Thực trạng dân số Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động trong quá trình hội nhập kinh tế

Lời nói đầu Trong những thập kỷ vừa qua dân số trên hành tinh chúng ta đã phát triển một cách nhanh chóng đặc biệt là ở các nước đang phát triển và kém phát triển. Dân số tăng nhanh trong khi tỷ lệ lương thực, thực phẩm lại tăng chậm làm phát sinh nhiều vấn đề kinh tế xã hội toàn cầu. Đất đai canh tác ngày càng bị thu hẹp diện tích canh tác giảm dần thiếu lương thực phẩm rồi các cuộc chiến tranh giữa các khu vực trên thế giới đang ngày càng đe doạ cuộc sống của loài người. ở nước ta dân số khô

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1481 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng dân số Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động trong quá trình hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ngừng tăng lên nhất là sau cuộc chiến tranh tốc độ tăng dân số tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng dân số thế giới trong khi đó kinh tế lại chậm phát triển. Mặc dù sau đại hội sáu đường lối kinh tế đã có sự thay đổi cơ chế kinh tế chuyển từ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng do những khó khăn của đất nước sau chiến tranh cộng với đường lối kinh tế tập chung quan liêu bao cấp mà nạn thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn ngày càng tăng và nó trở thành một bài toán khó cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế xã hội của đất nước. Dân số tăng nhanh nên cung nguồn nhân lực lớn mà cầu lao động lại chưa đáp ứng được yêu cầu của cung nên thất nghiệp ngày càng lớn . Dân số có quan hệ mật thiết với thị trường lao động nhất là trong quá trình tiến tới gia nhập WTO và AFTA.Do mối quan hệ mật thiết giữa dân số và thị trường lao động nên em quyết định chọn đề tài: "Thực trạng dân số Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động trong quá trình hội nhập kinh tế". Em rất mong được được sự đóng góp giúp đỡ của các thầy cô và các bạn để em hoàn thành tốt hơn đề tài này . Phần I: Lý luận cơ bản về dân số, thị trường lao động và hội nhập kinh tế I. Các khái niệm về dân số có liên quan 1. Quy mô, cơ cấu, tốc độ tăng dân số 1.1. Quy mô dân số. Khái niệm: Quy mô dân số là tổng số dân sinh sống trong những vùng lãnh thổ nhất định vào những thời điểm xác định. Như vậy vào thời điểm đầu năm, cuối năm, giữa năm và bằng những phương pháp chuyên môn thích hợp người ta có thể xác định được số lượng người cư trú trong những vùng lãnh thổ hay quốc gia. Quy mô dân số là một chỉ tiêu dân số học rất cơ bản cần được nghiên cứu để so sánh phân tích với các chỉ tiêu kinh tế xã hội nhằm lý giải nguyên nhân của của tình hình và hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Tuỳ theo yêu cầu của quá trình nghiên cứu mà có thể có những số liệu về quy mô dân số. Khi tiến hành tổng điều tra dân số ta có số liệu về dân số thời điểm và khi tiến hành thống kê hộ tịch hoặc điều tra chọn mẫu ta có quy mô dân số thời kỳ. 1.2. Cơ cấu dân số Khái niệm: Cơ cấu dân số là sự phân chia toàn bộ dân số thành các bộ phận khác nhau theo các đặc trưng khác nhau. Các đặc trưng chủ yếu dùng để phân chia là: độ tuổi, giới tính, trình độ văn hoá, dân tộc. Tương ứng với các đặc trưng trên sẽ có nhiều cơ dân số tương ứng với mỗi đặc trưng. - Cơ cấu dân số theo giới tính là sự phân chia toàn bộ dân số thành hai bộ phận nam và nữ. Cơ cấu dân số theo giới tính có vị trí rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu dân số nói chung. Các số liệu về cơ cấu dân số theo giới tính phục vụ cho nhiều mục đích nghiên cứu các vấn đề kinh tế xã hội…sự khác biệt về tuổi và giới có thể giải thích được mức độ tham gia hoạt động kinh tế của dân số. - Cơ cấu dân số theo từng năm tuổi hay độ tuổi năm năm… - Cơ cấu dân số theo trình độ giáo dục trước hết là sự phân chia toàn bộ dân số từ 5 tuổi trở lên theo số người biết đọc, biết viết, sau đó lại chia theo đang đi học, số người đã thôi học và chưa bao giờ đi học. Việc phân chia cơ cấu dân số theo trình độ giáo dục giải thích được nguyên nhân của chiến lược phát triển kinh tế xã hội về việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong quá trình sản xuất. 1.3. Tốc độ tăng dân số. Khái niệm: Tốc độ tăng dân số trong một thời kỳ là sự chênh lệch về quy mô dân số ở đầu thời kỳ và cuối thời kỳ thường được tính là một năm. 2. Mức sinh và mức chết. 2.1. Mức sinh. Các nhân tố ảnh hưởng đến mức sinh: + Các yếu tố tự nhiên sinh vật: tuổi sinh đẻ của phụ nữ thường từ 15 đến 49 tuổi. Nơi nào có số người trong độ tuổi sinh đẻ cao thì mức sinh cao và ngược lại nếu số người trong độ tuổi sinh đẻ thấp thì mức sinh thấp. + Tập quán và tâm lý xã hội: Trong xã hội cũ thường có tâm lý thích con trai, tâm lý thích có nhiều con và kết hôn sớm. Nhưng trong xã hội ngày nay thường là có tâm lý thích lấy vợ muộn, gia đình ít con và sự bình đẳng nam và nữ được thừa nhận trong xã hội do đó tâm lý muốn có con trai dù lần nào sinh cũng là gái đã ít có sự tác động đến mức sinh. + Những yếu tố kinh tế: Nhóm yếu tố này rất đa dạngvà tác động rất khác nhau thường thì đời sống kinh tế thấp thì y tế, giáo dục không được tăng cường do đó tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi thường rất cao do đó có tác dụng thúc đẩy làm cho mức sinh cao và ngược lại khi kinh tế xã hội càng phát triển thì mức sinh càng thấp. + Chính sách dân số: chính sách dân số là những chủ trương biện pháp của nhà nước nhằm điều tiết quá trình biến đổi dân số. Chính sách của nhà nước có thể là khuyến khích hoặc hạn chế mức sinh tuỳ theo đặc điểm kinh tế xã hội của từng thời kỳ. Còn trong giai đoạn hiện nay thường là chính sách hạn chế mức sinh nhằm kiểm soát được mức tăng dân số. - Xu hướng biến động mức sinh: Mức sinh chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau nhưng nó vẫn diễn ra theo xu hướng nhất định. Mức sinh hiện nay đã giảm mạnh nhưng vẫn có sự chênh lệch giữa các vùng của đất nước. Tỷ lệ sinh con thứ ba vẫn còn cao. Năm 1996 tỷ lệ sinh con thứ ba vẫn còn cao chiếm 37,7% trên tổng số ca sinh. 2.2. Mức chết: Khái niệm về chết: Chết là sự mất đi vĩnh viễn tất cả các biểu hiện của sự sống ở một thời điểm nào đó sau khi có sự kiện sinh sống xảy ra. - Các yếu tố ảnh hưởng đến mức chết: + Mức sống của dân cư: mức sống càng cao thì đời sống vật chất của con người ngày càng được bảo đảm, hệ thống y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng ngày càng được phát triển con người ngày có khả năng chống đỡ lại các loại bệnh tật và ngược lại. + Trình độ phát triển của y học, mạng lưới y tế phòng bệnh: Trình độ phát triển của y học cao, mạng lưới y tế vệ sinh phòng bệnh phát triển th có khả năng hạn chế được mức chết và ngược lại. + Môi trường sống: Con người sống trong tự nhiện nên môi trường có tác động trực tiếp đến sức khoẻ của họ, nếu môi trường sống ngày càng ô nhiễm thì sức khoẻ của con người bị ảnh hưởngvà ngược lại khi con người quan tâm đến chính môi trường sống của họ thì càng có khả năng hạn chế những tác động có hại của môi trường đến sức khoẻ và tuổi thọ của con người. + Cơ cấu dân số: Đặc biệt là cơ cấu về tuổi có ảnh hưởng rất lớn đến mức chết. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi và tỷ lệ người cao tuổi lớn đều có khả năng thúc đẩy tỷ suất chết thô cao. - Xu hướng biến động mức chết: Trong những năm gần đây mức chết đã giảm nhanh so với các nước trên thế giới thì mức chết ở nước ta thuộc loại thấp. Tuy vậy mức chết giữa các vùng có sự chênh lệch rất lớn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội giữa các vùng, mức sống của người dân. 3. Biến động cơ học dân số: Di dân: có nhiều định nghĩa khác nhau về di dân xuất phát từ các phương diện nghiên cứu khác nhau. Nhưng theo cách hiểu chung nhất thì di dân là sự di chuyển của người dân theo lãnh thổ với những chuẩn mực về không gian và thời gian nhất định kèm theo nó là sự thay đổi của nơi cư trú. - Phân loại: Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà chia ra di dân có tổ chức và di dân không có tổ chức hoặc tuỳ theo khu vực mà chia ra di dân nông thôn-thành thị, nông thôn- nông thôn, thành thị- thành thị, thành thị- nông thôn. - Nguyên nhân của di dân + Nguyên nhân “hút-đẩy”tại vùng chuyển đến và chuyển đi. Các nguyên nhân là lực hút tại vùng có dân cư chuyển đến gồm: đất đai màu mỡ, môi trường sống thuận lợi, điều kiện làm việc tốt, dễ kiếm việc làm có điều kiện cải thiện đời sống, môi trường xã hội tốt hơn. Các nguyên nhân là lực đẩy của người di dân gồm điều kiện sống khó khăn, thu nhập thấp, đất đai canh tác ít, cơ hội tìm kiếm việc làm là rất khó khăn… +Nguyên nhân có liên quan đến sự đồng thuận: Như muốn gần gũi người thân, do bị mặc cảm về các vấn đề xã hội liên quan đến cá nhân, họ không muốn ở lại nơi sinh sống cũ nhằm thay đổi môi trường xã hội tốt hơn. 4. Chất lượng dân số: Khái niệm: Chất lượng dân số được hiểu là toàn bộ thể lực, trí lực của con người nói chung. Chất lượng dân số bao hàm chất lượng của những người từ lúc mới sinh cho đến khi chết ở cả nam và nữ. Chất lượng dân số không chỉ được đánh giá về mặt nhân trắc học mà còn được đánh giá qua hàng loạt những chỉ tiêu khác. Các chỉ tiêu tổng quát dùng để đánh giá chỉ số phát triển con người: + Tổng sản phẩm quốc nội(GDP): GDP bình quân đầu người phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội của một nước trong một năm cụ thể. Nó được tính bằng tổng số sản phẩm của một quốc gia làm ra trong một năm chia cho tổng số dân số của quốc gia đó. Do vậy chỉ tiêu này đồng thời biểu hiện chất lượng chất lượng dân số,mức sống của người dân. + Chỉ số phát triển con người (HDI): HDI bổ sung cho GDP bình quân đầu người trong việc đánh giá vị trí của một quốc gia về phát triển con người hay sự tiến bộ của quốc gia đó về động thái phát triển con người theo thời gian. + Một số chỉ tiêu cụ thể: Sức khoẻ và dinh dưỡng, các thông số về sức khoẻ và dinh dưỡng phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng của trẻ em trong quá khứ. II. Khái niệm về thị trường lao động 1. Khái niệm: Thị trường lao động là sự trao đổi của hàng hoá sức lao động giữa một bên là những người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó. - Đặc điểm của thị trường lao động: Thị trường lao động Việt Nam đã được hình thành nhưng còn nhiều bất cập. Bộ luật lao động nước ta cũng đã thừa nhận quyền của người lao động cũng như người sử dụng lao động. Người lao động có quyền làm cho bất kỳ người sử dụng lao động nào, ở bất cứ đâu và với người sủ dụng lao động thì được tự do lựa chọn người lao động phục vụ cho yêu cầu của họ. Tuy nhiên hệ thống thể chế thị trường lao động còn chưa đây đủ, đồng bộ, còn chồng chéo, phức tạp cũng như còn nhiều khe hở. + Hàng hoá trao đổi trên thị trường là hàng hoá sức lao động gắn chặt với một chủ thể cụ thể hay nói cách khác hàng hoá sức lao động gắn chặt với người mang nó. Hàng hoá sức lao động không có khả năng tách rời giữa người sở hữu với vật sở hửu. + Hàng hoá sức lao động trong quá trình sử dụng nó làm cho giá trị và giá trị sử dụng tăng lên. Hàng hoá sức lao động được mang ra trao đổi trên thị trường thông qua người mang nó và phải được cung cấp cho một lượng lương thực thực phẩm và các nhu cầu tinh thần khác để tồn tại và phát triển. Giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng mang tính đặc thù riêng. Về mặt giá trị giá trị hàng hoá là thời gian lao động xã hội cần thiết kết tinh trong hàng hoá đó. Còn giá trị sức lao động được biểu hiện không phải là thời gian cần thiết để sản xuất ra nó mà chỉ là thời gian lao động xã hội cần thiết để duy trì và phát triển sức lao động đó. Vì không thể tính hết được chi phí cho sự hình thành sức lao động do đó hàng hoá sức lao động không tách rời người sở hữu nó. Những người lao động có trình độ càng làm việc thì trình độ ngày càng cao do đó giá trị sức lao động ngày càng cao và sản phẩm họ sản xuất ra ngày càng tốt hơn. + Thị trường lao động là thị trường có tính đa dạng và không có điểm cân bằng duy nhất, người lao động không đồng nhất: Thị trường lao động là một khái niệm chung nhưng thực tế lại có rất nhiều thị trường cho các công việc khác nhau nó khác nhau rất nhiều ở cả phạm vi, khả năng và cả theo không gian thời gian tuy nhiên các thị trường này luôn có mối liên hệ với nhau và có sự di chuyển lao động từ vùng này sang vùng khác Đối với các hàng hoá thông thường được trao đổi trên thị trường nó luôn có một mức giá bán chung hoặc nếu có sự chênh lệch là rất ít vì có sự liên lạc giữa các cơ sở bán hàng nhưng với thị trường lao động không có sự liên lạc hay nếu có thường kém phát triển và do đó người lao động không sẵn sàng di chuyển nơi làm việc vì chi phí cho sự thay đổi này thường là lớn hoặc nếu có sự thay đổi nơi làm việc thì rất ít. Mặc dù đã có sự ra đời của các tổ chức hỗ trợ để thực hiện sự cân bằng của thị trờng việc làm nhưng hoạt động của các tổ chức này vẫn còn chưa phát triển. Trong thị truờng lao động thì người lao động có trình độ chuyên môn được đào tạo rất khác nhau, khả năng làm việc cũng khác nhau ngoài ra họ còn khác nhau về tuổi tác,giới tính, nguồn gốc xuất thân, động lực làm việc khác nhau do đó trong thị trường lao động người lao động không có sự đồng nhất. + Sự yếu thế của người lao động trong các thoả thuận việc làm: Trong thị trường lao động Việt Nam thì cung lao động luôn lớn hơn cầu lao động nhiều người lao động cùng tìm đến người sử dụng lao động mà người lao động rất mong tìm được việc làm nhanh nhất do đó người sử dụng lao động dễ dàng có sự thoả thuận tốt hơn cho họ. 2. Khái niệm cung lao động và các yếu tố ảnh hưởng 2.1. Khái niệm: Cung lao động là lượng lao động mà người làm thuê có thể bán sức lao động của mình trên thị trườngvới mức giá nhất định. 2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến cung lao động Quy mô, cơ cấu, tốc độ tăng dân số gắn chặt với quy mô,cơ cấu của cung lao động nhưng nó không có tác động trực tiếp ngay đến cung lao động vì mỗi người từ khi sinh ra đến khi lớn lên phải sau 15 năm mới đến tuổi lao động nên nó có tác động đến cung lao động sau một thời gian nhất định. Cung lao động có thể hiểu là bộ phận sức lao động được đưa ra trên thị truờng. Ngoài mối quan hệ chặt chẽ với quy mô, cơ cấu tốc độ tăng dân số nó còn phụ thuộc vào số người tham gia vào độ tuổi lao động của các nhóm tuổi. Số người đến tuổi lao động tham gia vào lực lượng lao động của các nhóm tuổi cao thì cung lao động lớn và ngược lại. Khi điều kiện sống thay đổi theo hướng tốt hơn cho người lao động thì cung thời gian lao động sẽ giảm và ngược lại. Sự tác động của nhà nước qua hệ thống các chính sách kinh tế xã hội như chính sách bình đẳng giới làm cho mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới được được bình đẳng hơn làm gia tăng tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi lao động tham gia vào thị trường lao động. Các cơ chế chính sách của đảng và nhà nước ngày càng có nhiều hơn để khuyến khích người lao động tham gia vào thị trường lao động nhằm phát huy hết khả năng của người lao động và để sử dụng tối đa thời gian lao động của người lao động. Chế độ tuyển dụng đối với người lao động cũng đã có sự thay đổi rõ nét: Chế độ tuyển dụng đối với người lao động chuyển từ chế độ tuyển dụng suốt đời sang chế độ hợp đồng lao động như: hợp đồng không xác định thời hạn,hợp đồng lao động có thời hạn từ 3 tháng đến 36 tháng, hợp đồng lao động tạm thời theo mùa vụ. Ngoài ra cung thời gian lao động còn phụ thuộc vào giá cả sức lao động. Sự thay đổi của cung lao động thể hiện sự thay đổi của giá cả sức lao động. Về nguyên tắc thì giá cả sức lao động tỷ lệ thuận với cung thời gian lao động. Khi giá cả sức lao động tăng thì càng nhiều người lao động muốn tham gia làm việc để tăng tiền lương. Tuy nhiên không phải bất cứ lúc nào việc tăng tiền lương cũng có tác động làm thu hút thêm lao động. Cung lao động còn phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu sở thích của người lao động tuỳ theo nhu cầu sở thích của mỗi người lao động mà tỷ lệ tham gia vào thị trường lao động của người lao động cao hay thấp. Điều này có thể giải thích được nguyên nhân của hiện tượng những người trong độ tuổi từ 15-20 và 20- 25 tham gia thị trường lao động lại ít hơn so với các độ tuổi khác bởi vì trong độ tuổi này người lao động có nhu cầu học tập cao hơn so với nhu cầu làm việc. Nhu cầu cuộc sống cũng có tác động rất lớn đến cung lao động bởi vì những người có điều kiện sống khó khăn thì có mong muốn làm việc thật nhiều để thoả mãn nhu cầu về vật chất của cuộc sống do đó cung lao động lớn và ngược lại. 3. Khái niệm về cầu lao động và các yếu tố ảnh hưởng 3.1. Khái niệm: Cầu lao động là lượng lao động mà người làm thuê có thể thuê ở một mức giá nhất định. 3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu lao động: + Năng suất lao động để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ đó: chính là sức lao động sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Khi năng suất lao động tăng lượng lao đông hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm. Để duy trì được việc làm cho người lao động thì nhu cầu của thị truờng về hàng hoá đó phải tăng. Nếu nhu cầu sản phẩm không tăng thì chỉ cần thuê ít lao động làm cho cầu lao động đã thay đổi. + Giá cả thị trường của loại hàng hoá dịch vụ sẽ tác động đến số lượng sản phẩm được sản xuất ra. Khi giá cả của loại hàng hoá dịch vụ tăng sẽ tác động làm tăng số lượng cầu lao động và ngược lại. + Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia hay của vùng. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005 là hạ tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực đô thị xuống còn 5,4%, tăng tỷ lệ thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80%, tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% trong đó đào tạo nghề là 18,6%. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2005 sẽ tạo điều kiện để phát huy nội lực trong nước và tăng cường huy động thu hút thêm các nguồn vốn từ bên ngoài để mở rộng sản xuất tạo việc làm cho người lao động nhằm kích cầu lao động. +Tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng làm tác động đến cầu lao động: Khi sản xuất được ứng dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật sẽ làm cho nền sản xuất công nghiệp của nước ta dịch chuyển từ sản xuất thủ công cơ khí sang nền sản xuất công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mức độ chuyên môn hoá trong sản xuất cao nên mỗi người lao động chỉ làm những thao tác nhỏ trong một dây chuyền sản xuất mà vẫn cho năng suất lao động tăng thêm nhiều. Do đó nếu áp dụng đồng loạt các tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất sẽ làm giảm lượng cầu lao động và việc giải quyết lao động dôi dư sau quá trình này là rất lớn. Để giải quyết được vấn đề này cần phải có sự quan tâm giải quyết của nhà nước và phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các nghành các cấp trong vấn đề giải quyết việc làm. + Hệ thống các chính sách điều tiết của nhà nước: Qua hệ thống các chính sách của nhà nước có tác dụng tìm kiếm mô hình kinh tế có khả năng sử dụng nhiều nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Có nhiều mô hình kinh tế khác nhau nhưng phải tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế để có thể lựa chọn được mô hình kinh tế phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay. Điều kiện của Việt Nam hiện nay là quy mô nguồn nhân lực lớn nhưng chất lượng nguồn nhân lực lại chưa cao, số lao động được sử dụng vào trong quá trình sản xuất kinh doanh thấp. Do đó cần phải dựa vào mối tương quan giữa nguồn vốn đầu tư và hiệu quả kinh tế đạt được trong đó kỹ thuật sản xuất có liên quan đến việc sử dụng nhiều hay ít lao động. Thông qua hệ thống các chính sách điều tiết của nhà nước cần lựa chọn các chính sách kinh tế tạo ra việc làm có hiệu quả ở cả trong nước và nước ngoài nhằm phát huy điều kiện thuận lợi của nguồn lao động. III. Hội nhập kinh tế và mối quan hệ giữa dân số với thị trường lao động và hội nhập kinh tế 1. Khái niệm hội nhập kinh tế: Hội nhập kinh tế là sự tham gia của một nước vào quá trình phân công lao động quốc tế là một yêu cầu khách quan của quá trình sản xuất dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ khoa học công nghệ. Hội nhập kinh tế là một chủ trương đường lối lớn của đảng và nhà nước nhằm đưa nền kinh tế nước ta phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập kinh tế phải giữ vững được độc lập, tự chủ, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài nhằm phát huy các lợi thế của đất nước. Khái niệm về toàn cầu hoá: Toàn cầu hoá về kinh tế là những mối quan hệ kinh tế vượt qua phạm vi biên giới của quốc gia vươn tới quy mô toàn thế giới đạt trình độ và chất lượng mới. Qua toàn cầu hoá có sự lưu chuyển ngày càng tự do nhiều loại hàng hoá như vốn, công nghệ vượt qua phạm vi biên giới của quốc gia. Việt Nam là một nước mà tồn tại rất nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế đó là vốn ít, cung lao động lớn, trình độ của người lao động còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó Việt Nam cần phải tận dụng các cơ hội của toàn cầu hoá để làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống. Qua quá trình toàn cầu hoá làm cho thị trường lao động Việt Nam có những biến đổi rất lớn đó là nó tạo ra những điều kiện thuận lợi về hạ tầng cơ sở, thu hút được nhiều nguồn vốn từ bên ngoài kể cả về vốn và con người mở ra khả năng thu hút được nguồn vốn FDI để đầu tư vào các ngành sản xuất với trình độ cao. Qua toàn cầu hoá nó mở ra thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các ngành nông nghiệp và nhiều ngành sản xuất khác. Đồng thời nó cũng thúc đẩy sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia nhờ thu hút được vốn đầu tư từ nước ngoài. Qua toàn cầu hoá thúc đẩy các nước sử dụng được nguồn nhân lực dồi dào giá rẻ và giảm bớt được các ngành sử dụng nhiều lao động. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ và có tác dụng qua lại nhằm phát huy được ưu điểm của nhau: Qua toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế sẽ tạo điều kiện cho nước ta tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế để phát triển hơn nữa xuất khẩu lao động chuyên gia và người lao động ra làm việc ở nước ngoài. Trong quá trình phát triển sản xuất để tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các loại hàng hoá khác thì hệ thống các tổ chức kinh tế có tính liên kết khu vực và liên kết toàn cầu đã được phát triển rộng rãi. Để bắt nhịp với sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực và nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá của Việt Nam trên thị trường của khu vực và trên thế giới Việt Nam đã và đang chuẩn bị những điều kiện để tham gia vào các liên minh kinh tế khu vực như AFTA và phấn đấu gia nhập WTO. 2. Mối quan hệ giữa dân số với thị trường lao động và hội nhập kinh tế: Tăng dân số kéo theo tăng nhu cầu việc làm để thoả mãn sự tăng thu nhập của số lượng người phải nuôi. Dân số tăng nhanh thì sau 10 đến 20 năm sẽ dẫn đến sự gia tăng lực lượng lao động xã hội tạo ra sức ép về vấn đề việc làm cần phải được giải quyết. Sự gia tăng các mức cung,cầu lao động kỹ thuật do sự phát triển mạnh của các ngành nghề mới,ngành công nghệ hiện đại dưới tác động trực tiếp của các yếu tố nước ngoài như điện tử, viễn thông,dầu khí,lắp ráp và chế tạo ô tô… .Cùng với các ngành nghề mới là sự thúc đẩy phát triển bộ phận thị trường lao động có thu nhập cao trong lĩnh vực dịch vụ hiện đại với sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Việc phát triển các ngành nghề mới làm cho tiền lương tăng nhanh hơn tạo thêm việc làm cho lao động có kỹ năng nên thất nghiệp phần lớn rơi vào những người lao động không có tay nghề. Dân số tăng nhanh cùng với quá trình đô thị hó diễn ra nhanh việc lấy đất canh tác để làm nơi sản xuất nên diện tích đất canh tác bình quân đầu người ngày càng giảm. Dân số Việt Nam chủ yếu tập chung ở khu vực nông thôn nên thiếu đất canh tác đồng nghĩa với thiếu việc làm. Hội nhập kinh tế sẽ góp phần làm tăng cường độ di chuyển lao động ra các vùng có điều kiện kinh tế phát triển và cả việc di chuyển lao động ra nước ngoài thông qua xuất khẩu lao động. Nhưng chính quá trình di chuyển lao động đã tạo ra sự phân hoá về tiền lương giữa lao động có kỹ năng,lao động không có kỹ năng và lao động có trình độ thấp. 3. Mối liên hệ giữa dân số với thị trường lao động và hội nhập kinh tế được thể hiện qua các chỉ tiêu: 3.1. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thô (CLFPR) Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thô biểu thị bằng dân số hoạt động kinh tế trên tổng dân số trong một năm. Chỉ tiêu này có thể tính cho toàn bộ dân số hay cho từng giới vì có sự khác biệt về mức độ tham gia lực lượng lao động giữa nam và nữ. Ưu điểm: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thô thường dùng để ước tính quy mô của dự trữ lao động trong phạm vi nền kinh tế. Nhược điểm: Vì tính dưới mẫu số là tổng dân số nên bao gồm cả trẻ em và người già,những người trong độ tuổi lao động nhưng không tham gia vào thị trường lao động nên dùng công thức này để so sánh là không chính xác. 3.2. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chung (GLFPR) Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chung phản ánh tỷ lệ dân số tham gia hoạt động kinh tế từ 15 tuổi trở lên trên tổng số dân từ 15 tuổi trở lên. Ưu điểm: Có thể sử dụng để so sánh đơn giản về dân số hoạt động kinh tế. Nhược điểm: Chỉ tiêu này không phản ánh được mức độ tham gia hoạt động kinh tế của mỗi giới nên không có được sự so sánh chính xác về tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khi cần so sánh các giới. 3.3. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đặc trưng theo giới và tuổi (ASSLFPR) Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đặc trưng theo giới và tuổi là chỉ tiêu phản ánh mức độ tham gia hoạt động kinh tế của mỗi giới ở các độ tuổi khác nhau. Nó được đo bằng số người tham gia hoạt động kinh tế ở mỗi tuổi hay độ tuổi của mỗi giới nào đó so với dân số tương ứng ở tuổi hay độ tuổi đó. Ưu điểm: Tỷ lệ này thường dùng để so sánh giữa các vùng khác nhau trong một nước hay giữa các nước trong khu vực bởi nó không bị ảnh hưởng bởi cơ cấu tuổi và giới tính. Nhược điểm: để so sánh chỉ tiêu này thường phải dùng nhiều chỉ tiêu để so sánh. Phần II: Thực trạng dân số Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động trong tiến trình hội nhập I. Thực trạng dân số Việt Nam: 1. Quy mô dân số lớn và tốc độ tăng dân số có xu hướng giảm dần: Dân số Việt Nam đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam á sau Indonexia và đứng thứ 13 so với thế giới. Quy mô dân số Việt Nam là rất lớn năm 1979 là 52,7 triệu người sau 10 năm tăng lên là 64,4 triệu người tương ứng với thời kỳ này tốc độ tăng dân số là 2,06%. Mặc dù đã thực hiện chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, thực hiện các biện pháp giảm sinh và quy mô gia đình nhỏ nhưng đến năm 1999 dân số Việt Nam là76,43 triệu người tăng lên 11,9 triệu người. Năm 2001 là 78,68 triệu người và năm 2002 là 79,93 triệu. Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm là 1,86% giảm gần 0,5%. Quy mô dân số và kết quả giảm sinh đã đạt được sớm hơn mục tiêu đặt ra trong chiến lược dân số. Năm 2002 tốc độ tăng dân số bình quân nước ta là 1,59%. Như vậy là từ năm 1979 đến 2002 tốc độ tăng dân số bình quân đã giảm dần từ 2,08% năm còn 1,59%. 2. Cơ cấu dân số: Nhóm tuỏi 1979 1989 1999 2001 2002 0-14 41,7% 39,2% 33% 31,3% 30,29 15-59 51,3% 53,7% 59% 60,2% 61,06% 60 7% 7,1% 8% 8,5% 8,65% Nguồn tổng điều tra dân số năm 1979,1989,1999 và điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình ngày 1/4/2001và 1/4/2002. Một nước được coi là có cơ cấu dân số trẻ khi mà tỷ lệ người già so với tổng dân số là dưới 10% và tỷ lệ trẻ em là trên 30%. ở nước ta qua các năm thì tỷ lệ tăng dân số đã giảm đi nên tỷ lệ trẻ em giảm dần đồng thời mức sống của người dân được nâng lên nên tuổi thọ bình quân của người già được kéo dài nên tỷ lệ người già so với tổng dân số đã tăng lên. Cơ cấu dân số nước ta cũng có sự khác biệt theo khu vực. Cụ thể cơ cấu dân số rất trẻ ở Tây Nguyên và Lai Châu chỉ có 4% là người già nhưng ở Hà Nội,thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn khác thì tỷ lệ trẻ em lại rất thấp. Ta có bảng số liệu về cơ cấu dân số theo giới tính và nhóm tuổi Việt Nam năm 2002 như sau: Nhóm tuổi Nam% Nữ% Tổng số Tỷ lệ giới tính% 0-4 8,39 7,58 7,98 106,8 5-9 11,89 9,94 10,4 105,7 10-14 12,49 11,36 11,91 106,1 15-19 11,71 10,9 11,3 103,6 20-24 8,46 8,39 8,43 97,3 25-29 8,15 8,05 8,1 97,6 30-34 8,03 7,79 7,91 99,4 35-39 7,72 7,62 7,67 97,8 40-44 6,62 6,93 6,78 92,1 45-49 4,92 5,07 4,99 93,7 50-54 3,29 3,85 3,57 92,3 55-59 2,11 2,5 2,31 81,4 60-64 2,09 2,6 2,35 77,6 >65 5,12 7,4 6,3 96,4 Nguồn điều tra biến động dân số kế hoạch hoá gia đình 1/4/2002. Sự phân bố cơ cấu dân số cũng là một nhân tố giải thích cho sự khác biệt trong phát triển kinh tế giữa các vùng. 3. Phân bố dân số không đồng đều giữa các vùng trong cả nước Ta có bảng số liệu về phân bố dân số như sau : Năm 1989 1999 2002 Thành thị(%) 20,7 23,5 24,92 Nông thôn(%) 79,3 76,5 75,08 Nguồn: tổng điều tra dân số năm 1989,1999 và biến động dân số kế hoạch hoá gia đình 1/4/ 2002. Phân bố dân số là yếu tố quan trọng cho sự phát triển. Qua bảng số liệu trên cho thấy sự phân bố không đều và có sự khác biệt rất lớn giữa dân số nông thôn và thành thị theo khu vực địa lý kinh tế. Tây Bắc và Tây Nguyên chỉ có 8,4% dân số cả nước nhưng lại chiếm một tỷ lệ diện tích đất đai lớn là 27%. Nguyên nhân của việc phân bố dân số không đồng đều chủ yếu là do điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam chưa thực sự phát triển và chỉ hơn 10 năm nay khi điều kiện kinh tế đã phát triển nhưng tỷ lệ dân cư thành thị chỉ tăng có 2.8% trong 10 năm từ 1989 đến 1999. Sau ba năm từ 1999 đến 2002 mà tỷ lệ dân cư thành thị chỉ tăng có 1,42%. Mặc dù tỷ lệ dân cư thành thị có tăng lên so với giai đoạn 89-99 nhưng tỷ lệ này vẫn còn thấp so với quá trình phát triển đô thị của các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc phân bố dân cư không đồng đều cũng là nhân tố để giải thích cho quá trình đô thị hoá ở Việt Nam. 4. Mức sinh giảm mạnh nhưng vẫn còn ở mức cao và có sự khác biệt giữa các vùng Qua việc thực hiện chiến lược dân số kế hoạch hoá gia đình mức sinh đã và đang giảm khá nhanh trong hai thập kỷ quavà hiện đang có xu hướng dừng lại. Kết quả thực hiện mực tiêu giảm sinh được thể hiện qua bảng số liệu sau: Năm 1989 1999 2001 2002 CBR(‰) 36,1 29,9 18,6 19 TFR(‰) 3,8 2,33 2,25 2,28 Nguồn tổng điều tra dân số năm 1989,1999 và điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2002 và 1/4/ 2002. Tỷ suất sinh thô đã giảm khá nhanh từ 36,8(‰) năm 1989 xuống còn 18,6(‰) vào năm 2001 và tăng lên 19 (‰) vào năm 2002 như vậy là tỷ suất sinh thô đã có sự nhích lên đáng. Tốc độ giảm sinh đã đạt gần 1% năm qua thời kỳ 1989 và 1999 đồng thời trong thời kỳ này TFR từ 3,8 xuống 2,33 như vậy bình quân một bà mẹ trong suốt thời kỳ sinh đẻ trong năm 1989 sinh được 3,8 con nhưng đến năm 1999 chỉ còn 2,33 con đến năm 2001 là 2,25 con và năm 2003 là 2,28 con. Có sự khác biệt rất lớn về tổng tỷ suất sinh giữa khu vực thành thị và nông thôn năm 2002 bình quân số con mà một người phụ nữ có thể sinh của khu vực thành thị là 1,93 con, còn của khu vực nông thôn là 2,4 con. Ta có bảng số liệu về sự khác biệt mức sinhữa ku vực thành thị và nông thôn như sau: Vùng địa lý 1999 2001 2002 CBR(‰) TFR(CON) CBR(‰) TFR(CON) CBR(‰) TFR(CON) Cả Nước Thành thị Nông thôn ĐBSH ĐBắc TBắc BTBộ DHNTB TNguyên ĐNBộ ĐBSCL 19,9 15,9 21,2 16,2 19,3 28._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35513.doc
Tài liệu liên quan