là một nguồn lực được đặc trưng bởi các yếu tố cơ bản sau:
Số lượng nhân lực: là tổng số người được thuê mướn, được trả công và được ghi vào một danh sách nhân sự của một tổ chức nào đó. Số lượng nguồn nhân lực được đo lường thông qua chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng. Các chỉ tiêu này có liên quan mật thiết với quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô và tốc độ tăng dân số càng lớn thì quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực và ngược lại.
Cơ cấu tuổi nhân lực: được biểu thị bằng số lượng nhân lực ở những độ tuổi khác nhau.
Chất lượng nguồn nhân lực: là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực trong tổ chức thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Chất lượng của nguồn nhân lực được thể hiện thông qua một số yếu tố chủ yếu như trạng thái sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực.
Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khỏe của nguồn nhân lực: sức khỏe là trang thái thoải mái về thể chất cũng như tinh thần của mỗi con ngưới, và được biểu hiện thông qua nhiều chuẩn mực đo lường về chiều cao, cân nặng, các giác quan nội khoa…Bên cạnh việc đánh giá trạng thái sức khỏe của người lao động người ta còn nêu ra các chỉ tiêu đánh giá của một quôc gia như tỷ lệ sinh, tỉ lệ tử, tăng tự nhiên, tuổi thọ trung bình, có cấu giới tính, tuổi tác, mức GDP/đầu người…
Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hóa của nguồn nhân lực: trình độ văn hóa của nguồn nhân lực là trạng thái hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trong chừng mực nhất định, trình độ văn hóa dân cư biểu hiện mặt bằng dân trí của một quốc gia. Trình độ văn hóa của nguồn nhân lực được lượng hóa qua các quan hệ tỷ lệ: số lượng và tỉ lệ biết chữ, số lượng và tỉ lệ người qua các cấp học…
Trình độ văn hóa của nguồn nhân lực là chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hóa cao sẽ tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn.
Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật nguồn nhân lực: trình độ chuyên môn kỹ thuật là trạng thái biểu hiện khả năng thực hành về một chuyên môn nghề nghiệp nào đó được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu: số lượng lao động được đào tạo và chưa đào tạo, cơ cấu đào tạo… Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh chất lượng của nguồn nhân lực, thông qua chỉ tiêu này cho thấy khả năng sản xuất của con người trong nghành, trong một quốc gia, một vùng lãnh thồ, khả năng sử dụng khoa học hiện đại váo sản xuất.
Chỉ số phát triển con người(HDI – Human development index): chỉ số HDI là chỉ tiêu đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế có tính đến chất lượng cuộc sống, công bằng và tiến bộ xã hội. Chỉ số này được tính theo 3 chỉ tiêu: tuổi thọ bình quân, thu nhập bình quân/đầu người, trình độ học vấn.
Ngoài ra người ta còn xem xét năng lực phẩm chất nguồn nhân lực thông qua các chỉ tiêu: truyền thống lịch sử, nền văn hóa, văn minh, phong tục tập quán của dân tộc… Các chỉ tiêu này nhấn mạnh đến ý trí, năng lực tinh thần của người lao động.
Cơ cấu cấp bậc nhân lực: bao gồm số lượng nhân lực được phân biệt từ cao cấp cho đến cấp thấp và đến những người lao động, nhân viên trong tổ chức. Cơ cấu này phản ánh các bước thăng tiến nghề nghiệp của nhân lực trong tổ chức.
Nhân lực là nguồn lực có giá trị không thể thiếu đối với hoạt động của một tổ chức, đồng thời hoạt động của của bản thân nó thường bị chi phối bởi nhiều yếu tố tạo nên tính đa dạng và phức tạp của nguồn nhân lực. Do đó, sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả là mục tiêu hàng đầu và lâu dài của quản lý nguồn nhân lực trong các tổ chức hiện nay.
1.3 Phân loại nguồn nhân lực:
Phân loại nguồn nhân lực: tùy theo giác độ nguyên cứu mà người ta phân loại.
Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư.
Bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, không kể đến trạng thái có làm việc hay không làm việc. Theo thông kê của liên hợp quốc, khái niệm này gọi là dân cư hoạt động, có nghĩa là những người có khả năng làm việc trong dân cư tính theo độ tuổi lao động quy định.
Độ tuổi lao động là giới hạn về những điều kiện cụ thể, tâm sinh lý xã hội, mà con ngườI tham gia vào quá trình lao động. Giới hạn độ tuổi lao động được quy định tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng nước và trong từng thời kỳ. Giới hạn độ tuổi lao động bao gồm:
Giới hạn dưới: quy định số tuổi thanh niên bước vào độ tuổi lao động, ở nước ta hiện nay là 15 tuổi.
Giới hạn trên: quy định độ tuổi về hưu, ở nước ta quy định độ tuổi này là 55 tuổi đối với nữ và 60 tuổi đối với nam.
Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong dân số, thường từ 50 % hoặc hơn nữa, tùy theo đặc điểm dân số và nhân lực từng nước.
Theo những người trong độ tuổi từ 16-60 (đốI với nam )và 16-55 (đối với nữ ), theo quy định ở Việt Nam, đều thuộc vào nguồn nhân lực trong độ tuổ lao động. Đây là nguồn nhân lực chính có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế. Ở nước ta, theo tài liệu điều tra dân số ngày 1-4-1989, nguồn này chiếm 54 % trong dân số.
Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế .
Nay gọi là dân số hoạt động kinh tế , đây là số người có công ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế và văn hóa của xã hội.
Như vậy giữa nguồn nhân lực có sẵn trong dân số và nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế có sự khác nhau. Sự khác nhau này là do có một bộ phận trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau, chưa tham gia vào hoạt động kinh tế (thất nghiệp, có việc làm nhưng không muốn làm việc ) và đang học tập, có nguồn thu thập khác nhưng cần đi làm ,..) Năm 1993, số người không có việc làm ở nước ta chiếm 7.37 % dân số hoạt động kinh tế.
Nguồn nhân lực dự trữ :
Các nguồn nhân lực dự trữ trong nền kinh tế bao gồm những người trong độ tuổi lao động, nhưng vì các lý do khác nhau, họ chưa có công việc làm ngoài xã hội. Số người này đóng vai trò của một nguồn dự trữ về nhân lực, gồm có:
Những người làm công việc nội chợ trong gia đình: khi điều kiện kinh tế của xã hội thuận lợi, nếu bản thân họ muốn tham gia lao động ngoài xã hội, họ có thể rời bỏ công việc nội trợ để làm công việc thích hợp ngoài xã hội. Đây là nguồn nhân lực đáng kể và đại bộ phận là phụ nữ, hàng ngày vẫn đảm nhiệm những chức năng duy trì, bảo vệ, phát triển gia đình về nhiều mặt, đó là những hoạt động có ích và cần thiết. Công việc nội trợ gia đình đa dạng, vất vả đối với phụ nữ ở các nước chậm phát triển (do chủ yếu là lao động chân tay ), dẫn đến năng suất lao động thấp hơn so với những công việc tương tự được tổ chưc ở quy mô lớn hơn, có trang bị kỹ thuật cao hơn.
Những người tốt nghiệp ở các trưòng phổ thông và các trường chuyên nghiệp được coi là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn nhân lực ở độ tuổi thanh niên, có học vấn, có trình độ chuyên môn (nếu được đào tạo tại các trường dạy nghề và các trường trung cấp, đại học ). Tuy nhiên, khi nghiên cứu nguồn nhân lực này cần phải chia tỷ mỷ hơn.
+ Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động , tốt nghiệp trung học phổ thông, không tiếp tục học nữa, muốn tìm công việc làm.
+ Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động, chưa học hết trung học phổ thông, không tiếp tục học nữa, muốn tìm việc làm.
+ Nguồn nhân lực ở độ tuổi lao động đã tốt nghiệp ở các trường chuyên nghiệp (trung cấp, cao đẳng, đại học ) thuộc các chuyên môn khác nhau tìm việc làm.
Những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự cũng thuộc nguồn nhân lực dự trữ, có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế số người, thuôc nguồn nhân lực dự trữ này cũng cần phân loại, để biết rõ có nghề hay không có nghề, trình độ văn hóa, sức khỏe ... từ đó tạo công việc làm thích hợp.
Những người trong độ tuổi lao động đang thất nghiệp (có nghề hoặc không nghề ) muốn tìm việc làm, cũng là nguồn nhân lực dự trữ, sẵn sàng tham gia vào hoạt động kinh tế.
Ngoài ra người ta cũng có thể căn cứ vào vai trò của từng bộ phận nguồn nhân lực mà chia ra làm 3 loại:
Nguồn lao động chính: là bộ phân nguồn nhân lực nằm trong độ tuổi lao động và là bộ phân quan trọng nhất.
Nguồn lao động phụ: là bộ phận nằm ngoài độ tuổi lao động có thể tham gia vào nền sản xuất xã hội đặc biệt là ở những nước kém phát triển.
Nguồn lao động bổ sung: là bộ phận nguồn nhân lực được bổ sung từ các nguồn khác(số người hết hạn nghĩa vụ quân sự số người trong độ tuổi lao động thôi học ra trường, số người lao động từ nước ngoài trở về …)
1.4 Vai trò nguồn nhân lực:
Đầu tư cho con người, nhằm nâng cao chất lượng của từng cá nhân, tạo ra khả năng nâng cao chất lượng cuộc sống cho cả xã hội,từ đó nâng cao năng suất lao động. Garry becker người mỹ được giải thưởng Nobel kinh tế năm 1992, khẳng định “không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục”.
Lịch sử các nền kinh tế trên thể giới cho thấy không có một nước giàu có nào đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, trước khi đạt được mức phổ cập giáo dục phổ thông. Cách thức để thúc đẩy sản xuất đến lượt nó thúc đẩy cạnh tranh , là phải tăng hiệu quả giáo dục. Các nước và các lãnh thổ công nghiệp hóa mới thành công nhất như Hàn Quốc, Singarpor, Hồng kông và một số nước khác có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong những thập kỷ 70 và 80 thường đạt mức độ phổ cập tiểu học trước khi các nền kinh tế đó cất cánh. Mặc dù vậy, các nghiên cứu cũng cho thấy thành công của Nhật bản và Hàn Quốc trong kinh tế không chỉ do phần đông dân cư có học vấn cao mà do các chính sách kinh tế, trình độ quản lý hiện đại của họ, một phần lớn là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tại sao nguồn nhân lực lại có tác dụng lớn đến như vậy?
Bởi lẽ nguồn nhân lực là nguồn lực con người và là một trong nhưng nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế xã hội. Vai trò đó bắt nguồn từ vai trò của yếu tố con người.
Con người là động lực của sự phát triển .
Bất cứ một sự phát triển nào cũng đều phải có một động lực thúc đẩy. Phát triển kinh tế xã hội được dựa trên nhiều nguồn lực: nhân lực (nguồn lực con người ) Vật lực (Nguồn lực vật chất, công cụ lao động đối tượng lao động, tài nguyên thiên nhiên ), Tài lực (nguồn lực về tài chính tiền tệ ) … song chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra động lực của sự phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy được được tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con người. Từ xa xưa cong người bằng động lực lao động và nguồn lực do chính bản thân mình tao ra , để sản xuất ra sản phẩm thoã mãn nhu cầu của bản thân mình. Sản xuất ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng cao, hợp tác ngày càng chặt chẽ, tạo cơ hội để chuyển dần hoạt động của con người do máy móc thiết bị thực hiện (các động cơ phát lực ), làm thay đổi tính chất của lao động từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ. Nhưng ngay cả khi đạt được tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại như hiện nay thì cũng không thể tách rời nguồn lực con người bởi lẽ :
-Chính con người đã tạo ra những máy móc thiết bị đó, điều đó thể hiện mức độ hiểu biết và chế ngự tự nhiên của con người.
- Ngay cả đối với máy móc thiết bị hiện đại, nếu thiếu sự điều khiển, kiểm tra của con người (tức là tác động của con người )thì chúng chỉ là vật chất. Chỉ có tác động của con người mới phát động chúng và đưa chúng vào hoạt động.
Vì vậy, nếu xem xet nguồn lực là Tổng Thể các năng lực (cơ năng và trí năng ) của con người được huy động vào quá trình sản xuất, thì năng lực đó là nội lực của con người.
Con người là mục tiêu của sự phát triển .
Ph át triển kinh tế xã hội suy cho cùng là nhằm mục tiêu phục vụ con người, làm cho cuộc sống ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng văn minh. Nói khác đi, con ngườilà lực lượng tiếu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội, và như vậy nó thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Mặc dù sự phát triển của sản xuất quyết định mức độ tiêu dùng, song nhu cầu tiêu dùng của con người tác động mạnh mẽ tới sản xuất , định hướng phát triển của sản xuất thông quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. Nếu trên thị trường nhu cầu tiêu dùng của một hàng hoá nào đó tăng lên, lập tức thu hút lao động cần thiết sản xuất ra hàng hoá đó và ngược lại.
Nhu cầu của con người vô cùng phong phú và đa dạng và thường xuyên tăng lên, nó bao gồm nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần. Về số lượng và chủng loại hàng hoá càng ngày càng phong phú và đa dạng, điều đó tác động tới quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Yếu tố con người trong phát triển kinh tế xã hội.
Con người không chỉ là mục tiêu, động lực của sự phát triển, thể hiện mức độ chế ngự thiên nhiên, biến thiên nhiên phục vụ cho con người, mà còn tạo ra những điều kiện để hoàn thiện chính bản thân con người.
Lịch sử phát triển của loài người đã chứng minh rằng trải qua quá trình lao động hàng triệu năm mới chở thành con người ngày nay và trong quá trình đó, mỗi giai đoạn phát triển của con người lại làm tăng thêm sức mạnh chế ngự thiên nhiên, tăng thêm động lực cho sụ phát triển kinh tế xã hội.
Tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào trình độ khoa học và công nghệ của nghệ của nước đó. Trình độ khoa học và công nghệ lại phụ thuộc vào các điều kiện giáo dục. Đã có nhiều bài học thất bại khi một nước sử dụng công nghệ ngoại nhập tiên tiến khi tiềm lực khoa học công nghệ trong nước còn yếu. Sự yếu thể hiện ở thiếu chuyên gia giỏi về khoa học côngn ghệ và quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên, công nhân làng nghề và đó không thể ứng dụng các công nghệ mới. Không có sụ lựa chọn nào khác, hoặc là đào tạo nguồn nhân lực quý giá cho đất nước phát triển hoặc phải chịu tụt hậu so với các nước khác.
Như vậy cách mạng và khoa học công nghệ hiện đại không chỉ nhằm biến đổi cơ sở vật chấ kỹ thuật của nền sản xuất nhỏ trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng đó mang nội dung mới trên cơ sở các quan hệ sản xuất, khoa học và công nghệ. Những phát minh khoa học ở thời kỳ này ngay lập tức được ứng dụng vào sản xuất và làm xuất hiện một hệ thống sản xuất linh hoạt đủ khả năng làm thay đổi nhanh chóng quá trình sản xuất Cuộc cách mang công nghệ tạo ra hàm lượng thông tin và trí tuệ trong tổng chí phí sản xuất cao.Yếu tố mới xuất hiện và chở thành yếu tố cốt lõi của cả hệ thống sản xuất hiện đại ,chính là thông tin và trí thức .Các số liệu thống kê năm 1990 phản ánh phần đóng góp của thông tin và trí thức, tri thức trong thu nhập quốc dân của Hoa Kỳ là 47.4 % ; Anh là 45.8 % ; Pháp là 45.1 % ; Đức là 40 % . Trí tuệ chở thành động lực cho sự phát triển của nhân loại, thúc đẩy sự tiến bộ sâu và rộng của xã hội trên nền tảng khoa học và công nghệ cao, để tạo ra bức tăng trưởng kinh tế mới, hiếm thấy so với trước đây.
2. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
2.1 Khái niệm.
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Phát triển nguồn nhân lực thực chất là ngày càng phải làm tốt hơn việc giải phóng con người. Đòi hỏi này cùng một lúc đặt ra hai yêu cầu: Phải tập chung trí tuệ và nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực, mặt khác phải đồng thời thường xuyên cải thiện và đổi mới môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giữ gìn môi trường tự nhiên của quốc gia.
Nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực
2.2.1 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực tầm quốc gia:
2.2.1.1 Đầu tư cho hoạt động giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực phạm vi toàn quốc.
Giáo dục , đào tạo và phát triển năng lực con người lao động có ảnh hưởng vô cùng lớn đến sự phát triển kinh tế ,xã hội của một quốc gia và có khả năng cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp .Giáo dục , đào tạo là cơ sở nền tảng trong sức mạnh của Anh trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ;là nguồn gốc thành công của mỹ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 vầ là ưu thế của nhật bản trong cuộc cách mạng kỹ thuật cao cấp lần thứ ba .Nhu cầu đào tạo và phát triển nhân lực trong các tổ chức tăng nhanh cùng với sụ phát triển hợp tác và cạnh tranh quốc tế ,công nghệ tiên tiến và các áp lực kinh tế xã hội . Đào tạo được xem như là yếu tố cơ bản nhằm đáp ứng các mục tiêu chiến lược của tổ chức .Gìơ đây chất lượng nhân viên đã chở thành một trong những lợi thế cạnh trong quan trong nhất của các doanh nghiệp trên thế giới ,thực tế đã chứng minh rằng đầu tư vào nguồn lực có thể mang lại hiệu quả cao hơn hẳn so với đầu tư kỹ thuật công nghệ và các yếu tố khác của quá trình sản xuất kinh doanh . Đó là lý do vì sao các nhà lãnh đạo doanh nghiệp giàu kinh nghiệm của Mỹ Nhật đều chú trọng hàng đầu đến công tác đào tạo ,phát triển nguồn nhân lực .
Trong các tổ chức vấn đề đào tạo và phát triển được áp dụng nhằm ,trực tiếp nhân viên thực hiện công việc tốt hơn , đặc biệt là khi nhân viên thực hiện công việc không đáp ứng được các tiêu chuẩn mẫu ,hoặc khi nhân viên nhận công việc mới .
-Cập nhập các kỹ năng mới cho nhân viên ,giúp họ có thể áp dụng thành công các thay đổi công nghệ ,kỹ thuật trong doanh nghiệp .
- Giải quyết các vấn đề tổ chức đào tạo và phát triển có thể giúp nhà quản trị giải quyết các vấn đề về mâu thuẫn ,xung đột giữa các cá nhân ,giữa công đoàn với các nhà quản trị , đề ra các chính sách về quản lý nguồn nhân lực của doanh nghiệp có hiệu quả .
- Hướng dẫn công việc cho nhân viên mới ,nhân viên mới gặp nhiều khó khăn ,bỡ ngỡ trong những ngày đầu làm việc trong tổ chức ,doanh nghiệp và các chương trình định hướng công việc đối với nhân viên mới sẽ giúp họ mau chóng thích ứng vóí môi trường lam việc mới của doanh nghiệp .
- Chuẩn bị độ ngũ cán bộ quản lý ,chuyên môn kế cận , đào tạo và phát triển giúp cho nhân viên có những kỹ năng cần thiết cho các cơ hội thăng tiến và thay thế cho các cán bộ quản lý ,chuyên môn khi cần thiết .
-Thoã mãn nhu cầu phát triển cho nhân viên , đựoc trang bị những kỹ năng chuyên môn cần thiết sẽ kích thích nhân viên thực hiên công việc tốt hơn , đạt được nhiều thành tích tốt hơn ,muốn được trao những nhiệm vụ có thách thức cao hơn .
2.2.1.2 Đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường làm việc cho người lao động.
Khái niệm: Điều kiện lao động là tổng hợp của các yếu tố trong môi trường có tác động lên con người trong quá trình lao động sản xuất cũng như trong quá trình sinh hoạt của mình.
Ý nghĩa: Đầu tư vào cơ sở hạ tầng và cải thiện điều kiện làm việc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống và làm việc của mỗi con người. Khi cơ sở hạ tầng phát triển, cuộc sống và công việc của con người sẽ diễn ra nhịp nhàng hơn điều độ hơn con người tiếp cận với công việc dễ dàng hơn. Hoạt động đầu tư này gián tiếp thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Nội dung: Đầu tư vào cơ sở hạ tầng và cải thiện điều kiện làm việc bao gồm những nội dung sau:
Đầu tư xây dựng trường học cho các vùng nông thôn, miền núi, dân tộc
ít người mua sắm trang thiết bị học tập tốt, phù hợp với điều kiện của các vùng.
Đầu tư xây dựng các khu công nghiệp an toàn, sạch sẽ, hiện đai.
Đầu tư vào hệ thống giao thông, đường xá.
Đầu tư xây dựng các khu nhà ở chỗ người dân, người lao động.
2.2.1.3 Đầu tư vào công tác xã hội, chăm sóc sức khỏe y tế con người.
Đầu tư và công tác xã hội:
Để phát triển nguồn nhân lực, mỗi quốc gia cần quan tâm đầu tư tới các nội dung xã hội sau:
Bảo hiểm xã hội: bảo hiểm xã hội là một trong những nội dung quan trọng của chính sách xã hội mà nhà nước đảm bảo trước pháp luật cho mỗi người dân nói chung và người lao động nói riêng. Nó là sự bảo đảm về mặt thu nhập cho người lao động thông qua các chế độ của bảo hiểm xã hội nhằm góp phần ổn định của người lao động và gia đình họ. Bảo hiểm xã hội là một nhu cầu của nhân dân lao động trong xã hội cần được đảm bảo an toàn trong cuộc sống và làm việc. Nhà nước với vai trò là quản lý tài chính và tổ chức thực hiện các hoạt động xã hội có trách nhiệm tổ chức hoạt động trên phạm vi toàn xã hội để thỏa mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu bảo hiểm ngày càng đa dạng của các tầng lớp lao động trong xã hội.
Cứu trợ xã hội: là sự gúp đỡ của nhà nước, xã hội và cộng đồng bằng tiền, hiện vật hoạc các điều kiện sinh sống khác với các hình thức khác nhau, cho thành viên của xã hội khi họ gặp khó khăn, rủi ro hoạc bất hạnh trong cuộc sống nhằm giúp họ tránh được những khó khăn quá mức, bảo đảm cuộc sống và sớm có cuộc sống bình thường như của cộng đồng.
Ưu đãi xã hội: là sự đãi ngộ đặc biệt về vật chất, tinh thần của nhà nước, xã hội nhằm đền đáp công lao với những người có nhiều cống hiến xã hội làm lành mạnh hóa quan hệ xã hội. Điều này thể hiện trách nhiệm của nhà nước là xây dựng những hệ thống biện pháp cụ thể về sự ưu tiên và cơ chế thực hiện sự ưu tiên đó. Mục tiêu của chính sách này là đầu tư xã hội, nhằm tái sản xuất những giá trị cao đẹp của dân tộc, duy trì tinh thần yêu nước của con người Việt Nam, ổn định nếp sống, văn hóa và tình hình kinh tế xã hội của đất nước hiện nay và trong tương lai.
Xóa đói giảm nghèo: đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống như ăn, mặc, ở …Xóa đói giảm nghèo là trách nhiệm của nhà nước của các cấp cấc nghành, các tổ chức xã hội và của mọi người dân. Nhà nước thực hiện đầu tư xóa đói giảm nghèo qua các chương trình hỗ trợ cho các đối tượng thuộc chính sách ưu đãi, những người ở vùng núi cao, đồng bào dân tộc ít người, khu căn cứ cách mạng cũ, người tàn tật…
Tạo việc làm cho người lao động: đầu tư mở rộng sản xuất nhằm tạo mở việc làm, sử dụng tối đa và có hiệu quả các nguồn nhân lực. Đầu tư vào vùng nghèo, vùng miền núi, dân tộc, cho vay vốn từ quỹ quốc gia cho giải quyết việc làm.
Đầu tư chăm sóc sức khỏe cho người lao động, bảo vệ môi trường lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp… không chỉ nhằm thể hiện sự quan tâm, chăm sóc sức khỏe cho người lao động mà còn đóng một vai trò rất quan trọng trong thời kỳ hội nhập kinh tế. Môi trường sạch sức khỏe người lao động được nâng cao là vần đề then chốt để pháp triển sản xuất, tái tạo sức lao động và kéo dài tuổi thọ của người lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Đầu tư chăm sóc sức khỏe người lao động bao gồm những nội dung sau:
Xây dựng hệ thống các trung tâm y tế, bệnh viện với cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ, hiện đại, đáp ứng được nhu cầu bảo vệ sức khỏe của mọi người.
Đầu tư vào công tác phòng chống bệnh nghề nghiệp, chắm sóc sức khỏe thường xuyên
Đầu tư vào việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe trẻ em, giúp cho thế hệ trẻ phát triển tốt về thể lực, lành mạnh và tinh thần và do đó cũng giúp cho trẻ có đủ năng lực để nhanh chóng tiếp thu kiến thức, kỹ năng qua giáo dục ở nhà trường.
2.2.2 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
2.2.2.1 Đầu tư cho hoạt động tuyển dụng.
Khái niệm: tuyển dụng là quá trình tìm kiếm, thu hút và khuyến khích những cá nhân có đủ tiêu chuẩn thích hợp cả ở bên trong và bên ngoài doanh nghiệp tham gia ứng thí vào các chức danh cần người trong doanh nghiệp. Những ứng viên hội đủ những tiêu chuẩn của công việc có thể sẽ được tuyển dụng.
Ý nghĩa đầu tư cho hoạt động tuyển dụng: Đầu tư cho hoạt động tuyển dụng có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp, là yếu tố chủ yếu của chính sách quản lý nguồn lực, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới tình trạng nhân lực của doanh nghiệp. Qua tuyển dụng nhân viên mới, một mặt đội ngũ nhân lực được trẻ hoá, mặt khác trình độ trung bình cũng được nâng lên. Do vậy người ta có thể nói rằng: “tuyển dụng nhân viên là một sự đầu tư phi vật chất - đầu tư về con người”. Một chính sách tuyển dụng nhân viên đúng đắn, được chuẩn bị chu đáo, tiến hành nghiêm túc và có tiêu chuẩn xác đáng theo một quy trình khoa học sẽ đảm bao cho doanh nghiệp tuyển chọn được những người có năng lực thực sự góp phần đem lại thành công cho doanh nghiệp. Ngược lại nếu tiến hành tuỳ tiện, thiếu nghiêm túc, không có tiêu chuẩn… chẳng những không đem lai lợi ích mà đôi khi còn là trung tâm gây mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ, xáo trộn đơn vị và thậm trí tới mức xa thải người này và để rồi lại phải tuyển người mới. Điều này không nhưng không mang lại thành công cho doanh nghiệp mà còn gây lãng phí nhiều lần cho doanh nghiệp.
Nội dung của đầu tư tuyển dụng trong doanh nghiệp:
Đầu tử cho tuyển dụng bao gồm hai nội dung cơ bản, đó là đầu tư để thu hút, tìm kiếm nhân tài vào doanh nghiệp và đầu tư để sắp xếp, phân bổ nhân lực vào các vị trí thích hợp trong doanh nghiệp.
Đầu tư để thu hút, tìm kiếm nhân tài bao gồm các hoạt động nghiên cứu thị trường lao động, nghiêm cứu đặc điểm, yêu cầu công việc của các vị trí cần tuyển dụng, và các hoạt động quảng cáo nhằm thông tin rộng rãi đến người lao động để nhiều người biết đến việc tuyển dụng.
Đầu tư để sắp xếp, phân bổ nhân lực vào các vị trí thích hợp trong doanh nghiệp bao gồm các hoạt động như xem xét năng lực, trình độ chuyên môn và năng khiếu của nhân viên, sắp xếp vào các vị trí thích hợp nhằm khai thác tối đa khả năng làm việc của người lao động.
2.2.2.2. Đầu tư cho hoạt động đào tạo trong doanh nghiệp:
Khái niệm: Đào tạo nguồn nhân lực cho tổ chức là các hoạt động nhằm nâng cao năng lực cho người lao động trong việc đóng góp vào hoạt động của tổ chức.
Ý Nghĩa của việc đầu tư vào hoạt động đào tạo nguồn nhân lực: Trong một doanh nghiệp, không phai ai cũng có điều kiện để học tập, nghiên cứu và không phải ai cũng thông thạo các kỹ năng công việc của bản thân mình. Bởi vậy việc đầu tư cho hoạt động đào tạo trong doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Nó sẽ tạo điều kiện giúp cho người lao động có cơ hội học tập, có điều kiện để bồi dưỡng, cải thiện kiến thức nghề nghiệp và kỹ năng của bản thân, từ đó nhận thức tốt hơn mục tiêu của doanh nghiệp, có khả năng thực hiên tốt hơn nhiệm vụ của họ cũng như của doanh nghiệp.
Nội dung cụ thể của đầu tư cho hoạt động đào tạo trong doanh nghiệp
Đẩu tư cho đào tạo nghề cho công nhân: Đầu tư tại chỗ: Đối với những công việ đơn giản, có thể đào tạo bằng cách thuê ngoài hoặc phân công những chuyên gia, những cán bộ, những công nhân giỏi để hướng dẫn các thợ học nghề. Tạo điều kiện về thời gian và cơ sở vật chất cho việc dạy và học. Đầu tư mở rộng các lớp cạnh doanh nghiệp: Các lớp cạnh doanh nghiệp là những lớp dạy nghề quy mô nhỏ, chỉ đào tạo các ngành nghề mang tính riêng biệt của doanh nghiệp và những nghề này đòi hỏi trình độ lành nghề cao, tương đối phức tạp. Cử công nhân viên đi học các trường lớp dạy nghề, các trường lớp chính quy để nâng cao trình độ.
Đầu tư cho đào tạo cán bộ, công nhân viên chức: Với những nội dung đào tạo cơ bản như: Đào tạo vệ chuyên môn nghiệp vụ, đào tạo nhiều chức năng, đào tạo hoạt động theo nhóm và đào tạo tính sáng tạo.
Đầu tư cho đào tạo cấp quản lý: Đào tạo cho các cấp quản lý, lãnh đạo trong doanh nghiệp về các nội dung sao: Đào tạo kỹ năng tư duy, kỹ năng nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức lãnh đạo. Để thực hiện tốt các nội dung đào tạo này cần có sự đầu tư theo chiều sâu, như mở các lớp quy mô nhỏ nhưng chất lượng cao, đào tạo chuyên sâu…
2.2.2.3. Đẩu tư cải thiện môi trường đầu tư trong doanh nghiệp.
Khái niệm: Cải thiện điều kiện lao động là đưa nhân tố đó đạt trạng thái tối ưu để một mặt chúng không ảnh hưởng xấu tới hoạt động sống của con người, và mặt kia có tác động thúc đẩy và củng cố khả năng làm việc của con người.
Nội dung: Đầu tư cải thiện môi trường làm việc của người lao động bao gồm những nội dung sau:
Đầu tư cải thiện môi trường làm việc để có được đầy đủ các điều kiện vật chất kỹ thuật an toàn, đảm bảo vệ sinh và sức khoẻ cho người lao động: Đảm bảo tốt các điều kiện về an toàn lao động và vệ sinh lao động như luật lao động ban hành. Thay thế các thiết bị các quy trình công nghệ phát sinh các yếu tố độc hại. Tách công nhân ra khỏi môi trường độc hại bằng cách cơ khí hoá, tự động hoá sản xuất. Sử dụng các phương tiện phòng hộ cá nhân để giảm bớt mức độ tác động của các nhân tố đến cơ thể con người.
Đảm bảo các yêu cầu về thẩm mỹ và tâm lý lao động.
Hạn chế tác hại bằng cách tăng cường sức khỏe cho người lao động: Cải thiện điều kiện lao động là một nhân tố quan trọng để nâng cao năng xuất lao động và bảo vệ sức khỏe cho người lao động cũng như góp phần nâng cao hứng thú trong lao động của người lao động.
Đầu tư bố trí không gian sản xuất và làm việc phù hợp với thẩm mỹ công nghiệp. Sắp xếp vị trí, lựa chọn kiểu dáng của các trang thiết bị có tính hợp lý và thẩm mỹ cao.
Chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý: Chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý là sự luân phiên một cách hợp lý giữa các kỳ làm việc và điều kiện lao động của người lao động. Chế độ này phải do các nhà Tâm – Sinh lý lao động, các nhà Vệ sinh lao động và các chuyên gia về Tổ chức lao động khoa học phối hợp nghiên cứu và xây dựng.
Làm hoà nhập người lao động: là quá trình được thiết kế để giúp đỡ các nhân viên mới thích nghi với bộ phận hay tổ chức mà họ làm việc.
2.2.2.4. Trả công người lao động.
Khái niệm:
Trong thực tế sản xuất và xã hội, khái niệm tiền công, tiền lương và th._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6207.doc