Thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực Việt Nam (giai đoạn 2000 - 2007)

LỜI MỞ ĐẦU Thế giới hiện nay đang ở trong thời kỳ có những chuyển biến mới mẻ, mau lẹ, đột biến cả về kinh tế, chính trị, văn hóa và khoa học kỹ thuật. Những nhân tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển chính là những thành tựu to lớn về khoa học công nghệ, tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới… Những đóng góp to lớn của những thành tựu này trong mọi lĩnh vực của đời sống đã hình thành nên nền sản xuất hiện đại, mà trong đó lao động cơ bắp của con người chỉ chiến một phần nhỏ. Nước ta

doc59 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1289 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực Việt Nam (giai đoạn 2000 - 2007), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu đưa đất nước phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nghị quyết trung ương Đảng khóa XI đã chỉ rõ: “ Thực sự coi giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Xây dựng con người phát triển toàn diện - nhân tố phát triển của xã hội thế kỷ 21 là mục tiêu cao cả mà cách mạng nước ta hướng tới.” Việt Nam sẽ sớm chuyển sang giai đoạn mới của công nghiệp hóa trong những năm tới và đòi hỏi nhiều nguồn lực cho phát triển. Phát triển nguồn nhân lực tương xứng với yêu cầu Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước đang là vấn đề trung tâm. Kinh nghiệm thành công của các nước đang phát triển trong thế kỷ XX cho thấy vai trò thiết yếu của việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực một cách chiến lược. Điều đó có nghĩa là nguồn nhân lực trong nước phải đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của các công ty trong nước và nước ngoài, của các ngành và nền kinh tế ở các mức độ phát triển khác nhau. Bên cạnh đó, những thay đổi mạnh mẽ của môi trường kinh doanh thế giới đem lại những bối cảnh phát triển mới cho những nước đang phát triển trong thể ký XXI với nhiều khó khăn và thách thức hơn. Con người, nguồn nhân lực đã trở thành mục tiêu của sự phát triển, là yếu tố cơ bản nhất quyết định sự phát triển. Một câu hỏi đặt ra cho Việt Nam và các nước đang phát triển là: “Làm thế nào để phát triển nguồn nhân lực và đầu tư bao nhiêu, đầu tư như thế nào cho nguồn nhân lực là phù hợp?”. Chương I Một số vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển nguồn nhân lực A – Lý luận chung về nhân lực 1. Một số khái niệm nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người, được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh. Trước hết, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường ( không bị khiếm khuyết hay dị tật bẩm sinh). Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tể xã hội là khả năng lao động của xã hội. Hiểu theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Theo cách hiểu này thì nguồn nhân lực chính là nguồn lao động, Theo nghĩa rộng, nguồn lực con người chính là tổng thể các yếu tố thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. 2 . Các chỉ tiêu đánh giá nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực ở đây thể hiện qua hai khía cạnh là quy mô nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực. Đây là cơ sở để đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư cho nhân lực. 2.1.Các chỉ tiêu đánh giá quy mô nguồn nhân lực. Có nhiều yếu tố đánh giá quy mô nguồn nhân lực nhưng tập trung ở các chỉ tiêu sau : - Tỉ lệ nguồn nhân lực trong dân số. - Tỉ lệ lực lượng lao động trong dân số. - Tỉ lệ tham gia lao động của người từ 15 tuổi trở lên. - Tỉ lệ tham gia lao động của người lao động trong độ tuổi lao động. - Tỉ lệ người từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong dân số. - Tỉ lệ dân số trong độ tuổi lao động có việc làm trong dân số. 2.2.Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu, trong đó có các chỉ tiêu chủ yếu sau: 2.2.1. Nhóm chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khỏe của nguồn nhân lực. Một người có sức khoẻ không đơn thuần là người đó không có bệnh tật. Sức khoẻ theo định nghĩa chung nhất chính là trạng thái thoải mái về vật chất, tinh thần, là tổng hoà nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần. Chúng ta có thể đánh giá tình trạng sức khoẻ qua một số chỉ tiêu chủ yếu sau: - Tuổi thọ bình quân. - Chiều cao và cân nặng trung bình của người lao động. - Chỉ tiêu phân loại sức khoẻ. - Chỉ tiêu dân số trong độ tuổi lao động không có khả năng lao động và suy giảm sức khoẻ. - Một số chỉ tiêu cơ bản về y tế, bệnh tật: tỉ suất chết, tỉ suất dân số trong độ tuổi bị mắc HIV/AIDS… 2.2.2.Chỉ tiêu trình độ văn hoá của nguồn nhân lực. Đây là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực, và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hoá cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào thực tiễn. Những chỉ tiêu đó là: - Tỉ lệ người lớn biết chữ. - Tỉ lệ đi học chung. - Tỉ lệ đi học ở các cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. 2.2.3. Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kĩ thuật của nguồn nhân lực. Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào đó( nó biểu hiện trình độ đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học), có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc chuyên môn nhất định. Do đó, trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực được đo bằng: - Tỉ lệ cán bộ tổ chức. - Tỉ lệ cán bộ cao đẳng, đại học - Tỉ lệ cán bộ trên đại học. 2.2.4.Chỉ số phát triển con nguời HDI HDI là thước đo tổng hợp về sự phát triển con người trên ba phương diện sức khoẻ, tri thức và thu nhập. Ba chỉ tiêu thành phần phản ánh các khía cạnh sau: - Một cuộc sống dài lâu và khoẻ mạnh, được đo bằng tuổi thọ trung bình. - Kiến thức được đo bằng tỉ lệ nguời lớn biết chữ ( với quyền số 2/3) và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục tiểu học,trung học và đại học (với quyền số 1/3) - Mức sống đo bằng GDP thực tế đầu người (tính theo sức mua tương đương PPP USD Mỹ) Chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế mà còn nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng xã hội. 2.2.5.Một số chỉ tiêu khác. Bên cạnh những chỉ tiêu có thể lượng hoá được như trên, người ta còn xem xét đến các chỉ tiêu định tính thể hiện năng lực phẩm chất của người lao động. Chỉ tiêu này được thể hiện qua các mặt: -Truyền thống dân tộc bảo vệ Tổ Quốc. - Truyền thống về văn hoá văn minh dân tộc. - Phong tục tập quán, lối sống 3. Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH – HĐH ở Việt Nam 3.1. Nguồn nhân lực là động lực của sự phát triển. Phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia phải dựa trên nhiều nguồn lực: nhân lực, vật lực, tài lực…. Song yếu tố chính vẫn là nguồn lực con người, vì chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra sự phát triển. Những nguồn lực khác muốn phát huy tác dụng phải thông qua nguồn lực con người. Nguồn lực con người chính là động lực của mọi sự phát triển. Từ xa xưa con người đã tự tạo ra những công cụ lao động thủ công để phục vụ cuộc sống của mình. Khi sản xuất phát triển, phân công lao động ngày càng chi tiết làm cho năng suất lao động đuợc cải thiện rõ rệt. Bên cạnh đó, sự thay thế của máy móc đã làm cho tính chất lao động có phần thay đổi, từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và trí tuệ. Và chúng ta không thể không nhắc tới vai trò của con người trong việc sáng tạo ra những trang thiết bị hiện đại cũng như vận hành chúng hoạt động. Nguồn nhân lực của mỗi quốc gia nếu biết khai thác hợp lý sẽ tạo nên một động lực to lớn cho sự phát triển, nhất là với những quốc gia đang phát triển, có dân số đông và nguồn nhân lực dồi dào như nước ta hiện nay. 3.2. Nguồn nhân lực là đối tượng mà sự phát triển kinh tế xã hội phải hướng vào phục vụ Phát triển kinh tế xã hội cũng chính là nhằm mục tiêu phục vụ con người, làm cho cuộc sống của con người ngày càng tốt hơn. Con người vừa là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất tinh thần của xã hội, nhưng cũng chính nhu cầu tiêu dùng của con người lại tác động mạnh mẽ tới sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. Nhu cầu của con người là vô hạn và ngày càng phong phú, đa dạng. Chính vì vậy nó đã tác động không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế và xã hội. B - Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 1.Quan điểm về đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới, vì mục tiêu phát triển. Tài sản mới bao gồm tài sản vật chất (Nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, trí năng, chuyên môn nghiệp vụ…). Đầu tư phát triển bao gồm: - Đầu tư tài sản vật chất (Tài sản thực) - Đầu tư phát triển tài sản vô hình. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là một trong những nội dung của đầu tư phát triển những tài sản vô hình. Nó cũng là việc chi dùng vốn hiện tại, tiến hành các hoạt động làm tăng quy mô và chất lượng nguồn nhân lực, vì mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. 2.Nội dung của đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan trọng việc phát triển mọi mặt kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi quốc gia. Gia nhập WTO không lâu, Việt Nam gặp nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít thách thức trên con đường phát triển. Trong đó có việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực thế nào để đạt hiệu quả ? Chúng ta sẽ nghiên cứu nội dung của vấn đề này để từ đó tìm ra những giải pháp và hướng đi đúng đắn cho bài toán nan giải này. Về cơ bản, đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm những nội dung sau: - Đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo ( chính quy, không chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ…) - Đầu tư cho đội ngũ lao động. - Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khoẻ. - Đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của người lao động, trả lương đúng, đủ cho người lao động…. 2.1. Đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo 2.1.1. Đầu tư cho chương trình giảng dạy Chương trình giảng dạy là những nội dung, kiến thức sẽ được đưa vào nhà trường nhằm nâng cao tri thức cho mỗi người tham gia khoá học. Vì vậy chương trình giảng dạy ở các cấp cần đựợc coi trọng đúng mức. Ở nứớc ta chương trình học ở các cấp phần lớn thể hiện trong sách giáo khoa (SGK). Đây là loại sách cung cấp kiến thức chuẩn, phục vụ cho việc dạy và học.SGK được phân loại theo đối tượng sử dụng hoặc chủ đề của sách. Kiến thức SGK là một kiến thức khoa học, chính xác theo một trình tự logic chặt chẽ, được gia công kĩ lưỡng về mặt sư phạm, phù hợp với trình độ học sinh và thời gian học tập. Hệ thống SGK ở nước ta còn nhiều hạn chế. Trên thế giới có nhiều bộ SGK khác nhau cùng biên soạn cho cùng một môn học, nhưng ở nước ta chỉ tồn tại một bộ sách duy nhất cho một môn học. Nội dung mặc dù có sự nghiên cức kĩ lưỡng để phù hợp với trình độ của học sinh nhưng chưa thật sự đáp ứng được với nhu cầu giảng dạy. Để cải thiện tình hình nói trên Chính Phủ đã đầu tư rất nhiều cho công cuộc cải cách giáo dục. Đáng lưu ý nhất là vấn đề cải cách sách giáokhoa. cải cách chương trình giảng dạy ở tất cả các cấp: bỏ lối học thụ động ở cấp đại học, thay vào đó là đào tạo theo hình thức mới ( hình thức tín chỉ), giúp sinh viên có thể chủ động hơn trong cách dạy và học. Trường đại học Xây Dựng hay đại học Kinh Tế Quốc Dân là những ví dụ điển hình cho hình thức đào tạo này. 2.1.2. Đầu tư cho việc đào tạo đội ngũ giáo viên và phương pháp dạy học. Đại hội Đảng cũng đã nhấn mạnh: “Coi đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Vấn đề là làm thế nào để có chất lượng giáo dục tốt đáp ứng yêu cầu đặt ra. Trước hết phải có một đội ngũ giáo viên nhiệt tình, giàu kinh nghiệm và có chuyên môn sư phạm cao. Họ là những người hướng dẫn và truyền đạt kiến thức cơ bản cho mỗi học viên tham gia khoá học. Nhà nước cần chú trọng hơn nữa trong việc nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ này, đặc biệt là đội ngũ giáo viên mới ra trường. Phuơng pháp giáo dục hay còn gọi là phương pháp giảng dạy là cách thức sử dụng các nguồn lực trong giáo dục như: giáo viên, trường lớp, dụng cụ học tập, các phương tiện vật chất để truyền đạt kiến thức cho người học. Ở nước ta hiện nay đã hình thành và phát triển nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau như - Phương pháp giáo dục truyền thống: Giáo viên độc thoại, chủ động truyền đạt kĩ năng còn người học tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Giáo viên đọc, học sinh chép và hầu như chỉ học lượng kiến thức mà giáo viên cho ghi, hoàn toàn không có sự sáng tạo. - Phương pháp giáo dục hiện đại: Giáo viên là người thiết kế tổ chức còn bản thân học sinh là người tự tìm hiểu kiến thức. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn còn học viên phải tự học hỏi, tự tìm tòi qua sách báo và các phương tiện khác. Theo phương pháp này thì học sinh chủ động hơn trong cách học, vì vậy tăng khả năng sáng tạo, tìm tòi của học sinh, sinh viên. Tuy nhiên ở nước ta thì phương pháp giáo dục truyền thống vẫn phổ biến hơn cả. Chúng ta đã đang và dần dần thay chuyển đổi sang phương pháp học mới nhưng còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại không ít những bất cập. Phương pháp giảng dạy kiểu mới có nhiều ưu điểm nhưng đòi hỏi sự hoàn thiện về cơ sở vật chất nên rất cần sự đầu tư nhiều hơn nữa của chính phủ vào công tác này. Đội ngũ giáo viên và phương pháp giảng dạy là hai yếu tố không nhỏ ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Đây là một trong những điều kiện quyết định để nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. Ý thức được điều này, Nhà nước rất quan tâm đến việc bồi dưỡng, cập nhật và vận dụng các phương pháp giảng dạy trong nhà trường cũng như nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ giảng dạy. 2.1.3. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng giáo dục. Cơ sở hạ tầng giáo dục là những điều kiện vật chất, phương tiện giảng dạy đáp ứng nhu cầu giáo dục. Nhà nước đã đầu tư rất nhiều ngân sách cho việc xây dựng nhà trường, đầu tư trang thiết bị nâng cao chất lượng dạy và học, mua sắm bàn ghế mới, đầu tư cho phương pháp giảng dạy mới như giảng dạy bằng slide, trình chiếu power-point… Theo luật giáo dục của Việt nam năm 2005 thì hệ thống giáo dục quốc dân của Việt nam bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm: - Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo. - Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. - Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. - Giáo dục đại học và sau đại học (trong Luật gọi chung là giáo dục đại học), đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ. Ngoài ra, bên cạnh hệ thống giáo dục quốc dân của Việt nam thì còn có các cơ sở giáo dục khác đóng góp vào phát triển nguồn nhân lực. Các cơ sở giáo dụckhác bao gồm: - Nhóm trẻ, nhà trẻ. - Các lớp độc lập: lớp mẫu giáo, lớp xoá mù chữ, lớp ngoại ngữ, lớp tin học, lớp dành cho trẻ em vì hoàn cảnh khó khăn không được đi học ở nhà trường, lớp dành cho trẻ tàn tật, khuyết tật, lớp dạy nghề và lớp trung cấp chuyên nghiệp được tổ chức tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. - Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp; trung tâm dạy nghề; trung tâm giáo dục thường xuyên; trung tâm học tập cộng đồng. - Viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ. Đầu tư cho giáo dục tại Việt Nam tăng dần hàng năm. Ngân sách dành cho giáo dục chiếm một phần lớn trong tổng đầu tư của quốc gia. Điều đáng chú ý là ngân sách nhà nước dành cho phát triển hệ thống trường đào tạo nghề tăng lên rõ rệt. Việt Nam ngày càng coi đào tạo nghề là bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực và lực lượng lao động xã hội. Điều này cũng phản ánh qua chiến lược Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa là phải đẩy mạnh giáo dục đào tạo, trong đó có đào tạo kỹ thuật và dạy nghề. Các dự án ODA trong giáo dục đào tạo cũng đã dành phần lớn cho giáo dục cơ bản, giáo dục đại học và đang được triển khai với vốn vay từ các tổ chức tính dụng quốc tế như Ngân hàng thế giới (World Bank), ngân hàng phát triển Châu Á (ADB).. để mở rộng và nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục đào tạo của Việt Nam. Điển hình là các dự án tài trợ của ADB cho hệ thống giáo dục cơ bản. Việt Nam đang tiến hành một dự án đặc biệt "Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn" với khoản kinh phí lớn nhằm tạo mọi cơ hội, điều kiện cho những trẻ có hoàn cảnh khó khăn được đi học. 2.2. Đầu tư cho công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ. Chăm sóc sức khoẻ là một ngành dịch vụ trong đó người cung ứng và người sử dụng quan hệ với nhau thông qua giá dịch vụ. Tuy nhiên khác với một số ngành dịch vụ khác, chăm sóc sức khoẻ có nhiều đặc điểm riêng: - Chúng ta không thể lường trước được các chi phí y tế phải trả vì chúng ta không thể dự đoán được thời kì mắc bệnh, đặc biệt thể trạng của mỗi người là khác nhau, do đó nguy cơ mắc bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cũng khác nhau. - Dịch vụ y tế là loại hàng hoá mà người sử dụng thường không tự mình lựa chọn được mà chủ yếu do các cơ sở y tế quy định. - Dịch vụ y tế là loại hàng hoá gắn liền với sức khoẻ, tính mạng con người nên không giống với các nhu cầu khác, khi có bệnh, mặc dù tài chính eo hẹp nhưng người ta vẫn phải đến các cơ sở y tế để khám chữa bệnh. Có ba loại dịch vụ y tế : - Dịch vụ y tế công cộng : là các dịch vụ mà lợi ích của nó không chỉ giới hạn ở việc cung ứng trực tiếp các dịch vụ khám chữa bệnh cho người sử dụng mà còn cung ứng gián tiếp cho cộng đồng như các dịch vụ phòng bệnh, giáo dục y tế. - Dịch vụ y tế cho các đối tượng cần được chăm sóc ưu tiên: là các dịch vụ giành cho các đối tượng đặc biệt như người nghèo, bà mẹ-trẻ em, người có công với cách mạng…. - Dịch vụ y tế cá nhân : là các dịch vụ chỉ cung cấp cho người sử dụng dịch vụ. Trong thị trường dịch vụ y tế giá dịch vụ do bên cung ứng quyết định. Do vậy, thị trường dịch vụ y tế cũng tồn tại nhiều “ Thất bại thị trường ” không thể tránh khỏi: - Thị trường dịch vụ y tế không có sự cạnh tranh hoàn hảo. Muốn cung ứng một dịch vụ y tế cần được cấp giấy phép hành nghề và cần đảm bảo những điều kiện nhất định về nhu cầu vật chất. - Thông tin không hoàn hảo. Có sự bất đối xứng thông tin giữa bên cung cấp dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ. Bệnh nhân hoàn toàn dựa vào các quyết định cùa thầy thuốc trong việc lựa chọn các dịch vụ y tế. Vấn đề này không được kiểm soát tốt sẽ dẫn tới các tình trạng lạm dụng dịch vụ từ phía cung ứng, đẩy cao chi phí y tế - Dịch vụ y tế cũng là loại hàng hoá công cộng, vì thế việc cung ứng dịch vụ sẽ trở nên khó khăn đối với các dịch vụ y tế mang tính công cộng. Do đó cần có sự can thiệp của nhà nước trong việc cung ứng đối với loại hang hoá dịch vụ này. Chính vì những đặc điểm trên của ngành y tế mà việc đầu tư phát triển y tế chăm sóc sức khoẻ phải được quan tâm một cách đặc biệt để phát triển nguồn nhân lực một cách hiệu quả. Đầu tư cho công tác y tế chăm sóc sức khỏe bao gồm các nội dung: 2.2.1. Đầu tư xây dựng bệnh viện ở các tuyến. Bệnh viện là hệ thống không thể thiếu được trong nhu cầu khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ. Nhà nước trích một số tiền lớn nhằm xây dựng và nâng cấp hệ thống bệnh viện một cách hợp lý, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương, từng vùng lãnh thổ, thực hiện mục tiêu công bằng, chất lượng, hiệu quả trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Mục tiêu chung là: - Đảm bảo cho mọi người dân được tiếp cận một cách thuận lợi với các dịch vụ chăm sóc chất lượng tại các bệnh viện. - Đảm bảo tính hệ thống và liên tục trong điều trị chuyên môn, từ cấp cơ sở đến cấp TW, phát triển cân đối hợp lý giữa bệnh viện đa khoa va chuyên khoa theo hướng chuyên sâu. - Nâng cấp chất lượng dịch vụ, đầu tư vào các trang thiết bị mới, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân. Theo vùng lãnh thổ hệ thống bệnh viện được phân bổ rộng rãi trên cả nước, bao gồm các bệnh viện công lập, tư nhân. Nhà nước ngày càng khuyến khích việc hình thành và phát triển các bệnh viện theo hướng đa dạng hoá các loại hình khám chữa bệnh, khuyến khích thành lập các bệnh viện bán công, dân lập, tư nhân có vốn đầu tư nước ngoài nhưng bệnh viện công lập vẫn giữ vai trò chủ đao. 2.2.2. Đầu tư mua sắm trang thiết bị y tế chăm sóc sức khoẻ. Trang thiết bị y tế là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả và chất lượng của công tác y tế, do vậy cần được tăng cường cả về số lượng và chất lượng của các thiết bị này; bao gồm các loại thiết bị, dụng cụ, vật tư, phương tiện vận chuyển chuyên dụng cho các hoạt động chăm sóc bảo vệ sức khoẻ. Việc đầu tư vào lĩnh vực này cần chú ý đến những nội dung sau: - Trang thiết bị y tế là lĩnh vực chuyên dụng và rất đắt tiền đòi hỏi yêu cầu khắt khe về kĩ thuật, vì vậy cần có kinh phí lớn thì mới có được sự đầu tư hiệu quả. - Đầu tư phải trọng tâm trọng điểm nhằm đạt được hiệu quả, khoa học và kinh tế. Xây dựng kế hoạch đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ sản xuất trang thiết bị y tế trong nước có ưu thế. - Tạo môi trường hấp dẫn cho các doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ thuộc các ngành, các địa phương tham gia sản xuất trang thiết bị y tế. Khuyến khích dung sản phẩm trong nước, giảm dần nhập khẩu. - Có chính sách khuyến khích ưu tiên đối với việc cử cán bộ đi đào tạo về nghiên cứu sản xuất trang thiết bị trong nước. Bộ Y tế thành lập cơ sở nghiên cứu với sự tham gia của các cơ sở trực thuộc nhằm nghiên cứu khả năng ứng dụng của các trang thiết bị y tế, các phương pháp chẩn đoán điều trị mới trên thế giới để có thể áp dụng vào Việt Nam . 2.2.3. Đầu tư cho đội ngũ cán bộ y tế. Việc đầu tư cho cán bộ y tế là cần thiết vì các trang thiết bị chỉ là những phương tiện hỗ trợ cho việc khám chữa và chẩn đoán bệnh tật cho người bệnh, còn lực lượng chủ chốt trong ngành vẫn là đôi ngũ cán bộ y tế. Cần tiến hành đầu tư cho hệ thống giáo dục đào tạo ngay từ trong nhà trường. Việc đào tạo phải được kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, đầu tư trang bị các công cụ phục vụ cho công tác học tập và giảng dạy. Liên quan đến tính mạng con người nên chuyên môn của đội ngũ này có vai trò cực kì quan trọng. Có những chính sách khuyến khích như cấp học bổng, tổ chức các chương trình du học cho các sinh viên y khoa có thành tích học tập tốt, nhằm nâng cao chuyên môn và kinh nghiệm. Bên cạnh yếu tố chuyên môn nghiệp vụ thì phẩm chất người bác sĩ cũng là yếu tố quan trọng không kém. “Lương y như từ mẫu”, đôi ngũ cán bộ y tế phải là những người hết lòng và tận tâm chăm sóc người bệnh. Để làm đươc điều này thì đội ngũ y tế phải được chi trả và phụ cấp đúng với trình độ của họ, giúp họ chi trả những chi tiêu thiết yếu trong cuộc sống. 2.2.4. Đầu tư cho công tác tuyên truyền giáo dục phổ biến kiến thức sức khoẻ. Đây là công tác quan trọng nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về bệnh tật cho người dân.Công tác này cần chú trọng ngay từ cấp cơ sở thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế; thông qua cán bộ y tế ở cáp cơ sở cũng như các phương tiện truyền thông đại chúng người dân có thể cập nhật kịp thời những loại bệnh có nguy cơ lây nhiễm cao cũng như nguy hiểm cho toàn xã hội, để từ đó có những biện pháp phòng và chống kịp thời. 2.3. Đầu tư cải thiện môi trường làm việc cho người lao động Môi trường lao động là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất của người lao động. Nghiên cứu vấn đề này chúng ta sẽ đề cập đến các nội dung cơ bản sau: 2.3.1. Đầu tư cải thiện điều kiện lao động. Điều kiện lao động là tổng thể các yếu tố tự nhiên, xã hội và kinh tế được biểu hiện thông qua các công cụ và phương tiện lao động, đối tượng lao động, quá trình công nghệ, môi trường lao động và sự sắp xếp bố trí chúng trong không gian và thời gian xác định. Sự tác động qua lại giữa chúng trong mối quan hệ với người lao động tại chỗ làm việc tạo nên một điều kiện nhất định cho con người trong quá trình lao động. Trong phần này chúng ta sẽ đề cập tới 3 vấn đề, đó là bảo hộ lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. - Bảo hộ lao động: là tổng hợp tất cả các hoạt động trên mặt luật pháp,kinh tế xã hội… nhằm mục đích cải thiện điều kiện lao động, ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, đảm bảo an toàn sức khoẻ cho người lao động. Nội dung chủ yếu của bảo hộ lao động là an toàn lao động, vệ sinh lao động và cả những vấn đề về chính sách đối với người lao động ( vấn đề lao đông nghỉ ngơi, vấn đề lao động nữ, vấn đề bồi dưỡng độc hại). Biết được điều này chúng ta cần có chính sách đầu tư đúng đắn nhằm nâng cao công tác bảo hộ cho người lao động. - Tai nạn lao động: là tai nạn xảy ra trong quá trình lao động do kết quả của sự tác động từ bên ngoài của các yếu tố nguy hiểm gây chết người hoặc làm tổn thương chức năng hoạt động của một bộ phận nào đó trên cơ thể. Tai nạn lao động không chỉ ảnh hưởng đên điều kiện vật chất mà còn ảnh hưởng đến tinh thần của người lao động, gián tiếp ảnh hưởng đến năng suất của doanh nghiệp. Vì thế nhà nước và doanh nghiệp cần có những biện pháp thích hợp để hạn chế tối đa việc xảy ra tai nạn lao động. - Bệnh nghề nghiệp: là bệnh phát sinh do ảnh hưởng và tác động thường xuyên kéo dài của các yếu tố có hại phát sinh trong sản xuất lên cơ thể người lao động. Những người làm việc trong môi trường độc hại, ô nhiễm thường mắc phải bệnh nghề nghiệp. Để hạn chế vấn đề này nhà nước và các doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác bảo hộ cho người lao động và có những chính sách ưu đãi phù hợp đối với những đối tượng này. 2.3.2.Vấn đề trả lương đúng, đủ cho người lao động. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống cần thiết mà doanh nghiệp phải trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng công việc mà người lao động cống hiến cho doanh nghiệp. Hàng hoá sức lao động là loại hàng hoá đặc biệt. Chính vì vậy tiền lương không chỉ là vấn đề thuần tuý về kinh tế mà còn là vấn đề xã hội rất quan trọng liên quan đến đời sống và trật tự xã hội. Trả tiền lương không đúng và đủ cho người lao động có thể gây ra đình công, bất mãn trong thái độ làm việc của công nhân… Từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Ở nước ta mức lương tối thiểu hiện còn chưa đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người lao động. Bên cạnh vấn đề trả lương đúng đủ cho người lao động, nhà nước và các doanh nghiệp đang có những giải pháp nhất định để hoàn chỉnh vấn đề tiền lương, tạo ra động lực để người lao động phát triển trình độ và khả năng lao động của mình. 2.3.3. Đầu tư nhằm nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người lao động. Ngoài những điều kiện vật chất thì yếu tố tinh thần có ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất lao động. Nhận thức được điều này các doanh nghiệp luôn tìm cách nâng cao đời sống tinh thần của cộng nhân viên bằng các hoạt động thể thao, giải trí, văn nghệ… Những hoạt động này đã ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng lao động và năng suất lao động trong mỗi DN. 3.Các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 3.1.Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút vốn. Nhắc đến đầu tư là phải nhắc đến vốn. Vốn là yếu tố quan trọng và không thể thiếu đươc của đầu tư. Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Có nguồn vốn dồi dào, có nhiều dự án đầu tư quy mô lớn thì yêu cầu đối với nguồn nhân lực ngày càng cao. Vì vậy, việc huy động vốn cho nền kinh tế cũng góp phần làm tăng quỹ cho việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài.Vậy yếu tố nào ảnh hưởng đến việc thu hút vốn trong nền kinh tê? - Năng lực tăng trưởng kinh tế: là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hút vốn. Yếu tố tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài. Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn. Khi năng lực tăng trưởng được đảm bảo năng lực tích luỹ của nền kinh tế sẽ gia tăng, khi đó quy mô nguồn vốn trong nước sẽ được cải thiện, đồng thời đó cũng là tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. - Sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: Đây là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Để thu hút được các nguồn vốn đầu tư nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của đất nước phải đảm bảo nền kinh tế đó trước hết là nơi an toàn cho sự vận động của nó và sau nữa là nơi có khả năng sinh lợi cao. Nhắc đến môi trường kinh tế vĩ mô chúng ta phải đề cập đến các yếu tố:thuế và các công cụ tài chính, lãi suất và tỉ giá hối đoái, ổn định giá trị tiền tệ - Lãi suất và tỉ giá hối đoái: đây là yếu tố không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thu hút vốn đầu tư mà còn ảnh hưởng đến dòng chảy của các nguồn vốn và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định.Lãi suất càng cao tiềm năng của các nguồn vốn đầu tư càng lớn. Đối với tỉ giá hối đoái, thực tế cho thấy giá đồng nội tệ càng giảm khả năng thu lợi từ đồng nội tệ càng lớn. Điều này sẽ khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào hàng xuất khẩu, và như vậy thì sức hấp dẫn vốn nươc ngoài sẽ càng lớn. Thuế và các công cụ tài chính khác là một trong những chính sách quan trọng ảnh hưởng đến khuyến khích đầu tư và tái đầu tư từ lợi nhuận. Ở nước ta ảnh hưởng của thuế thu nhâp doanh nghiệp đến đầu tư chưa được thể hiện rõ nét, nhưng với các nước thu nhập cao trên thế giới đây là yếu tố khá quan trọng khi các doanh nghiệp tiến hành đầu tư. 3.2.Các chính sách của nhà nước cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Các chính sách của nhà nước có ảnh hưởng lớn tới các hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư cho nguồn nhân lực nói riêng, bao gồm các chính sách đầu tư cho giáo dục, y tế, môi trường, điều kiện làm việc…,chính sách thu hút vốn hiệu quả. Chính sách của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đầu tư nhân lực. Trong đầu tư cho giáo dục nhà nước có nhiều chính sách khuyến khích học sinh sinh viên như: học bổng, du học nước ngoài… hay các chính sách đầu tư xây đựng cơ sở vật chất hạ tầng cũng như trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy, chăm sóc sức khoẻ… Với mỗi giai đoạn khác nhau thì các chính sách của nhà nước cũng có những nét khác biệt nhất định, gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. Trong điều kiện CNH-HĐH nước ta hiện nay thì chính sách đầu tư cho nguồn lao động chất lượng cao cũng không phải là điều khó hiểu. Để huy động hiệu quả nguồn vốn đâu tư, nhà nước đã có những chính sách và giải pháp hợp lý đồng bộ như việc đa dạng hoá các hìn thức và phương tiện huy động vốn, tạo môi truờng chính trị ổn định nhằm thu hút vốn có hiệu quả, nâng cao hiêu quả đầu tư. 3.3.Các yếu tố quốc tế. Hệ thống giáo dục nước ngoài là yếu tố không nhỏ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Chúng ta đ._.ã liên doanh-liên kết, hợp tác-đào tạo với nhiều quốc gia có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, và đã thu về những thành tựu rất đáng tự hào. Bên cạnh đó yếu tố vốn nước ngoài (chủ yếu do viện trợ chính thức ODA và đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI) cũng góp phần không nhỏ trong đầu tư phát triển nhân lưc. Với xu thế toàn cầu hoá hiện nay thì yếu tố quốc tế là một trong những nhân tố có tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực Việt Nam (giai đoạn 2000-2007) I. Thực trạng đầu tư phát triển nhân lực Việt Nam hiện nay (2000-2008) Là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ đầu năm 2007, Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu. Điều đó mở ra nhiều thời cơ, song cũng tạo ra những thách thức lớn đối với sự phát triển của nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội của đất nước. Trước những đòi hỏi và yêu cầu mới phát triển đất nước, với vai trò là một trong những nhân tố quyết định nhất và là chủ thể thực hiện các sứ mạng lịch sử của đất nước, một câu hỏi lớn thường đặt ra là làm thế nào để nguồn nhân lực Việt Nam có đủ trình độ, năng lực và sức mạnh để đẩy nhanh công cuộc đổi mới nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế có hiệu quả trong điều kiện khoa học-công nghệ tiến nhanh, hình thành nền kinh tế tri thức và cạnh tranh khu vực và toàn cầu ngày càng gay gắt. Được như vậy, cần phải có cách nhìn thẳng thắn và khách quan về những đặc điểm thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam và có những phương hướng và giải pháp đúng đắn, hiệu quả để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta. 1. Đầu tư phát triển giáo dục đào tạo 1.1.Xét trên tầm vĩ mô Biểu đồ 1: Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục qua các năm (Nguồn: Nhandan.com.vn) Theo biểu đồ 1, có thể thấy tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục có chiều hướng tăng lên qua các năm: năm 1997 là 12,8%, năm 2003 là 16,2%, năm 2004 là 17,1%, và đạt 20% vào năm 2007. Đặc biệt là chi phí của chính phủ Việt Nam tăng hơn gấp đôi từ 1998 đến 2003: năm 1998 là 11 nghìn tỷ đồng, năm 2001 là 19,7 nghìn tỷ đồng; năm 2003 là 27,2 nghìn tỷ đồng. Như vậy, có thể nói, đây là sự nỗ lực, cố gắng lớn của Chính phủ tăng các chi phí dành cho giáo dục, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Trong đó một phần lớn được ưu tiên đầu tư tăng cường cơ sở vật chất cho các trường. Chế độ, chính sách, lương và phụ cấp của giáo viên những năm vừa qua cũng đã có sự cải tiến, điều chỉnh lên mức cao nhất trong khu vực hành chính sự nghiệp, cải thiện đáng kể thu nhập, giúp họ phấn khởi, yên tâm phục vụ sự nghiệp giáo dục. Các chính sách khuyến khích đối với sinh viên giỏi, sinh viên nghèo vượt khó cũng đã được áp dụng như: chế độ học bổng cho các đối tượng thuộc chính sách xã hội, học bổng cho các sinh viên học giỏi, thực hiện tín dụng sinh viên, miễn học phí cho các sinh viên theo học tại các trường sư phạm. Bên cạnh đó, Nhà nước chú trọng hơn vào đầu tư cho giáo dục ở những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc. Năm 2007,ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục đạt 66.770 tỷ đồng chiếm 20% tỷ lệ chi ngân sách Nhà nước. Biểu đồ 2: Chi tiêu ngân sách cho giáo dục Việt Nam (tỷ đồng). (Số liệu năm 2008 là ước tính của Bộ GD-ĐT) ( Nguồn: www.vnn.vn) Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, thu hút đầu tư từ các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Theo ước tính, từ năm 1990 đến nay, tổng giá trị đóng góp của các doanh nghiệp và nhà hảo tâm cho ngành giáo dục lên tới trên 1.200 tỷ đồng và khoảng 1,5 triệu m2đất. Nhờ vậy, cơ sở vật chất cho ngành giáo dục ngày càng được cải thiện, nhất là ở các vùng khó khăn. Cả nước hiện đã có 36.700 trường trong hệ thống từ mầm non đến đại học. Đặc biệt, năm 2007 đã ghi dấu sự thành công của ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam khi lần đầu tiên đăng cai tổ chức thành công Olympic Toán quốc tế lần thứ 48, với sự tham gia của 96 nước và vùng lãnh thổ. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm học mới 2008, cả nước có gần 22 triệu học sinh, sinh viên đến trường. Hiện nay tổng nguồn vốn đầu tư nước ngoài đang được sử dụng trong các dự án giáo dục tại Việt Nam là 825,4 triệu USD với tỷ lệ giải ngân năm 2007 đạt 74,15%. Về minh bạch trong quản lý tài chính, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân thừa nhận, hệ thống quản lý tài chính giáo dục ở VN rất phân tán. Bộ GD-ĐT chỉ quản lý khoảng 50% nguồn tài chính cho giáo dục, còn lại là các bộ ngành địa phương trực tiếp quản lý và chi tiêu không hề báo cáo với Bộ GD-ĐT. Vì thế, Bộ không kiểm soát được hoàn toàn việc sử dụng tài chính giáo dục. Nhà nước có chính sách cho cho học sinh, sinh viên nghèo vay vốn để trang trải các chi phí tối thiểu cho học tập như học phí, sách vở và ăn ở. Với chính sách đổi mới mức thu học phí và cho vay tín dụng đối với học sinh, sinh viên, nhà nước sẽ tiết kiệm được một phần ngân sách để đầu tư cho các trường về cơ sở vật chất hoặc đầu tư trong những lĩnh vực đào tạo cần có sự ưu tiên. Chỉ khi cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học được đầu tư tốt, giáo viên có điều kiện nâng cao trình độ, khi đó mới có đủ điều kiện tối thiểu đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Cần nhắc lại rằng, với mức đầu tư thấp như hiện nay, nhà trường không thể có được những sản phẩm được đào tạo tốt, đáp ứng nhu cầu của thế giới việc làm. Suất đầu tư trên một sinh viên thấp không những làm suy giảm chất lượng đào tạo mà còn kéo theo một hệ lụy nữa là hiệu quả, hiệu suất đào tạo thấp và mất công bằng trong xã hội. Với quan điểm GD&ĐT phải là “bạn đồng hành” của doanh nghiệp, Bộ GD&ĐT ủng hộ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gặp gỡ, tìm đối tác liên kết đào tạo, tháo gỡ những vướng mắc, điều phối sự hợp tác giữa doanh nghiệp và nhà trường. Đào tạo nhân lực cho những doanh nghiệp có vốn đầu tư trên 1 tỷ USD, nhà nước cam kết hỗ trợ các trường (bồi dưỡng giáo viên, nâng cấp trang thiết bị, cho vay vốn…) đào tạo theo tiêu chuẩn của doanh nghiệp, đồng thời doanh nghiệp cần thông báo sớm về nhu cầu đào tạo, tuyển dụng, mức lương dự kiến trả cho người lao động sau khi tốt nghiệp. Tổng chi ngân sách cho giáo dục đào tạo năm 2006 so với 2005 là tăng 33%. Đây là mức tăng cao thể hiện sự quan tâm rất lớn cho giáo dục đào tạo, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho  ngành. Mặc dù tăng nhiều nhưng vẫn chưa đủ bởi khoảng hơn 10 tỷ dành cho bù đắp phần lương mới. Có thể nói chiếm một phần đáng kể trong việc tăng ngân sách là để giải quyết vấn đề tiền lương, phần giải quyết nhiệm vụ khác còn lại không bao nhiêu. Trong khi đó, những mục tiêu như phát triển giáo dục tiểu học, giáo dục vùng dân tộc hải đảo đã có kết quả to lớn nhưng phần còn lại rất nặng nề và khó khăn đòi hỏi kinh phí nhiều; nhiệm vụ phát triển ĐBSCL, Tây Nguyên, miền núi phía Bắc cũng đặt ra những nhu cầu rất lớn về kinh phí. Ngoài ra, việc đổi mới phương pháp giảng dạy cũng đòi hỏi đầu tư phương tiện; thực hiện chỉ thị hoàn thiện đội ngũ cán bộ giảng dạy... cũng đòi hỏi chi phí lớn. Tháng 8/2007, tại Hà Nội đã diễn ra lễ khởi động dự án Giáo dục Trung học cơ sở (THCS) vùng khó khăn nhất, bao gồm 103 huyện khó khăn của 17 tỉnh: Cà Mau, Cao Bằng, Đắc Lắc, Đắc Nông, Điện Biên, Gia Lai, Hà Giang, Kiên Giang, Kon Tum, Lai Châu, Lào Cai, Ninh Thuận, Sơn La, Trà Vinh, Yên Bái, Bắc Kạn và Sóc Trăng. Dự án được bắt đầu từ năm 2007 và kết thúc vào năm 2014. Mục tiêu dự án hướng tới là nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó khăn, vùng dân tộc, góp phần khắc phục tình trạng không đồng đều giữa các vùng, các dân tộc; hỗ trợ các mục tiêu về phổ cập giáo dục THCS, bình đẳng giới và chính sách đối với nhóm đối tượng đặc biệt; đồng thời tăng cường năng lực quản lý giáo dục. Được biết, tổng đầu tư cho dự án là 64 triệu USD, trong đó có 50 triệu do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho vay và 14 triệu USD là nguồn vốn đối ứng của Việt Nam. Số vốn này sẽ được đầu từ vào xây dựng 960 phòng ở nội trú cho trường vùng dân tộc thiểu số và cung cấp đồ gỗ cho các phòng này; xây dựng và trang bị thiết bị cho 48 phòng học mới có kèm theo công trình vệ sinh cho những nơi chưa có hoặc công trình phụ xuống cấp cho trung tâm giáo dục thường xuyên; bồi dưỡng và nâng cao chuyên môn cho giáo viên; đào tạo sinh viên sư phạm sắp ra trường; biên soạn 9.700 bộ tài liệu hướng dẫn bổ trợ; xây dựng nhà công vụ cho 870 giáo viên; xây dựng và cung cấp trang thiết bị cho 112 phòng thí nghiệm và 180 thư viện mới; trao học bổng đào tạo giáo viên cho sinh viên dân tộc thiểu số; giúp các trường xây dựng năng lực lập kế hoạch và quản lý giáo dục và thử nghiệm phương pháp đổi mới nhằm tăng cường bình đẳng và cơ hội tiếp cận giáo dục cho trẻ em gái và trẻ em dân tộc thiểu số. 1.1.1. Đầu tư phát triển trình độ văn hoá của nguồn nhân lực. 1.1.1.1.. Đầu tư cho giáo dục mầm non Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư phát triển giáo dục mầm non, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non, mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường, lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư; ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục mầm non ở những xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các xã vùng núi cao, hải đảo; tăng cường phổ biến đến thức nuôi dạy trẻ cho các gia đình, nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ em trước 6 tuổi, tạo điều kiện để trẻ em được phát triển toàn điện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ và hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách. Các loại hình cơ sở giáo dục mầm non bao gồm: - Cơ sở giáo dục mầm non công lập bao gồm các trường, lớp giáo dục mầm non do ngân sách nhà nước đảm bảo cho đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên và kinh phí hoạt động. Cơ sở giáo dục mầm non công lập được xây dựng chủ yếu ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn ở miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa trong danh mục được Thủ tướng Chính phủ quy định. - Cơ sở giáo dục mầm non bán công bao gồm: Các cơ sở giáo dục mầm non do Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất ban đầu, các cơ sở giáo dục mầm non ở vùng nông thôn trước đây do hợp tác xã nông nghiệp đầu tư nay do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn trực tiếp quản lý và hoạt động trên cơ sở tự quản lý về tài chính, nhân lực hoặc được ngân sách địa phương hỗ trợ cần thiết để bảo đảm chất lượng giáo dục. Cơ sở giáo dục mầm non bán công được xây dựng chủ yếu ở vùng nông thôn không thuộc diện nêu trên và ở các địa bàn có mức sống thấp của thành phố, thị xã, thị trấn; - Cơ sở giáo dục mầm non dân lập bao gồm các trường, lớp mầm non do tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế được phép thành lập, đầu tư bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước. Khuyến khích việc lập trường, lớp mầm non dân lập, tư thục ở thành phố, thị xã, thị trấn, khu công nghiệp và những nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển; - Cơ sở giáo dục mầm non tư thục bao gồm các trường, lớp mầm non do cá nhân hoặc một nhóm cá nhân được phép thành lập và đầu tư. Về chương trình giáo dục mầm non do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo biên soạn và hướng dẫn thực hiện. Chương trình phải phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của lứa tuổi trước tiểu học; tạo cơ sở để trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ và hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách; là cầu nối giữa mẫu giáo với lớp một. Về chế độ chính sách đối với giáo viên mầm non, giáo viên hợp đồng được hưởng chế độ tiền lương, các khoản phụ cấp, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, học tập, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, các danh hiệu tôn vinh nhà giáo như giáo viên trong biên chế, tiền lương, phụ cấp, các khoản bảo hiểm phải đóng được chi trả từ nguồn thu học phí và các khoản thu hợp pháp khác. Đối với những cơ sở giáo dục mầm non bán công, nếu nguồn thu nêu trên không đủ để chi trả tiền lương và đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho giáo viên hợp đồng thì phần còn thiếu được ngân sách nhà nước chi hỗ trợ để bảo đảm đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trả tiền lương của những giáo viên này không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Hầu hết các trường trọng điểm được trang bị khá đầy đủ đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho công tác chăm sóc-giáo dục trẻ. Các trường ở vùng sâu chỉ có các trang thiết bị tối thiểu phục vụ cho việc giảng dạy. Đặc biệt các lớp mẫu giáo 26 tuần gắn với trường tiểu học cơ sở vật chất chưa đảm bảo: nhiều phòng học còn tạm bợ, bàn ghế chưa đúng qui cách, thiếu nhiều đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc chăm sóc và giáo dục trẻ. “Năm 2005, tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ, nhóm đạt 15%; trẻ từ 3 đến 5 tuổi đến lớp mẫu giáo đạt 58%; trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo đạt 92%; tỷ lệ các cơ sở giáo dục mầm non đạt chuẩn quốc gia đạt 9%. Đối với các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, nâng tỷ lệ trẻ từ 3 đến 5 tuổi đến lớp mẫu giáo đạt 43% năm 2005. Hiện cả nước có 1640 xã vùng dân tộc và miền núi chưa có trường mầm non.” (Theo Dantri.com) Nguồn vốn đầu tư phát triển giáo dục mầm non gồm: vốn từ ngân sách Nhà nước bố trí trong chương trình mục tiêu quốc gia và dự toán chi thường xuyên hàng năm theo phân cấp quản lý ngân sách và các nguồn hợp pháp khác. Ở Nam Định, Nhà nước hỗ trợ 30 triệu đồng cho trường mầm non đạt chuẩn quốc gia, 10 triệu đồng/1 phòng học kiên cố được xây dựng mới; cấp 10 triệu đồng/trường/năm để chi hoạt động và mua sắm dụng cụ dạy học. Năm 2007, nâng mức hỗ trợ giáo viên ngoài công lập từ 100.000đ/tháng lên mức 200.000đ/tháng và đóng BHXH, BHYT cho giáo viên theo mức lương 450.000đ. Công tác xã hội hóa giáo dục Mầm non được đẩy mạnh, các huyện, thành phố đã dành nguồn ngân sách cho hoạt động chuyên môn và mua sắm thiết bị phục vụ việc dạy và học. Các xã, phường, thị trấn ngoài nguồn ngân sách ưu tiên còn có nhiều hình thức huy động sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân... Năm 2005 quy mô trường lớp phát triển vững chắc: có 256 trường mầm non; số trẻ trong độ tuổi ra nhà trẻ đạt 48,56%, mẫu giáo đến trường đạt 93%; tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở các độ tuổi giảm; 100% trẻ trong các trường được học theo đúng chương trình quy định; đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên Mầm non được củng cố, bảo đảm về số lượng, chuẩn hóa về trình độ đào tạo. Từ nguồn hỗ trợ của tỉnh, cộng với học phí được thu theo thỏa thuận với cha mẹ học sinh, mức thu nhập của giáo viên ngoài công lập đã đạt khoảng 450.000 đ/tháng đến 800.000đ/tháng. Giáo viên mầm non nghèo được hỗ trợ xây dựng nhà ở từ quỹ “Vòng tay đồng nghiệp”. Việc xây dựng trường, lớp, mua sắm trang thiết bị cho giáo dục Mầm non cũng được đầu tư đáng kể. Kết thúc năm học 2006- 2007 đã có 136 trường mầm non được xây dựng kiên cố, 90% trường có đủ nước sạch. Việc xây dựng các trường đạt chuẩn quốc gia được các địa phương hưởng ứng mạnh mẽ, đã có 57 trường đạt chuẩn quốc gia. Tuy nhiên, vẫn tồn tại lớp lẻ, lớp ghép, có nơi còn học nhờ nhà dân, ảnh hưởng tới chất lượng nuôi dạy và chăm sóc trẻ. Chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ giáo viên ngoài công lập thuộc ngành học này chênh lệch quá lớn so với giáo viên trong biên chế nhà nước. Ở Đăknông, năm học 2003 – 2004, trong khi tỷ lệ trẻ được đến lớp mẫu giáo tại vùng kinh tế - xã hội phát triển là 47% thì ở các vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, tỷ lệ này chỉ là 19%. Toàn tỉnh chỉ có 29 trường mẫu giáo, mầm non với tổng số 322 phòng học. Tuy nhiên, có tới 61 phòng mượn, 119 phòng học tạm và 142 phòng học cấp 4. Các lớp mẫu giáo phải nhờ cơ sở vật chất của các trường tiểu học hoặc mượn hội trường. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ việc chăm sóc và giáo dục trẻ của hầu hết các cơ sở giáo dục mầm non vừa đơn điệu, lại xuống cấp.Giai đoạn 2005 – 2007, xây dựng thêm 200 phòng học mới để thành lập thêm 41 trường mầm non; Cấp bổ sung thiết bị đồ chơi cho 32 trường; Tổ chức bồi dưỡng cho 30 cán bộ quản lý và chuẩn hóa trình độ cho trên 90% giáo viên; Huy động 8% trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ; 45% trẻ trong độ tuổi mẫu giáo đến trường... Toàn tỉnh có 65,4% trẻ từ 3 – 5 tuổi, 87,5% trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo. Đội ngũ cán bộ, giáo viên từ 424 người năm 2004 tăng lên 800 người năm 2007; 98,3% đạt chuẩn và trên chuẩn là 15,6%. Số trường tăng từ 28 trường năm 2004 lên 62 trường năm 2007, tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ chỉ đạt 1,5% kế hoạch. Hiện toàn tỉnh vẫn còn 9 xã chưa có trường mầm non. 1.1.1.2. Đầu tư cho giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, giáo dục dân tộc của nước ta còn nhiều bất cập, như: tỷ lệ trẻ nhập học ở các cấp chưa cao; chất lượng dạy học còn thấp; đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ; các hình thức và nội dung giáo dục đặc thù phát triển thiếu vững chắc. Đáng lo ngại là tình trạng học sinh dân tộc đang ngày càng gia tăng. Nhiều nguyên nhân được chỉ ra, trong đó nguyên nhân chủ quan là tình trạng hạ tầng cơ sở còn yếu kém.Trường tiểu học ở vùng dân tộc thường có nhiều điểm trường phân tán, gây khó khăn cho cả giáo viên, học sinh và ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục. Dự án giáo dục tiểu học lớn nhất của Việt Nam mang tên ''Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn'' bắt đầu được thực thi từ ngày 12/10/2004. Điều này có nghĩa là 200 triệu USD do các nhà tài trợ cung cấp đã đến với hơn 4.200 trường học chính và gần 15 nghìn trường điểm ở Việt Nam Đối với vùng sâu vùng xa, Bộ GD-ĐT cũng đang tiến hành cung cấp miễn phí sách giáo khoa và báo cho trẻ em dân tộc. Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn ở những vùng không được triển khai hỗ trợ vẫn được nhận hỗ trợ. Mỗi điểm trường cử thêm 1 nhân viên hỗ trợ cho những học sinh mà tiếng mẹ đẻ không phải tiếng Việt. Mỗi trường tiểu học còn được nhận 500 USD/năm để hỗ trợ trực tiếp cho HS khó khăn mua quần áo ấm, bữa ăn bán trú... Với bậc THCS và THPT, tới năm 2004, 33 tỉnh đã có trường học 2 buổi/ngày nhưng hiện nay ở các thành phố lớn đang bị quá tải nên cần phải đầu tư mở rộng gần 10.000 trường THCS và 1.000 trường THPT, đồng thời xây dựng thêm trường mới. Bộ GD-ĐT sẽ phối hợp với các bộ ngành liên quan để tìm nguồn vốn 25.200 tỉ đồng phục vụ kiên cố hóa trường lớp học và xây dựng nhà công vụ cho giáo viên. . Tại Bắc Ninh, đến nay toàn tỉnh có 146/150 trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức I, chiếm 97% (toàn quốc dưới 30%); 15 trường tiểu học đạt chuẩn mức II và vào năm học mới 2008-2009 có thêm 7 trường đạt chuẩn mức II. Tỷ lệ phòng học kiên cố tính đến hết năm học 2007-2008 là trên 90%; số phòng học có bàn ghế đạt chuẩn (1-2 chỗ ngồi) 90%; phòng học có bảng chống loá, điện chiếu sáng 100%; số trường có phòng Tin học 48... Tại Hà Nội, đến năm 2005: phát triển 100% trường tiểu học và 50% trường trung học tổ chức học sinh học tập và hoạt động cả ngày trong trường; phổ cập bậc trung học ở 12 quận nội thành; đảm bảo giáo viên các bộ môn ở các cấp học, ngành học đáp ứng yêu cầu đồng bộ tập thể sư phạm nhà trường..." Hoàn thành quy hoạch chi tiết mạng lưới trường học của các quận, huyện; xây dựng cơ sở vật chất theo hướng kiên cố hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá. Tiếp tục đổi mới quản lý giáo dục, tăng cường nề nếp kỷ cương, ngăn chặn, khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục... Năm học 2002-2003, thành phố đã huy động được 1.361.632 học sinh đến trường (không kể khối dạy nghề), tăng 31.737 học sinh so với năm học trước. Trong đó, học sinh tiểu học phổ thông cao nhất 422.517, học sinh giáo dục trẻ khuyết tật thấp nhất 2.250 học sinh.” Tại Tiền Giang, từng bước sẽ đầu tư máy vi tính cho các trường chuẩn quốc gia với chương trình vui để học, học để vui. Tiền Giang đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy và thời gian học tập của học sinh. Ðó là từng bước tổ chức giảng dạy cấp tiểu học theo nhóm môn (thay kiểu dạy cũ là một thầy phụ trách một lớp, dạy nhiều môn). Tỉnh đã thực hiện đại trà xong việc học sinh tiểu học học hai buổi/ ngày; đồng thời cho trẻ tiếp cận học tiếng Anh ở bậc học này hai tiết học/ tuần. Sở Giáo dục và Ðào tạo Tiền Giang kiến nghị Bộ cho phép bắt đầu dạy tiếng Anh cho trẻ lớp 1 và 2 dạy nghe và nói, lớp 3 dạy viết nhằm hình thành các phản xạ ban đầu cho trẻ khi tiếp cận tiếng Anh. Lộ trình của Tiền Giang học sinh học xong tiểu học là phải có chứng nhận trình độ ngoại ngữ bằng A, trung học cơ sở bằng B. Một điểm sáng đáng ghi nhận nữa là Tiền Giang đã tập trung đầu tư đưa công nghệ thông tin vào trường học, cũng như nâng cao trình độ tin học cho giáo viên một cách căn cơ, đầy đủ và hiệu quả cao. Do đó, hiện nay tỉnh đã áp dụng thành công việc giảng dạy bằng giáo án điện tử trong các trường học một cách hiệu quả. Thu hút từ 60 đến 65% số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào trung học phổ thông. Số còn lại sẽ vào học các trung tâm giáo dục thường xuyên, các trường trung cấp chuyên nghiệp hoặc trung cấp nghề. Nâng quy mô đào tạo trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp với nhiều hình thức đào tạo linh hoạt. Phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước. Phổ cập trung học cơ sở ở thành phố, vùng kinh tế trọng điểm và nơi có điều kiện.Tính chung cả nước có 60% trẻ em độ tuổi 11-15 học trung học cơ sở. 1.1.1.3. Đầu tư phát triển hệ thống đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn kĩ thuật cho nguồn nhân lực. Biểu đồ 3: Tổng số sinh viên đại học, cao đẳng trong nước. (Nguồn: Quy mô đào tạo đại học và sau đại học nước ta tăng rất nhanh. Nếu như năm 1991 cả nước chỉ có khoảng 120 nghìn sinh viên thì con số sinh viên năm 2003 đã lên tới trên 1 triệu 20 ngàn người. Tương ứng với số sinh viên là trên 32.200 giảng viên đại học, trong đó chỉ có 41,6% có trình độ thạc sỹ, 17,8% có học vị tiến sỹ, 5,1% có chức danh giáo sư, phó giáo sư. Trung bình, tỷ lệ sinh viên/giảng viên là 27, nhưng cá biệt có trường tỷ lệ này lên tới trên dưới 100. Năm 2006,cả nước có 78,4% sinh viên đại học và 21,6% sinh viên cao đẳng.Năm 2007,cả nước có148 cơ sở đào tạo sau đại học, trong đó có 78 trường đại học và 70 Viện nghiên cứu. Số cơ sở đào tạo Tiến sĩ là 122, trong đó 54 cơ sở là trường đại học và 68 cơ sở là Viện nghiên cứu.Nếu phấn đấu đạt chỉ tiêu số sinh viên đại học chiếm 200/10.000 dân, tăng quy mô đào tạo sau đại học lên 38.000 học viên cao học, 15.000 nghiên cứu sinh vào năm 2010 thì mâu thuẫn giữa quy mô và chất lượng đào tạo sẽ còn gay gắt hơn nhiều. Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tuyển chọn để gửi đào tạo 2.500 tiến sĩ giảng cho các trường đại học, cao đẳng, trong đó đào tạo ở nước ngoài 1.000 và trong nước là 1.500 người. Ngoài ra, khuyến khích các cơ sở GD ĐH thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học, tư vấn và chuyển giao công nghệ để tăng nguồn thu. Tuy nhiên, so với nhu cầu của ngành GD, hàng năm các cơ sở GD vẫn thiếu kinh phí để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, tính đến tháng 7/2007, cả nước có 325 Học viện, trường ĐH, trường CĐ, trong đó có 155 ĐH, Học viện, trường ĐH; 170 trường CĐ (gồm cả các trường thuộc khối an ninh quốc phòng). Có 54 trường ĐH, CĐ ngoài công lập.Tổng số sinh viên CĐ, ĐH năm 2006 – 2007 là 1.415.563 (tăng 10,21% so với năm 2005 – 2006). Tỉ lệ sinh viên/giảng viên bình quân trung của cả hệ thống giáo dục ĐH năm học 2006 – 2007 là 27,15 sinh viên/1 giảng viên. Khối các trường ngoài công lập, bình quân 31,1 sinh viên/giảng viên.   Chế độ, chính sách, lương và phụ cấp của giáo viên những năm vừa qua cũng đã có sự cải tiến, điều chỉnh lên mức cao nhất trong khu vực hành chính sự nghiệp, cải thiện đáng kể thu nhập, giúp họ phấn khởi, yên tâm phục vụ sự nghiệp giáo dục. Các chính sách khuyến khích đối với sinh viên giỏi, sinh viên nghèo vượt khó cũng đã được áp dụng như: chế độ học bổng cho các đối tượng thuộc chính sách xã hội, học bổng cho các sinh viên học giỏi, thực hiện tín dụng sinh viên, miễn học phí cho các sinh viên theo học tại các trường sư phạm. Bộ Tài chính đề xuất về giải pháp cân đối ngân sách nhà nước, nên nghiên cứu xây dựng cơ chế đấu thầu đặt hàng của Nhà nước đối với đào tạo ĐH, theo đó Nhà nước sẽ ban hành các tiêu chí, tiêu chuẩn và yêu cầu về giáo dục đại học để tất cả các cơ sở GDĐH đều được tham gia vào quy trình tuyển chọn, đấu thầu, qua đó lựa chọn được những cơ sở có phương án đào tạo tốt nhất, hiệu quả nhất để giao kinh phí NSNN cho đào tạo, không phân biệt trường công lập hay ngoài công lập. Huy động các nguồn lực từ xã hội, vay tín dụng nước ngoài để bổ sung nguồn vốn cho phát triển GDĐT, xây dựng cơ sở vật chất cho các trường ĐH, CĐ. Riêng chính sách về đất đai, Bộ TC đề nghị, các địa phương có nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế thì khi quy hoạch đất làm khu công nghiệp, khu kinh tế phải dành một phần diện tích đất cho việc xây dựng trường, cơ sở đào tạo, không thu tiền thuê đất. Dự án xây dựng Đại học Quốc gia Hà Nội ở Hoà Lạc trên diện tích 1.000 ha với tổng mức đầu tư khoảng 7.300 tỷ đồng; dự án xây dựng Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh ở Thủ Đức trên diện tích khoảng 600 ha với tổng mức đầu tư khoảng 6.800 tỷ đồng; các trường đại học trọng điểm và nhiều trường đại học công lập khác cũng được đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật. Dự án giáo dục đại học nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học công lập bằng nguồn vốn vay khoảng 100 triệu USD từ Ngân hàng Thế giới đã bước vào giai đoạn cuối; các thư viện, phòng thí nghiệm, xưởng sản xuất thử hiện đại được xây dựng ở một số trường. Ở Tây Nguyên, trong giai đoạn 2001 - 2005, ngân sách nhà nước đã đầu tư cho phát triển giáo dục - đào tạo vùng Tây Nguyên cao hơn khu vực đồng bằng tới 1,7 lần. Các địa phương trong vùng cũng ưu tiên chi ngân sách để phát triển giáo dục đạt gần 1.680 tỷ đồng vào năm 2005.Tuy nhiên, trên bình diện chung còn nhiều khó khăn trong phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Trong năm học 2007, toàn vùng còn thiếu khoảng 5.000 giáo viên so với định mức chung của cả nước. Mặt khác đội ngũ giáo viên là người dân tộc thiểu còn chưa được đào tạo đủ so với nhu cầu. Số giáo viên có thể dạy song ngữ, tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số còn ít. Đây là một rào cản lớn để có thể phát triển nhanh giáo dục - đào tạo ở Tây Nguyên. Năm 2007, ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển nhanh giáo dục - đào tạo ở Tây Nguyên đạt khoảng 3.200 tỷ đồng, tăng 700 tỷ so với năm 2006. Đến cuối năm 2006, cả nước ta có 311 trường cao đẳng và đại học với 1,4 triệu sinh viên, đạt 167 sinh viên/1 vạn dân. Trong khi năm 2005, Mỹ, Nhật đã có 500-600 sinh viên/1 vạn dân và Thái Lan đã có 350 sinh viên/1 vạn dân.Chúng ta đã có chính sách không thu học phí cấp tiểu học, đồng thời có chính sách trợ giúp đời sống, sản xuất cho hộ nghèo để đồng bào ta có điều kiện cho con em mình có điều kiện được đi học. Đối với học sinh cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông là con em gia đình nghèo cũng được miễn học phí. Đối với sinh viên đại học, cao đẳng, đã có chủ trương miễn học phí cho đối tượng nghèo, gia đình chính sách và có học bổng cho học sinh giỏi. Đồng thời, cũng có chính sách cho sinh viên học đại học, cao đẳng vay vốn để trang trải chi phí trong thời gian học tập. Chủ trương chính sách này đã được triển khai thực hiện và đạt kết quả nhất định. Chúng ta đang đối mặt với mâu thuẫn gay gắt giữa quy mô và chất lượng đào tạo, trong hoàn cảnh đầu tư của Nhà nước, xã hội cho giáo dục đại học và năng lực đội ngũ cán bộ giảng dạy, quản lý tuy từng bước được tăng cường nhưng còn rất chậm và thấp so với yêu cầu đảm bảo chất lượng đào tạo. Cơ sở vật chất của các trường đại học hiện còn yếu kém và lạc hậu. Mức đầu tư cho giáo dục mới đạt 6% GDP, trong khi ở Mỹ là 7,2% (số liệu năm 2006). Tổng chi cho giáo dục gần 4,8 tỉ USD vào năm 2006.Đầu tư cho giáo dục ở nước ta còn thấp. Có những nghiên cứu đã đưa ra con số chi phí trung bình cho 1 sinh viên trong 1 năm ở Việt Nam hiện nay ước tính ở mức trên dưới 400 USD trong khi ở các nước khoảng từ 2.000 đến 10.000 USD/năm. Trong vòng 6 năm (2001-2006), số trường dạy nghề tăng từ 156 trường lên 262 trường; số trung tâm dạy nghề tăng từ 150 trung tâm lên 599 trung tâm và đã phát triển được hơn 1000 cơ sở dạy nghề khác trên phạm vi toàn quốc. Số lượng cơ sở dạy nghề tư thục tăng nhanh, đã có một số cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với đó, quy mô đào tạo nghề tăng nhanh, giai đoạn 2001-2006 đã dạy nghề cho 6,6 triệu người (tăng bình quân hàng năm 6,5%), trong đó dạy nghề dài hạn đạt 1,14 triệu người (tăng bình quân 15%/năm; dạy nghề ngắn hạn đạt 5,46 triệu người (tăng bình quân gần 6%/năm). Quy mô dạy nghề trong những năm qua tăng nhanh đã nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 13,4% năm 2001 lên khoảng 20% năm 2006, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Cơ cấu ngành nghề trong đào tạo nghề từng bước được điều chỉnh theo cơ cấu ngành nghề trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Các cơ sở dạy nghề đã mở thêm nhiều nghề đào tạo mới mà thị trường lao động có nhu cầu. Bên cạnh việc đào tạo các nghề phục vụ cho các khu công nghiệp, khu chế xuất các cơ sở dạy nghề đã tổ chức đào tạo các nghề phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và giải quyết việc làm cho người lao động. Hiện có 75% số trường Đại học, Cao đẳng có khoa kinh tế hoặc khoa Quản trị kinh doanh thuộc các tỉnh phía Bắc có môn học thương mại điện tử(TMĐT). Thời lượng các môn học ở mức phổ biến là 45 tiết, riêng Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I có 90 tiết và Đại học Ngoại thương có 60 tiết. Nhưng cũng còn nhiều trường, nhiều khoa mới đang xây dựng chương trình TMĐT, trong đó có cả những trường thuộc ngành thương mại như Trường Cán bộ Thương mại Trung ương. Mặc dù tỉ lệ số trường có chương trình đào tạo TMĐT là khá cao ( 75% ở miền Bắc) nhưng nhìn chung, đội ngũ giảng viên cho chuyên ngành này chưa đáp ứng được nhu cầu. 1.2.Xét trên tầm vi mô (ở cấp độ các doanh nghiệp) Nguồn nhân lực là một trong những nội lực quan trọng nhất quyết định kết quả hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Đó chính là động lực để cho các doanh nghiệp lớn và nhỏ đã có những quyết định đầu tư vào việc nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ, nhân viên và công nhân trên từng lĩnh vực cụ thể. Thương mại điện tử là một công cụ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới. Do đó, đào tạo nguồn nhân lực có khả năng quản lý các giao dịch bằng thương mại điện tử là một nhu cầu cấp bách hiện nay. Tỷ lệ doanh nghiệp có Website 31,3%, nhưng tính năng TMĐT trong Website cò._.g lưu tâm đó là sự chênh lệch về chất lượng lao động giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng bằng và miền núi. Do đó phải chú trong đầu tư nằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn. Đầu tư xây dựng hệ thống trường học đến tận tuyến cơ sở. Ở mỗi xã có ít nhất một trường tiểu học, một trường trung học cơ sở, mỗi huyện, thị xã có từ hai trường trung học phổ thông trở lên. Xây dựng các điểm trường lẻ, lớp ghép, lớp cắm bản ở cấp tiểu học nhằm thu hút học sinh tới lớp. Hình thành bộ môn tiếng dân tộc tại các trường đại học vùng cao, tại khoa tiếng dân tộc trong các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh có đông đồng bào dân tộc.Mọi hoạt động đầu tư này phải gắn với thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo. Đối với đội ngũ sinh viên các trường sư phạm cần có những hoạt động đầu tư thích đáng do họ là thế hệ giáo viên giảng dạy tương lại góp phần quyết định chất lượng đào tạo. Đầu tư để nâng cao năng lực đào tạo của các trướng sư phạm hiện có. Nâng cấp các trường trung cấp sư phạm lên cao đẳng sư phạm, tiến tới đào tạo giáo viên mầm non và tiều học tứ trình độ cao đẳng trở lên Tăng cường đầu tư theo chiều sâu cho các trường cao đẳng sư phạm trực thuộc tỉnh, thành phố. Với tất cả các cấp học, sẽ đầu tư, cải tạo nâng cấp và xây mới các trường lớp học, đảm bảo đủ lớp học từnhà trẻ mẫu giáo đến các trường phổ thông trung học. Đồng thời đầu tư đổi mới nội dung chương trình giáo dục, chất lượng giáo dục, cung cấp đủ đồ dùng học tập và giảng dạy cho các trường tiểu học và trung học cơ sở. Đặc biệt đầu tư mạnh vào giáo dục cơ sở. Đồng hành với giáo dục các cấp học, Đào tạo nghề cũng cần được chú trọng đầu tư. Tăng cường nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho dạy nghề. Trong thời gian tới cần có sự đầu tư lớn trang thiết bị cho các cơ sở dạy nghề. Huy động mọi nguồn lực, bao gồm nguồn lực của Nhà nước, nguồn lực của các doanh nghiệp, nguồn lực của các tổ chức và các cá nhân trong nước và nước ngoài để đầu tư cho dạy nghề. Ngoài kinh phí từ dự án “nâng cao năng lưc đào tạo nghề” thuộc chương trinh mục tiêu quốc gia về giáo dục, nhà nước cần thu hút thêm nguồn lực từ nước ngoài thông qua các dự án hỗ trợ không hoàn lại của các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức NGO và tranh thủ nguồn tài chính vay với các ngân hàng quốc tế.Mặc dù được thực hiện trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế, song phải tiên hành đàu tư tập trung cho các trường, trung tâm trọng điểm kết hợp với việc dành một phần nguồn lực hợp lí cho các cơ sở dạy nghề còn lại Cũng trong đầu tư cho đào tạo nghề, tích cực huy đông nguồn lực từ hợp tác quốc tế để tăng cường trang thiết bị dạy nghề cho các trường và trung tâm dạy nghề. Tăng số dự án viện trợ vốn vay để nâng cao năng lực dạy nghề, trong đó tập trung đầu tư để một số trường đạt trình độ tương đương khu vực và thế giới. Khuyến khích các chủ đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm, tiềm lực, truyền thống và trình độ tiên tiến thành lập các trường dạy nghề 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với các đối tác Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt nam. Trong năm năm từ năm 2001 đến 2005 nhu cầu vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo lên đến 45 tỉ đồng, chiếm gần 5,3% vốn đầu tư phát triển. Việc xã hội hoá và huy động các nguồn vốn từ khu vực dân cư để phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo vừa là nhu càu thiết yếu vừa là trách nhiệm của cộng đồng đối với tương lai của thế hệ mai sau, của đất nước và dân tộc. Trong các mặt trí lực,thể lực,đạo đức văn hóa, giáo dục đào tạo góp phấn quyết định đến sự phát triển về mặt trí lực. Để con người phát triển toàn diện, phải kết hợp tăng cường đầu tư vào y tế, văn hóa, thông tin thể thao. 2. Đầu tư cho y tế. Trước hết phải nhìn nhận rằng thực tế đầu tư cho lĩnh vực y tế đạt được nhiều thành tựu. Do đó cần tiếp tục duy trì những hoạt động đàu tư trong quá khứ đã được trình bày cụ thể trong chương hai. Song có một điều rõ ràng là để phù hợp với tình hình hiện tại và yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai thì lĩnh vực y tế cần những giải pháp triệt để hơn. Đầu tiên phải nhấn mạng rằng cần tập trung cho đầu tư phát triển y tế dự phòng, giảm tỉ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi. Chúng ta cần ưu tiên phát triển mạng lưới y tế, bảo đảm tất cả các xã đều có trạm y tế, có đủ trang thiết bị và thuốc men thiết yếu, tăng cường cán bộ y tế cho miền núi,vùng sâu,vùng xa, vùng khó khăn;t ăng cường đầu tư cho y tế dự phòng, nâng cao sức khỏe nhân dân. Tiếp theo là phải tiếp tục đầu tư cải tạo nâng cấp hệ thống bệnh viện, phòng khám phù hợp với nhu cầu và khả năng kinh tế xã hội của từng vùng , gắn với quy hoạch mạng lưới và phân tuyến kĩ thuật, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế đặc biệt là tuyến cơ sở. Đầu tư xây dựng các cở y tế vùng thường bị thiên tai., bão lụt theo hướng kiên cố hóa, bảo đảm điều kiện chữa bệnh suốt bốn mùa; đồng thời giải quyết một bước tình trạng thiếu giường bệnh, bảo đảm sự bình đẳng trong thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của các tầng lớp dân cư cũng như giảm sức ép lên các bệnh viện tuyến trên. Tăng cường trang thiết bị hiện đại hóa một số bệnh viện đầu ngành,các trung tâm y tế chuyên sâu và một số bệnh viện khu vực. Đồng thời thực hiện chính sách đãi ngộ về tiền lương, ngày nghỉ cho cán bộ y bác sĩ, cán bộ y tế đặc biệt các bệnh viện tuyến dưới và vùng sâu vùng xa để tránh hiện tượng đổ máu chất xám và chênh lệch trình độ giữa các tuyến. Chính phủ cũng cần đưa ra những chính sách khuyến khích như cho phép các tổ chức có đủ điều kiện mở bệnh viện hoặc phòng khám chữa bệnh tư nhân với thủ tục đơn giản và hợp lí. Đổi mới cơ chế bảo hiểm y tế theo hướng đa dạng hóa các dịch vụ bảo hiểm. Triển khai thực hiện bệnh viện bán công, khoa bán công. Nghiên cứu xây dựng “quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo và các dối tượng chính sách” tại từng địa phương để thực hiện chủ trương miễn phí y tế cho người nghèo. Từ năm 2001 đến 2005, để đáp ứng mục tiêu phát triển sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân và các hoạt động trong lĩnh vực xã hội,nhu cầu vốn đầu tư vào khoảng 19,3 nghìn tỉ đồng, chiếm 2,2% vốn toàn xã hội; trong đó chương trình đầu tue công cộng vào khoảng 16,4 nghìn tỉ đồng, bằng khoảng 85% so với tổng vốn ngành kinh tế. Nhu cầu đầu tư phát triển trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khoewr cộng đồng, các lĩnh vực xã hội là rất lớn; nguồn vốn trong chương trình đầu tue công cộng chỉ mới đáp ứng được hơn 80% tổng vốn đầu tư. Do vậy việc xã hội hóa và huy động các nguồn vốn từ khu vực dân cư để phát triển sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân là hết sức cần thiết. 3. Đầu tư phát triển văn hóa, thông tin, thể thao. Nằm trong mục tiêu phát triển toàn diện cho nguồn nhân lực, văn hóa thông tin thể thao cũng cần được quan tâm đầu tư đúng mức. Cũng giống như lĩnh vực giáo dục đào tạo và y tế, nhu cầu về vốn đầu tư cho phát triển trong lĩnh vực văn hóa thông tin thể dục thể thao là rất lớn, huy động cả từ nguồn nhân sách nhà nước và từ các khu vực dân cư. Chính phủ nên đưa ra các cơ chế chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển các bộ môn văn hóa, vưn nghệ, các cơ sở biểu diễn, luyện tập, các điểm vui chơi văn hóa, giải trí. Khuyến khích các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội đống góp vào phong trào thể dục thể thao… Mở rộng xã hội hóa công tác văn hóa, thông tin, thể dục thể thao để tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho ngành. Bắng số vốn huy động được, tập trung vốn đầu tư cho các dự án quan trọng thuộc chương trình văn hóa, dự án Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt nam, khu di tích Trung ương cục miền Nam ở Tây Ninh, khu di tích chiến khu Việt Bắc… đầu tư có trọng điểm thông qua chương trình mục tiêu vưn hóa để giải quyết các vấn đề mang tính cấp bách, xây dựng một số công trình văn hóa tieu biểu chuẩn bị cho 1000 năm Thăng Long. Phục hồi, tôn tạo các di tích lịch sử, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, đầu tư chiều sâu các bảo tàng, hệ thống thư viện, tăng cường năng lực phát thanh truyền hình ngay từ cấp cơ sở và lên dần cấp Trung ương. Cùng với đầu tư cho phát triển văn hóa dân tộc để bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc và làm đẹp tâm hồn cho nguồn nhân lực hiện tại cũng như bảo tồn các giá trị văn hóa cho thế hệ tương lại, cần tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, các điểm vui chơi, các làng bản văn hóa đặc biệt ở vùng sâu vùng xa để hiện đại hóa các loại hình hoạt động của bà con dân tộc thiểu số, được giải trí sau những thời gian lao động cực nhọc. Đồng thời đầu tư nâng cấp hệ thống phát thanh truyền hình theo hường hiện đại, chất lượng cao; phủ sóng phát thanh truyền hình để cho mọi người dân đều được tiếp cận những tin tức cập nhật và các thông tin kho học trung thực góp phần nâng cao nhận thức và dân trí. Tiếp tục tiến hành đầu tư cho xây dựng các công trình thể thao lớn hiện đại đủ sức phục vụ cho các hoạt động thi đấu mang tầm cỡ khu vực và quốc tế, tăng sức cạnh tranh cho việc đăng cai các giải đấu uy tín, tạo điều kiện cho việc quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam trong tiến trình hội nhập, để người lao động Viêt Nam có cơ hội hội nhập thực sự ngày càng nâng cao chất lượng học tập và làm việc trong một môi trường có tính cạnh tranh cao. II.GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ NGUỒN NHÂN LỰC DƯỚI GIÁC ĐỘ VI MÔ Nguồn nhân lực là nhân tố chủ yếu đóng góp cho sự hình thành, ổn định và phát triển của các doanh nghiệp. Vì vậy quan tâm đến vấn đề nguồn nhân lực là vấn đề không thể thiếu nếu doanh nghiệp muốn tồn tại lâu dài. Ở đây,quan tâm đến nguồn nhân lực không chỉ là quan tâm về mặt số lượng mà còn về mặt chất lượng. Thực tế cho thấy chi phí cho nhân lực luôn chiếm tỉ lệ lớn trong chi phí trung của các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp sử dụng lao động phổ thông thì chi phí này lên đến 40-50% chi phí chung của doanh nghiệp, còn các doanh nghiệp khác cũng chiếm tới gần 40%. ĐIều này cho thấy cả lao động phổ thông và lao động trí óc đều cần được bồi dưỡng nâng cao tay nghề hơn nữa. Vậy biện pháp nào để làm được điều này? Dưới đây là một số biện pháp trong từng lĩnh vực cụ thể: 1. Đầu tư phát triển đào tạo nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. Đào tạo cho người lao động là công việc mang ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệpbởi người lao động có thể chia làm hai bộ phận: người chưa có kinh nghiệm và người đã qua kinh nghiệm. Đối với người chưa qua kinh nghiệm phải hướng dẫn họ khi bắt đầu tiếp xúc với công việc.Còn đối với người đã qua kinh nghiệm thì phải bổ túc tay nghề cho họ, nâng cao khả năng sáng kiến trong công việc.Việc đào tạo người lao động có thể tiến hành như sau: Thứ nhất, bảo lãnh cho một số công nhân viên đi du học nâng cao trình độ, kiến thức nghề nghiệp.Việc làm này có hai lợi ích:vừa nâng cao trình độ hiểu biết nhận thức và áp dụng khoa học công nghệ của những nước phát triển vào trong sản xuất, kinh doanh, vừa đỡ tốn chi phí trong viếc đào tạo nhiều lần, nhiều người vì chỉ cần một số người đi du học về có thể truyền đạt loại kiến thức của mình cho các đồng nghiệp để cùng nhau nâng cao năng suất lao động .Tuy nhiên như phần thực trạng đã nêu ra việc các doanh nghiệp không dám đầu tư vì sợ người lao động sau khi đi du học không quay trở lại làm việc. Để giải quyết được điều này cần đưa ra một quy định, quy chế ràng buộc người lao động với doanh nghiệp, đặc biệt là chế độ tiền lương. Về mặt này chúng ta có thể đơn cử một doanh nghiệp đã rất thành công trong việc áp dụng biện pháp này. Đó là công ty Toyota tại VIệt Nam. Công ty này đã sẵn sàng cho người lao động mới vào làm đi du học một năm tại Nhật Bản và một số nước phát triển. Sau đó các lao động này sẽ về nước và kí hợp đồng lâu dài với công ty với mức lương khá hấp dẫn. Bằng biện pháp này công ty đã thu hút được rất nhiều lao động giỏi vào làm, quy mô công ty ngày càng rộng với nhiều chi nhánh trải dài khắp cả nước Thứ hai, các doanh nghiệp có thể bắt tay với các trường đại học trong việc đào tạo nguồn nhân lực với cam kết nhà trường sẽ đào tạo một số lượng học viên đáp ứng tốt yêu cầu của doanh nghiệp đổi lại doanh nghiệp phải đầu tư cho trường trang thiết bị cơ sở vật chất hay tạo điều kiện cho các học viên được thực tập tại các doanh nghiệp đó. Đây có thể nói là hướng đi đúng đắn và hiệu quả lâu dài nhất. Công ty Intel Product đã tiến hành khảo sát và thực hiện kế hoạch bắt tay với các trường đại học và hiệu quả đêm lại cho thấy khá cao Thứ ba, thành lập các quỹ khen thưởng, quỹ hỗ trợ phát triển nhằm nâng cao tính sáng tạo của người lao động. Thực tế cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều có quỹ khen thưỡng nhưng việc sử dụng chúng vãn chưa đem lại hiệu quả tốt. Nguyên nhân chính cho thực trạng này là các doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc khen cho những người. Ở đây, ngoài nhiệm vụ trên các quỹ khen thưởng còn phải hỗ trợ cho các dự án kinh doanh sản xuất từ bước bắt đầu triển khai nghiên cứu đến bước lắp đặt vào sản xuất. Ngoài ra các quỹ này còn có thể dùng cho các hoạt động: học bổng cho sinh viên các trường có nhu cầu tuyển dụng, hỗ trợ nghiên cứu khoa học, tài trợ học bổng các hoạt động phong trào học thuật cho sinh viên trong các trường đại học, hỗ trợ ý tưởng kinh doanh… quỹ này có thể chiếm từ 5-10% doanh thu doanh nghiệp. Đây chính là biện pháp mà hiện nay một số doanh nghiệp lớn áp dụng như:doanh nghiệp cà phê Trung Nguyên, ngân hàng Vietcombank, tập đoàn GAMI, công ty chứng khoán Hà Nội, Ngân hàng An Bình, Ngân hàng Đại Dương… Thứ tư,thực hiện dạy nghề, tái đào tạo cho công nhân mới vào làm. Việc đào tạo này có thể liên kết voái một số trường dạy nghề nếu doanh nghiệp không đủ điều kiện về vốn và đội ngũ giảng dạy.tuy nhiên cách làm này cũng không đêm lại hiệu quả cho lám vì nó chỉ đáp ứng được nhu cầu trước mắt mà thôi. 2. Đầu tư vào chăm sóc sức khoẻ cho công nhân viên Như chúng ta đã biết, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bao gồm cả nâng cao trí lực và thể lực. Vấn đề chăm sóc sức khoẻ cho người lao động là một nhiệm vụ quan trọng đối với các doanh nghiệp để có được một đội ngũ công nhân viên lâu dài. Ở đây chúng ta đề cập một số biện pháp tiêu biểu sau: - Tiến hành nộp bảo hiểm y tế(BHYT), bảo hiểm xã hội(BHXH) cho công nhân viên. Đây là một trong những trách nhiệm mà doanh nghiệp bắt buộc phải làm cho người lao động theo quy định của nhà nước. Khoản chi phí này là khá lớn trong ngân sách của các doanh nghiệp. Chúng chiếm tới 23%tổng số tiền lương,trong đó riêng BHXH chiếm tới 20% con BHYT chiếm 3% Thực tế cho thấy rất nhiều các doanh nghiệp đã không tuân thủ quy định này do nó tốn một khoản chi phí quá lớn. Hơn nữa lợi ích mà nó đêm lại không thể hiện ngay trước mắt nên các doanh nghiệp không coi trọng công tác này lắm. Nhưng chính việc nộp BHYT, BHXH giúp người lao động yên tâm làm việc,có khả năng khám chưa bệnh thường xuyên, khắc phục được tình trạng bệnh nghề nghiệp hay các vấn đề liên quan đến sức khoẻ. Doanh nghiệp thực hiện tốt công tác này vừa mang ý nghĩa nhân đạo mà về lâu dài giáup công ty đỡ tốn kém khoản tuyển nhân viên, sức khoẻ tốt giúp cônng nhân nâng cao năng suất lao động. - Thành lập các trạm y tế của doanh nghiệp Tuỳ từng doanh nghiệp có quy mô khác nhau mà các trạm y tế có yêu cầu khác nhau. Các trạm y tế này có nhiệm vụ cấp cứu tạm thời các tai nạn trong khi làm việc. Khám chữa bệnh trong trường hợp bệnh sơ cấp. Hiện nay thường các doanh nghiệp lớn mới có đủ điều kiện tài chính để thành lập các trạm y tế do chi phí khá tốn kém. Để khắc phục tình trạng này các doanh nghiệp nhỏ có thể liên kết với một số các doanh nghiệp phụ cận hoặc các trạm y tế xã, phường, các cơ sở y tế nhỏ gần đó để cùng nhau đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất phục vụ cho việc khám chữa bệnh cho công nhân viên - Có chế độ nghỉ dưỡng hợp lí cho người lao động. Thường các doanh nghiệp chỉ cho công nhân viên nghĩ vào các dịp lễ tết,thời gian nghỉ rất ít nên tạo cảm giác căng thẳng mệt mỏi,tâm lí không thiết tha làm viêc của người lao động.Đây cũng là một nguyên nhân nhỏ tác động đến năng suất của doanh nghiệp.Muốn cho người lao động gắnn bó lâu dài với doanh nghiệp thì phải sắp xếp cho họ chế độ tiền lương cùng chế độ nghỉ hợp lí.Cho nghỉ phép hay cho công nhân viên đi thăm quan,du lich cũng là một ý tưỡng mà có rất nhiều doanh nghiệp áp dụng . - Thực hiện khám sức khoẻ định kì, đặc biệt với những ngành độc hại như hoá chất, khai thác mỏ… nhằm phát hiện kịp thời các bệnh liên quan đến nghề nghiệp, đồng thời đánh giá được tình trạng sức khỏe của công nhân viên trong công ty. Từ đó mà có những sắp xếp hợp lí. - Tiến hành tập huấn vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo hộ lao động cho công nhân viên. Việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về ATVSLD-PCCN cần được quán triệt ở tất cả các doanh nghiệp. Trước hết các doanh nghiệp cần đầu tư các thiết bị phòng chống cháy nổ như bình cứu hoả, hệ thống bể nước, ống đãn nước, hệ thống điện, kho tàng bến bãi… Đồng thời tiến hành tập huấn cho người lao động hiểu biết rõ các quy trình bảo hộ lao động, tập huấn phòng chống cháy nổ, đặc biệt là những lao động làm trong hầm mỏ. “Theo số liệu báo cáo chưa đầy đủ, năm 2007, cả nước đã xảy ra 5.951 vụ tai nạn lao động, trong đó có 505 vụ tai nạn lao động chết người. Tổng số người bị nạn là 6.337 người, trong đó có 621 người chết, 2.553 người bị thương nặng. Các địa phương xảy ra nhiều tai nạn lao động chết người năm 2007 là các tỉnh, thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Quảng Ninh. Các lĩnh vực sản xuất xảy ra nhiều tai nạn lao động chết người là xây lắp các công trình dân dụng, công nghiệp và công trình giao thông; xây dựng; khai thác than, khoáng sản; sản xuất vật liệu xây dựng; cơ khí chế tạo. Vấn đề môi trường lao động là yếu tố quan trọng liên quan trực tiếp đến tình hình sức khoẻ và bệnh nghề nghiệp đối với người lao động”. (Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện ATVSLD-PCCN-Nguyễn Thị Kim Ngân) 3.Đầu tư cho điều kiện làm việc. Đối với các doanh nghiệp việc mua sắm các trang thiết bị, tạo điều kiện cho người lao động làm việc là một khoản chi phí lớn nhưng xét về lâu dài thì đó là cách đầu tư thông minh nhất vì nó tạo điều kiện cho người lao động làm việc lâu dài và nâng cao hiệu quả năng suất lao động. Đã nhiều năm nay người ta hay nhắc đến việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao hay “chảy máu chất xám”. Nhiều cuộc hội thảo đã diễn ra đề đề ra những biện pháp cụ thể thu hút các nhân tài ở nước ngoài về nước phục vụ cho quê hương. Tạo điều kiện làm việc tốt là biện pháp có thể nói là khả thi nhất . Nhưng vấn đề là tạo điều kiện như thế nào và ai có trách nhiệm đưa ra những diều kiện đó? nhà nước hay doanh nghiệp? Đứng trên góc độ đầu tư của các doanh nghiệp chúng ta có một số biện pháp sau: - Mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho công việc như: máy điều hoà, hệ thống máy tính, cung cấp các tài liệu cần thiết phục vụ cho công tác nghiên cứu, hệ thống hút bụi trong các phân xưởng, hay ngay cả việc cung cấp các thiết bị văn phòng cần thiết khác như bàn lam việc, phòng làm việc, cách thức tổ chức… Điều kiện làm việc là vấn đề mà người lao động luôn quan tâm đến hàng đầu khi chấp nhận làm việc cho doanh nghiệp. Nhiều khảo sát cho thấy điều kiện làm việc đối với các công nhân trực tiếp sản xuất chưa đáp ứng nhu cầu. - Thực hiện các chính sách nhằm ổn định chỗ ở, cuộc sống cho đội ngũ các nhà khoa học như: chính sách cấp nhà đất, hỗ trợ tài chính cho họ ổn định cuộc sống, mua sắm các trang thiết bị nhà cửa. Ở đây hỗ trợ không có nghĩa là cung cấp tiền cho họ mà có thể là ưu tiên họ trong việc cấp các thủ tục vay vốn, vay tín dụng…Việc xây dựng, hoàn thiện chính sách nhà ở và chính sách khuyến khích đẩy mạnh đầu tư phát triển nhà ở cho công nhân, lao động được thực hiện theo hướng: Nhà nước miễn giảm thuế đất cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân, cho phép các doanh nghiệp đầu tư xây nhà ở cho công nhân được tính vào giá trị đầu tư... Nhà nước và doanh nghiệp cùng góp vốn, huy động thêm vốn của công nhân để xây dựng nhà bán trả góp cho công nhân hoặc cho công nhân thuê. Đồng thời, nghiên cứu chính sách hỗ trợ về nhà ở cho những gia đình công nhân nghèo, chính sách xây dựng khu gia đình tập thể công nhân, nhằm bảo đảm cho công nhân có nơi ở ổn định, an toàn, góp phần tái tạo sức lao động, xây dựng môi trường sống lành mạnh và đời sống văn hóa trong công nhân. Hỗ trợ tài chính cho họ ổn định cuộc sống, mua sắm các trang thiết bị nhà cửa, đặc biệt là những người có trình độ chuyên môn cao, những Việt kiều giỏi muốn về nước làm việc. Ở đây hỗ trợ không có nghĩa là cung cấp tiền cho họ mà có thể ưu tiên họ trong việc cấp các thủ tục vay vốn, tín dụng. - Khuyến khích lao động có tay nghề cao, chuyên môn giỏi bằng các chính sách như:cấp nhà đất, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công tác nghiên cứu. 4. Đầu tư cho tiền lương người lao động. Các chính sách trên vẫn chưa thực sự thiết thực đối với bản thân người lao động lẫn các doanh nghiệp bởi bản thân các doanh nghiệp không thể đáp ứng từng nhu cầu cụ thể của từng đối tượng lao động.vì thế có thể nói chính sách tiền lương vẫn là công cụ giải quyết các vấn đề một cách cụ thể và thiết thực nhất. Chính sách tiền lương ở đây bao gồm việc trả lương, thời gian làm việc, điều kiện làm việc…. Trả lương có trả luơng theo tháng, theo tuần, theo hình thức khoán, theo sản phẩm… Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn sẵn sàng trả cho người lao động với mức lương cao lên tới hàng nghìn đô với điều kiện họ phải đáp ứng được đòi hỏi của doanh nghiêp. Việc trả lương cao đã thu hút được rất nhiều các nhân tài bởi vì nó thiết thực được với bản thân họ nhất. Theo đề án mà bộ khoa học đưa ra từ 2006-2010 thì mức lương cho các nhà khoa học là từ 1000-2000 đô. Đó là chưa kể các doanh nghiệp lớn có thể đưa ra các mức lương cao hơn nhiều, thời gian làm việc thì thoải mái, môi trường làm việc công bằng. Đó cũng là những gì mà người lao động mong muốn để có thểđóng góp sức mình cho doanh nghiệp. Vấn đề tiền lương có ảnh hưởng đến tất cả mọi phương diện trong nội dung quản lý nguồn nhân lực của một doanh nghiệp và là mối quan tâm hàng đầu của người lao động. Người lao động mong sự công bằng trong tiền lương không những vì thu nhập mà còn vì lòng tự trọng. Họ cảm thấy bị xúc phạm khi kết quả làm việc của họ hơn một số người nào đó (có thể là trong hoặc ngoài doanh nghiệp) mà vẫn phải chịu một mức lương thấp hơn. Doanh nghiệp muốn tạo động lực làm việc tốt cho nhân viên thì phải chứng minh được rằng chỉ có kết quả làm việc tốt mới cạnh tranh được mức lương. Một hệ thống tiền lương tiền công tôt sẽ duy trì đội ngũ hiện tại và đảm bảo đối xử công bằng với mọi người có tác dụng nâng cao năng suất lao động và chất lượng lao động giúp doanh nghiệp thu hút và duy trì những lao động giỏi. Vấn đề tiền lương luôn là vấn đề mà cả doanh nghiệp và người lao động quan tâm, bởi nó ảnh hưởng quyết định đến việc đi hay ở của người lao động. Trên thực tế đã có nhiều cuộc điều chỉnh tiền lương trong các doanh nghiệp nhưng vẫn còn rất chậm so với nền kinh tế nhiều biến động.Theo bà Nguyễn Thị Minh Tâm giám đốc truyền thông và thương hiệu Navigó Group kết quả khảo sát nhânh từ trang web tuyển dụng vietnamworks.com trongg tháng 8 năm 2008 tiến hành trên 1176 người cho thấy 74% người lao động cho rằng từ nay đến cuối năm mứcc lưong trên thị trường sẽ tăng 23% khẳng định không tăng và 3% khẳng định lương sẽ giảm. Theo đó, nhiều người cho rằng mức lương hấp dẫn là yêú tố quan trọng đối với họ khi quyết định chọn công việc mới bên cạnh môi trường và cơ hội thăng tiến. Trước đó, vào tháng 6, một cuộc khảo sát nhanh về lý do nghỉ việc được tiến hành trên 5.435 người cho thấy 46% ứng viên nghỉ việc vì không hài lòng với mức lương, 30% nghỉ việc vì không có cơ hội thăng tiến và 24% nghỉ việc vì không hài lòng về người quản lý. Vậy vấn đề ở đây là xác định tiền lương như thế nào cho công bằng và cạnh tranh lành mạnh. Trên thực tế đã có rất nhiều doanh nghiệp đưa ra mức lương đáng mơ ước cho nhiều người nhưng vẫn không thể tìm được người phù hợp. Nhiều công ty sẵn sàng bỏ ra 4000$ để trả cho một người quản lý giỏi, thâm niên cao trong khi đó các nhân viên trong công ty chỉ hưởng mức lương có 1,5-4 triệu đồng, hay những doanh nghiệp có số vốn còn hạn chế thì làm sao có thể trả được mức lương cao như thế để thu hút người tài. Đó là một câu hỏi rất khó cho những người quản lý doanh nghiệp. Để giải quyết một phần khó khăn này xin đưa ra cách xác định tiền lương trong các doanh nghiệp. Hệ thống tiền lương được xây dựng dụa trên 3 nguyên tắc:quy định của pháp luật,thị trường bên ngoài và yếu ố bên trong doanh nghiệp. - Quy định của pháp luật: tìm hiểu và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về các vấn đề lao động trước khi xây dựng cơ chế trả lương là việc làm bắt buộc. Doanh nghiệp cần lưu ý đến các vấn đề như mức lương tối thiểu Nhà nước quy định hợp đồng và lương thử việc, lương thời vụ, lương trong kỳ thai sản, ốm đau, nghỉ việc... - Thị trường bên ngoài: khảo sát mức lương trên thị trường lao động, liên tục rà soát lại các mức lương trong doanh nghiệp của bạn dựa trên các mức lương của đối thủ cạnh tranh và dựa trên mức lương chuẩn trên thị trường. Điều này sẽ làm cho nhân viên hết boan khoăn xem mức lượng hiện tại của họ có cạnh tranh không? Tính đến yếu tố biến động của giá cả sinh hoạt: khi xác định mức lương cần xem xét đến yếu tố biến động của giá cả sinh hoạt. Khi nền kinh tế quốc dân vẫn còn trong giai đoạn chuyển đổi và mức lương chung còn thấp, việc xem xét các nhu cầu cơ bản của con người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. - Các yếu tố bên trong doanh nghiệp Xác đinh đơn giá và quỹ tiền lương của doanh nghiệp: Xác định doanh nghiệp cần phải chi bao nhiêu cho tiền lương và tỷ lệ trên doanh thu là bao nhiêu và đó chính là đơn giá tiền lương trong năm. Đơn giá này sẽ là cơ sở để xác định lương cơ bản cho các nhóm chức danh, căn cứ để tính lương khoán trên doanh thu hay đơn vị sản phẩm. Phản ánh giá trị công việc: Khi xác định mức lương cho một người, phải xem xét giá trị công việc người đó mang lại cho doanh nghiệp. Thâm niên công tác: Mặc dù giá trị công việc là yêu tố chính trong quy trình xác định mức lương song vẫn phải xem xét các yếu tố như thâm niên công tác ( số năm phục vụ, kinh nghiệm...) theo các giá trị xã hội phổ biến. Căn cứ vào kết quả làm việc: Việc tăng lương và chia tiền thưởng phải dựa trên kết quả làm việc. Cần phải có một hệ thống đánh giá kết quả làm việc hoàn chỉnh để tạo động lực cho những nhân viên có kết quả làm việc cao. Trên đây là những giải pháp nhằm đầu tư nguồn nhân lực có hiệu quả nhất cho doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. KẾT LUẬN Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng đầu tư phát triển con người. Tại đại hội thứ III Đảng Cộng sản Việt Nam( 1960), Đảng ta khẳng định: “ Con người là vốn quý nhất”. Đại hội Đảng IX nhấn mạnh: “ Nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển kinh tế xã hội. Con người và nguồn nhân lực là nhân tó quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước. Lấy phát triển nguồn lực giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là một trong 3 khâu đột phá đưa đất nước vào thời kỳ CNH- HĐH, thức hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.” Hiện nay, nhân tố con người được Đảng ta đặc biệt chú trọng. Nguồn lực con người đã thực sự trở thành mục tiêu của sự phát triển đất nước. Phát triển con người tương xứng với yêu cầu đẩy mạnh Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước đã trở thành vấn đề trung tâm. Là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ đầu năm 2007, Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu. Điều đó mở ra nhiều thời cơ, song cũng tạo ra những thách thức lớn đối với sự phát triển của nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội của đất nước. Trước những đòi hỏi và yêu cầu mới phát triển đất nước, với vai trò là một trong những nhân tố quyết định nhất và là chủ thể thực hiện các sứ mạng lịch sử của đất nước, một câu hỏi lớn là làm thế nào để nguồn nhân lực Việt Nam có đủ trình độ, năng lực và sức mạnh để đẩy nhanh công cuộc đổi mới nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế có hiệu quả trong điều kiện khoa học-công nghệ tiến nhanh, hình thành nền kinh tế tri thức và cạnh tranh khu vực và toàn cầu ngày càng gay gắt. Một bài toán khó đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo các doanh nghiệp là đầu tư như thê nào và bao nhiêu là phù hợp, mang lại hiệu quả cao nhất với điều kiện nguồn nhân lực, vật lực, trí lực hiện có? Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Từ Quang Phương đã giúp chúng em hoàn thành bài viết này. Bài viết của chúng em còn nhiều thiếu xót, mong thầy giáo sửa chữa để chúng em làm bài tốt hơn vào những lần sau. Tài liệu tham khảo 1. Kỷ yếu hội thảo văn hoá, con người và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI (Hội đồng lý luận TW và Viện KHXH Việt Nam, Hà Nội 2004) 2. Kỷ yếu Đại hội lần thứ nhất Hội Khoa học và phát triển nguồn nhân lực và nhân tài Việt Nam, Hà Nội 2005 3. Đề tài khoa học cấp Bộ: Thị trường sức lao động chất lượng cao- những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. TS. Nguyễn Minh Quang - Học viện CT-HCQG-HCM 4. Đánh giá tác động của thị trường lao động tới phát triển KT-XH giai đoạn 2000-2005 và dự báo xu hướng tác động giai đoạn 2006-2010. 5. Kỷ yếu hội thảo văn hoá, con người và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI (Hội đồng lý luận TW và Viện KHXH Việt Nam, Hà Nội 2004) 6. Số16 (136) năm2007 Báo Tạp chí cộng sản điện tử 7. Tạp chí Nghiên cứu con người, các số năm 2006,2007 8. Thống kê y tế năm 2001,2003 9. Bộ lao động thương binh xã hội tháng 10-2008 10. Tổng điều tra dân số toàn diện và nhà ở 1983, 1989, 1999, 2005 11. Đánh giá tiềm năng khoa học công nghệ, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005 12. Tạp chí kinh tế và dự báo 18/4/2008 13. Thời báo tài chính ngày 20/8/2004 14. ngày 14/8/2008 15. 16. 17. 18. 19. Bài: “Top 200 doanh nghiệp tái mặt vì đào tạo lại nhân lực” (vietnamnet.vn ngày 22/10/2007) 20. Bài: “Đẩy mạnh huy động vốn đầu tư cho phát triển giáo dục đào tạo” ngày 20/02/2008 (trang web Bộ giáo dục đào tạo) 21.Bài: “Chỉ số phát triển con người: Việt Nam đang tăng hạng” ngày 28/11/2007(vietnamnet.vn) 22. Bài :“Đầu tư cho y tế quá ít.Người bệnh và bệnh viện đều khổ” ngày 26/9/2007(vietnamnet.vn) MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31787.doc
Tài liệu liên quan