Lời mở đầu
Kể từ khi bắt đầu đổi mới đến nay, chúng ta luôn đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Điều này thể hiện con đường phát triển đúng đắn mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn. Trên con đường phát triển của mình, chúng ta đã xác định nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng và trong đó yếu tố quan trọng nhất chính là đầu tư.
Đã có rất nhiều nhà kinh tế đã nghiên cứu các mô hình tăng trưởng kinh tế và tác động của đầu tư. Tuy nhiên, không phải mô hình nào cũng hoàn hảo mà đều ẩn chứa tron
48 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng đầu tư & tăng trưởng phát triển kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đó những hạn chế và tồn tại. Bởi vậy thật khó để xác định con đường phát triển của đất nước theo một mô hình cụ thể. Bởi từ lý thuyết đến thực tế luôn là một khoảng cách khá xa. Chúng ta chỉ có thể nhìn con đường phát triển của mình dưới các mô hình để từ đó chỉ ra được những hạn chế dưới góc độ đó. Do đó mục đích của đề tài cung cấp cho các bạn các kiến thức về đầu tư và tăng trưởng và qua đó thấy được những hạn chế trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế dưới góc độ các lý thuyết về đầu tư.
Trong quá trình nghiên cứu, tập thể nhóm xin chân thành cảm ơn thầy giáo Từ Quang Phương đã giúp đỡ hoàn thành đề tài.
phần i
Các lý thuyết kinh tế về vai trò của Đầu tư đối với tăng trưởng phát triển kinh tế
I. Một số lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế
1. Khái niệm
Ngày nay các quốc gia độc lập, có chủ quyền đều đề ra những mục tiêu phấn đấu cho sự tiến bộ của quốc gia mình. Tuy có những khía cạnh khác nhau nhất định trong quan niêm, nhưng nói chung, sự tiến bộ trong một giai đoạn nào đó của một nước thường được đánh giá trên hai mặt: sự gia tăng về kinh tế và sự biến đổi về mặt xã hội. Trên thực tế, người ta thường dùng hai thuật ngữ tăng trưởng và phát triển để phản ánh sự tiến bộ đó.
- Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia tăng) về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời ký nhất định. Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Do vậy, để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế (tính toàn bộ hay tính bình quân theo đầu người) của thời kỳ sau so với thời kỳ trước. Như vậy, tăng trưởng kinh tế được xem xét trên 2 mặt biểu hiện: đó là mức tăng tuyệt đối hay mức tăng phần trăm (%) hàng năm, hoặc bình quân trong một giai đoạn.
Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai đoạn nhất định, sẽ cho ta khái niệm tốc độ tăng trưởng. Đó là sự tăng thêm sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.
- Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về qui mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế- xã hội.
Những vấn đề cơ bản nhất định của định nghĩa trên bao gồm:
Trước hết sự phát triển bao gồm cả sự tăng thêm về khối lượng của cải vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội.
Tăng thêm qui mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế – xã hội là hai mặt có mối quan hệ vừa phụ thuộc vừa độc lập tương đối của lượng và chất.
Sự phát triển là một quá trình tiến hoá theo kịp thời gian do những nhân tố nội tại của bản thân nền kinh tế quyết định
Kết quả của sự phát triển kinh tế –xã hội là kết quả của một quá trình vận động khách quan, còn mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội đề ra là thể hiện sự tiếp cận tới các kết quả đó.
2. Một số chỉ tiêu đánh giá
Phát triển kinh tế là một khái niệm chung nhất về một sự chuyển biến của nền kinh tế, từ trạng thái thấp lên một trạng thái cao hơn. Do vậy, không có tiêu chuẩn chung về sự phát triển. Các nhà kinh tế học phân quá trình đó ra các nấc thang: kém phát triển, đang phát triển và phát triển… gắn với các nấc thang đó là những giá trị nhất định, mà hiện tại chưa có sự thống nhất hoàn toàn.
Một số thước đo của sự tăng trưởng: tổng sản phẩm trong nước (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), thu nhập bình quân đầu người
Một số chỉ số về cơ cấu kinh tế: chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội, chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X-M), chỉ số về mức tiết kiệm - đầu tư (I).
2.1 Một số thước đo của sự tăng trưởng
2.1.1 Tổng sản phẩm trong nước (hay tổng sản phẩm quốc nội – GDP)
Thường được hiểu là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ mới được tạo ra trong năm bằng các yếu tố sản xuất trong pham vi lãnh thổ quốc gia. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau:
+ Về phương diện xa, GDP có thể được xác định bằng toàn bộ giá trị gia tăng của các ngành, các khu vực sản xuất và dịch vụ trong cả nước. Giá trị gia tăng được xác định dựa trên cơ sở hạch toán các khoản chi phí, các yếu tố sản xuất và lợi nhuận cảu các cơ sở sản xuất và dịch vụ.
Giá trị Giá trị Chi phí các yếu tố
gia tăng = sản lượng trung gian(đầu vào)
(Y) (GO) (IE)
+ Về phương diện tiêu dùng, thì GDP biểu hiện ở toàn bộ hàng hoá và dịch vụ cuối cùng tính theo giá hiện hành của thị trường được tạo ra trên phạm vi lãnh thổ quốc gia hàng năm
Xác định GDP theo tiêu dùng thường dựa trên cơ sở thống kê thực tế về tổng các khoản tiêu dùng của các hộ gia đình (C), tổng đầu tư cho sản xuất của các doanh nghiệp (I), các khoản chi tiêu của Chính phủ (G) và phần xuất khâu ròng (X-Mso sánh trong năm.
GDP=C + I + G + (X-M)
Do tính GDP theo giá hiện hành của thị trường, nó đã bao gồm cả thuế gián thu (Te), cho nên GDP tính theo giá thị trường sẽ chênh lệch với GDP tính theo các chi phí các yếu tố sản xuất một lượng giá trị, đó là thuế gián thu (Te).
GDPsản xuất = GDPtiêu dùng – Te
= C + I + G +(X-M)
+Xác định theo phương diện thu nhập, GDP là toàn bộ giá trị mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức Nhà nước thu được từ giá trị gia tăng đem lại.Suy đến cùng thì đó là các khoản mà các hộ gia đinh được quyền tiêu dùng (C1), các doanh nghiệp tiết kiệm được (S1) dùng để đầu tư, bao gồm cả thuế khấu hao (S1 = I1) và chi tiêu của Nhà nước từ nguồn thu thuế (T)
GDPthu nhập = Cp + Ip + T
GDP theo cách xác định trên đã thể hiện là một thước đo sự tăng trưởng kinh tế do các hoạt động sản xuất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia tạo ra, không phân biệt sở hữu trong hay ngoài nước đối với kết quả đó. Do vậy, GDP phản ánh chủ yếu khả năng sản xuất của nền kinh tế một nước.
2.1.2. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
Tổng sản phẩm quốc dân là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ cuối cùng mà tất cả công dân một nước tạo ra và có thể thu nhập trong năm, không phân biệt sản xuất được thực hiện ở trong nước hay ngoài nước.
Như vậy, GNP là thước đo sản lượng gia tăng mà nhân dân của một nước thực sự thu nhập được. So với GDP thì GNP chênh lệch một khoản thu nhập tài sản với nước ngoài.
GNP = GDP + Thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài
Với ý nghĩa là thước đo thu nhập của nền kinh tế với sự tăng thêm GNP thực tế đó chính là sự gia tăng tăng trưởng kinh tế, nó nói lên hiệu quả của các hành động kinh tế đem lại.
GNP thực tế là GNP được tính theo giá cố định nhằm phản ánh đúng sản lượng gia tăng hàng năm, loại trừ những sai lệch do biến động giá cả tạo ra. Khi GNP tính theo giá thị trường thì đó là GNP danh nghĩa.
2.1.3. Thu nhập bình quân đầu người
Khả năng nâng cao phúc lợi vật chất cho nhân dân một số nước, không chỉ là tăng sản lượng của nền kinh tế, mà còn liên quan đến vấn đề dân số- con người. Nó tỷ lệ thuận với qui mô sản lượng và tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ nghịch với dân số và tốc độ tăng trưởng dân số tự nhiên hằng năm. Do vậy chỉ số thu nhập bình quân đầu người là một chỉ số thích hợp hơn để phản ánh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mặc dù vậy, nó vẫn chưa nói lên mặt chất mà sự tăng trưởng đưa lại. Cho nên để nói lên sự phát triển người ta dùng hệ thống các chỉ số.
2.2. Một số chỉ số về cơ cấu kinh tế
2.2.1. Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội
Chỉ số này phản ánh tỷ lệ của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong GDP. Nền kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ sản lượng của công nghiệp và dịch vụ ngày càng cao trong GDP, còn tỷ lệ của nông nghiệp thi giảm đi tương đối.
2.2.2. Chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X-M)
Tỷ lệ của giá trị sản lượng xuất khẩu và nhập khẩu thể hiện sự mở cửa của nền kinh tế với thế giới. Một nền kinh tế phát triển thường có mức xuất khẩu ròng trong GDP tăng lên.
2.2.3. Chỉ số về mức tiết kiệm – đầu tư (I)
Tỷ lệ tiết kiệm - đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thể hiện rõ hơn vể khả năng tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Đây là một nhân tố cơ bản của sự tăng trưởng. Những nước có tỷ lệ đầu tư cao (từ 20 – 30% GDP) thường là các nước có mức tăng trưởng cao. Tuy nhiên tỷ lệ này còn phụ thuộc vào qui mô của GNP và tỷ lệ giành cho tiêu dùng (C) theo cơ cấu:
I = GNP – C + X - M
3. Các quan điểm về tăng trưởng và phát triển kinh tế
3.1. Quan điểm nhấn mạnh vào tăng trưởng.
Những người theo quan điểm này cho rằng tăng thu nhập là quan trong nhất. Thực tế cho thấy những nước theo quan điểm này đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, không ngừng tăng thu nhập cho nền kinh tế. Song cũng cho thấy những hạn chế cơ bản của việc lựa chọn này:
+ Sự tăng trưởng quá mức nhanh chóng vì những động cơ có lợi ích cục bộ trước mắt đã đưa đến sự khai thác bừa bãi không chỉ ở phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế. Điều đó đã ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của các nước chậm tiến và các thế hệ sau này.
+ Cùng với sự tăng trưởng là những bất bình đẳng về kinh tế và chính trị xuất hiện, tạo ra những mâu thuẫn và xảy ra xung đột gay gắt:
- Xung đột giữa khu vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Nông nghiệp không những chỉ giảm tỷ lệ tương đối mà còn bị thu hẹp cả không gian sản xuất. Đất đai bị mất, bị thoái hoá, môi trờng bị huỷ hoại.
- Xung đột giữa các giai cấp chủ và thợ, gắn với nạn thất nghiệp tràn lan.
- Xung đột các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo: xảy ra mâu thuẫn về lợi ích kinh tế- xã hội, do quá trình tăng trưởng không đều tạo nên.
+ Phát triển đưa lại những giá trị mới song nó cũng phá huỷ và hạ thấp một số giá trị truyền thống tốt đẹp: nền giáo dục gia đình, thuần phong mỹ tục, đạo đức… Đồng thời với việc làm giầu băng bất cứ giá nào thì các tội ác cũng phát triển.
+ Sự tăng trưởng và phát triển nhanh chóng còn đưa đến những diễn biến khó lường trước, cả mặt tốt và không tốt. Do vậy đời sống kinh tế – xã hội thường bị đảo lộn, mất ổn định, khó có thể lường trước được hậu quả.
3.2. Quan điểm nhấn mạnh vào công bằng và bình đẳng trong xã hội
Theo quan điểm này, sự phát triển sản xuất được đầu tư dàn đều cho các ngành, các vùng và sự phân phối được tiến hành theo nguyên tắc bình quân. Những người lựa chọn quan điểm này đã hạn chế được sự bất bình đẳng trong xã hội. Đại bộ phận dân cư đều được chăm sóc về văn hoá, giáo dục, y tế của Nhà nước. Những hạn chế cơ bản của việc lựa chọn này là nguồn lực hạn chế lại bị phân phối dàn trải nên không thể tạo ra được tốc độ tăng trưởng cao và việc phân phối đồng đều cũng không tạo được động lực thúc đẩy người lao động.
3.3 Quan điểm phát triển toàn diện
Đây là sự lựa chọn trung gian giữa hai quan điểm trên. Vừa nhấn mạnh về số lượng, vừa chú ý về chất lượng của sự phát triển. Theo quan điểm này tuy tốc đọ tăng trưởng có hạn chế nhưng các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết.
II. Xem xét mô hình về mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng phát triển kinh tế theo quan điểm lịch sử.
1. Các mô hình dựa vào sự phân tích quá trình đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế.
1.1. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái cổ điển.
- Các yếu tố cấu thành tổng cung của nền kinh tế: Theo Ricardo (1772-1823) nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, từ đó ông cho rằng các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn. Trong từng ngành và phù hợp với một trình độ kỹ thuật nhất định các yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỷ lệ nhất định, không thay đổi. Trong ba yếu tố này đất đai là yếu tố quan trọng nhất.
- Sự giới hạn tăng tổng cung của nền kinh tế: Do đất đai là yếu tố quan trọng nhất nhưng chính đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi sản xuất nông nghiệp gia tăng trên những đất đai mầu mỡ hơn thì giá lương thực, thực phẩm sẽ tăng lên. Do đó tiền lương danh nghĩa của công nhân cũng phải tăng lên tương ứng, lợi nhuận của nhà tư bản có xu hướng giảm. Nếu cứ tiếp tục như vậy cho đến khi lợi nhuận hạ thấp, không thể bù dắp đựoc rủi ro trong kinh doanh làm cho nền kinh tế trở nên bế tắc.
- Đầu tư làm giảm sự giới hạn đó: Ricardo cho rằng muốn hạn chế sự giới hạn đó thì chỉ có cách xuất khẩu hàng công nghiệp để mua lương thực rẻ hơn từ nước ngoài, hoặc phát triển công nghiệp để rồi tác động vào nông nghiệp. Muốn vậy, chúng ta cần phải đầu tư sang lĩnh vực công nghiệp để thúc đẩy tăng trưởng ngành công nghiệp. Điều này thể hiện vai trò của đầu tư trong việc tăng trưởng ngành nông nghiệp dẫn đến làm giảm sự giới hạn tăng trưởng chung.
- Hạn chế của lý thuyết: Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng thị trường tự do được một bàn tay vô hình dẫn dắt để gắn lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Thị trường với sự linh hoạt của giá cả và tiền công có khả năng tự điều chỉnh những mất cân đối của nền kinh tế để xác lập những cân đối mới. Như vậy, Ricardo chưa thấy vai trò của chính phủ cũng như chính sách đầu tư phát triển của Nhà nước. Theo ông, chính phủ không có vai trò gì trong tăng trưởng kinh tế thậm chí hạn chế sự tăng trưởng.
1.2. Quan điểm tăng trưởng kinh tế của Marx (1818-1883)
- Các yếu tố của quá trình tái sản xuất: Theo ông có bốn yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là: đất đai, lao động, vốn và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Ông đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư.
- Sự cần thiết phải tích luỹ tư liệu sản xuất cho tái sản xuất: Theo Mark, giữa cung và cầu của thị trường luôn có một khoảng cách. Để giải quyết khoảng cách này cần thiết phải có tích luỹ sản xuất, tích luỹ hàng hoá. Đây cũng là hoạt động đầu tư hàng tồn trữ. Cũng theo ông, sau khi trải qua giai đoạn khủng hoảng có chu kỳ, để tiếp tục phát triển, các nhà tư bản phải tiến hành đổi mới tư bản cố định với quy mô lớn làm cho nền kinh tế tiến đến phục hồi, hưng thịnh. Để đổi mới được tư bản cố định, các nhà tư bản cũng nhất thiết cần có hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ. Đây cũng chính là vai trò của đầu tư trong tăng trưởng kinh tế.
1.3. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái tân cổ điển
- Các yếu tố cấu thành tổng cung của nền kinh tế: Các nhà kinh tế tân cổ điển đã giải thích nguồn gốc sự tăng trưởng thông qua hàm sản xuất:
Y = f(K, L, R, T)
Trong đó: Y- Đầu ra; K- Vốn sản xuất; L- Lao động; R-Tài nguyên; T- Khoa học công nghệ.
- Vai trò của vốn qua hàm sản xuất Cobb – Douglas:
g = t +aK + bL + cR
Trong đó g: tốc độ tăng trưởng; a: tốc độ tăng trưởng của yếu tố vốn
Qua đó ta thấy rằng sự tăng trưổng của yếu tố vốn cũng như yếu tố đầu tư cũng góp phần vào tăng trưởng kinh tế nói chung.
- Hạn chế của lý thuyết: Trường phái này cũng không thấy được vai trò của chính phủ trong tăng trưởng kinh tế. Vai trò của chính phủ là mờ nhạt trong phát triển kinh tế.
1.4. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái Keynes
Keynes đã rất coi trọng vai trò của đầu tư trong tăng trưởng kinh tế. Dựa vào tư tưởng này của Keynes, vào những năm 40, hai nhà kinh tế học Harrod ở Anh và Domar ở Mỹ đã đưa ra mô hình về mối quan hệ giữa vốn và tăng trưởng.
Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một ngành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó. Mô hình này cũng chỉ ra nguồn gốc của vốn đầu tư và mối quan hệ giữa vốn đầu tư và vốn sản xuất. Theo hai ông thì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư nên về lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm. Đồng thời, đầu tư chính là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất. Các ông đã thiết lập các mối quan hệ như sau:
Đầu tư = Tiết kiệm => s = Đầu tư / Sản lượng. Với s: tỷ lệ tiết kiệm trong GDP .
Đầu tư = Vốn sản xuất => k = Đầu tư / Mức tăng trưởng với k là tỷ số gia tăng giữa vốn và đầu ra.
- Vai trò của vốn sản xuất với năng lực sản xuất và tăng trưởng kinh tế qua mô hình Harrod-Domar: Từ các mối liên hệ trên chúng ta có mô hình Harrod-Domar như sau:
g = s/k với g là tốc độ tăng trưởng kinh tế .
ở đây, k là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn đầu ra). Hệ số này chỉ ra rằng vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng; tiết kiệm của nhân dân và các công ty là nguồn gốc của đầu tư. Hệ số cũng phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư.
Như vậy, mô hình Harrod – Domar chỉ ra sự tăng trưởng là do kết quả tương tác giữa tiết kiệm với đầu tư và đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế. Theo hai ông chính đàu tư phát sinh ra lợi nhuận và gia tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế.
1.5. Căn cứ vào các lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái kinh tế hiện đại:
Trường phái kinh tế học hiện đại đã xây dựng một lý thuyết kinh tế hỗn hợp trong đó thị trường trực tiếp xác định những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế và Nhà nước tham gia điều tiết có mức độ nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường. Thực chất nền kinh tế hỗn hợp là sự gần nhau của học thuyết kinh tế Tân cổ điển và học thuyết của trường phái Keynes
- Lý thuyết hiện đại cũng thống nhất với mô hình kinh tế Tân cổ điển về xác đinh các yếu tố tác động tổng cung nền kinh tế: lao động, vốn, đất đai, tài nguyên, khoa học. Y = f( K, L, R, T). Tuy nhiên, Samuelson cho tầm quan trọng của các yếu tố là như nhau. Như vậy, trường phái hiện đại cũng cho rằng vốn đóng góp một phần cho sự tăng trưởng .
- Vai trò của đầu tư với năng lực sản xuất và tăng trưởng kinh tế
+ Dựa vào mô hình Cobb-Douglas:
G = t + ak + bL +cR với g là tốc độ tăng trưởng; a là tốc độ tăng trưởng của vốn còn K là vốn .
Như vậy, sự tăng thêm của vốn và quy mô vốn là một phần của tăng trưởng kinh tế
+ Dựa vào mô hình Harros Domar: g= s/ k; với k là hệ số ICOR chỉ ra được vai trò cua vốn đầu tư đối với vốn sản xuất và tăng trưởng kinh tế.
2. Đầu tư là nhân tố kích thích tổng cầu nền kinh tế
2.1. Vai trò của kích cầu trong tăng trưởng kinh tế
Các học thuyêý kinh tế trước trường phái Keynes thường chủ yếu quan tâm đến yếu tố cung và đồng nhất sự tăng cung với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên vào những năm 30 của thế kỷ 20, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp diễn ra thường xuyên và lý thuyết của trường phái Keynes đã ra đời đánh dấu sự phát triển mới về kinh tế. Lý thuyết này nhấn mạnh đến yếu tố cầu và coi tổng cầu là nguyên nhân của sự tăng trưởng cũng như suy thoái kinh tế.
Cầu tiêu dùng giảm dẫn đến hàng hoá ế thừa, kinh tế trì trệ: Theo ông, khi mức thu nhập tăng lên thì xu hướng tiêu dùng giảm đi còn xu hường tiết kiệm trung bình tăng lên, do đó xu hướng tiết kiệm cận biên sẽ tăng lên. Việc giảm xu hướng tiêu dùng sẽ dẫn đến cầu tiêu dùng giảm xuống. Cầu giảm dẫn đến hàng hoá ế thừa, không bán được. Các nhà sản xuất bi quan về nền kinh tế sẽ thu hẹp qui mô sản xuất hoặc nếu không sẽ bị phá sản. Chính những điều này dẫn đến hiện tượng thất nghiệp xảy ra, tệ nạn xã hội sẽ bùng phát. Theo Keynes, sự sụt giảm cầu chính là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế xã hội ở các nước Tư bản vào những năm 30.
Cũng theo Keynes tổng cầu tăng sẽ kích thích tổng cung tăng và tạo ra nền kinh tế đạt tới một sự cân bằng mới ở mức sản lượng cao hơn mức sản lượng cũ.Từ đó, kinh tế sẽ tăng trưởng.
2.2. Quan điểm của Keynes về vai trò của đầu tư với tổng cầu
- Vai trò của đầu tư thông qua mô hình số nhân:
Theo ông việc tăng đầu tư sẽ bù đắp những thiếu hụt về cầu tiêu dùng. Để đảm bảo đầu tư gia tăng liên tục ông đưa ra nguyên lý số nhân. Số nhân là tỷ số giữa tốc độ tăng thu nhập và tăng đầu tư. Nếu ký hiệu dR là tăng thu nhập, dS là tăng tiết kiệm, dC là tăng tiêu dùng, k là số nhân thì:
k = = =
Mô hình số nhân phản ánh mối quan hệ giữa tăng thu nhập với tăng đầu tư. Theo ông, mỗi sự gia tăng về đầu tư đều kéo theo sự gia tăng về nhu cầu bổ sung công nhân, nâng cao về tư liệu sản xuất. Do vậy làm tăng cầu tiêu dùng, tăng giá bán hàng, làm tăng việc làm cho công nhân và tất cả điều đó làm tăng thu nhập.
Tóm lại, đầu tư làm tăng tổng cầu kéo theo sự tăng lên của thu nhập và tăng trưởng kinh tế nói chung.
- Vai trò của đầu tư thông qua các chính sách đầu tư của Nhà nước:
Keynes đã chỉ ra vai trò của Chính phủ và đầu tư trong việc kích thích tổng cầu: AD = C + G + I
Trong đó AD là tổng cầu, C: tiêu dùng, G: chi tiêu chính phủ, I: đầu tư.
Như vậy trong đẳng thức trên đầu tư và chính phủ đều có vai trò hết sức quan trọng đối với tổng cầu. Đầu tư tăng sẽ làm cho tổng cầu tăng và ngược lại. Chi tiêu của Chính phủ cũng góp phần tăng tổng cầu. Nhà nước sử dụng ngân sách của Nhà nước để kích thích đầu tư của khu vực tư nhân và Nhà nước. Như vậy, đầu tư thông qua các chính sách của Chính phủ để kích cầu, kích thích sản xuất phát triển.
Tuy nhiên Keynes đã quá chú trọng vai trò của Nhà nước trong việc phát triển kinh tế song ông lại bỏ qua vai trò của thị trường tự do, của bàn tay vô hình, của cân bằng tổng quát.
3. Mô hình đầu tư tạo điều kiện cho việc phát triển ngành kinh tế mũi nhọn, từ đó tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
3.1. Mô hình các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow
Theo ông, quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia phải trải qua năm giai đoạn: xã hội truyền thống, chuẩn bị cất cánh, cất cánh, trưởng thành và mức tiêu dùng cao.
Giai đoạn xã hội truyền thống: sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh tế, năng suất lao động thấp, nhìn chung nền kinh tế không có những biến đổi mạnh.
Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: ngành công nghiệp bắt đầu phát triển, nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy động vốn.
Giai đoạn cất cánh: đây là giai đoạn trung tâm của sự phát triển các giai đoạn phát triển của W.Rosrow. Những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự cất cánh là: huy động được nguồn vốn đầu tư cần thiết: tỷ lệ tiết kiềm và đầu tư tăng từ 5% đến 10% và cao hơn trong thu nhập quốc dân thuần tuý (NNP), ngoài vốn đầu tư huy động trong nước vốn đầu tư huy động nước ngoàI có ý nghĩa quan trọng. Đầu tư tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, đóng vai trò chủ đạo trong việc lôi kéo các ngành khác phát triển.
Giai đoạn trưởng thành: tỷ lệ đầu tư đã tăng từ 10% đến 20% thu nhập quốc dân thuần tuý. Đồng thời ở giai đoạn này đã xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới.
Giai đoạn tiêu dùng cao: thu nhập bình quân đầu người tăng cao…
Tóm lại, đầu tư sẽ thúc đẩy tăng trưởng các ngành cụ thể trong tong giai đoạn. Điều đó tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng cao hơn.
3.2. Mô hình nhị nguyên của Lewis và Oshima
- Theo mô hình của Lewis:
Do ảnh hưởng của Ricardo, Lewis cũng cho rằng đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Do vậy nông nghiệp sẽ luôn bị giảm sút và lợi nhuận giảm dần. Theo ông, để tránh tạo ra sự dư thừa vô ích lao động trong nông nghiệp thì cần phải phát triển công nghiệp. Do đó ông đã khẳng định tăng trưởng kinh tế cần phát triển ngành công nghiệp sau đó thúc đẩy ngành nông nghiệp.
Vai trò của đầu tư ở đây là tạo điều kiện ngành công nghiệp phát triển. Khi đã có đầu tư cho ngành công nghiệp, qui mô các xí nghiệp công nghiệp tăng nhanh và đường cầu lao động dịch chuyển sang phải. Lao động sẽ dịch chuyển dần từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp. Như vậy đầu tư mở rộng sản xuất và tạo điều kiện cho ngành công nghiệp phát triển.
Khi công nghiệp phát triển đến một giai đoạn cần tiếp tục đầu tư cho nông nghiệp. Từ đó, tạo ra sự tác động qua lại giữa công nghiệp và nông nghiệp trong quá trình phát triển.
- Theo mô hình của Oshima:
Theo ông tăng trưởng kinh tế có thể phát triển cả ở hai ngành công nghiệp và nông nghiệp. Nông nghiệp có thể phát triển bằng sự tự nỗ lực của nông dân cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước. Quá trình công nghiệp hoá diễn ra liên tục, kéo dài nhiều năm và cùng song hành với sự phát triển của nông nghiệp.
Vai trò của đầu tư chính là tạo ra sự hài hoà giữa phát triển nông nghiệp và phát triển công nghiệp. Nhờ sự đầu tư của Nhà nước vào nông nghiệp như xây dựng hệ thống kênh, đập tưới tiêu nước…Quá trình phát triển công nghiệp cũng diễn ra dần với sự đầu tư vào các ngành công nghiệp ít vốn sau đó chuyển sang các ngành công nghiệp có lợi thế xuất khẩu.
Qua hai mô hình trên, ta thấy rằng đầu tư tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, từ đó đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
4. Đầu tư được coi là cú huých từ bên ngoài giúp các nước đang phát triển thoát khoủi vòng luẩn quẩn của đói nghèo
4.1. Mô hình vòng luẩn quẩn của Samuelson
Theo ông, các nước có nền kinh tế tăng trưởng thấp thường rơi vào vòng luẩn quẩn
Tiết kiệm và đầu tư thấp
Thu nhập bình quân thấp Tốc độ tích luỹ vốn thấp
Năng suất thấp
Đầu tư nước ngoài là cú huých bên ngoài giúp kinh tế thoát khỏi vòng luẩn quẩn và tiếp tục tăng trưởng. Như vậy, để phát triển phải “có cú huých từ bên ngoài”. Điều này có nghĩa là phải có đầu tư của nước ngoài vào các nước đang phát triển. Muốn vậy phải tạo ra các điều kiện thuận lợi nhằm kích thích tích cực đầu tư của tư bản nước ngoài. Đây chính là vai trò của đầu tư nước ngoài đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước đang phát triển.
4.2. Lý thuyết đầu tư nước ngoài của Vernon về chu kỳ sống sản phẩm và mô hình của Akamateu
Đầu tư nước ngoài giúp chuyển giao công nghệ từ nước phát triển sang nước đang phát triển cần khoa học công nghệ.
Mô hình của Vernon: Đầu tư đổi mới công nghệ -> Sản phẩm mới ->Tăng lợi nhuận ->Sản xuất hàng loạt ->Thương mại hoá -> Đầu tư sang nước khác -> Chuyển giao công nghệ.
Như vậy, nhờ có đầu tư nước ngoài mà các nước đang phát triển hay các nước tiếp nhận đầu tư sẽ được chuyển giao công nghệ mới so với công nghệ trong nước. Rõ ràng, khoa học công nghệ có vai trò to lớn trong việc tạo ra sự tăng trưởng kinh tế. Và nhờ có đầu tư, khoa học công nghệ được phát triển mạnh đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Đây là một vai trò lớn của đầu tư trong sự phát triển kinh tế.
PHần II
Thực trạng Đầu tư và tăng trưởng phát triển kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua
I. Tình hình đầu tư của việt nam thời gian qua
Đầu tư toàn xã hội năm 2004 tiếp tục xu thế tăng nhanh.
1. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
Đầu tư của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng trưởng trở lại sau nhiều năm tăng chậm. Năm 2004 được xem là năm khởi sắc của thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Những kết quả đạt được rất đáng khích lệ và tạo ra những kỷ lục mà Việt Nam chưa từng đạt được trong vòng 7 năm qua.
Tính chung cả năm đã thu hút hơn 4,1 tỷ usd, trong đó: 2,3 tỷ USD vốn đăng ký mới và 1,8 tỷ USD vốn đăng ký bổ sung, đạt mức cao nhất trong 7 năm trở lại đây. So với năm 2003, mức tăng trưởng về vốn mơi năm nay đạt 35%. Các dự án tập trung vào ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 60,5% số vốn đăng ký; các tỉnh, thành phố phía Nam chiếm 64,6%; các tỉnh, thành phố phía Bắc chiếm 35,4% số vốn đăng ký. Đáng chú ý là bên cạnh nguồn vốn đầu tư của các dự án mới, năm 2004 còn thu hút thêm vốn đầu tư bổ sung của các dự án cũ, đạt mức cao nhất trong những năm qua. Đó là dấu hiệu tốt lành chứng minh môi trường đầu tư ở Việt Nam đã được cải thiện đáng kể và hiệu quả của các dự án đầu tư đang được nâng lên. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt kỷ lục mới 2,9 triệu lượt người. Lượng kiều hối tăng nhanh đạt hơn 3 tỷ USD, tăng 200 triệu USD, số tiền này chủ yếu được gửi về nước đầu tư. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đạt kỷ lục 3,44 tỷ USD. Tổng số ngoại tệ trị giá hơn 36 tỷ USD này là nỗ lực của Việt Nam trong điều hành sản xuất, minh bạch hoá chính sách, cải thiện môi trường đầu tư, xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh xã hội, đồng thời thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ của thế giới.
Sau hơn 10 năm thực hiện chính sách mở cửa, nguồn vốn FDI đã góp phần bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện... Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ trong 10 tháng đầu năm 2004 cả nước đã có 579 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp phép, với số vốn đăng ký là trên 1,7 tỷ USD. Cùng với 388 dự án bổ sung vốn gần 1,5 tỷ USD, FDI vào Việt Nam đã đạt 3,2 tỷ USD, bằng 95% kế hoạch năm. Cho đến nay, Việt Nam đã thu hút được hơn 65 quốc gia và vùng lãnh thổ đưa vốn vào đầu tư. Trong đó Singapore đứng đầu, chiếm trên 6,6% về số dự án và 19% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là Đài Loan, Nhật bản, Hàn quốc và Hồng Kông. . .
Hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (không kể ngành dầu khí) trong năm 2004 tiếp tục phát triển khá. So với năm 2003, doanh thu của các doanh nghiệp thuộc khu vực này tăng 20%; kim ngạch xuất khẩu tăng 35,6%; nộp ngân sách đạt khoảng 800 triệu USD, tăng 27,4%. Đến cuối năm 2004, khu vực này đang tạo ra việc làm cho khoảng 739 nghìn lao động, tăng 7,7% so với cuối năm 2003.
Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn tập trung vào các ngành công nghiệp, dịch vụ và xây dựng. Các dự án FDI chủ yếu đổ vào các tỉnh thành phía Nam như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai. ở các tỉnh thành phía Bắc, phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư vào các trung tâm công nghiệp và các tỉnh lân cận Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh.
2. Đầu tư trong nước
Cùng với sự phát triển kinh tế ổn định qua các năm, tỷ lệ tăng trưởng GDP liên tục thì nhu cầu về vốn đầu tư phát triển cũng tăng theo.
Tốc độ gia tăng quy mô vốn đầu tư phát triển là đáng kể: giai đoạn 1991-1995 đạt 29,1%/năm, từ 1996-2003 trung bình đạt trên 22%/năm. Năm 2000 quy mô vốn đầu tư là 92 nghìn tỷ VNĐ, năm 2003 là 217 nghìn tỷ VNĐ và đến năm 2004 tổng vốn ước đạt 258,7 nghìn tỷ đồng, bằng 104% kế hoạch năm và tăng gần 19% so với thực hiện năm 2003. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển so với GDP cũng có xu hướng gia tăng mạnh mẽ: năm 1991 là 17,6%, 1997: 30,9%, 2002: 34,6%, 2003: 35% và đến năm 2004 đạt 36,3%GDP. Đây là tỷ lệ đầu tư cao nhất từ trước tới nay.
Năm 2004, nguồn vốn đầu tư ngoài quốc doanh tăng cao nhất, lên đến 19,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nhu cầu đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước rất lớn khoảng 100 nghìn tỷ đồng, trong khi đó nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước năm 2004 khoảng 53,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,4% tổng nguồn vốn đầu tư xã hội và tăng 13,2% so với ước thực hiện năm 2003.
Nguồn vốn tín dụng đạt trên 30 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,2% tổng nguồn vốn, tăng khoảng 5,3% so với ước thực hiện năm 2003. Trong đó vốn tín dụng nhà nước khoảng 25 nghìn tỷ đồng.
Nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp nhà nước (không bao gồm vốn vay tín dụng nhà nước) ước thực hiện trên 47 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,5% tổng nguồn vốn bằng 103% kế hoạch năm và tăng trên 22%._. so với thực hiện năm 2003. Trong tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn khấu hao cơ bản khoảng 13 nghìn tỷ đồng, nguồn vay thương mại trong nước khoảng 19 nghìn tỷ đồng, nguồn từ lợi nhuận sau thuế khoảng 4 nghìn tỷ đồng và các nguồn khác 10 nghìn tỷ đồng...
Nguồn đầu tư của khu vực dân cư khoảng 69,5 nghìn tỷ đồng, vượt kế hoạch năm, chiếm khoảng 26,9% tổng nguồn vốn, tăng 21%, trong đó vay thương mại dài hạn khoảng 25,5 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, trong năm 2004 đã thực hiện khoảng 7,8 nghìn tỷ đồng từ các nguồn vốn khác như công trái giáo dục, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công trình và các hình thức trái phiếu khác, bằng 64% kế hoạch năm.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước và tín dụng nhà nước được tập trung đầu tư cho các dự án, công trình trọng điểm, các chương trình mục tiêu quốc gia để bảo đảm tiến độ thi công và đã đưa vào sử dụng, phát huy tác dụng ngay trong năm. Ngoài ra, vốn ngân sách nhà nước cũng đã được tập trung vào hỗ trợ các tỉnh có khó khăn, nhất là các tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao. Nguồn vốn ngân sách đã có tác động tới nền kinh tế, cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy tác dụng lôi cuốn các thành phần kinh tế khác tăng nhanh đầu tư. Khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản như điện, nước sạch, y tế và giáo dục đã được cải thiện rõ rệt, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
II. Tình hình tăng trưởng phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian qua
Sau gần 18 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Trong giai đoạn 1989-2003, GDP của Việt Nam tăng gần 2,67 lần, với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm là 7,28%. Năm 2004, tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 361,4 tỷ đồng (giá 1994), tốc độ tăng trưởng đạt gần 7,7%, cao hơn năm 2003 và cao hơn số báo cáo trước Quốc hội. Nước ta vẫn đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Tuy chưa bằng năm 1997, nhưng nếu năm 1997 tốc độ tăng đang trên đà sút giảm, thì nay đang trên đà cao lên, đặc biệt quý IV tăng 8,5%, là tín hiệu đạt mục tiêu đề ra cho năm 2005.
Giá trị gia tăng của khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,3%. Công nghiệp- xây dựng vẫn luôn là khu vực có đóng góp lớn nhất vào nhịp độ tăng trưởng chung, chiếm tới 53,3% nhịp độ tăng trưởng GDP. Khu vực dịch vụ tăng 7,3%, đây là khu vực có mức đóng góp cao thứ hai vào nhịp độ tăng trưởng GDP. Trái ngược với hai khu vực công nghiệp- xây dựng và dịch vụ, tốc độ tăng trưởng của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng thấp nhất, chỉ đạt 3,3%. Xu hướng tăng trưởng khá ổn định: quý sau cao hơn quý trước; quý I tăng 7%; sáu tháng tăng 7%; chín tháng tăng 7,4% và cả năm tăng gần 7,7%. Đó là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong vòng bẩy năm qua (năm 1998 tăng 5,76%; năm 1999 tăng 4,77%; năm 2000 tăng 6,79%; năm 2001 tăng 6,89%; năm 2002 tăng 7,08% và năm 2003 tăng 7,26%).
Bối cảnh thế giới thời gian qua có nhiều điểm đặc biệt. Kinh tế thế giới sau một thời gian suy thoái đã tăng trưởng trở lại, khiến nhu cầu tăng, chi phí đầu tư lẫn tiêu dùng tăng, trong khi đó nguồn cung tăng không kịp nên giá đầu vào của hầu hết các mặt hàng cũng tăng theo. Năm 2004 thời tiết toàn cầu cũng có những diễn biến bất thường, các loại dịch bệnh phát sinh, đặc biệt là dịch cúm gà xảy ra đầu năm, thảm hoạ sóng thần... Tình hình chính trị an ninh ở nhiều khu vực và quốc gia không ổn định, giá năng lượng biến động mạnh, giá dầu lửa dao động ở mức cao. Hơn nữa sự lan rộng của chủ nghĩa khủng bố, xung đột vũ trang... Những yếu tố này đã ảnh hưởng trực tiếp tới kinh tế, giá cả diễn biến phức tạp. Trong điều kiện đó, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng ở mức tương đối cao là thành tựu đáng ghi nhận.
Do nền kinh tế tăng trưởng khá, cho nên thu ngân sách cả năm đạt 166,9 nghìn tỷ đồng, vượt dự toán 11,8%, bằng 23,5% GDP và tăng 17% so với năm 2003. Có 33 trong 64 địa phương đạt số thu thuế hơn 500 tỷ đồng. Chi ngân sách Nhà nước cả năm 2004 ước đạt 206,05 nghìn tỷ đồng, vượt dự toán 9,8% và tăng 16,7% so với năm 2003. Bội chi ngân sách bằng 4,9% GDP, thấp hơn mức Quốc hội cho phép. Vốn đầu tư toàn xã hội đạt 35,4% GDP. Giá hàng tiêu dùng tăng khoảng 9,5%.
Vượt qua khó khăn về thiên tai và bệnh cúm gia cầm, nông nghiệp vẫn được mùa, thuỷ sản tăng trưởng khá. Sản lượng lương thực có hạt đạt 39,1 triệu tấn, mức cao nhất từ trước đến nay tăng 4,2% so với năm 2003. Sản xuất lúa chuyển mạnh theo hướng: giảm dần diện tích, tăng năng suất và chất lượng lúa gạo để phù hợp yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu gạo.
Tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2004 đạt 354 nghìn tỷ đồng (giá 1994), tăng 16% so với năm 2003, trong đó khu vực Nhà nước tăng 11,4%; khu vực ngoài quốc doanh tăng 22,8% và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 15,7%. Điểm nổi bật là chất lượng nhiều sản phẩm công nghiệp đã dần được nâng cao và hiệu quả hơn theo hướng có lợi cho tiến trình phát triển. Nguyên nhân chính là do nhu cầu sản phẩm công nghiệp của thị trường trong nước và xuất khẩu tăng; sức cạnh tranh của nhiều sản phẩm công nghiệp như thuỷ sản chế biến, sản phẩm gỗ chế biến, dệt may, giày dép,... có nhiều tiến bộ.
Hoạt động xuất nhập khẩu có nhiều tiếm bộ, từng bước thích nghi với quá trình hội nhập. Năm 2004, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về thị trường và giá cả nhưng hoạt động xuất khẩu tiếp tục được duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 26 tỷ USD, tăng 30% so với năm 2003, vượt mức kế hoạch đề ra và là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu đạt được bình quân 2,16 tỷ USD/tháng, có tháng đạt trên 2,3% tỷ USD bằng kim ngạch xuất khẩu của cả năm 1991. Nguyên nhân xuất khẩu tăng khá là: Về khách quan: giá các mặt hàng dầu thô, gạo, cao su, hạt điều tăng cao. Về chủ quan: sản xuất trong nước tăng trưởng khá, chất lượng sản phẩm xuất khẩu có tiến bộ, chính sách khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước phát huy tác dụng.
Kim ngạch nhập khẩu năm 2004 ước đạt 30 tỷ USD, tăng 23,2% so với năm 2003. Nhập siêu ước đạt 4,7 tỷ USD, bằng 18,8% kim ngạch xuất khẩu.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế (cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần, cơ cấu vùng) đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, từng bước gắn với thị trường trong nước và quốc tế. Tỷ trọng ngành nông, lâm, ngư nghiệp đã giảm từ 21,8% năm 2003 xuống còn 20,4% năm 2004, trong nội bộ ngành cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng tích cực: tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm từ 76,6% năm 2003 xuống còn 75,5% năm 2004; tỷ trọng của ngành thuỷ sản tăng lên từ 16,4% năm 2003 lên 19,5% năm 2004. Trong khi đó, tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng trưởng, dự kiến đạt 41,1%, tăng 1,1% so với năm 2003. Đặc biệt tỷ trọng ngành dịch vụ sau 3 năm liên tục giảm thì năm 2004 đã có xu hướng phục hồi, đạt trên 38,5% (năm 2003 là 38,2%). Cơ cấu các ngành dịch vụ bắt đầu có sự thay đổi theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm...
Trong qua trình hội nhập và phát triển hiện nay, các thành phần kinh tế tích cực đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân đã có mức tăng trưởng rất cao. Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào tăng trưởng GDP tăng từ 36,6% năm 2000 lên khoảng 42% năm 2004. Theo đánh giá của tờ "Tiếng Vang" của Pháp thì lĩnh vực kinh tế tư nhân của Việt Nam đang có bước phát triển ngoạn mục thể hiện qua nhịp sống sôi động của các thành phố lớn. Theo tờ báo, hiện nay Việt Nam có khoảng hơn 120.000 doanh nghiệp tư nhân, trong đó có 2.500 doanh nghiệp nước ngoài, chủ yếu phát triển trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ đã giúp tạo việc làm, phân phối thu nhập và khuyến khích tiêu thụ.
III. Những vấn đề còn tồn tại trong đầu tư và tăng trưởng phát triển kinh tế ở Việt Nam
1. Hạn chế của đầu tư
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, trong hoạt động đầu tư tại Việt Nam trong những năm qua vẫn còn những mặt hạn chế cần khắc phục.
- Tuy gia tăng về số lượng, nhưng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn thấp. Hiệu quả đầu tư (được tính bằng cách lấy tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP chia cho tốc độ tăng trưởng GDP) giảm, khi hệ số ICOR tăng, năm 1995 mới có 3,3; năm 2000 lên 4,0; năm 2003 đã là 5 (tức là để tăng 1% GDP thì năm 2003 phải huy động lượng vốn đầu tư tương đương 5% GDP). Nguyên nhân chính là do đầu tư vào các dự án cần nhiều vốn nhưng sử dụng ít lao động, đầu tư vào "vỏ" nhiều hơn vào "ruột", đầu tư phân tán, dàn trải do bị co kéo, điều chỉnh nhiều (đây thực chất là hậu quả của tệ nạn "xin- cho"). Ngoài ra, việc giải phóng mặt bằng thường bị kéo dài, tốn kém, nay lại do giá đất tăng làm cho lượng vốn đầu tư tăng lên, tiến độ thi công chậm, công trình dở dang nhiều. Vốn đã ít lại bị "chôn chân", trong khi lãi suất tiếp tục chồng lên vốn vay. Thêm nữa là tình trạng lãng phí, thất thoát vốn trong đầu tư khá lớn nhất là nguồn ngân sách nhà nước và ngay cả nguồn vốn ODA dù được ưu đãi cũng phải trả cả vốn và lãi. Không phải chờ đến đời con cháu, mà từ năm 2003, đã phải trả những món nợ hết thời kỳ ân hạn, một phần vay mới phải dành để trả nợ cũ. Riêng năm nay, lượng vốn phải dùng để trả nợ khối lượng thi công từ các năm trước là 11 nghìn tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương phải chi 6 nghìn tỷ đồng, còn lại ngân sách nhà nước cũng phải trả. Thêm vào đó là giá vật liệu xây dựng cao, trong khi khối lượng thi công không tăng tương ứng.
Bên cạnh đó, tình trạng nợ đọng vốn đầu tư lớn và kéo dài nhiều năm, triển khai kế hoạch vốn đầu tư của các Bộ, ngành, địa phương thường chậm, cùng với xu hướng ngày càng tăng các dự án chưa đủ thủ tục đầu tư vẫn được bố trí kế hoạch cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả đât tư.
- Về huy động nguồn vốn trong nước, theo tính toán sơ bộ, mặc dù nguồn vốn tích luỹ trong dân hàng năm lên đến 70- 80 nghìn tỷ đồng, nhưng mới chỉ huy động được 36% đầu tư phát triển kinh tế, chủ yều là đầu tư gián tiếp (qua gửi tiết kiêm), khoản đầu tư trực tiếp rất nhỏ, chủ yếu là các dự án ngắn hạn.
- Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài còn có một số bất hợp lý. Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp mặc dù đã có những chính sách ưu đãi nhất định, nhưng ĐTNN còn quá thấp và tỷ trọng vốn ĐTNN đăng ký liên tục giảm. ĐTNN tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi, trong khi đó có tác động rất hạn chế đến khu vực miền núi phía Bắc, một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.
- Ngoài ra, cơ chế chính sách trong quản lý đầu tư chưa đồng bộ, năng lực của các cá nhân tham gia các khâu trong quá trình đầu tư chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đặt ra- trong đó có một số bộ phận cán bộ cố ý làm trái gây thất thoát, tiêu cực- việc thực hiện giám sát, quản lý chất lượng công trình cũng như xử lý các sai phạm còn hạn chế, nương nhẹ... cũng làm "đậm" thêm sự lãng phí, thất thoát, tiêu cực trong lĩnh vực đầu tư.
- Tỷ lệ dự án đổ bể, phải giải thể trước thời hạn khá cao, một số dự án quy mô lớn thì chậm triển khai. Nhiều công trình muốn khấu hao nhanh để thu hồi vốn và trả lãi, nhưng lại phải đứng trước áp lực lớn của cạnh tranh nên phải giảm khấu hao để khỏi đội giá thành, giá bán... Nguồn trái phiếu chính phủ cũng phải trả lãi tính từ ngày vay nhưng giải ngân chậm....
2. Hạn chế trong tăng trưởng phát triển kinh tế
Bên cạnh những thành tựu to lớn và cơ bản đã đạt được, tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội nước ta năm 2004 vẫn còn tồn tại nhiều bất cập đòi hỏi phải có những giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, tích cực hơn.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung còn ở mức thấp so với kế hoạch. Chất lượng tăng trưởng, tính bền vững và độ đồng đều chưa cao. Điều này được thể hiện trong các ngành sản xuất và dịch vụ. Trong công nghiệp, giá trị sản xuất tăng 16% nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 0,7%. Tốc độ tăng trưởng của một số sản phẩm công nghiệp khai thác còn phụ thuộc vào thị trường thế giới. Giá hàng hoá, dịch vụ trong nước tăng cao. Mục tiêu giảm tỷ lệ sinh 0,04% không đạt kế hoạch đề ra. Tỷ lệ sinh con thứ ba tăng so với các năm trước đang tiềm ẩn khả năng bùng nổ dân số.
- Tăng trưởng kinh tế hiện nay do yếu tố vốn đầu tư đóng góp chiếm 57,5%; do yếu tố lao động đóng góp chiếm 20%; do yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp chiếm 22,5%. Điều đó chứng tỏ tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu về số lượng, phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển biến về chất lượng và phát triển theo chiều sâu. Nếu những năm trước 1993, để GDP tăng 1 đồng chỉ cần đầu tư dưới 3,3 đồng, thì đến nay đã phải đầu tư trên dưới 5 đồng- có nghĩa là hiệu quả đầu tư giảm tới 34%. Ngay cả việc phát triển theo chiều rộng thì cũng nghiêng về yếu tố vốn đầu tư, là yếu tố mà nước ta còn thiếu, phải đi vay, vừa phải hoàn vốn, vừa phải trả lãi. Trong khi đó yếu tố lao động được coi là nguồn lực nội sinh, hiện đang có nhiều lợi thế so sánh, như giá rẻ,dồi dào thì lại chỉ đóng vai trò rất nhỏ. Đây là một vấn đề rất đáng quan tâm để tận dụng lợi thế so sánh động trong phát triển kinh tế và chủ động hội nhập.
- Cơ cấu kinh tế hiện nay chẵng những dẫn đến nhập siêu gia tăng và kinh tế tăng trưởng chậm như đã nói trên, mà còn là một nguyên nhân hết sức quan trọng dẫn đến tình trạng "giậm chân tại chỗ" của thị trường trong nước.
- Mặt khác, với xu thế phát triển công nghiệp, cũng như dịch vụ ngày càng tập trung nhanh hơn vào một số trung tâm như hiện nay, dân cư khu vực nông thôn hầu như vẫn phải "đứng ngoài rìa làn sóng công nghiệp hoá". Có nghĩa là, sự phát triển của hai khu vực xương sống của nền kinh tế là công nghiệp và dịch vụ đang ngày cang mang lại lợi ích cho dân cư khu vực đô thị, còn thu nhập chủ yếu của dân cư khu vực nông thôn chiếm xấp xỉ 3/4 dân số của cả nước vẫn là từ khu vực nông nghiệp. Thực tế này chẳng những dẫn đến khoảng cách giàu nghèo giữa hai khu vực đô thị và nông thôn ngày càng tăng nhang, mà hệ quả tất yếu trước mắt là sức mua của thị trường trong nước không thể tăng nhanh như mong muốn.
- Tốc độ tăng trưởng khá của nhiều loại sản phẩm, nhiều ngành kinh tế trong cả nước thời gian qua có một phần quan trọng là do đang được bảo hộ. Từ nay, hàng sản xuất trong nước đang đứng trước sự cạnh tranh ngày một gay gắt hơn với hàng ngoại nhập.
- Chất lượng tăng trưởng còn thấp thể hiện cả trong bản thân quá trình tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng của giá trị tăng thêm thấp hơn tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất do tốc độ tăng chi phí trung gian cao, làm tỷ lệ của chi phí trung gian tăng lên. Điều này diễn ra trong một thời gian khá dài ở cả ba khu vực.
- Cơ cấu lao động chậm chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Tỷ trọng lao động trong khu vực nông- lâm- ngư nghiệp vẫn là lớn nhất trên 64%, trong đó khu vực công nghiệp- xây dựng mới chiếm 12,9%. Tuy nhiên, năng suất lao động (tính bằng giá trị tăng thêm chia cho số lao động đang làm việc) ở khu vực nông- lâm- ngư nghiệp chưa được 4,5 triệu đồng/năm, trong khi đó của hai khu vực công nghiệp- xây dựng và dịch vụ đã đạt được 28,7 triệu đồng/năm, gấp 6,5 lần khu vực nông- lâm- ngư nghiệp. Chất lượng lao động cũng chậm được cải tiến, tình trạng "thừa thầy, thiếu thợ" trong cơ cấu đào tạo hiện nay đang là gánh nặng của nền kinh tế. Chính trình độ thiết bị, kỹ thuật- công nghệ, trình độ tay nghề còn thấp, nên năng suất các nhân tố tổng hợp còn đóng góp quá thấp cho tăng trưởng kinh tế.
- Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tỷ trọng hàng nguyên liệu, hàng thô, hàng sơ chế hoặc hàng gia công còn chiếm tỷ trọng khá cao, do đó khả năng thu hút ngoại tệ chưa được khai thác hết. Trong tổng số 19,1 tỷ USD hàng xuất khẩu trong chín tháng đầu năm 2004, kim ngạch của những mặt hàng này chiếm 3/4 tổng kim ngạch xuất khẩu...
IV. Đánh giá Đầu tư và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dưới góc nhìn từ các mô hình kinh tế
1. Đứng dưới mô hình các giai đoạn phát triển kinh tế của W. Rostow:
Đặc trưng của giai đoạn này là: đây được coi là thời kỳ quá độ giữa xã hội truyền thống và sự cất cánh. Trong giai đoạn này nhiều điều kiện cần thiết để cất cánh đã bắt đầu xuất hiện, đó là những hiểu biết về khoa học – kĩ thuật đã bắt đầu được áp dụng vào sản xuất cả nông nghiệp và công nghiệp. Giáo dục được mở rộng và có những cải tiến để phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. Nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy động vỗn. Tiếp đó giao lưu hàng hoá trong và ngoài nước tăng đã thúc đẩy sự hoạt động của ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
Ngành khoa học trong nước đã làm chủ được công nghệ sản xuất giống nhân tạo và công nghệ sản xuất một số loại thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Một số địa phương đã triển khai trên diện rộng những kết quả khoa học này mới này. Ngoài ra, ngành sản xuất lương thực cũng có những thay đổi rất đáng quan tâm: Tính đến tháng 9 năm 2004 lượng gạo xuất khẩu của cả nước đã đạt trên 33,3 triệu tấn, trị giá 779 triệu USD giảm trên 5% về lượng nhưng tăng 28,3% về kim ngạch so với cùng kì năm trước; cho đến thời điểm này, các doanh nghiệp trong nước đã kí được hợp đỗng xuất khẩu 3,7 triệu tấn gạo và nhu cầu nhập khẩu gạo Việt Nam của các nước đang có xu hướng tăng, đặc biệt là các nước Châu Phi.
Để phát triển được một mức độ khoa học áp dụng vào thực tế thì nước ta đã có sự đầu tư rất thoả đáng vào giáo dục đặc biệt là từ 1985 đến nay. Số lượng trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, đại học, viện, trung tâm nghiên cứu khoa học... tiếp tục tăng lên. Hầu hết đều do nhu cầu khách quan đòi hỏi của thực tế Đất nước, nguyện vọng nhân dân và sự khuyến khích của Nhà nước.
Năm 1985 cả nước đã có 95 trường ĐH và CĐ, với 18000 cán bộ giảng dạy, trong đó có 1600 tiến sĩ, chiếm 8,6% với 200 khoa và 1700 bộ môn. Có tới 175 cơ quan chuyên tiến hành công tác nghiên cứu và triển khai trong đó có tới 120 viện nghiên cứu, 30 viện quy hoạch, trên 20 liên hiệp khoa học sản xuất, công ty phát triển công nghệ.
Hiện nay nước ta có trên 700000 cán bộ có trình độ từ ĐH trở nên trong đó có 421 tiến sĩ khoa học và 7500 tiến sĩ chuyên ngành.
Sự đầu tư của Nhà nước cho KHCN, GD-ĐT đã chứng tỏ sự quan tâm chú trọng của Nhà nước trong bước đầu phát triển kinh tế. Mục tiêu đến 2005 tỉ lệ học sinh THCS trong độ tuổi đạt 80%, tỉ lệ học sinh PTTH đạt 45% trong độ tuổi. Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò của GD-ĐT và tích cực đầu tư vào đó. Tiếp tục năng cao chất lượng giáo dục toàn dân toàn diên, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý GD: “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hóa„ phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên đề cao năng lực tự học tự hoàn thiện học vấn và tay nghề... Chăm lo phát triển giáo dục mầm non, củng cố thành tựu xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đẩy nhanh tiến độ phổ cập THCS, tăng ngân sách Nhà nước cho giáo dục, đào tạo theo độ tăng trưởng kinh tế. Hiện đại hóa một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỉ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội học tập. Tăng ngân sách Nhà nước trong việc cử người đi học ở các nước có nền khoa học tiên tiến, khuyến khích du học tự túc.
Về KHCN: khoa hoc xã hội và nhân văn hướng vào việc giải quyết những vấn đề lí luận và thực tiễn và dự báo những xu thế phát triển, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế xã hội, xây dựng con người. Khoa học tự nhiên hướng vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn, xây dựng cơ sở khoa học của sự phát triển các lĩnh vực công nghệ và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, dự báo, phòng chống thiên tai. KHCN hướng vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, xây dựng năng lực công nghệ quốc gia... Tăng đầu tư ngân sách, huy động các nguồn lực khác cho KHCN. Sắp xếp lại và đổi mới hệ thống nghiên cứu khoa học, phối hợp chặt chẽ việc nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học kĩ thuật với khoa học xã hội và nhân văn. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học công nghệ. Thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi ngộ với các nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất sắc.
Để tiến lên giai đoạn cất cánh, Việt Nam đã đầu tư vào một số ngành công nghiệp mũi nhọn, tạo điều kiện phát triển các ngành có lợi thế so sánh, đầu tư cho ngành nghề đó để xuất khẩu ra nước ngoài. Năm 2001, xuất khẩu sản phẩm công nghiệp khoảng 10,8 tỷ USD, tăng 12,5% và chiếm 66,5% kim ngạch cả nước bao gồm 2,5 tỷ USD dầu thô; 2,3 triệu USD hàng thủ công mĩ nghệ... Bên cạnh các mặt hàng chủ yếu sẽ đẩy mạnh xuất khẩu thêm nhiều mặt hàng như sữa, dầu thực vật, khoáng sản, sản phẩm hoá chất thép cơ khí, thiết bị điện... nhờ đó đã góp phần đáng kể vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong tổng sản phẩm quốc dân là 28,8% tăng lên 34,5% trong năm 2000. Một số ngành công nghiệp phát triển với quy mô lớn như khai thác dầu khí (16 triệu tấn dầu thô và 1,3 tỷ m3 khí một năm, thép xây dựng 2,5 triệu tấn/ năm xi măng 18 triệu tấn/năm... Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm tăng dần từ 53,73% năm 1995 lên 67,3% năm 1999 và 68,57% năm 2000 với tốc độ tăng bình quân 26,8%/năm.
Mặc dù tổng nguồn đầu tư cho công nghiệp tuy có tăng nhưng chưa nhiều, chiếm khoảng 44% tổng đầu tư toàn bộ xã hội nên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Một số nghành sản xuất kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do năng lực công nghệ hạn chế, sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh, thị trường tiêu thụ chưa lớn, đã dẫn đến tình trạng huy động công suất thấp như sản xuất thép xây dựng 65%, lắp ráp tivi 40%, quần áo may sẵn 59,7%, bia63,5%...
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng kinh tế kĩ thuật còn yếu kém. Những chi phí xây dựng cải tạo hạ tầng đều tập trung chủ yếu vào các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng... Trong khi đó ở các tỉnh thành khác thì hạn chế lớn hơn. Trong văn kiện đại hội IX: phát triển năng lượng đi trước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an toàn năng lượng quốc gia. Sử dụng tốt các nguồn thuỷ năng, khí than để cân đối nguồn điện. Xúc tiến nghiên cứu và hoàn thành thuỷ điện Sơn La. Nghiên cứu phương án sử dụng năng lượng nguyên tử. Đồng bộ hoá, hiện đại hoá mạng lưới phân phối nguồn điện quốc gia. Đa dạng hoá phương thức đầu tư và kinh doanh điện, có chính sách thích hợp để thực hiện sử dụng điện ở nông thôn, miền núi. Tăng sức cạnh tranh về giá điện so với khu vực.
Phát triển mạng lưới thông tin hiện đại và đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là trong hệ thống lãnh đạo, quản lý, các dịch vụ, tài chính, thương mại, giáo dục, y tế, tư vấn...
Về đường bộ: hoàn thành nâng cấp quốc lộ 1 và xây dựng đường HCM. Nâng cấp xây dựng các tuyến quốc lộ khác, chú trọng các tuyến đường biên giới, các tuyến đường vành đai và tuyến đường nối các vùng tới trung tâm phát triển lớn, các cầu vực sông lớn... phát triển nâng cấp hệ thống giao thông trên từng vùng kể cả giao thông nông thôn, bảo đảm thông suốt quanh năm.
2. Vai trò của đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển
Trong 5 năm 1996 – 2000 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vào thực hiện (không kể phần góp vốn trong nước ) đạt khoảng 10 tỷ USD, tăng so với thời kì trước là 34%.
Cơ cấu thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta, tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 lên 85% năm 2000.
Đầu tư trực tiếp từ các nước thuộc liên minh Châu Âu, ASEAN có triều hướng tăng hơn 5 năm trước (tỷ lệ vốn đăng kí các dự án từ EU bình quân chiếm 23,2% thời kì 1991 – 1995 tăng lên 25,8% thời kì 1996 – 2000, tỷ lệ đăng kí các dự án từ ASEAN tương ứng là 17,3% lên 29,8%. Riêng các nước EU, Mĩ, Nhật Bản chiếm 44% tổng vốn đăng kí tại Việt Nam.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu chưa kể dầu khí và đóng góp 12% GDP của cả nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm việc trong các ngành xây dựng thương mại dịch vụ liên quan, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lí và mở rộng thị trường.
Môi trường chưa đủ hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Với vai trò của đầu tư nói chung và vai trò của đầu tư nước ngoài nói riêng đã thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế phát triển, đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Trong chiến lược phát triển kinh tế đều tìm các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng cách tạo môi trường, hệ thống pháp luật phù hợp. Hiện nay các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn chưa thật yên tâm khi đầu tư, theo cách đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài: Việt Nam thay đổi nhanh so với bản thân mình nhưng chưa đủ nhanh để bắt kịp các nước xung quanh. Vì thế trong cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài Việt Nam vẫn yếu thế, đặc biệt là so với Trung Quốc. Những điểm yếu được xác định là:
- Giá cước vận chuyển, cước viễn thông còn quá cao
- Tổng giám đốc công ty Metro Cash và Carry cho rằng đồng nội tệ chưa mạnh và sức tiêu thụ trong nước chưa cao. Một điểm yếu khác theo ông là cán bộ quản lí Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm. Ông nói, nguồn nhân lực Việt Nam rất dồi dào, có học nhưng vẫn phải tiếp tục đào tạo.
- Môi trường đầu tư nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt, đã làm hạn chế thu hút đầu tư mới.
- Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, hay thay đổi, khó tiên đoán trước. Một số bộ, ngành còn chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ (như Nghị định số 06 về lĩnh vực giáo dục và đào tạo) đã gây khó khăn đối với việc thẩm định cấp phép đầu tư và thu hút các dự án mới vào lĩnh vực này. Một số ưu đãi của chính phủ đã được quy định trong nghị định của Chính phủ như miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu 5 năm cho sản xuất đối với các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và các dự án đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn nhưng thiếu hướng dẫn nên chưa được áp dụng. Nghị định 164 về thuế TNDN là bước tiến mới trong lộ trình xây dựng một mặt bằng pháp lí chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, nhưng quy định mới về thuế TNDN cũng đã làm giảm ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài nhất là vào các khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Công tác quy hoạch còn bất hợp lí, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế. Theo quy định của pháp luật, ngoài các dự án không cấp giấy phép đầu tư, nhà đầu tư có quyền lập các dự ãnin cấp giấy phép đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình chỉ đạo, điều hành, ta đã ban hành thêm một số quy định tạm dừng hoặc không cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án thuộc các lĩnh vực như: sản xuất thép, xi măng, cấp nước theo hình thức BOT, xây dựng nhà máy đường, lắp ráp xe gắn máy hai bánh, nước giải khát có gas... Ngoài ra, các văn bản về một số ngành ban hành gần đây cũng đã hạn chế đầu tư nước ngoài như điều kiện về kinh doanh dịch vụ hàng hải, về đại lí vận tải hàng không, về quản lí hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ. Thực tế trên đã bó hẹp lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng chính sách của Việt Nam không nhất quán, minh bạch, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư.
- Thủ tục thẩm định, cấp giấy phép đầu tư tuy đã được cải tiến nhưng vẫn còn phức tạp, thời gian thẩm định một số dự án còn dài do phải thống nhất ý kiến giữa các bộ, ngành.
- Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài ban hành năm 2002 còcủa thiếu những thông tin cần thiết khi chủ đầu tư quan tâm. Mặt khác, danh mục này chưa bao quát hết nhu cầu kêu gọi đầu tư nước ngoài đáp ưng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
- Công tác xúc tiến đầu tư đã cá nhiều cố gắng nhưng gặp khó khăn lớn do thiếu nguồn kinh phí để tổ chức các cuộc vận động đầu tư ở nước ngoài cũng nhe để hoàn chỉnh các tài liệu xúc tiến đầu tư.
- Việc đa dạng hoá các hình thức ĐTNN để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới cũng như việc thành lập và triển khai một số mô hình khu kinh tế mở con chậm.
3. Hiệu quả vốn đầu tư được biểu hiện tổng hợp ở hệ số ICOR
Hiệu quả đầu tư vốn năm 1998-1999 rất thấp thể hiện hệ số ICOR đã kên tíư 4,7 lần và 5,4 lầm thì năm 2000 hiệu quả đầu tư đã cao lên thể hiện hệ số ICOR giảm xuống 4,2. Đạt được kết quả trên là do 2 nguyên nhân:
- Thứ nhất, nguồn vốn huy độngđã được tập trung đầu tư cho các công trình trọng điểm sớm đi vào sử dụng và phát huy hiệu quả. Số dự án hoàn thành nhiều hơn năm trước chỉ riêng nhóm A, B đã hoàn thành 180 dự án, trong đó có những dự án quan trọng như những công trình về điện.
- Thứ hai là công trình đầu tư đã góp phần tiêu thụ sản phẩm nhờ đó kích cầu tiêu dùng, góp phần giảm bớt sự ứ đọng vốn, ứ đọng sản phẩm hàng hoá từ năm trước chuyển sang hoặc do sản phẩm năm nay tạo thành.
•Mục tiêu tổng quát và nhiệm vụ chủ yếu của năm 2002-2005:
Theo tính toán và dự báo ban đầu, khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển cho 5 năm tới vào khoảng 830 đến 850 nghìn tỷ đồng (theo đánh giá năm 2000) tương đương 59 đến 61 tỷ USD tăng khoảng 11 đến 12% một năm, trong đó nguồn vốn trong nước chiếm 2/3. Tỉ lệ đầu tư so với GDP chiếm khoảng 31 đến 32%, bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,5% một năm và có công trình gối đầu cho khoảng 5 năm tiếp theo.
Trong tổng vốn đầu tư xã hội, đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước chiếm từ 20 đến 21%; đầu tư bằng tín dụng Nhà nước chiếm từ 17 đến 18%; khu vực doanh nghiệp Nhà nước đầu tư chiếm 19 đến 20%; khu vực dân cư, doanh nghiệp tư nhân đầu tư trực tiếp 24 đến 25%; đầu tư trực tiếp nước ngoài theo dự báo và tính toán ban đầu dự kiến đưa vào thực hiện chiếm 16 đến 17%.
Tổng nguồn vốn to._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0195.doc