MỤC LỤC
Chương I :Những vấn đề chung về đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn NSNN
1. Những vấn đề lí luận về đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ.
1.1.1.Khái niệm.
Đầu tư phát triển giao thông đường bộ(GTĐB) là 1 phần của đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT) vì vậy trước khi tìm hiểu hiểu về khái niệm của GTVT ĐB chúng ta sẽ tìm hiểu khái niệm
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng đầu tư phát triển giao thông đường bộ Việt Nam bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về CSHT.
CSHT là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cầu kinh tế của một xã hội, là tổ hợp các công trình vật chất kĩ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp dịch vụ sản xuất, đời sống của dân cư được bố trí trên một phạm vi lãnh thổ nhất định.
Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển thì quá trình sản xuất chỉ là sự kết hợp giản đơn giữa 3 yếu tố là lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nào đó thì cần phải có sự tham gia của CSHT thì mới tạo ra được sự phát triển tối ưu nhất bởi lẽ CSHT có vai trò quyết định đến kiến trúc thượng tầng hay tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế. CSHT chỉ thực sự phát triển sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào thế kỉ thứ 19.
CSHT được chia làm 3 nhóm chính: CSHT kỹ thuật, CSHT xã hội, CSHT môi trường :
+CSHT kỹ thuật bao gồm các công trình và phương tiện vật chất phục vụ cho sản suất và đời sống sinh hoạt của xã hội như các con đường, hệ thống điện, bưu chính viễn thông,…
+CSHT xã hội là các công trình và phương tiện để duy trì và phát triển các nguồn lực như các cơ sở giáo dục đào tạo, các cơ sở khám chữa bệnh, và các cơ sở đảm bảo đời sống và nâng cao tinh thần của nhân dân như hệ thống công viên, các công trình đảm bảo an ninh xã hội.
+CSHT môi trường bao gồm các công trình phục vụ cho bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước cũng như môi trường sống của con người như các công trình xử lý nước thải, rác thải…
*Khái niệm GTĐB: GTĐB là một bộ phận của CSHT kỹ thuật bao gồm toàn bộ hệ thống cầu đường phục vụ cho nhu cầu đi lại của người dân cũng như nhu cầu giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội giữa những người dân trong cùng một vùng hay giữa vùng này với vùng khác hoặc giữa nước này với nước khác.
1.1.2. Đặc điểm đầu tư hạ tầng phát triển giao thông đường bộ.
GTĐB là các kết quả của các dự án đầu tư phát triển nên nó mang đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển là :
-GTĐB là các công trình xây dựng nên nó có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài và thường thông qua các hoạt động kinh tế khác để có thể thu hồi vốn.Do đó vốn đầu tư chủ yếu để phát triển GTĐB ở Việt Nam là từ nguồn vốn NSNN.
-Thời kì đầu tư kéo dài: thời kì đầu tư được tính từ khi khởi công thực hiện dự án cho đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động, nhiều công trình có thời gian kéo dài hàng chục năm.
- Thời gian vận hành kết quả đầu tư kéo dài: thời gian này được tính từ khi công trình đi vào hoạt động cho đến khi hết hạn sử dụng và đào thải công trình.
-Các thành quả của hoạt động đầu tư thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được xây dựng .
- Vì đầu tư phát triển GTĐB đòi hỏi cần có vốn đầu tư lớn cùng với thời kì đầu tư kéo dài nên nó thường có độ rủi ro cao trong đó có nguyên nhân chủ quan là do công tác quy hoạch ở nước ta còn nhiều hạn chế nên nhiều công trình xây dựng không phát huy được hiệu quả cần thiết.
Bên cạnh những đặc điểm chung của hoạt động đầu tư phát triển thì đầu tư phát triển GTĐB cũng có những đặc điểm riêng của nó:
*Đầu tư phát triển GTĐB mang tính hệ thống và đồng bộ:
Tính hệ thống và đồng bộ là một đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư phát triển GTĐB.Tính hệ thống và đồng bộ được thế hiện ở chỗ mọi khâu trong quá trình đầu tư phát triển GTĐB đều liên quan mật thiết với nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hoạt động đầu tư: bất kì sai lầm nào từ khâu kế hoạch hoá hệ thống GTĐB đến khâu lập dự án hay thẩm định các dự án đường bộ…cũng sẽ ảnh hưởng đến quá trình vận hành của toàn bộ hệ thống đường bộ và gây ra những thiệt hại lớn không chỉ về mặt kinh tế mà còn về mặt xã hội.Tính hệ thống và đồng bộ không những chi phối đến các thiết kế,quy hoạch mà còn được thế hiện ở cả cách thức tổ chức quản lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ.Chính đặc điểm này đã đòi hỏi khi lập kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển GTĐB không được xem xét tới lợi ích riêng lẻ của từng dự án mà phải xét trong mối quan hệ tổng thể của toàn bộ hệ thống để đảm bảo được tính đồng bộ và hệ thống của toàn bộ mạng lước GTĐB tránh tình trạng có một vài dự án ảnh hưởng đến chất lượng của toàn bộ hệ thống.
*Đầu tư phát triển GTĐB mang tính định hướng:
Đây là đặc điểm xuất phát từ chức năng và vai trò của hệ thống GTĐB.Chức năng chủ yếu của GTĐB là thoả mãn nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá của người dân cũng như của các doanh nghiệp, GTVT đường bộ được coi là huyết mạch của nền kinh tế đảm bảo giao thương giữa các vùng miền và mở đường cho các hoạt động kinh doanh phát triển hơn nữa hoạt động đầu tư phát triển GTĐB cũng cần phải có một lượng vốn lớn cũng như cần thực hiện trong khoảng thời gian dài do đó để đảm bảo đầu tư được hiệu quả và loại trừ được các rủi ro thì cần phải có những định hướng lâu dài.GTĐB cần mang tính định hướng vì nó là ngành đi tiên phong thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.
*Đầu tư phát triển GTĐB mang tính chất vùng và địa phương:
Việc xây dựng và phát triển GTĐB phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như đặc điểm địa hình, phong tục tập quán của từng vùng từng địa phương, trình độ phát triển kinh tế của mỗi nơi và quan trọng nhất là chính sách phát triển của nhà nước…Do đó đầu tư phát triển GTĐB mang tính vùng và địa phương nhằm đảm bảo cho mỗi vũng và địa phương phát huy được thế mạnh của mình và đóng góp lớn vào sự phát triển chung của cả nước.Vì vậy trong kế hoạch đầu tư phát triển GTĐB không chỉ chủ yếu đến mục tiêu phát triển chung của cả nước mà phải chú ý cả đến điều kiện, đặc điểm tự nhiên cũng như kinh tế xã hội của mỗi vùng lãnh thổ. *Đầu tư phát triển GTĐB mang tính xã hội hoá cao và có nhiều đặc điểm giống với hàng hoá công cộng:
Các công trình GTĐB là những hàng hoá công cộng vì mục đích sử dụng của nó là để phục vụ cả chức năng sản xuất và đời sống; là tổng hoà mục đích của nhiều ngành, nhiều người, nhiều địa phương và của toàn xã hội. Điều này cho thấy đầu tư phát triển GTĐB cần phải giải quyết cả mục tiêu phát triển kinh tế và cả mục tiêu cộng đồng mang tính chất phúc lợi xã hội. Điều này là rất quan trọng đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam trong điều kiện NSNN của hạn hẹn cùng với đó là thu nhập của người dân vẫn còn thấp nên không thế đáp ứng hết nhu cầu đầu tư phát triển GTĐB.
1.2.Vai trò của đầu tư phát triền giao thông đường bộ.
Việt Nam là quốc gia nằm ở cực đông nam của bán đảo Đông Dương có diện tích khoảng 330.991 km2 nằm trải dài từ bắc tới nam với chiều dài khoảng 1650 km do đó hệ thống đường bộ có một vị trí rất quan trọng.Giao thông vận tải bằng đường bộ là loại hình vận tải có chi phí thấp, thuận lợi đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu lưu thông hàng hoá và đi lại của con người là rất lớn.Xây dựng hạ tầng GTĐB tạo tiền đề cho nền kinh tế phát triển, giao lưu văn hoá, hội nhập quốc tế và bảo vệ an ninh quốc gia.
1.2.1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế.
Những đóng góp tích cực của hệ thống giao thông đường bộ vào sự phát triển kinh tế là rất rõ ràng và được thế hiện ở các vai trò sau:
-GTĐB góp phần thu hút đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, rút ngắn được khoảng cách địa lý giữa các tỉnh thành trong cả nước do đó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, rút ngắn trình độ phát triển kinh tế giữa các địa phương, tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương và thúc đẩy các địa phương phát triển kinh tế.Hệ thống GTĐB phát triển sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các vùng và địa phương với nhau, giữa quốc gia này với quốc gia khác từ đó sẽ tìm ra được những cơ hội đầu tư tốt và tiến hành đầu tư, các hoạt động xúc tiến thương mại phát triển cùng với đó là thu hút các nguồn vốn trong nước và ngoài nước cho mục tiêu phát triển kinh tế.
-GTĐB góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua kích thích tạo việc làm và tăng năng suất lao động.Sự phát triển của hạ tầng giao thông đường bộ đã góp phần đáng kể vào tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong thời gian qua.Các công trình GTĐB sẽ thu hút một lượng lớn lao động do đó góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp cho quốc gia, mặt khác khi vốn đầu tư cho hệ thống GTĐB lớn sẽ kích thích thu hút vốn đầu tư cho các ngành trực tiếp sản xuất sản phẩm phục vụ cho sự phát triển của các công trình giao thông như sắt, thép, xi măng, gạch …
-Hạ tầng GTĐB phát triển sẽ đóng góp tích cực vào việc tiết kiệm chi phí và thời gian vận chuyển, từ đó tạo điều kiện giảm giá thành sản phẩm, kích thích tiêu dùng và phát triển của các ngành khác.Trong các loại hình vận tải ở Việt Nam thì vận tải bằng đường bộ chiếm tỷ trọng lớn nhất do đó nếu hạ tầng GTĐB tốt sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, và có thể lấy số chi phí tiết kiệm được để thực hiện phát triển các ngành khác.
1.2.2.Phát triển văn hoá-xã hội.
Phát triển văn hoá xã hội là phát triển đời sống tinh thần của người dân, điều nay góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của quốc gia.Dân số Việt Nam tính đến năm 2008 là khoảng hơn 100 triệu người đến từ các dân tộc khác nhau và sống trong các vùng không đồng đều về lịch sự, địa lý… do đó đời sống tinh thần cũng khác nhau đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn và các vùng xa xôi hẻo lánh.Nhờ có hạ tầng GTĐB phát triển mà khoảng cách đó ngày càng được xoá bỏ, sự giao lưu văn hoá giữa các vùng ngày càng đuợc tăng cường và làm phong phú thêm đời sống của người dân Việt từ đó kích thích người dân hăng say lao động đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Hệ thống đường bộ phát triển sẽ nảy sinh các ngành nghề mới, các cơ sở sản xuất mới phát triển từ đó tạo cơ hội việc làm và sự phát triển không đồng đều giữa các vùng cũng được giảm, hạn chế sự di cư bất hợp pháp từ nông thôn ra thành thị, hạn chế được sự phân hoá giàu nghèo và từ đó giảm được các tệ nạn xã hội góp phần tích cực vào bảo vệ môi trường sinh thái.
1.2.3. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Mục tiêu quan trọng của bất kì một doanh nghiệp nào khi hoạt động cũng đều là lợi nhuận.Có nhiều cách để doanh nghiệp áp dụng để có được lợi nhuận tối đa và một trong những cách đó là giảm chi phí một cách tối thiểu.Hạ tầng GTĐB sẽ đóng góp đáng kể vào việc giảm chi phí của doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp có chi phí vận tải chiếm một tỷ trọng lớn.Khi hạ tầng GTĐB phát triển thì các doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí nhiên liệu, chi phí vận chuyển hàng hoá tới nơi tiêu thụ, chi phí nhập nguyên liệu; ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể tiết kiệm được một số chi phí khác như chi phí quản lý và bảo quản hàng hoá, chi phí lưu trữ hàng tồn kho…Nhờ đó mà doanh nghiệp có thể hạ giá thành sản phẩm và nâng cao cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.Hệ thống GTĐB phát triển cũng sẽ giúp các doanh nghiệp giao hàng đúng nơi và đúng thời gian từ đó tạo được uy tín cho doanh nghiệp, trong kinh doanh thì điều này là rất quan trọng.Mặt khác khi giao thông đường bộ phát triển thì sản phẩm dễ dãng đến tay người tiêu dùng do đó hàng hóa sẽ được tiêu thụ nhanh hơn, điều này sẽ rút ngắn thời gian quay vòng vốn và làm tăng hiệu quả sử dụng vốn cũng như tăng hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp.
1.2.4.Bảo đảm an ninh quốc phòng.
Hệ thống GTĐB đóng góp tích cực vào việc giữ gìn trật tự an ninh xã hội, và bảo vệ quốc phòng.Với hạ tầng GTĐB hiện đại sẽ giảm thiểu đuợc tình trạng ùn tắc đường đang xảy ra trong thời gian qua đặc biệt là ở các thành phố lớn, giảm tai nạn giao thông, giữ gìn trật tự xã hội. Đây là một trong những vấn đề mà đảng và chính phủ đang rất quan tâm.
Hơn nữa, hệ thống GTĐB phát triển sẽ góp phần bảo vệ biên giới của đất nước.GTĐB phát triển góp phần nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức của người dân đặc biệt là các dân tộc ở vùng xâu vùng xa từ đó đảm bảo sự ổn định về chính trị quốc gia.
1.2.5. Đẩy mạnh hội nhập và giao lưu quốc tế.
Hội nhập và giao lưu kinh tế về mọi mặt đang là xu hướng diễn ra mạnh mẽ giữa các nước trong khu vực và trên toàn thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó.Hiện nay thì hạ tầng GTĐB của nước ta còn ở mức yếu so với các nước trong khu vực nên ảnh hưởng lớn khả năng hội nhập và giao lưu với các nước.Chính vì vậy mà Việt Nam đang xúc tiến để xây dựng các hệ thống đuờng xuyên quốc gia góp phần mở rộng giao lưu kinh tế và văn hóa giữa các nước.
1.3. Nguồn vốn NSNN đầu tư phát triển giao thông đường bộ.
1.3.1.Khái niệm về vốn ngân sách nhà nước.
*Khái niệm về vốn:
Vốn là một nhân tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất xã hội, là toàn bộ tài sản mà nền kinh tế có được trong quá trình xây dựng và phát triển.Nó đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển của mọi hình thái kinh tế-xã hội.Về bản chất vốn đầu tư là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội và vốn đầu tư được thể hiện dưới hai hình thái là hiện vật và giá trị.Vốn hiện vật không chỉ tồn tại dưới dạng các tài sản hữu hình như các loại máy móc, nhà xưởng, thiết bị… mà nó còn tồn tại dưới dạng các tài sản vô hình như bằng phát minh sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, lợi thế thương mại hay thương hiêụ, trình độ của nguồn nhân lực.Trong giai đoạn phát triển hiện nay, vốn nhân lực đóng một vai trò quyết định có thể thay thế một phần các loại vốn khác.
Ở mỗi quốc gia, nguồn vốn đầu tư trước hết và chủ yếu là từ tích luỹ của nền kinh tế, là phần tiết kiệm sau khi tiêu dùng của cá nhân và của chính phủ và đây được coi là nguồn vốn quan trọng nhất cho sự phát triển của một quốc gia, là nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng và sự phát triển bền vững của đất nước trong lĩnh vực kinh tế cũng như trong các lĩnh vực khác.Ngoài nguồn vốn tích luỹ từ trong nước,các quốc gia còn có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
-Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn bốn từ NSNN,nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, và nguồn vốn của dân cư và tư nhân…
-Nguồn vốn từ nước ngoài bao gồm các nguồn vốn như vốn đầu tư trực tiếp(FDI), vốn đầu tư gián tiếp(ODA)…
Trong các nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài thì nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò là cú hích cho sự phát triển của một quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
*Khái niệm vốn NSNN:
NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Theo điều 7 của luật ngân sách nhà nước: Quỹ ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản tiền của nhà nước, kể cả tiền vay có trên tài khoản của ngân sách nhà nước các cấp.Do khả năng huy động vốn ngân sách có hạn, trong khi nhu cầu vốn đầu tư hàng năm lại rất lớn nên vốn đầu tư NSNN ở nước ta trong những năm qua được cân đối từ nguồn tích luỹ của ngân sách và các khoản vay trong nước và nước ngoài.
Vốn NSNN bao gồm vốn trong nước( vốn tích luỹ của NSNN, nguồn vốn tín dụng của nhà nước) và vốn nước ngoài(vay nợ, viện trợ).Số tiền này sẽ được thanh toán trực tiếp cho việc thực hiện các dự án, các chương trình mục tiêu quốc gia theo kế hoạch chi đầu tư phát triển được duyệt hàng năm.
-Vốn trong nước bao gồm:
+Vốn tích luỹ của NSNN: đây là phần chênh lệch giữa các khoản thu( không kể vay nợ) với chi tiêu dùng thường xuyên của NSNN. Đối với vốn tích luỹ NSNN cần áp dụng các chính sách huy động và tiết kiệm triệt để và có hiệu quả như vừa tăng thu NSNN, vừa tiết kiệm các khoản chi tiêu dùng của NSNN.
+Nguồn vốn tín dụng của nhà nước: được huy động thông qua phát hành trái phiếu chính phủ và các hình thức vay nợ qua kho bạc nhà nước.
-Vốn nước ngoài là các nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài, thông qua vay nợ và viện trợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Đây là nguồn vốn quan trọng để bù đắp thiếu hụt ngân sách và được ưu tiên để phát triển kinh tế xã hội.Hiện nay việc đưa ODA vào ngân sách để quản lý đạt 15% đến 20%.
1.3.2. Đặc điểm vốn ngân sách trong phát triển giao thông đường bộ.
Hạ tầng GTĐB là một bộ phận quan trọng của kết cấu hạ tầng giao thông vận tải nói riêng và của kết cấu cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội nói chung và sự phát triển của hạ tầng GTĐB góp phần nâng cao năng lực của nền kinh tế, là tiền đề thúc đẩy các ngành khác phát triển do đó vốn đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB cũng có những đặc điểm riêng so với vốn đầu tư phát triển các ngành khác:
-Vốn đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB phải đảm bảo về mặt vật chất sao cho tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành kinh tế khác đặc biệt là các ngành kinh tế mũi nhọn, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, tiết kiệm chi phí cho xã hội và tài nguyên của đất nước.
-Vốn đầu tư để thực hiện phát triển GTĐB được cân đối trong phạm vi ngân sách do đó cần phải chú ý đến đặc điểm nào nhằm tăng cường hạ tầng GTĐB đạt hiệu quả tối đa mà không ảnh hưởng đến nguồn vốn từ NSNN để phát triển các ngành khác.
-Hạ tầng giao thông đường bộ có vị trí cố định, phân bổ khắp các vùng miền của đất nước và có giá trị rất lớn.Vì vậy vốn đầu tư phát triển GTĐB từ NSNN không chỉ chú trọng tới nhu cầu đi lại hiện tại mà còn phục vụ nhu cầu đi lại và lưu thông hàng hoá ngày càng tăng trong tương lai cho nên cần phải có kế hoạch sử dụng vốn một cách hiệu quả:cần xem xét các ngành mũi nhọn, tính toán lựa chọn các tuyến đường…
-Vốn đầu tư cho xây dựng các công trình hạ tầng GTĐB thường phát sinh trong thời gian dài,nhiều công trình phải đầu tư trong 10 năm mới có thể đi vào sử dung, sử dụng nhiều loại công việc có tính chất, đặc điểm khác nhau.Chính vì vậy cần phải có các biện pháp quản lý và sử dụng vốn thích hợp để tránh thất thoát lãng phí nguồn vốn NSNN.
-Hiệu quả sử dụng vốn NSNN để đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB gồm cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong đó hiệu quả xã hội còn được đánh giá cao hơn ở nhiều công trình như các công trình xây dựng giao thông nông thôn… Hiệu quả sử dụng vốn là rất khó đo lường trực tiếp và thường được đo lường thông qua hiệu quả của các ngành kinh tế khác.
1.3.3.Vai trò của vốn ngân sách trong phát triển giao thông đường bộ
Trong bất cứ một ngành nghề hay một lĩnh vực nào thì vốn NSNN cũng đều đóng một vai trò rất quan trọng đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB là lĩnh vực đòi hỏi một lượng vốn rất lớn do đó đây là lĩnh vực mà tư nhân rất hạn chế tham gia đầu tư.Vì vậy nguồn vốn nhà nước càng có một vi trí đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB:
Trước hết, vốn NSNN đóng vai trò nền tảng, quyết định đến sự hình thành hệ thống hạ tầng GTĐB. Đây là nhiệm vụ nền tảng của bất cứ quốc gia nào xuất phát từ nhiệm vụ và vai trò của nhà nước trong việc cung cấp hàng hoá công cộng.
4.Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư phát triền giao thông đường bộ từ NSNN.Hơn nước chỉ có nhà nước mới có đầy đủ về mặt pháp lý và vốn để có thể đảm đương vai trò chính trong lĩnh vực này.
Thứ hai, vốn đầu tư từ NSNN đóng vai trò chủ đạo để thu hút các nguồn vốn khác thực hiện đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB bao gồm cả vốn đầu tư trong nước và ngoài nước.Chỉ khi có nguồn vốn nhà nước tham gia vào trong các dự án mới tạo được niềm tin tối đa cho các nhà đầu tư để từ đó họ bỏ vốn ra để đầu tư đặc biệt với nguồn vốn nước ngoài,có thể rõ vai trò quan trọng của vốn NSNN trong việc thu hút vốn ODA khi mà vốn NSNN là một nguồn vốn đối ứng quan trọng trong công tác chuẩn bị đầu tư, đền bù giải phóng mặt bằng…
Thứ ba, NSNN đóng vai trò điều phối trong việc hình thành hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ một cách hợp lý và đạt hiệu quả cao nhất.NSNN sẽ tập trung đầu tư vào các dự án trọng điểm tạo điều kiện giao lưu giữa các vùng và thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển.
Thứ tư, vốn NSNN khi đầu tư vào phát triển hạ tầng GTĐB sẽ là công cụ kích cầu rất hiệu quả,bằng chứng là các công trình GTĐB ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành sản xuất khác như sắt, thép…từ đó tăng đóng góp vào GDP và tạo thêm việc làm cho xã hội, nâng cao thu nhập cho một bộ phận người lao động.
Như vậy, vốn đầu tư từ NSNN vào phát triển hạ tầng giao thông đường bộ đóng vai trò cực kì quan trọng trong sự phát triển của bất cứ quốc gia nào.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới sử dụng hiệu quả vốn NSNN trong phát triển hạ tầng GTĐB.
1.4.1.Các nhân tố về kinh tế.
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến vốn NSNN được sử dụng cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB, nó ảnh hưởng cả đến công tác huy động và sử dụng vốn:
-Nền kinh tế phát triển mạnh sẽ làm cho GDP ngày càng lớn,các doanh nghiệp làm ăn ngày càng đạt lợi nhuận cao ảnh hưởng trực tiếp đến mức tích luỹ của NSNN cho đầu tư.Nếu như nền kinh tế càng lớn mạnh thì các khoản thu cho NSNN ngày càng lớn và đây là điều kiện để nhà nước có thể đem đi đầu tư lại vào phát triển GTĐB để nâng cao sự phát triển của nền kinh tế.
-Kinh tế càng phát triển cao thì càng có nhiều thành phần kinh tế có thể tham gia vào đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB.
-Nền kinh tế phát triển sẽ kéo theo thị trường vốn cũng phát triển, tạo điều kiện để lưu chuyển vốn nhanh. Đây là cơ sở để huy động các nguồn vốn cho đầu tư GTĐB nói riêng và cho tất cả các ngành kinh tế nói chung.
-Nền kinh tế phát triển càng cao thì yêu cầu về hiệu quả kinh tế càng cao do đó sẽ thúc đẩy quá trình sử dụng vốn NSNN một cách tiết kiệm, và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN.
1.4.2. Đặc điểm tự nhiên của cả nước và từng vùng.
Hạ tầng giao thông đường bộ được bố trí xây dựng và phát triển rộng khắp ở tất cả các vùng và địa phương trong cả nước do đó hệ thống hạ tầng GTĐB chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các điều kiện địa lý, khí hậu, thời tiết, địa hình… của mỗi vùng và địa phương khác nhau.Vì vậy mỗi công trình hạ tầng GTĐB tại mỗi địa phương lại có các đặc điểm khác nhau sao cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mỗi nơi.
1. 4.3.Các nhân tố về chính trị,pháp luật.
Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển hạ tầng GTĐB.
-Sự ổn định về chính trị và pháp luật sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển để từ đó làm tăng thu NSNN, đây được coi là nguồn thu quan trọng để nhà nước có thể yên tâm bỏ vốn đầu tư vào hệ thống hạ tầng GTĐB. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì yếu tố này lại càng quan trọng, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chỉ bỏ vốn ra hỗ trợ nếu như họ cảm thấy họ có thể thu lại được hiệu quả từ các nguồn vốn đó.
-Một cơ chế huy động và sử dụng vốn ngân sách hoàn chỉnh cũng như hoàn thiện cơ chế đầu thầu, quản lý hiệu quả sử dụng vốn cũng sẽ tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của hạ tầng GTĐB.Hơn nữa việc quản lý tốt sẽ tạo tiền đề cho nhà nước đầu tư vào các dự án trọng điểm thích hợp với mỗi thời kì phát triển của đất nước cũng như các địa phương cũng có thể tự chủ khai thác nguồn vốn NSNN cho sự phát triển hạ tầng GTĐB của địa phương mình.
1.4.4.Các chính sách của nhà nước và trình độ quản lý.
Các chính sách quản lý được thể hiện ở cả ở tầm vĩ mô và vi mô đều có ảnh hưởng đến công tác huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB:
-Ở tầm vĩ mô thì đó là sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các cơ quan trung ương từ khâu thu NSNN, kế hoạch phân bổ vốn đến khâu quản lý và sử dụng vốn nhằm giảm thiểu được tình trạng thất thoát lãng phí.
-Ở tầm vi mô thì đó là trình độ quản lý của các ban quản lý của mỗi dự án nhằm đạt được hiệu quả sử dụng vốn cao nhất.
Nội dung của quy chế, quy trình quản lý đầu tư gồm có:
-Những chỉ tiêu kinh tế-kĩ thuật của dự án đầu tư sao cho hạ thấp được chi phí đầu tư nhưng không ảnh hưởng đến chất lượng của dự án đâu tư.
-Thực hiện thẩm định dự án đầu tư, và lựa chọn các phương án khả thi để phê duyệt.
-Xây dựng cơ chế đấu thầu, chọn thầu…nhằm tránh thất thoát nguồn vốn.
-Quản lý các nguồn vốn đầu tư,xây dựng quy trình và quản lý cấp phát, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư.
-Quy định về các thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư như giấy cấp đất, hợp đồng xây dựng…
-Quản lýquá trình đầu tư xây dựng cơ bản dự án đảm bảo chất lượng công trình.
-Thẩm định quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành, xác định giá trị tài sản hình thành qua đầu tư.
1.4.5.Thực trạng xuống cấp của giao thông vận tải đường bộ.
Đây là nhân tố ảnh hưởng cơ bản nhất yêu cầu đòi hỏi phải đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB.Hệ thống hạ tầng GTĐB của nước ta đã được hình thành và trải qua một thời gian dài cùng với đó là khoảng thời gian hứng chịu hậu quả của các cuộc chiến tranh làm cho hệ thống hạ tầng GTĐB của nước ta bị ảnh hưởng nghiêm trọng: nhiều tuyến đường đã bị hư hỏng nặng, nhiều tuyến đường xảy ra hiện tượng sụt lở và xảy ra hiện tượng ngập úng, đường có quá nhiều ổ gà ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng của các con đường cũng như gây ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng của người đi đường.Một thực trạng nữa là hiện tượng tắc đường ở nước ta trong thời gian qua đang xảy ra rất nghiêm trọng đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh…gây ra sự thất thoát lãng phí rất lớn các nguồn lực.Một vấn để nữa là nền kinh tế của Việt Nam đang ngày càng phát triển, đời sống người dân ngày càng được nâng cao nên những phương tiện vận tải cao cấp như ô tô xuất hiện ngày càng nhiều vì vậy hệ thống hạ tầng GTĐB cũ không thể đáp ứng được nhu cầu của người dân đòi hỏi nhà nước cần có các biện pháp đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB để đáp ứng được nhu cầu đó.
1.4.6.Các nhân tố khác.
Đây là các nhân tố gián tiếp ảnh hưởng đến đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB bằng nguồn vốn NSNN:
Trình độ phát triển của khoa học công nghệ của đất nước:trình độ khoa học công nghệ càng phát triển thì quá trình xây dựng hạ tầng GTĐB càng tiết kiệm về mặt thời gian và chi phí, đây là một nguồn vốn tiết kiệm quan trọng để đầu tư phát triển các ngành khác phát triển.
Nhân tố con người cũng là một nhân tố không thể bỏ qua:nhân tố này góp phần quan trọng vào hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển.Chính vì vậy cần phải đào tạo đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp, có chất lượng tri thức, có khả năng ứng dụng các công nghệ mới và có đạo đức nghề nghiệp…
2.Nội dung đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn NSNN.
2.1.Nội dung.
2.1.1. Đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo chu kì của dự án.
Chu kì của một dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án được hoàn thành chấm dứt hoạt động.
Chu kì dự án dự án đầu tư có thể được minh họa bằng sơ đồ:
Ý đồ về dự án đầu tư
Chuẩn bị đầu tư
Thực hiện đầu tư
Vận hành các kết quả đầu tư
Ý đồ về dự án đầu tư
Hình 1: Sơ đồ chu kì dự án đầu tư.
Cũng như các dự án đầu tư phát triển thông thường thì chu kì của dự án đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB cũng trải qua các giai đoạn như trong sơ đồ chu kì dự án:
-Ý đồ về dự án đầu tư: Đây là bước rất quan trọng vì là sự khởi đầu cho bất cứ một dự án đầu tư nào đặc biệt là đối với các dự án có mục tiêu xã hội cao như các dự án hạ tầng GTĐB,xác định ý đồ cho dự án phải được dựa trên các cơ chế chính sách phát triển hệ thống hạ tầng giao thông vận tải của cả nước nói chung và của hệ thống hạ tầng GTĐB nói riêng cũng như nhu cầu cấp thiết của dự án.
-Chuẩn bị đầu tư:
+Soạn thảo dự án: trên cơ sở có ý đồ đầu tư thì nhà đầu tư sẽ tiến hành lập dự án cũng như tiến hành nghiên cứu khả thi và nghiên cứu tiền khả thi.Sau giai đoạn này sẽ có một dự án hoàn chỉnh để trình lên cơ quan có thẩm quyền xin cấp vốn NSNN.
+Thẩm định dự án: Sau khi dự án đã được lập hoàn chỉnh, để dự án có thể được cấp vốn đầu tư thì cần phải tiến hành thẩm định tính khả thi của dự án vì NSNN là có hạn không thể đầu tư dàn trải được.Mục tiêu quan trọng nhất của giai đoạn này là phải tiến hành thẩm định khía cạnh tài chính kết hợp với thẩm định khía cạnh xã hội của dự án, không thể xem nhẹ khía cạnh xã hội như đối với các dự án tư nhân.
-Thực hiện đầu tư: Các dự án sau khi được tiến hành thẩm định nếu có tính khả thi sẽ được cấp vốn đầu tư và tiến hành thực hiện đầu tư.Trong quá trình thi công công trình cần phải thường xuyên giám sát, kiểm tra quá trình thực hiện xây dựng công trình và phải bảo cáo tiến độ thường xuyên cho các cơ quan quản lý có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho công trình hoàn thành đúng theo kế hoạch phát triển chung của cả nước cũng như đảm bảo cho công trình được hoàn thành với chất lượng tốt nhất có thể nhưng với chi phí thấp nhất.Kết thúc giai đoạn này thì công trình đã được hoàn thành và có thể bắt đầu được đưa vào sử dụng.Sản phẩm ở đây là các con đường mới, cây cầu mới…
-Vận hành kết quả đầu tư: Đây là giai đoạn cuối cùng của bất kì dự án đầu tư nào,sau khi công trình đã được hoàn thành sẽ được bàn giao cho các cơ quan có trách nhiệm khai thác công trình.Trong giai đoạn này ở một số công trình có thể tiến hành thu phí sử dụng công trình đối với các phương tiện sử dụng nhằm bù đắp một phần chi phí cho nhà nước.
-Ý đồ về dự án mới:Nền kinh tế phát triển không ngừng và hạ tầng GTĐB cũng phải phát triển cùng với nền kinh tế để có thể hỗ trợ tối đa cho nhau trong mục tiêu phát triển chung của quốc gia do đó sau mỗi một công trình hoàn thành thì lại xuất hiện các kế hoạch chiến lược phát triển nhằm hỗ trợ tốt nhất cho sự phát triển chung.
2.1.2. Đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo lĩnh vực đầu tư.
*Đầu tư và xây dựng mới đường bộ:
Đây là nội dung chủ yếu của đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB và nó chiếm một tỷ trọng vốn lớn trong tổng số vốn nhà nước đầu tư cho phát triển hạ tầng GTĐB,thông thường nó chiếm trên 80% tổng số vốn hàng năm. Đầu tư mới và xây dựng mới nhằm nâng cao tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân cũng như nhằm nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và nhu cầu đi lại của người dân. Đầu tư xây dựng mới hạ tầng GTĐB là chiến lược phát triển trong nhiều năm để có thể là tiền đề và động lực cho việc phát triển các ngành khác, phát triển mỗi vùng và địa phương, nâng cao đời sống của các địa phương.
*Đầu tư nâng cấp và duy tu bảo dưỡng đường bộ:
Đây là công việc xuất phát từ thực trạng GTĐB của nước ta.Sau nhiêu năm sử dụng, các công trình GTĐB đã bị hư hỏng nhiều nhưng vẫn còn có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu trước mặt cùng với đó là do dự thiếu vốn đầu tư của nhà nước nên không thể xây dựng mới trong một thời gian ngắn do đó hàng năm nhà nước cần phải chi một lượng vốn nhất định để có thể duy trì hoạt động của hệ thống hạ tầng GTĐB.Đây là một giải pháp tốt đối với một nước đang phát triển như Việt Nam để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống GTĐ._.B nhưng vẫn tiết kiệm được các nguồn lực, điều này là rất quan trọng trong tình trạng thiếu vốn nhưng vẫn còn có quá nhiều mục tiều đầu tư cấp bách khác.
2.1.3. Đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo khu vực đầu tư.
*Đầu tư vào giao thông nông thôn:
Đây là chủ trương đúng đắn của đảng và nhà nước ta nhằm xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.Giao thông đi lại chủ yếu của nông thôn là giao thông đường bộ bao gồm các con đường bên trong các xã nối liền với các đường quốc lộ; các con đường liên huyện,liên xã, liên thôn. Đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB nông thôn nhằm xây dựng một hệ thống hạ tầng đường bộ liên hoàn nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá và nâng cao dân trí của khu vực nông thôn.Trên cơ sở nhà nước cùng nhân dân cùng làm thì đây là chủ trương thích hợp của đảng trong điều kiện nước ta vẫn là một nước nông nghiệp và chủ yếu người dân sống bằng nghề nông.
*Đầu tư vào giao thông đường bộ đô thị:
Song song với đầu tư vào phát triển vào khu vực nông thôn nhằm mục đích xã hội là chủ yếu thì đầu tư vào hệ thống hạ tầng giao thông đô thị lại nhằm phát triển kinh tế văn hoá ở khu vực đô thị đặc biệt là ở các thành phố lớn vì đây là những đầu tàu trong nền kinh tế, hàng năm ở các khu vực đô thị đóng góp vào GDP của cả nước cao hơn nhiều so với khu vực nông thôn.Hơn nữa khu vực đô thị cũng là bộ mặt của đất nước nhằm thu hút các nguồn vốn cả trong nước lẫn ngoài nước.Thực trạng hạ tầng giao thông đô thị của nước ta trong thời gian chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển là do một số nguyên nhân như tỉ lệ đất để xây dựng hạ tầng giao thông đô thị là thấp, dân cư ở các đô thị tăng quá nhanh do sự di dân từ các vùng khác, sự phát triển quá nhanh của các phương tiện giao thông do đời sông của ngừơi dân ngày càng cao…Do vậy đầu tư vào hạ tầng giao thông đô thị cần phải được nhà nước đầu tư hơn nữa.
2.1.4. Đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo vùng lãnh thổ.
Địa lý nước ta trải dài từ bắc tới nam, mỗi một vùng lãnh thổ lại có những điều kiện về địa hình, tự nhiên, khí hậu….khác nhau do đó mục tiêu phát triển cũng là khác nhau.Do đó hàng năm nhà nước cũng sẽ có sự ưu tiên khác nhau với mỗi vùng lãnh thổ nhưng vẫn đảm bảo sự công bằng xã hội và đảm bảo mục tiêu phát triển chung của xã hội.Ví dụ như các vùng gần biên giới hay gần biển sẽ được ưu tiên đầu tư trước để có thể tận dụng tối đa lợi thế về mặt địa lý trong phát triển kinh tế.Nước ta được chia thành các vùng sau:
-Vùng trung du và miền núi phía bắc
-Vùng đồng bằng sông Hồng
-Vùng bắc Trung Bộ
-Vùng Duyên hải miền Trung
-Vùng Tây Nguyên
-Vùng Đông Nam Bộ
-Vùng đồng bằng sông Cửu Long
2.2. Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả đầu tư phát triển.
Xuất phát từ đặc điểm của đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB là mang tính chất công cộng và xã hội hoá cao nên việc xác định hiệu quả của hoạt động đầu tư từ nguồn vốn NSNN trong lĩnh vực GTĐB cũng khác so với các lĩnh vực khác.Hiệu quả của hoạt động đầu tư không mang tính rõ ràng và được dựa trên cơ sở hiệu quả của các ngành và các lĩnh vực khác.
Trước hết đây là công trình từ nguồn vốn NSNN và mang tính phúc lợi cao nên không thể tính theo chỉ tiêu là đóng góp cho NSNN là bao nhiêu hay thời gian thu hồi vốn nhưng không phải như thế là không có hiệu quả mà hiệu quả của nó được xác định dựa trên sự phát triển của nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng GDP, mức độ cải thiện thu nhập của dân cư, phúc lợi xã hội…vì nhờ có các công trình hạ tầng GTĐB mà các ngành kinh tế khác phát triển nhanh, thu hút được nhiều nguồn vốn từ nước ngoài, đời sống về tinh thần của người dân được nâng cao.
Ngoài ra cũng có thể tính được dựa trên một số chỉ tiêu hiệu quả của ngành như số km đường/người, tỉ lệ đường quốc lộ và tỉnh lộ đạt các tiêu chuẩn quốc tế, năng lực vận tải của ngành giao thông đường bộ, khối lượng hành khách vận chuyển bằng đường bộ, khối lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường bộ…
Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển giao thông đường bộ Việt Nam bằng nguồn vốn NSNN.
1.Sự cần thiết phải tăng cường đầu tư phát triển giao thông đường bộ..
1.1.Vị trí của ngành giao thông đường bộ.
Đường lối phát triển của Việt Nam trong thời gian tới là đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực đồng thời nội lực, đồng thời tranh thủ các nguồn lực tù bên ngoài và chủ động hội nhập quốc tế để có thể phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi cùng với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân, thực hiện tiến bộ công bằng xã hôi, bảo vệ cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế xã hội với quốc phòng an ninh.
Để có thể hoàn thành được định hướng trên có thể nhận thấy vị trí của hệ thống hạ tầng GTĐB là rất quan trọng, cần phải có một hệ thống GTĐB đồng bộ và đạt tiêu chuẩn để có thể đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá bằng việc tăng cường đầu tư các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ.Xây dựng một hệ thống hạ tầng GTĐB tiêu chuẩn là rất cần thiết nhằm đảm bảo các khu công nghiệp có thể nối liền nhau và nối liền với các khu thương mại từ đó sản phẩm hàng hoá sẽ nhanh chóng đến tay người tiêu dùng,làm tăng tốc độ phát triển công nghiệp và các ngành khác.
Việt Nam cũng đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, đây cũng vừa là cơ hội nhưng cũng vừa là thách thức đối với nước ta. Để có thể thu hút tối đa các nguồn vốn FDI phục vụ cho sự phát triển thì hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ đóng vai trò quyết định, nhiều nhà đầu tư nước ngoài cho rằng hạ tầng giao thông của nước ta là một điểm bất lợi so với nhiều nước cùng khu vực trong việc thu hút vốn.Một khi hệ thống hạ tầng GTĐB nói riêng và hệ thống hạ tầng giao thông vận tải nói chung được hoàn thiện và hiện đại thì Việt Nam chắc chắn là điểm đến hấp dẫn của mọi nguồn vốn đầu tư.
Cùng với tốc độ tăng trưởng GDP cao hàng năm thì đời sống của người dân ngày càng được nâng cao đặc biệt là ở các khu vực đô thị, nếu nhiều năm trước để sở hữu phương tiên ô tô là một món hàng xa xỉ với nhiều người thì trong những năm gần đây số lượng ô tô được bán ra ngày càng tăng, và hứa hẹn sẽ có mức tăng trưởng cao trong những năm tiếp theo. Để đáp ứng được nhu cầu đó càng thấy tầm quan trọng của hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ.
Như vậy đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB là nhiệm vụ có tính chiến lược và cấp thiết trong thời gian hiện nay và cả trong thời gian sau nữa.
1.2.Thực trạng hệ thống giao thông đường bộ.
Trong những năm qua,nhận thấy được tầm quan trọng của hệ thống hạ tầng GTĐB, đảng và nhà nước đã dành khá nhiều ưu tiên cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB cùng với việc xây dựng các chính sách khuyến khích tư nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham gia đầu tư dưới nhiều hình thức thì hệ thống hạ tầng GTĐB của nước ta đã có những bước phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ.Hầu hết các đường quốc lộ đã được xây mới hoặc được nâng cấp, cải tạo như đường quốc lộ tuyến Hà Nội-Lạng Sơn, Hà Nội- Bắc Cạn…đã làm cho khoảng cách giữa các tỉnh, địa phương được thu hẹp đáng kể; năng lực vận tải cũng được nâng cao; số vụ tại nạn giao thông trên các tuyến quốc lộ cũng như các điểm đen ngày càng giảm. Giao thông đô thị và nông thôn cũng ngày càng được cải thiên, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh thì tình trạng ùn tắc cũng đã được giảm đáng kể mà tiêu biểu là một số dự án như cầu Ngã Tư Sở, xây dựng đường Kim Liên mới…góp phần quan trọng đổi mới bộ mặt đô thị của Việt Nam.Giao thông nông thôn cũng phát triển đáng kể, số xã không có đường bê tông ngày càng giảm đã góp phần đáng kể vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của các vùng nông thôn.
Không chỉ tập trung phát triển về mặt số lượng, lượng vốn NSNN trong thời gian qua cũng tập trung xây dựng các tuyến đường cầu theo tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế như tuyến Bắc Thăng Long- Nội Bài, đường cao tốc Pháp Vân, hoàn thành xây dựng hầm đường bộ qua đèo Hải Vân…hay một số dự án đang tiến hành triển khai như đường Láng Hoà Lạc, tuyến đường Hồ Chí Minh…
Mặc dù đã có những kết quả vượt bậc trong thời gian qua song hệ thống đường bộ của nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế.Hiện nay Việt Nam có tổng chiều dài mạng lưới đường bộ tương đối lớn với khoảng trên 222.179 km:
Bảng 2: Mạng lưới giao thông đường bộ
STT
Tuyến
Đơn vị
Số lượng
Tỷ lệ (%)
1
Quốc lộ
Km
17.295
7.8
2
Tỉnh lộ
Km
21.762
9.8
3
Huyện lộ
Km
45.013
20.2
4
Đường xã,thôn
Km
131.455
59.2
5
Đường đô thị
Km
6.654
3.0
Toàn tuyến
Km
222.179
100%
Nguồn:Cục đường bộ Việt Nam.
Mạng lưới đường bộ của nước ta được bố trí tương đối hợp lý nhưng nhìn chung thì chất lượng của các con đường còn kém.Phần lớn các con đường của nước ta còn hẹp, chỉ có khoảng 570 km đường quốc lộ có 4 làn đường trở lên, loại đường có bề rộng 2 làn xe trở lên chỉ chiếm khoảng 62%.Đường bộ của nước ta chủ yếu là đường 1 làn xe với bề mặt đường từ 3-3.5m.Hệ thống giao thông đường bộ của nước ta vẫn còn chậm phát triển, vừa thiếu lại vừa yếu,hầu hết các con đường chưa đạt tiêu chuẩn kĩ thuật, chưa có đường cao tốc chuẩn: một số đường cao tốc đạt tiêu chuẩn loại Việt Nam như Nội Bài, Nam Thăng Long… nhưng chỉ tương ứng với tiêu chuẩn B(Expressway) so với tiêu chuẩn quốc tế.Nhiều con đường vẫn chưa thể thông xe suốt cả năm nhất là vào mùa mưa nhiều con đường không thể sử dụng đươc.Ngoài ra số lượng đường chưa được trải mặt còn rất lớn, số đường được trải mặt mới chỉ chiếm khoảng 19% trên tổng số chiều dài đường;ngay cả đường quốc lộ cũng mới chỉ có 83.5% được trải mặt và được thể hiện rõ ở bảng sau:
Bảng 3: Phân loại chiều dài đường và mặt đường
Hệ thống đường
Đã trải mặt
Đá dăm
Đường đất
Tổng số
% trải mặt
Quốc lộ
14.441
600
2.254
17.295
83.5
Tỉnh lộ
11.657
553
9.552
21.762
53.6
Đường huyện
9.106
2.077
38.830
45.013
20.2
Đường xã
4.041
68
2.543
6.654
60.7
Đường đô thị
2.922
52.446
76.086
131.455
2.2
Tổng số
42.167
55.744
124.268
222.179
19.0
Nguồn: Cục đường bộ Việt Nam
*Về đường quốc lộ:Trên quốc lộ hiện nay có khoảng hơn 3800 chiếc cầu, với tổng chiều dài hơn 118.000 m trong đó có khoảng 920 cây cầu không an toàn với chiều dài khoảng 43562 km (chiếm hơn 40%). Tổng chiều dài cầu trên đường tỉnh và liên tỉnh là 78.059 m trong đó cầu không an toàn là 16.645m chiếm (21.32%).
Mặc dù có chiều dài là trên 17.295 km với tỉ lệ đã trải mặt trên 83.5% nhưng tỉ lệ đường cao tốc của nước ta còn quá nhỏ bé,và hầu như là không có.Trong khi tỉ lệ đường cao tốc của các nước trong khu vực là khá cao:Singapore 4.44%, Hàn Quốc 2.45%, Thái Lan 0.18%...
Chính vì vậy hệ thống đường quốc lộ của nước ta vẫn cần phải đầu tư xây dựng nhiều để có thể theo kịp với các nước trong khu vực.
*Về đường tỉnh và nông thôn: Số lượng xã chưa có đường đến trung tậm huyện ngày càng giảm, đến nay chỉ còn dưới 200 xã và chỉ chiếm khoảng 2% trong số 10500 xã, số xã chưa có đường tập trung ở vùng xâu vùng xa.Sau đây là hiện trạng hệ thống giao thông nông thôn:
Bảng 4: Hạ tầng giao thông nông thôn
Vùng
Tổng
Đường huyện
Đường xã
Bắc Trung Bộ
29989
9286
20703
Đồng bằng sông Hồng
21057
3909
17147
Đông Nam Bộ
21984
5946
16037
Nam Trung Bộ
13597
4092
9505
Tây Nguyên
8830
2922
5908
Đồng bằng sông Cửu Long
41522
8402
33120
Tây Bắc
8490
2704
5786
Đông Bắc
30999
8737
22262
Tổng
176468
45999
130469
Nguồn: Vụ đầu tư-Bộ tài chính
Nhưng nhìn chung các con đường chưa có được chất lượng tốt nhất, một phần nguyên nhân là do vốn NSNN của ta còn thiếu hơn nữa đội ngũ quản lý của ta ở các vùng xa còn yếu. Đây là một điểm chúng ta cần khắc phục để làm tăng khả năng giao lưu giữa các vùng cũng như góp phần làm giảm mức độ đói nghèo.
*Về đường đô thị:tốc độ đô thị hoá ngày càng cao cùng với đó là số lượng đường đô thị cũng ngày càng tăng nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách.Tuy nhiên đường đô thị của Việt Nam đang lâm vào tình trạng báo động mà ví dụ điển hình nhất ở đây là ở 2 thành phố lớn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.Hệ thống đường đô thị cũ chưa được nâng cấp sửa chữa nhiều, nhiều con đường được xây dựng từ thời kháng chiến chống Pháp nên bề mặt đưòng nhỏ, lại có nhiều điểm giao cắt (như ở thành phố Hồ Chí Minh có trên 1000 điểm, còn ở Hà Nội có trên 500 điểm).
Thực trạng trên cho thấy nâng cao đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB là một chính sách đúng đắn của đảng và nhà nước, như thế mới có được một hệ thống hạ tầng GTĐB hoàn chỉnh, chất lượng tốt để phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
2.Thực trạng đầu tư phát triển hệ thống giao thông đường bộ.
2.1.Tình hình huy động vốn NSNN đầu tư phát triển giao thông đường bộ.
Muốn đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng GTĐB thì vốn là yếu tố quyết đinh,quá trình huy động và sử dụng vốn luôn gắn bó mật thiết với nhau đặc biệt là đối với nguồn vốn NSNN.Lượng vốn huy động được sẽ đóng vai trò quyết định đối với nhu cầu sử dụng vốn đầu tư và nhu cầu sử dụng vốn là căn cứ quan trọng để nhà nước có thể phân bổ và huy động vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB hàng năm.
Công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển GTĐB được thực hiện gắn liền với cơ chế và chính sách huy động vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển nói chung và phụ thuộc vào nhu cầu vốn đầu tư cũng như vào thực trạng nền kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn phát triển.
Đối với vốn tích lũy từ NSNN cần áp dụng chính sách huy động tiết kiệm triệt để và sử dụng có hiệu quả bằng cách: tăng thu cho NSNN bằng nhiều nguồn như thuế, phí sử dụng cầu đường,… cùng với tăng thu là phải sử dụng tiết kiệm đặc biệt là trong chi tiêu dùng của ngân sách.Chỉ khi NSNN có tích luỹ thặng dư và tích luỹ ngày càng tăng thì mới có thể nâng cao được nguồn vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển vốn đã rất tốn kém.
Tăng thu cho NSNN trên cơ sở quản lý chặt chẽ và khai thác hợp lý các nguồn thu theo luật NSNN và các luật có liên quan đến NSNN, tránh tình trạng trốn thuế, nợ thuế hàng năm và các khoản thu khác của NSNN. Đây là việc làm rất cấp bách trong bối cảnh nền kinh tế thị trường của Việt Nam phát triển ngày càng mạnh mẽ, số doanh nghiệp được thành lập ngày càng nhiều cùng với đó là nhiều thủ đoạn làm ăn ngày càng tinh vi.Cần phải có chính sách hợp lý để đào tạo đội ngũ chuyên môn quản lý NSNN cả về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.Có thể thấy rằng từ khi tiến hành cải cách nền kinh tế theo cơ chế thị trường, xóa bỏ chế độ cao cấp thì tích luỹ cho NSNN ngày càng tăng nên vốn cho đầu tư các hoạt động đầu tư phát triển cũng ngày càng tăng: năm 1991 mới chỉ là 15% tăng lên 23% vào năm 1995, tiếp tục tăng lên 35% vào năm 2000, đến năm 2005 đã là 39% và con số này có thể tăng lên đến 45% vào năm 2010. Đối với các công trình hạ tầng giao thông đường bộ thì cần có các biện pháp trực tiếp khai thác cụ thể: quản lý phí đánh vào người sử dụng cầu đường, thuế trước bạ ô tô xe máy, thuế xăng dầu,… Đây sẽ là những nguồn vốn quan trọng để tái đầu tư vào các công trình hạ tầng giao thông khác.
Do đặc điểm của các công trình hạ tầng GTĐB là đòi hỏi một lượng vốn rất lớn nên vốn tập trung từ NSNN không thể đáp ứng đủ do đó chính phủ tiến hành huy động vốn cho hoạt động đầu tư phát triển từ các nguồn vốn khác như trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình,vay nước ngoài ODDA… Đây là xu hướng đúng đắn trong tình trạng vốn tập trung của NSNN còn hạn hẹp và xu hướng này sẽ làm cho NSNN tăng lên.
Để phát triển tối đa hệ thống hạ tầng GTĐB thì cần phải huy động tối ta các nguồn lực và có những chính sách đầu tư mạnh mẽ cho lĩnh vực này. Để thực hiện được mục tiêu đó thì đến năm 2003, quốc hội đã thông qua luật Ngân Sách Nhà Nước sửa đổi; với việc ra đời của luật này là cơ sở pháp lý quan trọng tạo ra một sự thay đổi lớn trong quản lý ngân sách của Việt Nam.Thực hiện phân cấp quản lý NSNN, phân bổ NSNN một cách công khai và tạo điều kiện chủ động cho các địa phương, các ngành có được tính chủ động trong việc bố trí và sử dụng NSNN. Đây là bước đột phá nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN.Mỗi một năm mỗi ngành mỗi địa phương lại có những kế hoạch vốn của riêng mình để phát triển trình lên chính phủ, chính phủ sẽ cùng với bộ tài chính và bộ kế hoạch- đầu tư sẽ tiến hành cân đối ngân sách trên cơ sở các mục tiêu đã được đặt ra để phân bố sao cho hợp lý. Điều này sẽ tạo điều kiện rất tốt cho hoạt động đầu tư vào hệ thống hạ tầng giao thông vận tải nói chung và giao thông đường bộ nói riêng vì các công trình được thực hiện trong nhiều năm nên chủ động về vốn cũng đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư.
Cũng trong giai đoạn từ năm 2003 trở lại đây tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam là khá cao (giữ mức trung bình là 7.5%), so với thời kì trước là có những tiến bộ vựơt bậc (năm 1990 tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội là 5%, năm 2000 là 6.9%),cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế là các nguồn thu cho NSNN cũng ngày một tăng đặc biệt là các nguồn từ thuế của doanh nghiệp, đây được coi là nguồn thu chính của bất cứ ngân sách nhà nước của mọi quốc gia do đóng ngân sách nhà nước cho hoạt động phát triển hạ tầng GTĐB cũng ngày một tăng và đáp ứng khá tốt nhu cầu vốn đầu tư cho hệ thống GTĐB hàng năm.
Bảng 5 :Vốn NSNN cho giao thông đường bộ.
Năm
Nguồn NSNN
2001
6.238,3
2002
5.713,1
2003
4.289,3
2004
4.940,2
2005
6.153,7
2006
6.688,2
2007
7.552,7
2008
5.651,7
Tổng số
47.227,2
Nguồn: Vụ đầu tư- Bộ tài chính.
Như vậy số vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng GTĐB trong những năm qua là khá ổn định và ngày càng tăng.Tổng số huy động được trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2008 35275.8 tỷ đồng và nhiều hơn hẳn thời kì từ năm 1996 đến 2000 là 5156.3 tỷ đồng.
Tuy nhiên cơ chế huy động vốn cho đầu tư phát triển đang ngày càng thay đổi và được định hình cụ thể, nhà nước đang khuyến khích mọi nguồn vốn tham gia đầu tư vào phát triển hạ tầng giao thông nói chung và GTĐB nói riêng.Chính vì vậy tỉ trọng vốn ngân sách nhà nước ngày càng giảm và giờ chỉ chiếm khoảng 43.8% trong tổng số các nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB.Trong giai đoạn này tỷ các nguồn vốn là nguồn vốn ODA 27.5%,nguồn vốn trái phiếu 13.2%, nguồn vốn tín dụng nhà nước 9.3% và các nguồn vốn khác là 6.2%.
Bảng 6: Vốn đầu tư phát triển GTĐB 2003-2008
Nguồn vốn
Khối lượng
Tỷ lệ(%)
Vốn tập trung NSNN
47.227,2
43.8
Vốn ODA
29651.7
27.5
Vốn trái phiếu
14232.8
13.2
Vốn tín dụng nhà nước
10027.6
9.3
Vốn khác
6685.3
6.2
Nguồn: Vụ đầu tư-Bộ tài chính.
Đây được coi là xu hướng phát triển đúng đắn,không thể quá lệ thuộc vào nguồn vốn NSNN eo hẹp, đây là bước đi mà các nước phát triển đã làm từ rất lâu và đạt được những kết quả to lớn.
2.2.Tình hình sử dụng vốn NSNN cho phát triển giao thông đường bộ.
2.2.1.Cơ chế quản lý và sử dụng vốn NSNN cho giao thông đường bộ.
*Cơ chế quản lý:
Tham gia quản lý và sử dụng vốn NSNN cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB bao gồm các cơ quan từ trung ương tới địa phương và các ban quản lý của từng dự án.Ở trung ương có các cơ quan là chính phủ, bộ tài chính, bộ kế hoạch và đầu tư, bộ giao thông vận tải, kho bạc nhà nước trung ương. Ở các địa phương là Sở kế hoạch và đầu tư, sở tài chính của các tỉnh (thành phố) và các cơ quan kho bạc của mỗi địa phương.Trong đó quy định theo nguồn vốn sẽ là cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm về dự án, các dự án trọng điểm quốc gia sẽ do chính phủ trực tiếp quản lý và chịu trách nhiệm, các dự án nhóm A sẽ do bộ giao thông vận tải kết hợp với bộ tài chính và bộ kế hoạch quản lý, các dự án còn lại sẽ do các tỉnh trực tiếp quản lý.
Chu trình quản lý và cấp vốn sẽ được thực hiện tuần tự thông qua các bước sau:
-Lập kế hoạch vốn: Các đơn vị trực thuộc cục đường bộ sẽ có kế hoạch về vốn cho riêng mình dựa trên các kế hoạch của quốc gia, của ngành và của từng địa phương đảm bảo không chồng chéo giữa các cấp đặc biệt mâu thuẫn với các kế hoạch đầu tư của các địa phương. Đây là công việc rất quan trọng vì dựa vào đó để phân bổ vốn một cách hợp lý nhất.
-Cục đường bộ tổng hợp kế hoạch vốn đầu tư xây dựng của các đơn vị trực thuộc gửi bộ giao thông vận tải
-Bộ giao thông vận tải sẽ tổng hợp rồi gửi cho Bộ tài chính và Bộ kế hoạch và đầu tư, rồi sau đó sẽ trình chính phủ phê duyệt.
- Sau khi được chính phủ chấp nhận kế hoạch, bộ giao thông vận tải sẽ phân chia vốn chi tiết cho từng dự án dưới sự kiểm tra phân bổ vốn của Bộ tài chính và thông báo về kế hoạch chuyển vốn cho Kho bạc nhà nước để có thể kiểm soát thanh toán vốn cho chủ đầu tư, mỗi một dự án sẽ được lập một tài khoản tại kho bạc để có thể tiện cho việc kiểm tra cũng như thanh toán vốn cho dự án được dễ dàng.
*Sử dụng vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB:
Giao thông đường bộ là ngành có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.Chính vì vậy, được sự quan tâm của Đảng và nhà nước thì tỷ lệ vốn cho đầu tư phát triển GTĐB chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư của toàn nganh giao thông vận tải(GTVT) cũng như so với tổng vốn đầu tư hàng năm từ nguồn vốn NSNN.
Trước hết là sử dụng vốn đầu tư phát triển cho hạ tầng GTĐB so với toàn ngành GTVT. Trong tổng số NSNN chi cho lĩnh vực GTVT hàng năm thì số chi cho GTĐB luôn chiếm một tỷ trọng lớn và chiếm vị trí ưu tiên hơn so với các lĩnh vực khác trong ngành như đường sắt, hàng không, đường thuỷ…Điều này cho thấy tầm quan trọng của đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB là quan trọng như thế nào đối với ngành GTVT và với nền kinh tế. Điều này được thể hiện rõ qua bảng sau:
Bảng 7: Chi NSNN cho GTĐB 2003-2008
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Chi NSNN cho GTVT
13518
14380
15118
15375
17087
12815
Chi XDCB đường bộ
4289.3
4940.2
6153.7
6688.2
7552.7
5651.7
Chi XDCB đường bộ/Chi GTVT
32
34.3
43.1
43.5
44.2
44.1
Nguồn: Vụ đầu tư-Bộ tài chính.
Trong giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam tương đối ổn định và chỉ đến năm 2008 là chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên có thể nhận thấy rõ điều đó ảnh hưởng như thế nào đến đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB nói riêng và đầu tư vào ngành GTVT nói chung. Chi NSNN nhà nước cho ngành GTVT vẫn tăng đều qua hàng năm,năm 2003 là 13518 tỷ đồng thì đến năm 2007 đã là 17087 tỷ đồng(tức là tăng 26.4% so với năm 2003). Đầu tư vào ngành GTVT tăng cũng có nghĩa là đầu tư vào XDCB GTĐB cũng tăng theo đó: năm 2003 là 4289.3 tỷ đồng, đến năm 2007 là 7552.7 tỷ đồng (tăng 3263.4 tỷ đồng tương đương 76.08%).Có thể dễ dàng nhận thấy tốc độ tăng đầu tư phát triển vào hạ tầng GTĐB nhanh hơn so với tốc độ tăng vốn đầu tư vào ngành GTVT.Dựa vào kết quả trên có thể nhận thấy rằng giao thông đường bộ đã và đang là huyết mạch giao thông chính của nền kinh tế và của đất nước nên luôn được khuyến khích phát triển.Vốn đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB tăng tương đối nhanh như vậy một phần xuất phát từ chính sách hội nhập giao lưu kinh tế của Việt Nam,giai đoạn 2003-2008 là giai đoạn Việt Nam thúc đẩy quá trình gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO và Việt Nam được coi là một trong những môi trường đầu tư hấp dẫn nhất thế giới nhờ một nền chính trị ổn định.
Vốn đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB cũng chiếm một tỷ trọng tương đối cao trong tổng số vốn đầu tư từ NSNN của toàn xã hội và chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng GDP hàng năm của Việt Nam.
Bảng 8: Chi NSNN cho GTĐB trong nền kinh tế quốc dân.
2003
2004
2005
2006
2007
2008
GDP
557344
599703
715307
839211
974266
974704
Chi NSNN cho XDCB
59629
66115
79199
88341
96829
86949
Chi NSNN cho GTĐB
4289.3
4940.2
6153.7
6688.2
7552.7
5651.7
Tỷ lệ Chi NSNN cho GTĐB/GDP
0.76
0.82
0.86
0.79
0.775
0.57
Tỷ lệ chi NSNN cho GTĐB/Chi NSNN
7.1
7.4
7.7
7.5
7.8
6.5
Nguồn: Vụ đầu tư- Bộ tài chính
Nhìn vào bảng tổng hợp có thế thấy rõ tổng vốn đầu tư từ NSNN nhà nước ngày càng tăng chứng tỏ nhà nước đang đầu tư rất có hiệu quả.Năm 2003 là 59629 tỷ đồng và tăng đều qua các năm đến năm 2007 là 96829 tỷ đồng (bằng 37200 tỷ đồng tương đương 62.3%- tốc độ tăng này là tương đối nhanh).GDP cũng tăng đèu qua các năm, từ năm 2003 đến năm 2008 thì GDP đã tăng được 417360 tỷ đồng tương đương với 74%.Nhìn vào hiệu quả của nền kinh tế và của đầu tư từ NSNN chúng ta cũng có thể nhận thấy những đóng góp của ngành GTĐB,vốn NSNN đầu tư vào hạ tầng GTĐB chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong tổng chi NSNN hàng năm cho đầu tư phát triển hàng năm, để có thể đầu tư như vậy thì nhà nước cũng đã nhận ra được hiệu quả từ các nguồn vốn này là rất lớn nên đã duy trì đều đặn hàng năm cho đầu tư phát triển vào hạ tầng GTĐB.
2.2.2. Đầu tư phát triển giao thông đường bộ phân theo lĩnh vực đầu tư.
2.2.2.1. Đầu tư và xây dựng mới đường bộ.
Đây là các dự án chiếm phần lớn vốn đầu tư trong tổng số vốn đầu tư từ NSNN cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB.Nhân thấy thực trạng hạ tầng giao thông đường bộ của nước ta đang rất thiếu và không thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong thời gian tới nên nhà nước đã chú tâm đầu tư xây dựng mới hệ thống hạ tầng GTĐB đặc biệt là các dự án chất lượng cao.Trong thời gian tới chính phủ đang chuẩn bị đầu tư vào một số dự án lớn như đường cao tốc vành đai 3 Hà Nội với vốn đầu tư dự kiến là 540 triệu USD, đường cao tốc Ninh Bình-Thanh Hoá-Vinh với số vốn là 960 triệu USD…
Bảng 9: Tỷ lệ vốn đầu tư xây dựng mới.
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Vốn NSNN đầu tư GTĐB
4289.3
4940.2
6153.7
6688.2
7552.7
5651.7
Vốn đầu tư xây dựng mới
3318.6
2481.9
4350
5174.6
6069.3
4264.2
Tỷ lệ vốn đầu tư xây dựng mới/vốn NSNN cho GTĐB
77.37
50.24
70.69
77.37
80.36
75.45
Nguồn: Vụ đầu tư- Bộ tài chính
Trong giai đoạn 2003-2008 vốn đầu tư xây dựng mới hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ đã tăng từ 3318.6 tỷ đồng lên đến cao nhất 6069.3 tỷ đồng vào năm 2007.Tỷ lệ vốn đầu tư xây dựng mới cũng rất cao trong tổng số vốn đầu tư từ NSNN hàng năm cho phát triển GTĐB,năm 2003 là 77.37 %, năm 2007 là 80.36%, tỷ lệ vốn trung bình hàng năm là trên 71.9% dù rằng đã có những năm tỷ lệ này là 50.24% vào năm 2004.Trong tổng số vốn đầu tư xây dựng mới cho hệ thống hạ tầng GTĐB hàng năm,tỷ trọng vốn đầu tư cho quốc lộ chiếm tỷ trọng khoảng 60%,phần còn lại tập trung đầu tư vào hệ thống đường khác chiếm 40%.Điều này là dễ hiểu vì hệ thống đường quốc lộ trên cả nước còn nhiều tuyến chỉ 1 làn xe, và bị hư hỏng nhiều mà tiêu biểu là quốc lộ 3 Hà Nội-Thái Nguyên, hàng ngày thường xuyên xảy ra các vụ tai nạn giao thông.Chính vì lẽ đó mà trong những năm qua liên tục có các dự án đường quốc lộ được khởi công xây dựng và dần đi vào hoạt động như dự án đường cao tốc Nội Bài-Lào Cai, dự án quốc lộ 3 mới, dự án quốc lộ 18…Khi các dự án này hoàn thành cùng với các dự án trong tương lai sắp được đầu tư thì hy vọng rằng hệ thống đường quốc lộ của Việt Nam sẽ hoàn chỉnh và sẽ góp phần rút ngắn khoảng cách giữa các tỉnh thành trong cả nước.
2.2.2.2. Đầu tư nâng cấp và duy tu bảo dưỡng đường bộ.
Đầu tư mới là rất quan trọng nhưng cũng không thể bỏ qua công tác nâng cấp và duy tu, sửa chữa đường bộ trong điều kiện hiện thời của NSNN.Mặc dù NSNN tăng mạnh trong những năm qua nhưng Việt Nam vẫn còn nhiều mục tiêu phát triển khác để thực hiện mà không thể từ bỏ được mục tiêu nào vì vậy nâng cấp và sửa chữa là biện pháp tạm thời trong hoàn cảnh hiện tại.Đầu tư vào nâng cấp và sửa chữa hạ tầng GTĐB vừa giúp đất nước tiết kiệm được các nguồn vốn cho mục tiêu khác nhưng cũng đồng thời cải tạo tạm thời được năng lực vận tải của quốc gia để có thể đáp ứng được các mục tiêu trước mắt.Vốn đầu tư nâng cấp và sửa chữa hệ thống hạ tầng GTĐB chỉ chiếm một lượng nhỏ trong tổng số vốn hàng năm của ngành GTĐB.
Sau đây là tình hình đầu tư vào công tác bảo trì, nâng cấp hệ thống hạ tầng GTĐB trong giai đoạn 2003-2008:
Bảng 10: Vốn đầu tư bảo trì và sửa chữa đường bộ 2003-2008
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Vốn ĐT bảo trì sửa chữa GTĐB
570.12
660.92
721.51
792.37
855.42
859.26
Tốc độ tăng hàng năm
0
15.93
9.17
9.82
7.96
4.5
Nguồn: Vụ đầu tư-Bộ Tài Chính
Qua bảng trên thấy rõ lượng vốn đầu tư để bảo trì và sửa chữa đường bộ không ngừng tăng về tuyệt đối, năm 2003 số vốn đó là 570.12 tỷ đồng và tăng lên đến 859.26 tỷ đồng (tăng 50.17% so với năm 2003).Có thể nhận điểm khác của vốn sửa chữa và bảo trì hạ tầng GTĐB khác so với vốn đầu tư xây dựng mới ở chỗ, vốn bảo trì sửa chữa năm 2008 tăng hơn so với năm 2007 trong khi ở vốn xây dựng mới lại giảm; xảy ra điều này là do nền kinh tế bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế,giá cả nguyên vật liệu xây dựng năm 2008 cũng tăng đột biến:giá thép ước tính tăng 150% so với năm 2007 do đó nhà nước ưu tiên hơn cho đầu tư sửa chữa, đầu tư xây dựng mới ở giai đoạn này là rất tốn kém.
2.2.3. Đầu tư phát triển giao thông đường bộ theo khu vực nông thôn và thành thị.
2.2.3.1. Đầu tư vào giao thông nông thôn.
Với 76.5% dân số và 73% lực lượng xã hội của cả nước ở nông thôn, việc phát triển giao thông nông thôn sẽ góp phần tích cực thay đổi bộ mặt nông thôn, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị với nông thôn, giữa miền núi với đồng bằng đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá, xoá đói giảm nghèo.Nó là khâu đầu cuối của quá trình vận chuyển phục vụ sản xuât, tiêu dùng nông sản và sản phẩm cho toàn bộ khu vực nông thôn.Nhận thức rõ được điều đó, Đảng và nhà nước luôn đề ra chủ trương, đường lối, chính sách để xây dựng phát triển giao thông nông thôn với phương châm “ Nhà nước mà nhân dân cùng làm, dân làm là chính, có sự hướng dẫn, hỗ trợ của nhà nước”.Cơ chế đó được thực hiện:
-Đường nông thôn do nhân dân làm là chính.
-Đường miền núi, trung du do dân làm và nhà nước hỗ trợ ở mức cần thiết.
-Đường vùng cao do dân làm và nhà nước hỗ trợ đúng mức.
Bảng 11:Tình hình huy động vốn đầu tư phát triển hạ tầng giao thông nông thôn những năm gần đây.
Nguồn huy động
1996-1999
2000-2003
2003-2008
Mức huy động
Tỷ lệ%
Mức huy động
Tỷ lệ %
Mức huy động
Tỷ lệ %
Dân đóng góp
4628
55.71
10151
58.15
6433
21.9
Ngân sách địa phương
2358
28.39
4598
26.34
14328
48.9
Trung ương hỗ trợ
466
5.61
._.số tuyến quốc lộ khác.Trọng tâm phát triển đường bộ khu vực này là hoàn thiện việc nâng cấp các tuyến để đạt quy mô tiêu chuẩn đường cấp III với 2 làn xe, các đoạn qua thị xã, thị trấn sẽ được mở rộng.Tiếp tục mở rộng quốc lộ 1A ở những đoạn có nhu cầu vận tải lớn, trước hết là đoạn thành phố Hồ Chí Minh-Trung Lương.Xây dựng mới hai tuyến N1 và N2 để nối liền với quốc lộ 14C và đường Hồ Chí Minh.
.Tuyến N1 chạy dọc theo biên giới Việt Nam- Campuchia, từ cầu Đức Huệ (Long An) qua 4 tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang có 2 điểm vượt sông lớn tại Tân Châu và Châu Đốc. Đến năm 2005 nối thông toàn tuyến. Đến năm 2010 nâng cấp toàn tuyến đạt tiêu chuẩn đường cấp IV.
.Tuyến N2 từ Chơn Thành (Bình Dương) đến Vàm Rầy (Kiên Giang) là tuyến vành đai trong của miền Tây Nam Bộ. Đến năm 2005 thông xe toàn tuyến. Đến năm 2010 nâng cấp toàn tuyến đạt tiêu chuẩn đường cấp III.
.Hình thành trục dọc ven biển nối liền và nâng cấp quốc lộ 60, quốc lộ 80, và các đoạn khúc khác như tuyến Quản Lộ-Phụng Hiệp và tuyến nam sông Hậu.
.Hoàn thành xây dựng các cầu lớn như Cần Thơ, Đức Huệ, Vàm Cống, Rạch Miễu, Hàm Luông…
.Xây dựng đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh- Cần Thơ.
-Mạng đường cấp cao và cao tốc: Để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội đất nứoc và hội nhập khu vực quốc tế, từ nay đến 2010 sẽ từng bước hình thành mạng lưới đường bộ cấp cao và cao tốc:
. Đường Nội Bài-Hạ Long: dài 145 km quy mô 4-6 làn xe.
.Tuyến Hà Nội-Hải Phòng dài 100km, quy mô 4-6 làn xe.
.Tuyến Hà Nội- Việt Trì dài 78 km quy mô 4-6 làn xe.
. Đoạn Hà Nội-Thái Nguyên dài 70 km quy mô 4-6 làn xe.
. Đoạn Lạng Sơn-Hà Nội-Vinh dài 463 km quy mô 4-6 làn xe.
. Đoạn vành đai 3 Hà Nội dài 78 km quy mô 4-6 làn xe.
. Đường Láng-Hoà Lạc dài 30 km quy mô 4-6 làn xe.
. Đoạn Đà Nẵng-Quảng Ngãi dài 124 km quy mô 4-6 làn xe.
. Đoạn Đà Nẵng-Huế dài 105 km quy mô 4-6 làn xe.
. Đoạn thành phố Hồ Chí Minh-Long Thành-Dầu Giây dài 50 km quy mô 4-6 làn xe.
.Tuyến thành phố Hồ Chí Minh-Long Thành- Vũng Tàu dài 85 km quy mô 4-6 làn xe.
. Đoạn thành phố Hồ Chí Minh-Thủ Dầu Một dài 40 km quy mô 4-6 làn xe.
. Đoạn thành phố Hồ Chí Minh-Cần Thơ dài 155 km quy mô 4-6 làn xe.
+Sau năm 2010:
.Đoạn Hoà Lạc-Trung Hà dài 40 km, quy mô 4-6 làn xe.
. Đường vành đai 4 Hà Nội dài 125 km quy mô 6-8 làn xe.
. Đoạn Huế-Quảng Trị dài 90 km quy mô 4-6 làn xe.
. Đoạn Dầu Giây- Phan Thiết dài 128 km quy mô 4-6 làn xe.
. Đoạn Thủ Dầu Một-Chơn Thành dài 50 km quy mô 4-6 lan xe.
. Đường vành đai 3 thành phô Hồ Chí Minh dài 110 km quy mô 6-8 làn xe.
.Nghiên cứu xây dựng một số tuyến song song với quốc lộ 1A ở các đoạn còn lại: Quảng Ngãi- Nha Trang, Nha Trang-Phan Thiết, Cần Thơ- Bạc Liêu: khoảng 800 km.
-Hệ thống đường bộ đối ngoại:
Để chủ động hội nhập khu vực và thế giới, ngoài các dịch vụ vận tải, thương mại, quá cảnh …phải có một hệ thông giao thông đồng bộ nhằm cung cấp mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông vận tải ở trình độ tiên tiến, hiệu quả và an toàn có tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với tiêu chuẩn khu vực và thế giới bao gồm:
Quốc lộ 22 (thành phố Hồ Chí Minh-Mộc Bài), quốc lộ 1 (thành phố Hồ Chí Minh- Hà Nội), quốc lộ 5 (Hà Nội-Hải Phòng), quốc lộ 51 (thành phố Hồ Chí Minh- Vũng Tàu), quốc lộ 6 và quốc lộ 279 (Hà Nội-Tây Trang), quốc lộ 2, quốc lộ 70 (Hà Nội-Lào Cai), quốc lộ 7 (Diễn Châu-Nặm Cắn), quốc lộ 8 (Bãi Vọt-Keo Nưa), quốc lộ 12 mới (Cảng Vũng Áng-Mụ Giạ), quốc lộ 9 (Đông Hà- Lao Bảo), quốc lộ 19 (Hàm Rồng-biên giới), quốc lộ 24 (Thạch Trụ-Kon Tum), quốc lộ 14, quốc lộ 14B (Đà Nẵng-Chơn Thành).
*Quy hoạch phát triển hệ thống tỉnh lộ
Hệ thống tỉnh lộ được phát triển với các định hướng:
-Nâng cấp một số tỉnh lộ quan trọng lên quốc lộ, đồng thời đưa một số huyên lộ quan trọng lên tỉnh lộ, cải tuyến hoặc mở một số tuyến mới ở những khu vực cần thiết.
-Phục hồi, nâng cấp hoặc đưa vào cấp với mục tiêu ở vùng đồng bằng đạt tiêu chuẩn đường cấpIV, miền núi đạt tiêu chuẩn đường cấp IV, cấp V, đoạn qua các thị trấn đạt tiêu chuẩn đường cấp III.
*Giao thông đường bộ đô thị:
-Thành phố Hà Nội:
+Giai đoạn 2006-2010:
Từng bước hoàn thiện và hiện đại hoá kết cấu hạ tầng giao thông.
Hoàn chỉnh vành đai 2 và 3.Tiếp tục xây dựng và phát triển mạng lưới giao thông đường bộ tại các quận mới phát triển, các khu đô thị ở các vùng phụ cận, từng bước xây dựng mạng lưới đường trên cao, xây dựng thêm các cầu vượt sông để tạo điều kiện phân bố lại dân cư và điều tiết lại mật độ giao thông quá cao ở khu vực đô thị cũ như các cầu Thanh Trì, Long Biên, Nhật Tân, Vĩnh Tuy qua sông Hồng và cầu Đông Trù vượt sông Đuống.
+Giai đoạn 2010-2020:
Hoàn chỉnh, đa dạng hoá , hiện đại hoá kết cấu hạ tầng giao thông.
-Thành phố Hồ Chí Minh:
+Giai đoạn 2006-2010: Hoàn chỉnh vành đai 1 và 2.Bổ sung các đường tại các quận, huyện mới phát triển.Xây dựng hoàn chỉnh và hiện đại hoá hệ thống giao thông tại khu đô thị phía Nam Sài Gòn, khu đô thị Thủ Thiêm, quy hoạch và đầu tư các đầu mối giao thông, từng bước xây dựng mạng lưới đường trên cao, xây dựng thêm các cầu qua sông Sài Gòn.
+Giai đoạn 2010-2020: Hoàn chỉnh, đa dạng hóa và hiện đại hoá kết cấu hạ tầng giao thông.
-Các đô thị lớn khác:
Đối với các thành phố lớn khác như Hải Phòng, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ và một số thành phố khác:
+Xây dựng các tuyến cửa ngõ ra vào thành phố, các nút giao cắt lập thể tại các giao lộ lớn.
+Xây dựng các tuyến tránh đô thị, hình thành đường vành đai tại một số thành phố có các trục lộ quan trọng đi qua.
+Xây dựng các bến xe khách phục vụ đi lại và du lịch.
*Giao thông nông thôn:
-Giai đoạn 2006-2010:
+Tỷ lệ mặt đường bằng các vật liệu cứng đạt 95%
+Tỷ lệ đường giao thông nông thôn đi lại cả hai mùa đạt 90%
+Cầu cống kết hợp với các công trình vĩnh cữu và tạm thời đạt 50% +Tất cả đường huyện đều đạt tiêu chuẩn đường cấp V-VI, đường xã, liên xã đạt tiêu chuẩn đường giao thông nông thôn loại A và B
+Xoá bỏ hầu hết cầu khỉ
+Phát triển giao thông nội đồng để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá sản xuất và thu hoạch sản phẩm nông nghiệp.
1.4.Nhu cầu vốn cho đầu tư của NSNN phát triển giao thông đường bộ.
Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế Bộ giao thông vận tải thì nhu cầu vốn đầu tư phát triển và bảo trì hệ thống giao thông giai đọan 2001-2020 là rất lớn để có thể thực hiện được các mục tiêu:
Bảng 19: Dự báo nhu cầu nâng cấp và xây dựng mới đường bộ đến năm 2020
Công trình
Khối lượng hoàn thành giai đoạn
2005-2010
2010-2020
Cộng
Đường cao tốc 4 làn xe
295
560
855
Đường cấp I 4 làn xe
413
810
1223
Đường cấp III
1026
4985
6011
Đường cấp IV
1165
1745
2910
Đại tu quốc lộ
2500
8360
10860
Đại tu tỉnh lộ
6000
15400
21400
Cầu lớn đặc biệt
6050
12830
18880
Cầu lớn,cầu trung
5000
16100
21100
Đường nông thôn mới làm
5000
19720
24720
Nâng cấp(nhựa, cấp phối)
51000
97500
148500
Cầu đường nông thôn
20000
55400
75400
Nguồn: Vụ đầu tư-Bộ tài chính.
Qua số liệu trên có thể thấy được nhu cầu đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ đến năm 2020 là rất lớn nó thể hiện tương lai phát triển của đất nước cũng như tốc độ phát triển của mạng lưới giao thông đường bộ sao cho đạt được mục tiêu hiện đại hoá ngang tầm với các nước trong khu vực và vươn xa ra thế giới.
Số lượng đường cao tốc trên 4 làn xe đang được cao quan tâm đặc biệt cùng với sự phát triển của giao thông đô thị và giao thông nông thôn sẽ đáp ứng được nhu cầu đi lại của người dân, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước.
Để hoàn thành được mục tiêu đó thì lượng vốn được dự báo cho đầu tư phát triển hạ tầng đường bộ trong thời gian tới sẽ là:
Bảng 20: Dự báo nhu cầu vốn phát triển GTĐB đến 2020.
Hạng mục
2011-2020
Bình quân/năm
Đường bộ
328530
32853
Đường cao tốc
158530
15853
Quốc lộ
125000
12500
Đường tỉnh
45000
4500
Giao thông đô thị
230448
23044.8
Đường bộ
221448
22144.8
Hỗ trợ VTCC
9000
900
Giao thông nông thôn
77850
7785
Tổng
636828
63682.8
Nguồn: Vụ đầu tư-Bộ tài chính.
Có thể nhận thấy rằng để đạt được mục tiêu đề ra ngành GTVT đường bộ cần một lượng vốn lớn hơn hẳn so với giai đoạn 2001-2010, tổng số vốn cần thiết cho giai đoạn 2011- 2020 là 636828 tỷ đồng (trung bình mỗi năm là 63682.8 tỷ đồng) trong khi đó giai đoạn 2001-2010 số vốn cần thiết là 471875 tỷ đồng (tương đương 47187.5 tỷ đồng).Có thể nhận thấy số vốn đầu tư ưu tiên cho phát triển giao thông đô thị tăng hơn so với giai đoạn trước, từ 139385 tỷ đồng trong giai đoạn 2001-2010 lên đến 230448 tỷ đồng trong khi đó số vốn đầu tư phát triển giao thông nông thôn lại giảm đáng kể từ 86500 tỷ đồng giai đoạn 2001-2010 xuống còn 77850 tỷ đồng trong giai đoạn 2011-2020.
Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ là rất lớn trong thời gian tới đòi hỏi đảng và chính phủ cần có những giải pháp nhằm tăng hiệu quả đầu tư mạng lưới đường bộ từ NSNN cũng như cần có những chính sách tạo vốn thích hợp nhằm khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong xã hội cùng tham gia đầu tư với nhà nước vì mục tiêu phát triển chung xã hội và của đất nước.
2. Giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn NSN
2.1.Hoàn thiện công tác lập quy hoạch,kế hoạch phát triển giao thông đường bộ.
Quy hoạch và kế hoạch có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển vào hạ tầng GTĐB.Về nguyên tắc thì công tác lập quy hoạch phải đi trước một bước tuy nhiên công tác quy hoạch của nước ta còn nhiều hạn chế, không rõ ràng, cụ thể khiến cho hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB bằng nguồn vốn NSNN trong thời gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Quy hoạch phát triển hạ tầng GTĐB là cơ sở để đầu tư xây dựng và phát triển mạng lưới giao thông hợp lý và thống nhất trong cả nước, có quy mô phù hợp với từng vùng lãnh thổ, tạo điều kiện khai thác tiềm năng hiện có và phát triển năng lực của hạ tầng GTĐB nói riêng và năng lực của ngành giao thông vận tải nói chung.
Quy hoạch phát triển của nước ta chưa được xây dựng kịp thời dẫn đến việc triển khai kế hoạch còn lúng túng, bị động. Điều này là do một số nguyên nhân sau:
-Các quy hoạch, chiến lược phát triển chậm được phê duyệt, có những quy hoạch phải trình đến 4 năm mới được phê duyệt (như quy hoạch đường bộ) thậm chí đến nay vẫn chưa có quy hoạch cụ thể phát triển của ngành đường bộ đến năm 2020 mà chỉ mới là quy hoạch chung chung.
-Dự báo nhu cầu phát triển chưa thật chính xác làm cho công tác đầu tư tương đối dàn trải, không đáp ứng được nhu cầu trong tương lai cũng như nhiều nơi lại thiếu vốn để đầu tư.
-Không lường hết được tình hình biến động của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội…nên ảnh hưởng trực tiếp đến công tác huy động và sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Để nâng cao được chất lượng công tác lập kế hoạch,quy hoạch thì trong thời gian tới cần có những giải pháp như:
-Đầu tư hợp lý cho hệ thống trang thiết bị, kỹ thuật phục vụ cho công tác lập quy hoạch.
-Tiến hành thu thập thông tin một cách chính sách để phục vụ cho công tác quy hoạch nhằm đáp ứng được các yêu cầu của thị trường và của nền kinh tế.
-Nâng cao trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ của đội ngũ lập quy hoạch bằng các biện pháp như mở các lớp đào tạo, cử đi tu nghiệp ở các nước có trình độ phát triển cao.Cần phải có đội ngũ đủ kinh nghiệm, trình độ năng lực cao, và có tầm nhìn xa thì công tác lập tác lập quy hoạch, kế hoạch mới có thể đạt được chất lượng cần thiết.
-Trong quá trình lập quy hoạch cần cân đối nhu cầu đầu tư phát triển hạ tầng đường bộ với khả năng cung ứng vốn của NSNN.Việc lập quy hoạch cần phải bám sát với tình hình thực tiễn của NSNN và của các nguồn vốn khác tránh tình trạng đã lập xong quy hoạch nhưng không có vốn để thực hiện, vì vậy quy hoạch, kế hoạch trước hết cần tập trung vào các dự án cấp bách trước.
-Trong quá trình lập kế hoạch cần tính đến các yếu tố ảnh hưởng, rủi ro hay xảy ra như giá nguyên vật liêu, sắt, thép, xi măng…Các yếu tố này là rất quan trong tránh tình trạng như năm 2008 khi mà giá sắt thép được đẩy lên cao ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của các công trình.
2.2.Các giải pháp về chính sách tạo vốn NSNN phát triển giao thông đường bộ.
Trong thời gian qua tỷ trọng các nguồn vốn trong nước và ngoài nước liên tục tăng cao trong lĩnh vực đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB tuy nhiên nguồn vốn NSNN vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể và là nguồn vốn cơ bản, tạo tiền đề phát triển quan trọng cho mạng lưới GTĐB.Tuy nhiên do nền kinh tế phát triển nhanh cùng với đó là nhu cầu đi lại của người dân tăng cao, số phương tiện giao thông xuất hiện ngày càng nhiều khiến cho vốn NSNN không thể đáp ứng được tốc độ phát triển đó đặc biệt là tình trạng thiếu vốn xảy ra ở nhiều dự án, để các công trình đường bộ được thực hiện từ nguồn vốn NSNN đạt hiệu quả thì cần phải có những giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn như:
-Thu phí các đối tượng sử dụng trực tiếp kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ trên cơ sở quy hoạch mạng lưới trạm thu phí giao thông, tiến hành quy định mức lệ phí hợp lý thống nhất cho từng đối tượng tham gia giao thông. Đây là nguồn thu quan trọng để nhà nước có thể thu hồi vốn đầu tư và đầu tư vào các công trình khác.
-Phụ thu qua giá xăng dầu, thu phí các xe có trọng tải nặng: điều này là hoàn toàn hợp lý đảm bảo công bằng xã hội, phương tiện nào sử dụng hạ tầng đường bộ càng nhiều thì càng tốn xăng, phương tiện có trọng tải nặng ảnh hưởng lớn đến chất lượng các con đường do đó đánh phí vào các đối tượng này sẽ đem lại cho NSNN một khoản lớn.Tuy nhiên lưu ý khi tiến hành thu phí xăng dầu cần tính toán hợp lý sao cho vẫn có thể thu được phí mà vẫn đảm bảo sự ổn định của giá xăng dầu.
-Tiến hành thu phí theo các phương tiện giao thông: cần quản lý tốt hơn nữa công việc này, khi các phương tiện mới được đưa vào lưu hành cần phải thu một khoản phí nhất định.Cần phải có mức lệ phí hợp lý đặc biệt là đối với các phương tiện vận tải ô tô, sự phát triển quá nhanh của ô tô trong thời gian qua là nguyên nhân dẫn đến tình trạng xuống cấp của hệ thống hạ tầng đường bộ cũng như tình trạng tắc đường ở những thành phố lớn.
-Tiến hành xây dựng các quỹ đường bộ để quản lý tốt nguồn vốn, quỹ này có tác dụng quản lý quá trình sử dụng vốn, tiến hành quản lý quá trình tạo vốn từ NSNN chỉ phục vụ cho phát triển đường bộ, có thể đem nguồn vốn ra đầu tư khi nhàn rỗi nhằm nâng cao khối lượng vốn đầu tư cho đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng GTĐB.Ngoài ra quỹ này cũng có thể trực tiếp phát hành trái phiếu công trình đối với nhưng công trình có nhiều lợi ích cao, tiến hành thu phí hưởng lợi từ các cơ sở kinh tế, doanh nghiệp…do tuyến đường giao thông đi qua nên phải trả những khoản lệ phí nhất định hàng năm.
2.3.Các giải pháp tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước.
-Nghiên cứu sắp xếp lại các đơn vị quản lý sao cho thống nhất tránh tình trạng chồng chéo giữa các bộ, ngành và các địa phương.
-Về công tác điều hành , các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư cần rà soát lại hệ thống văn bản từ khâu tạm ứng, thanh toán đến quyết toán vốn đầu tư nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư, đẩy mạnh công tác đôn đốc, kiểm tra,thanh tra các bộ, ngành, địa phương trong việc chấp hành các quy định về công tác quản lý đầu tư.
-Mỗi bộ, ngành, địa phương cần có tổ chức bộ máy thanh tra quyết toán vốn đầu tư bảo đảm cả số lượng và chất lượng.Thực hiện công tác này tốt sẽ tránh được tình trạng lãng phí, và thất thoát vốn của nhà nước.
-Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn định mức kinh tế- kỹ thuật, đơn giá hợp lý về xây dựng và sửa chữa công trình giao thông đường bộ.
+Bộ xây dựng và bộ giao thông vận tải cần ban hành hệ thống các định mức sử dụng các loại nguyên vật liệu, máy móc thiết bị thi công, phương pháp xác định định mức, đơn giá tổng dự toán…
+Bộ tài chính cần ban hành các quy định về quy trình thẩm định và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành để có thể hướng dẫn thống nhất cho từng ban quản lý dự án, từng địa phương.
-Tăng cường trách nhiệm của các ban quản lý dự án:
+Xác định rõ trách nhiệm của các thành viên trong ban quản lý dự án trong đó có cán bộ kĩ thuật, cán bộ tài chính,… đảm bảo sao cho công trình được quản lý tốt nhất.
2.4. Tăng cường công tác giám sát chất lượng, tiến độ xây dựng và thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các dự án đường bộ.
Đây là công tác đặc biệt quan trọng và có tác dụng trực tiếp trong việc thất thoát, lãng phí từ các công trình giao thông.Việc sử dụng tiết kiêm, đúng mức mục đích vốn NSNN sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn NSNN cũng như chất lượng công trình là một tiêu chí quan trọng biểu hiện hiệu quả sử dụng vốn NSNN.Một công trình nếu như xây dựng không đảm bảo chất lượng sẽ phải phá đi làm lại hay chi phí sửa chữa nó sẽ là rất lớn dẫn đến lãng phí vốn nghiêm trọng nên để đảm bảo chất lượng công trình và thực hiện đúng tiến độ của dự án thì công trình phải được tham gia giám sát chất lượng, đánh giá, thanh tra và kiểm tra thường xuyên.
Việc kiểm soát chặt chẽ, thanh toán vốn đầu tư đúng mục đích, đúng khối lượng hoàn thành sẽ góp phần tránh thất thoát lãng phí và cần phải có những giải pháp cụ thể:
-Thực hiện kiểm toán công trình giao thông đường bộ, nâng cao vai trò và tác dụng của công tác kiểm toán đối với quyết toán chính xác công trình giao thông.
-Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, định mức kĩ thuật, đơn giá xây dựng và sửa chữa công trình giao thông.
Công tác thanh tra tài chính cũng giữ một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả, chống lãng phí thất thoát, phòng chống tham nhũng khi sử dụng vốn NSNN trong phát triển hạ tầng giao thông đường bộ.
-Tổ chức theo dõi thường xuyên việc theo dõi, nắm tình hình các dự án đầu tư công trình giao thông có vốn NSNN cũng như tình hình đầu tư xây dựng của các bộ, ngành, địa phương trong đầu tư phát triển hạ tầng đường bộ.Việc theo dõi, nắm tình hình thực hiện từ xa đảm bảo thông tin kịp thời cho việc lập kế hoạch thanh tra hoặc tiến hành thanh tra đột xuất với các công trình thấy xuất hiện nhiều sai phạm.Việc thu thập, cập nhật thông tin thường xuyên từ các dự án nhằm tạo ra một kho thông tin, dữ liệu về tình hình thực hiện các dự án của nhà nước, khắc phục tình trạng bị động nhằm chủ động trong công tác thay đổi kế hoạch thanh tra hàng năm cũng như trong việc thực hiện kế hoạch thanh tra.Vì vậy các cơ quan thanh tra của nhà nước cần có các phương pháp nắm tình hình thực tế của các dự án nhằm bảo đảm nguồn thông tin đồng bộ và hệ hông,cần bố trí cán bộ nắm những thông tin của từng dự án để có thể phối hợp giữa các bộ ngành, và các địa phương với nhau như ở Bộ kế hoạch đầu tư (vụ thẩm định và giám sát đầu tư,vụ quản lý đấu thầu…), bộ tài chính(vụ ngân sách, vụ đầu tư,kho bạc nhà nước), và bộ giao thông đường bộ, cục quản lý đường bộ…
-Tiến hành rà soát, kiểm tra lại danh mục đầu tư ở tất cả các bộ, ngành, địa phương đảm bảo các dự án có hiệu quả, nếu dự án đầu tư không còn khả thi nữa thì có thể loại bỏ tránh lãng phí vốn đầu tư của nhà nước.
-Đổi mới khâu kế hoạch thanh tra theo hướng vừa chủ động vừa linh hoạt và thường xuyên tiến hành các cuộc thanh tra đột xuất.Lập kế hoạch hàng năm thanh tra vào các dự án trọng điểm để đảm bảo mục tiêu phát triển chung nhưng cũng không quên tiến hành thanh tra đột xuất các dự án nhỏ nhằm đảm bảo nguồn vốn của NSNN được thực hiện đúng dự án, đúng kế hoạch.
-Tiến hành thanh tra đúng nội dung cần thanh tra và đúng dự án cần phải thanh tra: khi tiến hành thanh tra cần xác định rõ nội dung thanh tra, đối tượng thanh tra, thời kỳ thanh tra, thời hạn thanh tra… tránh thanh tra dàn trải, thanh tra nhiều vào các nội dung không cần thiết, trên cơ sở đó xây dựng các phương án tổ chức thanh tra khoa học và bố trí lực lượng hợp lý để tiến hành thanh có hiệu quả và đúng mục đích thanh tra.Các công trình giao thông đường bộ là các dự án tương đối phức tạp nên nhiệm vụ thanh tra là rất nặng nề, phức tạp do đó nếu không chuẩn bị kĩ càng thì sẽ rất khó có thể tiến hành thanh tra có hiệu quả.
-Sau khi tiến hành thanh tra cần phải đưa ra được những kết luận và kiến nghị thanh tra chính xác, chặt chẽ, rõ ràng tránh tình trạng nể nang, tham nhũng vốn đầu tư của NSNN.Làm tốt công tác này có thể đưa ra được những quyết định và những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và nâng cao chất lượng công trình.
2.5.Các giải pháp làm tăng hiệu quả công tác giải phóng mặt bằng.
Công tác giải phóng mặt bằng đang là một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất trong công cuộc đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng GTĐB ngay cả khi đã có những chính sách về giải phóng mặt bằng nhưng nguyên nhân chủ yếu là sự phối hợp giữa ban quản lý dự án với chính quyền địa phương.Trong thời gian qua công tác giải phóng mặt bằng nhằm tạo quỹ đất cho các công trình giao thông đường bộ gặp nhiều khó khăn và ảnh hưởng lớn đến tiến độ thi công của nhiều dự án và ảnh hưởng trực tiếp đến quy hoạch cũng như chiến lược đầu tư của nhà nước, thực tế cho thấy nhiều công trình đã bị chậm trễ vài năm.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là:
-Sự buông lỏng trong công tác quản lý đất đai nói chung và đất dành cho xây dựng nói chung, nhiều khu vực đã được cắm mốc để xây dựng đường cầu nhưng người dân vẫn cố tình xây dựng trái quy định, lấn chiếm trái phép khiến cho khi thực hiện dự án gây ra rất nhiều khó khăn và làm tăng chi phí giải phóng mặt bằng.
-Việc cắm mốc chỉ giới các tuyến đường trong tương lai không được thực hiện trước một thời gian dài do vậy khi xây dựng mới và mở rộng các tuyến đường cũ phải bỏ ra rất nhiều chi phí giải phóng mặt bằng, nhiều công trình thì chi phí này còn lớn hơn nhiều chi phí xây dựng công trình.
-Chính sách, đơn giá đền bù cho người dân chưa thoả đáng, đặc biệt là người dân ở các vùng nông thôn.Nhiều công trình khi xây dựng trên ruộng của người dân nhưng khi lấy thì nhà nước lại không chuẩn bị kịp thời nơi ở mới cho người dân cũng như chuẩn bị việc làm cho người dân khi họ không có ruộng.
Để giải quyết những vấn đề trên thì trong thời gian tới cần phải có những giải pháp kịp thời để thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng:
-Xây dựng quy hoạch trung hạn và dài hạn một cách chi tiết để xây dựng hạ tầng đường bộ, trên cơ sở đó lập quy hoạch quỹ đất và có những chính sách thu hồi đất hợp lý với những cột mốc chỉ giới ổn định.
-Công bố rỗng rãi quy hoạch đất đai cả quỹ đất cho xây dựng đường và quỹ đất hành lang bảo vệ đường để nhân dân có thể nắm được chủ trương của nhà nước trong phát triển hệ thống hạ tầng GTNT đồng thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao ý thức tự giác của người dân.
-Điều chỉnh giá đền bù hợp lý với giá trị đất đai của từng địa bàn và trong từng thời kỳ nhất định vì đây là một vấn đề tác động lớn nhất đến việc chấp thuận di dời của người dân.Khi mà lợi ích của ngừơi dân được đảm bảo, đủ bù đắp thiệt hại cho người dân thì sẽ có thể đẩy nhanh được công tác đền bù và giải phóng mặt bằng, tiết kiệm được thời gian và chi phí, tăng hiệu quả sử dụng vốn NSNN.
Có các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các trường hợp vi phạm quỹ đất đã được cắm mốc chỉ giới để xây dựng hay vi phạm hành lang bảo vệ đường bộ.Cần có các biện pháp xử phạt về kinh tế mạnh mẽ, kết hợp với hệ thống pháp luật đối với các trường hợp vi phạm.
2.6.Các giải pháp về bảo vệ môi trường.
Bảo về môi trường là mục tiêu phát triển chung của bất cứ quốc gia nào khi tiến tời mục tiêu phát triển bền vững, và Việt Nam cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Đầu tư phát triện hệ thống hạ tầng GTĐB có ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng môi trường, như khi xây dựng các công trình giao thông sẽ sinh ra rất nhiều bụi gây ô nhiễm đến môi trường xung quanh, hay sự lưu thông của các phương tiện vận tải lạc hậu cũng sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng…Chính vì vậy để thúc đẩy đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB cần phải có những giải pháp cụ thể nhằm đạt được mục tiêu về môi trường:
-Xây dựng các biểu phí xử phạt đánh vào các phương tiện vận tải cũ hay những phương tiện vận tải gây ô nhiễm môi trường, buộc các chủ phương tiện phải nộp các khoản phí cho việc xả thải khí ô nhiễm ra môi trường xung quanh.Với việc thu phí như vậy sẽ đóng góp đáng kể vào NSNN hàng năm phục vụ cho đầu tư phát triển hạ tầng đường bộ.
-Xây dựng chương trình khuyến khích cho các dự án không gây ô nhiễm môi trường và xử phạt với các dự án tiến hành đầu tư không đạt các tiêu chuẩn về môi trường, điều này sẽ nâng cao ý thức làm việc của người lao động cũng như nâng cao được hiệu quả đầu tư ở các công trình giao thông vận tải nói chung và giao thông đường bộ nói riêng.
2.7.Các giải pháp về phát triển nguồn nhân lực.
Để phát huy được hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong phát triển kinh tế- xã hội nói chung và trong đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ nói riêng thì cần phải chuẩn bị tốt nguồn nhân lực.Vì vậy cần phải có những giải pháp để nhằm nâng cao cả số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực.
Trước tiên cần xây dựng những chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực thực hiện trong hoạt động đầu tư phát triển hạ tầng đường bộ, cần phải xây dựng và triển khai thực hiện chương trình đào tạo đồng bộ từ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ phụ trách khoa học kỹ thuật đến đội ngũ công nhân…và đặc biệt chú tâm vào kỹ năng xây dựng, đánh giá quản lý dự án, nâng cấp năng lực tiếp nhận và đánh giá thông tin.
+Thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá trong phương thức và cách thức đào tạo cán bộ quản lý và thực hiện dự án, sử dụng bao gồm cả hình thức đào tạo trong nước, cử đi học nước ngoài nếu thấy cần thiết, học chính quy trong các chương trình đào tạo tại các trường đại học trong nước, học bán chính quy, tại chức, tập huần, tu nghiệp…Mở rộng hợp tác với nước ngoài đặc biệt là các nước có nhiều kinh nghiệm trong quản lý và đầu tư.Mời chuyên gia giảng dạy, hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật công nghệ, tổ chức hội thảo thường xuyên giữa các đơn vị để có thể nâng cao trình độ tay nghề, khuyến khích hình thức đào tạo tự túc kết hợp giữa các nhân với nhà nước về kinh phí đào tạo,khuyến khích cán bộ có nguyện vọng đi học…
+Tăng cường đạo tạo về luật pháp, chính sách sử dụng vốn NSNN, quản lý đầu tư xây dựng, quy trình thanh toán vốn dự án, kiến thức tin học để thuận tiện cho công tác thu thập và xử lý thông tin, cách thức nâng cao khả năng huy động vốn của NSNN…
+Thực hiện chế độ tuyển dụng cán bộ thông qua thi tuyển, kiểm tra chặt chẽ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo.Thi tuyển thường xuyên để có thể sàng lọc và thay thế những cán bộ không đủ năng lực, tìm thêm những nguồn nhân lực mới, chú trọng đào tạo cán bộ giỏi và là chuyên gia cho ngành.
+Có những chính sách thưởng phạt một cách hợp lý để khuyến khích người lao động và đội ngũ cán bộ làm việc hiệu quả, có những chính sách khuyến khích đối với những cán bộ làm việc ở các vùng sâu vùng xa, làm việc trong môi trường nặng nhọc.
2.8.Các giải pháp về đầu tư phát triển khoa học công nghệ.
Khoa học công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển của nền kinh tế cũng như trong đầu tư vào phát triển hạ tầng GTĐB, áp dụng công nghệ cao hiện đại sẽ rút ngắn được thời gian xây dựng các công trình xây dựng hay có thể xây dựng được những công trình hiện đại mà nếu chỉ vào sức người sẽ không thể xây dựng được như hầm đường bộ qua đèo Hải Vân, đường cao tốc Láng Hoà Lạc…
Vì vậy phát triển khoa học công nghệ không chỉ là mục tiêu hàng đầu của quốc gia mà nó còn là mục tiêu hàng đầu của ngành giao thông đường bộ, để nâng cao khả năng công nghệ của ngành thì cần phải có những giải pháp sau:
-Tăng cường công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ vào trong quản lý cũng như trong thi công các công trình đường bộ, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật của quốc tế phù hợp với các tiêu chuẩn của Việt Nam nhằm tạo ra một hệ thống công nghệ đồng bộ.
-Sử dụng các công nghệ, dây chuyền hiện đại được nhập khẩu từ các nước tiên tiến trên thế giới đồng thời tiến hành đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ kỹ thuật để có thể đáp ứng được các dây chuyền công nghệ đó.
-Có những hình thức khuyến khích đầu tư vào các dự án áp dụng các công nghệ hiện đại như sẽ tạo điều kiện phân bổ vốn đầu từ trước, đáp ứng tối đa nhu cầu vốn của dự án…Khen thưởng và khuyến khích các cá nhân tham gia nghiên cứu công nghệ và có khả năng ứng dụng các công nghệ mới trong quá trình đầu tư và xây dựng.
-Hạn chế việc nhập khẩu các công nghệ cũ như đánh thuế cao đối với các công nghệ này, áp dụng công nghệ thông tin vào trong điều hành và quản lý quá trình đầu tư.
2.9.Hoàn thiện cơ chế đầu thầu và tăng cường quản lý công tác đấu thầu.
Trong thời gian qua, công tác đấu thầu đã bộc lộ nhiều yếu kém làm ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ của dự án do quy chế đấu thầu chưa hoàn thiện và thiếu thông tin vì vậy các nhà quản lý cần hoàn thiện cơ chế đấu thầu để chấm dứt tình trạng trên, phát huy tối đa hiệu quả của vốn NSNN.
Để đảm bảo tính công khai minh trong công tác đấu thầu thì bộ giao thông, bộ kế hoạch và bộ tài chính cần lập kế hoạch đầu thầu dự án rộng rãi dưới hình thức cạnh tranh rộng rãi để có thể lựa chọn được các nhà thầu phù hợp đảm bảo chất lượng và tiến độ của dự án, không nên chia công trình ra làm nhiều gói thầu quá nhỏ để tránh tình trạng lãng phí, không đảm bảo tính tổng thể hơn nữa gói thầu quá nhỏ sẽ không khuyến khích được các nhà thầu tham gia đấu thầu, gây khó khăn cho quản lý.
Quản lý đấu thầu phải thực hiện xuyên suốt từ khâu chuẩn bị đến khâu tổ chức đầu thầu, đánh giá sơ bộ dự thầu, lựa chọn nhà thầu, kí kết hợp đồng.Tránh trường hợp nhà thầu trúng thầu có tên trong hợp đồng nhưng khi thực hiện gói thầu lại là nhà thầu khác.Nghiêm minh xử lý các trường hợp móc nối với nhà quản lý để làm thất thoát vốn của nhà nước.
Cần công khai hoá công tác đấu thầu bằng cách thông tin đấu thầu trên các tờ báo có uy tín, trên mạng Internet để nhà thầu có thể tiện theo dõi, đánh giá hoạt động của ban quản lý dự án, hơn nữa đưa đầy đủ thông tin về dự án để các nhà thầu có những phương án dự thầu hợp lý tránh tình trạng đưa ra những phương án thiếu khả thi khó thực hiện.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22455.doc