Thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005

Mở bài Xuất phát từ chính sách đổi mới nền kinh tế, mở cửa và hội nhập với nước ngoài (1986), ngày 19/2/1987 lần đầu tiên Quốc Hội nước ta đã thông qua luật đầu tư nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam. Qua bốn lần sửa đổi bổ sung vào các năm 1990, 1992, 1996 và gần đây nhất là vào tháng 4/2000, môi trường đầu tư đã được cải thện thông thoáng hơn như: quy định tháo gỡ kịp thời các khó khăn vướng mắc, giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư, mở rộng quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, quy định v

doc49 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề miễn thuế nhập khẩu, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài... Luật đầu tư nước ngoài cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư ở Việt Nam theo các hình thức: - Công ty hợp doanh - Công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài - Hợp đồng hợp tác kinh doanh - Hợp đồng xây dựng - khai thác - chuyển giao (BOT) Nước ta đang trong giai đoạn CHN - HĐH nên việc đẩy nhanh thu hút đầu tư nước ngoài để bổ sung tổng vốn đầu tư phát triển là việc làm có ý nghĩa rất quan trọng và là một trong những động lực cơ bản giúp nước ta đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Khai thác và sử dụng tốt vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế một cách ổn định, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo ra hàng hóa để xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ và cân bằng cán cân thanh toán... Vì vậy, trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2005, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khẳng định ngày càng rõ hơn định hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, hướng mạnh vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Từ tính cấp thiết trên của vấn đề nên em mạnh dạn chọn đề tài này và tập trung đi vào nghiên cứu ba nội dung chính được chia làm ba chương sau: Chương I : Những vấn đề lý luận chung về đầu tư. Chương II : Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Chương III : Những giải pháp cơ bản đảm bảo vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2005. Đề án được hoàn thành nhờ sự cố gắng nỗ lực của bản thân và sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy TS. Phạm Ngọc Linh và đã đạt được nhiều thành công. Tuy nhiên, với thời gian và trình độ có hạn nên đề án này không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót nhất định, mong nhận được lời nhận xét, phê bình khách quan của thầy. Em xin trân thành cảm ơn. Chương I Những vấn đề lý luận chung về đầu tư Đầu tư Khái niệm đầu tư: * Khái niện đầu tư theo nghĩa rộng: Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu hút về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ. * Khái niệm đầu tư theo nghĩa hẹp: Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. * Khái niệm đầu tư phát triển: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho mọi thành viên trong xã hội. Những đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển: * Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển. * Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. * Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế... * Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới (Kim tự tháp cổ Ai Cập, nhà thờ La Mã ở Rôm, vạn lý trường thành ở Trung Quốc, đền ĂngCoVát của Cămpuchia... ). Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển. * Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng lên. Do đó, các điều kiện về địa hình tại đó có ảnh hưởng đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. * Mọi thành qủa và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. * Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đều đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị. Nguồn vốn đầu tư: Vốn đầu tư của đất nước nói chung được hình thành từ hai nguồn cơ bản. Đó là vốn huy động trong nước và vốn huy động từ nước ngoài. Vốn huy động trong nước: Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn vốn sau đây: * Vốn tích lũy từ ngân sách Nhà nước: Sg = T - G Trong đó: + T: Thuế nộp ngân sách + G: Chi tiêu của Chính phủ => Chuyển tiết kiệm của Chính phủ vào đầu tư. * Vốn tích lũy của các doanh nghiệp: Nguồn vốn này ngày càng đóng vai trò quan trọng và có xu hướng tăng lên. Se = Spe + Sge = Dp + Pr Trong đó: + Spe : Tiết kiệm của DN tư nhân + Sge : Tiết kiệm của DN Nhà nước +Dp : Quỹ khấu hao +Pr : Lợi nhuận => Chuyển tiết kiệm của các doanh nghiệp vào đầu tư. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp * Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư sang nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra. * Vốn đầu tư giám tiếp là vốn của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức như: viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, vốn viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển (ODA). Nội dung của vốn đầu tư: Để tiến hành mọi công cuộc đầu tư phát triển đòi hỏi phải xem xét các khoản chi phí sau đây: * Chi phí để tạo ra các tài sản cố định mới hoặc bảo dưỡng sự hoạt động của các tài sản sẵn có. * Chi phí để tạo ra hoặc tăng thêm các tài sản lưu động. * Chi phí chuẩn bị đầu tư. * Chi phí dự phòng cho các khoản chi phí phát sinh không dự kiến trước được. Trong mỗi nội dung trên đây lại bao gồm nhiều khoản chi tùy thuộc vào vị trí, chức năng, bản chất và công dụng của mỗi khoản chi. II. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong đầu tư: 1. Khái niệm và đặc điểm của FDI: Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình di chuyển vốn quốc tế của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra. Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hay dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài * Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tùy theo luật đầu tư của mỗi nước. * Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý. * Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định. * FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại từng phần hay toàn bộ doanh nhgiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sát nhập các doanh nghiệp với nhau. * FDI được thực hiện ít chịu phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa nước chủ đầu tư và nước sở tại. * FDI được thực hiện theo cơ chế thị trường tức là ở đâu có môi trường đầu tư thuận lợi, lợi nhuận cao thì sẽ có nhiều vốn đầu tư được đưa tới. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Trong thực tế, FDI có nhiều hình thức tổ chức khác nhau nhưng các hình thức được áp dụng phổ biến là: * Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Là hình thức đầu tư trong đó bên Việt Nam và bên nước ngoài cùng nhau thực hiện hợp đồng được ký giữa hai bên, quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên trong hoạt động sản xuất, kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân mới. * Công ty liên doanh: Hai bên cùng nhau góp vốn theo một tỉ lệ nhất định để thành lập một xí nghiệp mới (thường là dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn), có hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành riêng. Công ty liên doanh có tư cách pháp nhân Việt Nam. Mỗi bên liên doanh được chia lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo vốn góp, thời gian hoạt động từ 30 - 50 năm. * Công ty 100% vốn nước ngoài: Phía Việt Nam không góp vốn nhưng cung cấp cho bên nước ngoài các dịch vụ cần thiết và cho thuê đất đai, sức lao động... Công ty là một pháp nhân Việt Nam. Công ty 100% vốn nước ngoài là dạng công ty TNHH do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Vốn hoạt động 100% do nước ngoài góp và thời gian hoạt động từ 50 - 70 năm. * Xây dựng, khai thác và chuyển giao (BOT): Là hình thức hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng một công trình, trong đó có nhà thầu bỏ vốn kinh doanh và khai thác công trình trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và lợi nhuận thỏa đáng. Sau đó chuyển giao công trình cho Nhà nước khi chấm dứt hợp đồng mà không đòi hỏi bất cứ khoản tiền nào. * Khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng hoá xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và các hoạt động xuất khẩu, bao gồm một hoặc nhiều xí nghiệp, có ranh giới về mặt địa lý xác định, do Chính phủ quyết định thành lập Đặc khu kinh tế là khu vực mà mục tiêu hoạt động của nó không hoàn toàn hướng vào xuất khẩu mà thực hiện mục tiêu mở cửa kinh tế từng phần nhằm thu hút vốn và kỹ thuật của nước ngoài với chế độ ưu đãi về thuế, về tiền thuê đất và giá nhân công. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài: Tác động tích cực: * Đối với nước xuất khẩu vốn đầu tư: Có khả năng trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Do vậy, vốn đầu tư được sử dụng với hiệu quả cao. Giúp các chủ đầu tư nước ngoài chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu của nước sở tại. Do xây dựng được các doanh nghiệp nằm trong nước sở tại nên tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước sở tại. Do khai thác được nguồn nhân công với giá rẻ nên giúp họ giảm chi phí và nâng cao năng suất lao động. * Đối với Việt Nam (nước sở tại): Tạo điều kiện cho Việt Nam có thể thu hút được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài. Tạo điều kiện cho Việt Nam khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Giúp cho các nước sở tại sử dụng có hiệu quả đồng vốn, mở rộng tích lũy và góp phần vào việc nâng cao tốc độ phát triển kinh tế. FDI đã góp nguồn vốn quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước. FDI góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho người dân. FDI góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. FDI góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, thông qua đó mở rộng thị trường Việt Nam . FDI góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thương mại. FDI góp phần thay đổi bộ mặt đất nước và nâng cấp cơ sở hạ tầng. Chính nhờ việc không ngừng hoàn thiện môi trường đầu tư để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, nên luật pháp Việt Nam được hoàn thiện từng bước, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập. Tác động tiêu cực: Nếu môi trường chính trị và kinh tế ở Việt Nam không ổn định sẽ hạn chế nguồn FDI. Nếu Việt Nam không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, dễ dẫn đến đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng. Việt Nam khó chủ động trong việc cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ. Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẫn đến việc nhập phải các loại công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường Những tác động tiêu cực đến chính trị, xã hội, văn hóa do FDI gây ra. Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam I. Kết quả huy động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ năm 1988 - 2001 1. Kết quả huy động FDI chung: Kết quả đạt được: Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu thêm một thành phần kinh tế mới - kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN). Điều này có ý nghĩa rất to lớn và khẳng định vai trò quan trọng của thành phần kinh tế này đối với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay. Theo bộ Kế hoạnh và Đầu tư, tính đến ngày 15/4/2001, trên cả nước có 2725 dự án ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký trên 36,56 tỷ USD, vốn pháp định trên 16,45 tỷ USD. Vốn đầu tư thực hiện từ năm 1988 đến nay đạt khoảng 20 tỷ USD, trong đó bên nước ngoài dưa vào khoảng 17,7 tỷ USD. Tổng doanh thu đạt khoảng 26 tỷ USD, xuất khẩu khoảng 12 tỷ USD, nộp ngân sách Nhà nước khoảng 1,8 tỷ USD, tạo việc làm cho hơn 350.000 lao động trực tiếp. Những số liệu của bảng dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn tình hình FDI tại Việt Nam trong 14 năm qua: Số dự án FDI được cấp giấy phép 1988 - 2001 Năm Số dự án Vốn đăn ký (Triệu USD) Vốn thực hiện (Triệu USD) Vốn pháp định (Triệu USD) Quy mô dự án (Triệu USD) 1988 37 371,8 366 288,4 10,04 1989 68 582,8 539 311,5 8,57 1990 108 839 677 407,5 7,77 1991 151 1322,3 213 663,6 8,75 1992 197 2165 394 1418 10,98 1993 296 2900 1099 1468 9,79 1994 343 3765,6 1946 1729,9 10,98 1995 370 6530,8 2671 2986,6 17,65 1996 325 8497,3 2646 2940,8 26,14 1997 345 4649,1 3250 2334,4 13,47 1998 275 3897 1900 1805,6 14,17 1999 311 1568 1519 693,3 5,04 2000 371 2012,4 2228 1525,6 5,42 2001 502 2503 2468 1044,1 4,98 Tổng 3699 41604,1 21916 19617,3 153,75 Từ số liệu bảng trên cho thấy: - Trong 9 năm từ 1988 đến 1996, đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam tăng khá, số dự án đăng ký tăng bình quân 31,5%/năm, vốn đăng ký tăng 45%/năm. Nhưng từ năm 1997 đến nay, tốc độ đầu tư giảm sút rõ rệt. Nguyên nhân là do khủng hoảng tài chính trong khu vực và môi trương đầu tư Việt Nam không đủ hấp dẫn. Sang năm 1999, số dự án được cấp phép đã bắt đầu tăng trở lại (tăng 12% so với năm 1998), nhưng số vốn đăng ký mới chỉ bằng 43% năm 1998. Năm 2000, tình hình có vẻ khả quan hơn, số dự án đăng ký tăng 11% và vốn đăng ký tăng 26%. Sự phục hồi bước đầu của ĐTNN vào Việt Nam là dấu hiệu đáng mừng trong bối cảnh đầu tư vào các nước ASEAN vẫn đang giảm sút. Kết quả này có được một phần là nhờ những tác động tích cực của các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong thời gian gần đây, đặc biệt là những cải thiện về môi trường pháp lý kinh doanh cho các nhà đầu tư nước ngoài. - Cũng từ bảng trên ta thấy việc góp vốn, triển khai dự án là khá tích cực. Tính đến ngày 31/12/1999, tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký là 42%, nếu so với các nước trong khu vực thì tỷ lệ đó thuộc loại cao. - Xét về quy mô dự án thì quy mô dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam không lớn, trung bình là 12,6 triệu USD/1 dư án. Đặc biệt trong năm 1999, quy mô bình quân của một dự án quá nhỏ: 5,1 triệu USD/1 dự án, thấp nhất trong 12 năm trước đó. Năm 2000 có phần khá hơn, đạt 5,6 triệu USD/1 dự án. 1.2 Kết quả chưa đạt được: Bên cạnh kết quả huy động FDI đạt được ở trên, tuy nhiên kết quả đó còn hạn chế thể hiện: FDI vào Việt Nam năm 1994 tăng 50% so với 1993, năm 1995 tăng 33% so với năm 1994, năm 1996 tăng 25% so với năm 1995 và đạt cao nhất năm 1997: 2.950 triệu USD, tăng 18% so với năm 1996. Lượng FDI vào Việt Nam tuy tăng lên nhưng tốc độ tăng giảm dần đến năm 1998 đạt 1.900 triệu USD, giảm 36% so với năm 1998. Sang năm 1999, số dự án cấp phép đã bắt đầu tăng trở lại (tăng 12% so với năm 1998) nhưng số vốn đăng ký mới chỉ bằng 43% so với năm 1998. Tình hình này xảy ra là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, sự suy thoái kinh tế của Nhật Bản và một số nước khác. Theo số liệu Việt Nam công bố năm 1999, vốn FDI thực hiện: 1.758 triệu USD và hết tháng 9 năm 2000 chỉ đạt được 812 triệu USD. Rõ ràng không còn nghi ngờ gì nữa, từ năm 1998 đến nay, FDI vào Việt Nam có xu hướng giảm xuống và dấu hiệu hồi phục được đánh dấu vào cuối năm 2000 khi có hai dự án thuộc chương trình khí nam Côn Sơn với số vốn khoảng gần 1 tỷ USD. Tình hình trên ngoài nguyên nhân do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và suy thoái kinh tế của Nhật mà còn do một nguyên nhân cơ bản đó là môi trường đầu tư của Việt Nam chưa đủ hấp dẫn. 2. Kết quả huy động FDI theo ngành: 2.1 Kết quả đạt được: Các dự án ĐTTT nước ngoài đã có mặt ở hầu khắp mọi ngành của nền kinh tế quốc dân và đang có sự chuyển dịch cho phù hợp với yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nếu giai đoạn đầu của các dự án đầu tư chủ yếu tập trung vào xây dựng khách sạn, nhà hàng, văn phòng cho thuê, thì ngày nay chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp. Cụ thể, tính chung cho giai đoạn 1988 -1999: Công nghiệp nặng 16,7%, công nghiệp dầu khí 8,3%, công nghiệp nhẹ 10,5%, công nghiệp thực phẩm 5,89%, xây dựng là 9,75%, xây dựng đô thị 9,14%... Cơ cấu đầu tư theo ngành có thể coi là thích hợp. Trong năm 1999, cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục chuyển dịch phù hợp hơn nữa với với yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong 308 dự án được cấp phép có 255 dự án đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất (chiếm 82,8%) và vốn đăng ký đạt 1.245 triệu USD (chiếm 79,5%). Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có 225 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký 1.049 triệu USD, chiếm 67% vốn đăng ký. Trong năm 2000, ĐTNN có sự chuyển biến lớn về chất so với các năm trước: tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực sản xuất (chiếm 94% tổng số vốn đăng ký), trong số đó lĩnh vực công nghiệp chiếm 90,98%, lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 2,76%, dịch vụ - du lịch chỉ còn chiếm 2,02%. Đã có những dự án khá lớn đầu tư vào lĩnh vực y tế - giáo dục chiếm 3,41%. Số dự án Tổng vốn đăng ký (Triệu USD) Vốn pháp định (Triệu USD) Nông, lâm nghiệp 336 1400,5 655,7 Thủy sản 104 364,9 190,9 Công nghiệp 2102 18216,6 9458,6 Xây dựng 291 4626,1 1738,3 Khách sạn, du lịch 206 4844,9 2091,3 Giao thông vận tải, bưu điện 144 3656,4 2432,1 Tài chính, ngân hàng 34 243,1 215,9 Văn hóa, y tế, giáo dục 117 576,9 232,6 Các ngành dịch vụ khác 38 7674,4 2602,4 Tổng số 3672 41603,8 19617,8 Những kết quả chưa đạt được: Các dự án FDI đã có mặt ở hầu khắp mọi ngành của nền kinh tế, tuy nhiên kết quả huy động được còn nhiều điểm hạn chế, cụ thể là: Đầu tư mới chỉ hướng vào những ngành nghề có khả năng mang lại lợi nhuận nhanh, dẫn đến mất cân đối về huy động FDI vào các ngành. Theo thống kê, tổng vốn đăng ký vào ngành công nghiệp chiếm tới 44%, trong đó công nghiệp dầu khí là 10% trong tổng vốn huy động toàn nền kinh tế. Trong khi đó vốn huy động vào nông, lâm nghiệp chỉ chiếm hơn 3% tổng vốn huy động FDI vào nền kinh tế. Còn văn hóa, y tế, giáo dục chỉ chiếm 1,4% tổng vốn FDI huy động vào nền kinh tế. Như vậy vốn huy động được chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trong khi đó ngành nông, lâm, thủy sản huy động được còn quá ít. Cùng với sự mất cân đối trong huy động FDI giữa các ngành thì việc sử dụng vốn ở các ngành cũng chưa đạt hiệu quả cao như: Ngành công nghiệp và xây dựng có nhiều dự án giải thể trước thời hạn nhất với 323 dự án (chiếm 44% số dự án bị giải thể) với 2.866 triệu USD vốn đầu tư bị giải thể (chiếm 36% tổng vốn đầu tư); ngành xây dựng có 55 dự án bị giải thể trước thời hạn (chiếm 8,56% số dự án được cấp giấy phép); trong nông, lâm, ngư nghiệp, tổng số dự án được cấp giấy phép đầu tư là 347 dự án, trong đó số còn hiệu lực đạt 197 dự án, số dự án giải thể là 150 dự án (chiếm 43,2%) với tổng vốn đầu tư đạt 797,384 triệu USD (chiếm 9,8%); lĩnh vực dịch vụ đã thu hút 636 dự án, trong đó 169 dự án bị giải thể trước thời hạn (chiếm 26,5%) tổng vốn đầu tư đạt 4.418 triệu USD (chiếm 54,6%). Như vậy, chúng ta cần phải có các giải pháp cần thiết và có hiệu quả để huy động FDI vào các ngành ngày càng tăng và cân đối giữa các ngành để tạo nên sự phát triển đồng bộ. Chính sự phát triển mất cân đối đã tạo khoảng cách ngày càng xa giữa các ngành. Cùng với các giải pháp huy động vốn chúng ta cũng cần phải có các giải pháp nhăn ngừa, hạn chế rủi ro trong triển khai, thực hiện các dự án để những nguồn vốn mà ta khó khăn mới huy động được góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 3. Kết quả huy động GDP theo vùng: 3.1 Những kết quả đã đạt được: Kết quả huy động FDI vào vùng kinh tế được thể hiện tổng quát qua hai chỉ tiêu số dự án và vốn đầu tư như sau: VùNG Số dự án và vốn phân theo vùng kinh tế tính đến năm 2000 Vùng núi phía Bắc Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ Vùng Tây Nguyên Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ Vùng đồng bằng sông Cửu Long Chỉ tiêu Đăng ký -Số dự án - Vốn đầu tư 60 331 628 11819 95 2643 60 937 1686 21264 158 1171 Còn hiệu lực -Số dự án - Vốn đầu tư 42 264 499 10888 74 1984 50 898 1400 17305 114 1006 Vốn thực hiện 156 3999 426 119 7313 714 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Như vậy, đầu tư nước ngoài vào các vùng kinh tế trọng điểm chiếm tỷ trọng lớn, các dự án có quy mô lớn, và quan trọng là hầu hết tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ và Bắc bộ, nơi có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, sức tiêu thụ lớn, điều kiện phát triển kinh tế thuận lợi hơn cả. Vốn đầu tư còn hiệu lực của ba vùng kinh tế trọng điểm chiếm 83,9% vốn còn hiệu lức của cả nước. Trong đó, vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ chiếm 47% so với cả nước. Về cơ cấu đầu tư theo nghành, tại các vùng kinh tế ta có số liệu bảng dưới đây: VùNG kinh tế Số dự án và vốn phân theo vùng kinh tế tính đến năm 2000 Vùng núi phía Bắc Vùng KT trọng điểm Bắc bộ Vùng KT trọng điểm Trung bộ Vùng Tây Nguyên Vùng KT trọng điểm Nam bộ Vùng đồng bằng sông Cửu Long 1. Ngành -CN nặng -CN nhẹ -CN thực phẩm -Nông,lâm nghiệp -Xây dựng -Khách sạn, Du lịch -GTVT & Bưu điện -XD văn phòng 2. Vốn ĐT còn hiệu lực bình quân/tỉnh (Triệu USD) 12,2 63,8 9,3 6,5 5 0 0 0 22 24,2 0 0 0 9,4 19,7 13,5 9,4 1912,95 4,6 0 23,3 16,5 22,8 17,3 0 0 495,88 0 9,9 0 54,6 0 35,4 0 0 299,38 8 19,4 0 0 0 0 0 15,4 4326,28 0 13,6 10,9 10,2 57,6 0 0 0 3,82 Số liệu bảng trên cho thấy vốn FDI huy động được vào các vùng kinh tế rất đa dạng theo các ngành và giữa các vùng có sự khác nhau rõ rệt, các vùng kinh tế trọng điểm vốn FDI phân bổ không tập trung mà dàn trải vào nhiều ngành nghề khác nhau. Trong khi đó, các vùng đầu tư kinh tế khác, vốn đầu tư tập trụng hơn cho một số ngành nghề chủ yếu chiếm gần 100% tổng số vốn của vùng. Tuy nhiên, sự tập trung đó cũng chưa thực sự hợp lý với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của vùng trừ Tây Nguyên đã tập trung 54,6% số vốn đầu tư. Vùng đồng bằng sông Cửu Long lại quá tập trung vào ngành xây dựng chiếm gần 60% tổng vốn trong khi nông nghiệp là thế mạnh của vùng chỉ chiếm có 10%. Về quy mô vốn bình quân/tỉnh và vốn thực hiện cho thấy vốn chủ yếu tập trung vào các tỉnh Nam bộ và Bắc bộ. 3.2 Những kết quả chưa đạt được: * FDI vào các vùng kinh tế có sự chênh lệch quá lớn. ở các vùng kinh tế trọng điểm, mặc dù không có sự ưu đãi về tiền thuê đất, tiền thuế nhưng lại có điều kiện thuận lợi về thị trường tiêu thụ sản phẩm, lao động và cơ sở hạ tầng... nên các dự án đầu tư vào các vùng này có lợi hơn nhiều so với các vùng kinh tế khó khăn do hoạt động có hiệu quả hơn nên thu hồi vốn đầu tư nhanh. Tuy nhiên, riêng vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ chưa tạo được môi trường đầu tư thuận lợi nên khó thu hút vốn đầu tư. * Các vùng chưa phát huy được thế mạnh của mình trong thu hút FDI. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và Nam bộ đều có cơ sở hạ tầng thuận lợi nhưng FDI vào vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ chỉ bằng 55% về vốn và 37% số dự án so với vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ. * Vùng núi phía Bắc có tới 12 tỉnh nhưng chỉ thu hút được 246 triệu USU vốn FDI trong khi Tây Nguyên chỉ có 3 tỉnh lại thu hút được 898 triệu USD vốn gấp 3,4 lần. Trong nội bộ từng vùng cũng có sự khác biệt đáng kể. Chẳng hạn vùng núi Bắc bộ Phú Thọ có 6 dự án còn hiệu lực với vốn đăng ký 119 triệu USD trong khi Hà Giang chỉ có 1 dự án vốn đăng ký 0,5 triệu USD, Cao Bằng, Bắc Kạn không có dự án nào. * Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ trong khi Hà Nội hiện có 345 dự án với 8102 triệu USD thì ở Hưng Yên cách Hà Nội không xa khoảng trên dưới 30 km đường quốc lộ chỉ có 9 dự án với tổng vốn 75 triệu USD. * Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ: Nếu như TP.Hồ Chí Minh có 815 dự án với 9.763 triệu USD thì Bà Rịa Vũng Tàu chỉ có 60 dự án với 1.100 triệu USD. Như vậy, mặc dù cùng nằm trong một vùng kinh tế với những điều kiện kinh tế, xã hội gần giống nhau nhưng thu hút FDI rất khác nhau. 4. Kết quả huy động FDI theo địa phương: 4.1 Những kết quả đạt được: Tính hết năm 1999, nguồn vốn FDI đã có mặt trên 61 tỉnh, thành phố trong cả nước, nhưng tập trung chủ yếu ở các trọng điểm của miền Nam và miền Bắc. Tính chung cho 12 năm đầu (1988 - 1999) bẩy tỉnh và thành phố là: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Hải Phòng và Quảng Ngãi đã tập trung thu hút 75% số dự án và 76% số vốn đầu tư đăng ký trong cả nước. Riêng năm 1999, có 36 tỉnh và thành phố có dự án FDI. Trong đó TP. Hồ Chí Minh vẫn giữ vị trí đứng đầu, tiếp theo đó là các tỉnh: Bình Dương, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An và Hải Phòng. So với năm 1998 thì năm 1999 đã có thêm một số địa phương mới ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn có dự án FDI như: Lào Cai, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ, Bình Phước, Bến Tre... Năm 2000, thực hiện chủ trương phân cấp trong lĩnh vực cấp giấy phép FDI, bộ Kế Hoạch và Đầu Tư chỉ cấp 24 giấy phép (với tổng vốn đăng ký gần 1.300 triệu USD) trong khi ủy ban Nhân Dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung Ương cấp tới 166 giấy phép (197,7 triệu USD), ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất cấp 154 giấy phép (475 triệu USD). Vị trí xếp hạng trong năm về thu hút FDI giữa các địa phương cũng có sự thay đổi đáng kể, đứng đầu là Bình Dương 330,7 triệu USD, sau đó là TP. Hồ Chí Minh 89,7 triệu USD, Đồng Nai 95,9 triệu USD, Bà Rịa - Vũng Tàu 35,6 triệu USD, Hà Nội đướng cuối cùng 33,2 triệu USD. Số dự án FDI được cấp giấy phép 1988-2001 phân theo địa phương Địa phương Số dự án Tổng vốn đăng ký Vốn pháp định Địa phương Số dự án Tổng vốn đăng ký Vốn pháp định ĐB.Sông Hồng 740 10753,9 5346,0 Duyên hải Nam Trung Bộ 180 2838,4 1520,7 Hà Nội 503 7964,1 4104,2 Đà Nẵng 82 1038,2 468,5 Hải Phòng 120 1523,3 678,1 Quảng Nam 1 0,5 0,2 Vĩnh Phúc 4 16,8 8,8 Quảng Ngãi 9 1337,3 819,3 Hà Tây 33 467,2 199,6 Bình Định 9 39,6 17,1 Bắc Ninh 3 8,3 6,2 Phú Yên 15 82,4 24,3 Hải Dương 45 628,4 264,2 Khánh Hòa 64 340,4 191,3 Hưng Yên 3 9,7 6,4 Tây Nguyên 67 934,5 164,7 Hà Nam 14 38,5 32,5 Kon Tum 1 4,4 2,2 Thái Bình 7 7,3 4,2 Gia Lai 3 29,9 19,1 Ninh Bình 8 90,3 41,8 Đắk Lắk 6 28,9 12,0 Đông Bắc 171 1623,1 649,0 Lâm Đồng 57 871,3 131,4 Hà Giang 1 0,5 0,5 Đông Nam Bộ 2230 20663,7 9098,1 Cao Bằng 2 2,0 1,7 TP.HCM 1178 10721,9 5013,4 Lào Cai 11 3,2 17,5 Ninh Thuận 3 27,1 11,5 Bắc Kạn 15 64,8 29,9 Bình Phước 390 2016,9 926,7 Lạng Sơn 17 18,8 13,45 Tây Ninh 47 242,8 98,8 Tuyên Quang 2 8,2 2,9 Bình Dương 111 174,6 68,1 Yên Bái 7 16,9 11,5 Đồng Nai 370 3999,5 1558,3 Thái Nguyên 2 3,4 1,7 Bình Thuận 23 93,4 39,8 Phú Thọ 37 441,2 191,9 Bà Rịa-Vũng Tàu 108 33387,5 1381,5 Bắc Giang 14 148,2 63,6 Đồng Bằng SCL 173 953,6 491,8 Quảng Ninh 63 885,9 314,3 Long An 56 294,8 169 Tây Bắc 12 59,0 22,3 Đồng Tháp 9 16,6 9,6 Lai Châu 2 14,2 4,4 An Giang 12 18,9 10,9 Sơn La 3 21,6 7,9 Tiền Giang 11 96,0 41,1 Hòa Bình 7 2,2 17,0 Vĩnh Long 6 10,8 7,0 Bắc Trung Bộ 57 887,0 352,4 Bến Tre 9 34,0 14,2 Thanh Hóa 11 430,1 143,2 Kiên Giang 16 231,5 113,9 Nghệ An 13 222,6 88,3 Cần Thơ 35 182,1 74,5 Hà Tĩnh 9 52,9 19,5 Trà Vinh 6 36,9 15,2 Quảng Bình 6 34,6 12,0 Sóc Trăng 1 0,8 0,7 Quảng Trị 1 3,2 3,2 Bạc Liêu 12 31,2 35,7 Huế 17 143,6 86,2 Tổng số 3630 3871,1 17644,9 4.2 Những kết quả chưa đạt được: FDI chỉ tập trung vào những địa phương có nhiều thuận lợi như các thành phố lớn, các trung tâm công nghiệp trong khi các tỉnh miền núi, nông thôn còn quá nhỏ bé, không đáng kể. Chẳng hạn, TP. Hồ Chí Minh chiếm 33,6% số dự án và 28,8% tổng vốn đầu tư; Hà Nội chiếm 13,8% số dự án và 28,8% tổng vốn đầu tư; Đồng Nai chiếm 9,3% số dự án và 8,7% vốn đầu tư. Tính chung cho 12 năm (1988 - 1999) bẩy tỉnh: TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu chiếm tới 75% số dự án và 76% tổng số vốn đăng ký trong cả nước. Trong khi ở các địa phương khác chiếm chưa đến 1% số dự án cũng như vốn đầu tư. Qua số liệu trên ta thấy sự mất cân đối quá lớn trong việc huy động FDI vào các dịa phương. Nhà nước cần có các biện pháp, chính sách huy động FDI vào các địa phương sao cho cân ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0178.doc