Mở đầu
Vấn đề dân số đang trở thành mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới, thực tế đã trở thành vấn đề toàn cầu. Các quốc gia ngày càng có sự thống nhất về nhận thức, chương trình, phương pháp giải quyết vấn đề dân số và coi phát triển dân số là một chiến lược tác động đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước, trong đó tác động trực tiếp đến số lượng và chất lượng nguồn nhân lực.
ở nước ta mới chuyển từ chế độ bao cấp sang kinh tế thị trường, nền kinh tế còn kém phát triển.
49 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng dân số và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dân số tăng quá nhanh đã gây áp lực rất lớn làm tăng tỷ lệ thất nghiệp thành thị, thiếu việc làm ở nông thôn, tình trạng di cư ồ ạt đến các thành phố lớn tác động xấu đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Dân số tăng nhanh dẫn đến cung lao động lớn mà cầu lao động lại chưa đáp ứng được nên thất nghiệp càng tăng. Mặt khác điều kiện kinh tế chính trị và thể chế thị trường lao động Việt Nam sau 10 năm đổi mới vẫn chỉ bước đầu hình thành và chậm phát triển với nhiều vấn đề nội cộm, không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam đã đặt ra những mục tiêu thách thức đối với phát triển thị trường lao động. Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế và tự do hoá tạo ra nhiều cơ hội mới đồng thời đòi hỏi phải nâng cao chất lượng việc làm, khai thác có hiệu quả lợi thế cạnh tranh của lao động Việt Nam. Điều này đòi hỏi phải có những nỗ lực mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn thực tiễn để phát triển dân số và thị trường lao động đúng hướng và có hiệu quả.
Nhận thấy được tầm quan trọng của dân số và tác động của nó đến thị trường lao động cũng như ảnh hưởng của tiến trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế em đã chọn đề tài: "Thực trạng dân số và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế". Đây là vấn đề lớn với nhận thức có hạn của mình nên chắc chắn còn nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè trong quá trình hoàn thành đề án này.
Em xin chân thành cảm ơn cô đã hướng dẫn em tận tình.
Phần I: Khái niệm cơ bản về dân số, thị trường lao động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
I- khái niệm về dân số.
Dân số bao gồm toàn bộ số người sinh sống trong trong phạm vi một đơn vị lãnh thổ nhất định của một vùng, một nước hoặc cả thế giới.
1. Quy mô, cơ cấu, tốc độ tăng dân số
1.1. Quy mô dân số là số người sống trên cùng một lãnh thổ nhất định tại thời điểm nhất định.
Những thông tin về quy mô dân số hết sức cần thiết trong tình hình hoạch định chiến lược phát triển. Nó được xác định thông qua tổng điều tra dân số hoặc thống kê thường xuyên.
Quy mô dân số qua các thời điểm khác nhau biểu thị sự thay đổi số lượng theo thời gian.
1.2. Phân bố dân số.
Là sự phân chia tổng số dân số theo địa phương hành chính, khu vực địa lý, khu vực kinh tế. Tuỳ theo điều kiện tự nhiên kinh tế- xã hội của mỗi nước mà có cách phân chia khác nhau phù hợp với điều kiện của nước mình.
1.3. Cơ cấu dân số
Cơ cấu dân số là tổng số dân được chia theo giới tính, tuổi, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp và tình trạng hôn nhân… Trong đó đặc biệt cơ cấu tuổi và cơ cấu giới tính có vị trí rất quan trọng trong nghiên cứu dân số cũng như phục vụ cho nhiều mục đích khác như phân tích các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội.
Cơ cấu giới tính là sự phân chia dân số thành hai bộ phận nam và nữ
Cơ cấu dân số theo độ tuổi được thể hiện qua sự phân chia dân số theo từng năm hay theo nhóm tuổi 5 năm, 10 năm và có khoảng rộng hơn tuỳ thuộc mục đích nghiên cứu.
2. Biến động tự nhiên dân số
2.1. Biến động mức sinh
Khái niệm: Mức sinh là biểu hiện khả năng sinh đẻ thực tế của người phụ nữ có liên quan đến số trẻ sinh ra mà người phụ nữ có.
Mức sinh không những chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh sản có giới hạn của các cặp vợ chồng mà còn chịu ảnh hưởng của một loạt các yếu tố khác như: tuổi kết hôn, thời gian chung sống, ý muốn về số con, trình độ phát triển kinh tế xã hội, địa vị của người phụ nữ, việc sử dụng các biện pháp tránh thai,…
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh:
Mức sinh chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau giữa các quốc gia và giữa các thời kỳ của một quốc gia. Nó bao gồm:
Các yếu tố tự nhiên sinh vật: Mọi sinh vật trong đó có con người, theo quy luật tự nhiên đều trải qua các giai đoạn sinh ra, trưởng thành, phát triển và diệt vong. Khả năng sinh sản chỉ ở một nhóm tuổi nhất định. Thông thường lứa tuổi sinh đẻ của phụ nữ được xác định trong khoảng từ 15 đến 49 tuổi. Nơi nào có số người trong độ tuổi có khả năng sinh đẻ càng cao thì mức sinh càng cao và ngược lại. Các nước đang phát triển có số dân trong độ tuổi sinh đẻ cao, dân số trẻ đó là một trong những nguyên nhân làm cho mức sinh cao.
Tập quán tâm lý xã hội: Mỗi nước, mỗi thời kỳ gắn với một hình thái kinh tế xã hội nhất định đều có các tập quán và tâm lý xã hội khác nhau. Những tập quán và tâm lý này xuất hiện và tồn tại trên những cơ sở thực tế khách quan nhất định. Khi những cơ sở này thay đổi thì tập quán và tâm lý xã hội sớm muộn cũng thay đổi theo. Tâm lý thích có nhiều con, thích có con trai để nối dõi, tập quán kết hôn sớm,…đó là tập quán và tâm lý chung của xã hội cũ, đặc biệt là nông thôn và miền núi. Kết hôn muộn, gia đình ít con, bình đẳng xã hội giữa nam và nữ là những tâm lý, tập quán của xã hội mới. Những yếu tố này đã tạo điều kiện cho quá trình giảm mức sinh.
Những yếu tố kinh tế: Nhóm yếu tố này rất đa dạng và tác động theo nhiều hướng khác nhau. Có nhiều quan điểm khác nhau về ảnh hưởng của nó tới mức sinh. Nhìn chung, đời sống cao thì mức sinh thấp và ngược lại. đời sống vật chất đầy đủ tác động trực tiếp làm giảm mức sinh. Các yếu tố kinh tế tác động đến mức sinh rất phức tạp, có sự tác động lẫn nhau giữa các yếu tố, cả trực tiếp và gián tiếp, cả thuận và nghịch.
Chính sách dân số: Là chủ trương và biện pháp của Nhà nước nhằm điều tiết quá trình phát triển dân số. Nó có thể khuyến khích hoặc hạn chế mức sinh, tuỳ theo điều kiện của từng nước và từng thời kỳ.
2.2. Biến động mức chết
a. Khái niệm:
Mức chết là sự mất đi vĩnh viễn toàn bộ những biểu hiện của sự sống ở một thời điểm nào đó, sau khi có sự kiện sinh sống xảy ra. Như vậy là sự kiện chết chỉ xảy ra sau khi có sự kiện sinh sống. Khoảng thời gian từ khi sinh đến khi chết là độ dài cuộc sống. Ngoài ra, còn có chết của bào thai trước khi xảy ra sự kiện sinh và sống.
b. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức chết:
Mức sống của dân cư: mức sống càng cao (cả về vật chất lẫn tinh thần) con người càng có khả năng chống đỡ các loại bệnh tật, mức chết càng thấp. So sánh giữa các nước có trình độ phát triển khác nhau hoặc giữa các vùng trong cùng một nước cũng thấy rõ điều đó.
Trình độ phát triển y học, mạng lưới y tế vệ sinh phòng bệnh: Trình độ y học càng cao, mạng lưới vệ sinh phòng bệnh càng phát triển tạo khả năng giảm mức chết. Ngày nay, y học và y tế có khả năng dập tắt nhiều bệnh dịch nguy hiểm, gây chết người hàng loạt. Hơn nữa, mối quan hệ giữa các nước ngày càng mở rộng, vì vậy thành tựu y học ở nước này nhanh chóng được phổ biến sang các nước khác. Do đó, nhiều nước lạc hậum nhưng được sự giúp đỡ của các nước phát triển đã tạo điều kiện giảm nhanh mức chết.
Môi trường sống: Con người sống trong môi trường tự nhiên, nên môi trường tác động trực tiếp đến sức khỏe của họ. Môi trường trong sạch, tuổi thọ càng được nâng cao và ngược lại, nếu môi trường ô nhiễm sẽ gây nhiều bệnh tật nguy hiểm, làm tăng mức chết (đặc biệt là sự phát triển của ngành Công nghiệp, quá trình đô thị hoá mở rộng, dân cư đông đúc, nếu không quy hoạch hợp lý, không có hệ thống xử lý nước thải ngay từ đầu thì môi trường sẽ bị ô nhiễm nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khoẻ và tuổi thọ của dân cư)
Cơ cấu dân số: Đặc biệt là cơ cấu tuổi, có ảnh hưởng lớn đến mức chết. Tỷ lệ trẻ em dưới nhỏ tuổi và người lớn đều ảnh có khả năng thúc đẩy tỷ suất chết thô cao. Các nước phát triển có mức sinh thấp, tỷ suất chết thô cao dù mức sống và trình độ y học phát triển.
Ngoài ra, chiến tranh, tình trạng hôn nhân và các tệ nạn xã hội cũng là một trong những nguyên nhân làm tăng mức chết.
3. Biến động cơ học dân số (di dân)
3.1. Khái niệm.
Di dân theo cách hiểu chung nhất là sự di chuyển của người dân từ đơn vị lãnh thổ này sang một đơn vị lãnh thổ khác mang đặc trưng thay đổi nơi cư trú, theo chuẩn mực không gian và thời gian.
3.2. Nguyên nhân của di dân.
Nguyên nhân “hút- đẩy” tại vùng chuyển đến và vùng chuyển đi
Các nguyên nhân là lực hút tại vùng có dân di chuyển đến gồm:
Đất đai màu mỡ, tài nguyên phong phú, khí hậu ôn hoà, môi trường sống thuận lợi
Dễ kiếm việc làm, thu nhập cao, điều kiện sinh hoạt tốt, có triển vọng cải thiện đời sống
Môi trường xã hội tốt hơn
Các nguyên nhân là lực đẩy tại cácvùng có dân di chuyển đi gồm:
Điều kiện sống quá khó khăn, thu nhập thấp, khó kiếm việc làmĐất đai canh tác ít, bạc màu, không có vốn và kỹ thuật chuyển đổi ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện đời sống.ý nguyện muốn tìm đến vùng đất hứa có khả năng kiếm việc làm và cải thiện đời sống.
Nguyên nhân có liên quan đến sự đồng thuận; Do muốn gần gũi với người thân quen; Do nơi cũ bị giải toả, xây dựng các công trình công cộng; Do bị mặc cảm về vấn đề xã hội có liên quan đến cá nhân, họ không muốn ở lại nơi cư trú dể đến nơi ở mới nhằm thay đổi môi trường sống tốt hơn
4. Chỉ số phát triển con người (HDI)
4.1. Khái niệm.
Đây là chỉ tiêu để đánh giá về chất lượng của mỗi dân số. Là toàn bộ các yếu tố tạo nên trí lực và tâm lực của con người nói chung. Đây là chỉ tiêu tổng quát nhất để đánh giá, so sánh trình độ phát triển dân trí của mỗi vùng, mỗi quốc gia, khu vực và trên thế giới. Chỉ số phát triển con người HDI cũng thể hiện sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.Từ đó thấy được thế mạnh cũng như đường lối phát triển kinh tế-xã hội-văn hoá
4.2. Các yếu tố ảnh hưởng
Tăng trưởng kinh tế, thể hiện qua chỉ số thu nhập thực tế và thu nhập đó điều chỉnh theo giá sinh hoạt của từng nước như GDP, PPP
Thành tựu y tế, xã hội: thể hiện ở tuổi thọ bình quân
Văn hoá giao dục: tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ người lớn có học, một số năm đi học trung bìnhChỉ số HDI có giá trị lý tưởng là 1 và thấp nhất là 0
II- Khái niệm về thị trường lao động
1. Thị trường lao động
1.1. Khái niệm.
Thị trường lao động là sự trao đổi hàng hoá sức lao động giữa một bên là những người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê lao động (định nghĩa này lưu ý đối tượng trao đổi trên thị trường lao động, đó là sức lao động, chứ không phải con người)
Trong từ điển kinh tế Mit, thị trường lao động được hiểu là nơi mà cung và cầu lao động tác động qua lại lẫn nhau, nhấn mạnh vào quan hệ trên thị trường lao động là quan hệ cung cầu
Từ điển kinh tế học, Penguin định nghĩa: thị trường lao động là thị trường trong đó tiền công, tiền lương, và các điều kiện được xác định trong bối cảnh cung lao động và cầu lao động. Điều này nhấn mạnh kết quả tương tác trên thị trường lao động là tiền công, tiền lương và các điều kiện lao động
Thị trường lao động là hệ thống các quan hệ kinh tế xã hội giữa Nhà nước, người sử dụng lao động, là tổng thể các quan hệ lao động, quan hệ mua bán hàng hoá dịch vụ, bao gồm cả đào tạo, đào tạo lại và nâng cao trình độ chuyên môn, học vấn của con người trong quá trình sản xuất C.Đ KP Tamal H.Z. Ogezol TTLĐ. Mockba 1998. tr7.
.
Định nghĩa đầy đủ thị trường lao động là nơi mà người lao động và người sử dụng lao động tác động qua lại lẫn nhau, xác định tiền công, tiền lương và các điều kiện lao động để đi đến quan hệ thuê mướn lao động.
1.2. Đặc trưng của thị trường lao động.
a. Hàng hoá được trao đổi trên thị trường lao động là hàng hoá sức lao động, gắn chặt chẽ với con người, thể hiện:
Hàng hoá sức lao động gắn với một chủ thể nhất định là người mang nó. Điều này cho thấy nó khác với các loại hàng hoá khác không có cơ hội tách giữa người sở hữu với vật sở hữu của người đó.
b. Trong quá trình sử dụng hàng hoá sức lao động làm cho giá trị sử dụng tăng lên. Đó là nguồn gốc của giá trị thặng dư vì:
Giá trị sức lao động của hàng hoá sức lao động biểu hiện ở chỗ có được sử dụng như một yếu tố của quá trình sản xuất khi tiêu dùng. Và nó khác với hàng hoá thông thường khi sử dụng có giá trị và giá trị sử dụng ngày càng tăng lên vì: những lao động càng làm việc trình độ lành nghề ngày càng cao và do đó giá trị sức lao động ngày càng cao, sản phẩm họ làm ra ngày càng nhiều và chất lượng ngày một tốt hơn. Vì vậy, sức lao động khi được sử dụng sẽ tạo ra giá trị lớn hơn lượng giá trị của chính bản thân nó
c. TTLĐ là thị trường có tính đa dạng và không có điểm cân bằng duy nhất, người lao động không đồng nhất:
Chúng ta nói đến khái niệm chung là TTLĐ. Nhưng trong thực tế lại có nhiều TTLĐ cho các công việc khác nhau. Các thị trường này khác nhau rất nhiều ở trình độ kỹ năng, phạm vi địa lý, nhưng nó lại có mối liên hệ và di chuyển một cách dễ dàng hoặc một số không dễ dàng. Do đó, vấn đề đặt ra cần tăng tính năng động của thị trường.
- TTLĐ không có điểm cân bằng duy nhất, trong các TTLĐ mạng lưới thông tin thường kém phát triển hơn thị trường hàng hoá. Điều này làm tăng chi phí tìm việc của người lao động và làm cho họ không sẵn sàng chuyển công việc ngoài trừ trường hợp cần thiết. Nó cũng có nghĩa là tiền công, tiền lương và các điều kiện làm việc khác là rất khác nhau giữa những người sử dụng lao động, nó không hề có xu hướng là những khác biệt này mất dần đi. Mặt khác, do có nhiều ngành nghề khác nhau, trình độ khác nhau nên giá trị sức lao động khác nhau. Vì thế sẽ có nhiều điểm cân bằng và giá cả của nó xoay quanh giá trị.
- Trong TTLĐ, người lao động không đồng nhất: nhiều hàng hóa thông thường được chuẩn hoá nhưng đối với hàng hoá sức lao động thì khác. Khi người sử dụng lao động lựa chọn nhân viên mới thì phải xem xét những khả năng, năng suất khác nhau và hầu như chưa biết. Người lao động khác nhau về tuổi tác, giới tính, nguồn gốc, trí thông minh, sự khéo léo, thể lực và sinh lực, động lực làm việc và các đặc điểm khác có ảnh hưởng đến năng suất.
Người lao động khác nhau về trình độ và loại hình đào tạo, số năm kinh nghiệm công tác và mức độ đào tạo chuyên biệt. Mỗi người là tổng hợp của các năng lực bẩm sinh và sức lao động tự có cộng với các kỹ năng chuyên biệt, tiếp thu được thông qua giáo dục và đào tạo. yếu tố kỹ năng này thường được gọi là “ vốn nhân lực”.
1.3. Phân loại thị trường lao động:
TTLĐ trong nước; TTLĐ ngoài nước; TTLĐ khu vực, vùng; TTLĐ nông thôn; TTLĐ thành thị; TTLĐ có trình độ chuyên môn; TTLĐ phổ thông; TTLĐ chất xám,...
Việc nghiên cứu mỗi loại TTLĐ cho phép ta biết được nhu cầu và khả năng đáp ứng của từng loại lao động cho sự phát triển kinh tế- xã hội.
2. Cung lao động
2.1. Khái niệm
Cung lao động là lượng lao động mà người làm thuê có thể bán sức lao động của mình trên TTLĐ với mức giá nhất định. Cung lao động mô tả toàn bộ hành vi của người làm thuê khi thoả thuận ở các mức giá đặt ra.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng
Cung trên TTLĐ phụ thuộc vào tổng số lao động có thể cung cấp. Tổng số lao động lại phụ thuộc vào quy mô dân số, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, độ dài của thời gian làm việc và chất lượng lực lượng lao động. Các nhân tố tác động gồm:
a. Sự phát triển dân số và cung lao động.
Dân số là cơ sở hình thành nguồn nhân lực, quy mô, cơ cấu, chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô cơ cấu và chất lượng dân số tại thời điểm nào đó. Mặt khác, nó còn phụ thuộc vào biến động tự nhiên và biến động cơ học của dân số.
Sự ảnh hưởng của dân số tới nguồn nhân lực phải sau một thời gian nhất định khoảng 10 đến 15 năm phụ thuộc vào giới hạn của độ tuổi lao động. Cung sức lao động là bộ phận sức lao động được đưa ra thị trường, nó phụ thuộc vào không chỉ quy mô, tốc độ tăng của nguồn nhân lực mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (LLLĐ)
b. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động.
Tỷ lệ tham gia LLLĐ được tính bằng cách LLLĐ thực tế với LLLĐ tiềm năng.
LLLĐ thực tế là bộ phận dân cư trong tuổi lao động, có khả năng lao động hiện đang làm việc trong các ngành của nền kinh tế quốc dân và những người chưa có việc làm nhưng đang đi tìm việc.
LLLĐ tiềm năng là khả năng lao động của xã hội, tức là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động.
Tỷ lệ tham gia có thể xác định tương tự cho các nhóm dân số khác: nam, nữ, người có gia đình. Tỷ lệ này cao khi LLLĐ trên thị trường lao động tăng lên và khai thác được triệt để tiềm năng về nguồn lực con người cho sự phát triển kinh tế- xã hội.
Những nhân tố tác động tới sự tăng giảm của tỷ lệ tham gia LLLĐ có nhiều và tuỳ thuộc vào từng bộ phận của nguồn nhân lực. Nhưng chủ yếu là các nhân tố sau:
• Tăng giảm tiền lương thực tế. Khi tiền lương tăng tạo ra khả năng số người có nhu cầu tìm việc làm tăng và ngược lại.
Điều kiện sống thay đổi: Khi điều kiện sống thấp kém, người lao động có xu hướng tăng thời gian làm việc để tăng thu nhập. Nhưng khi đời sống cao thì họ lại muốn giảm thời gian làm việc để tăng thời gian nghỉ ngơi.
Sự tác động của Nhà nước thông qua các hệ thống chính sách kinh tế-xã hội
Ngoài ra, còn có các nguyên nhân làm tăng, giảm tỷ lệ tham gia của từng nhóm dân cư: tuổi, giới tính, trình độ học vấn,….đặc biệt đối với phụ nữ, khi việc xác định quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giải phóng phụ nữ đã tạo cơ hội cho họ tham gia vào nền sản xuất xã hội.
c. Cung thời gian lao động
Quỹ thời gian của con người là có hạn, mỗi người phải lựa chọn để sử dụng cho mình một cách hợp lý nhất. Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, mỗi người có cách lựa chọn khác nhau về cung lao động. Xong thực tế, có 3 loại:
• Tăng thời gian làm việc, giảm thời gian nghỉ ngơi. Đây là những người ham công việc hoặc có nhu cải thiện đời sống.
Tăng thời gian nghỉ ngơi, giảm thời gian làm việc. Đó là đối với người có thu nhập cao hoặc do tuổi cao.
Lựa chọn thời gian làm việc và nghỉ ngơi hợp lý vừa đảm bảo thu nhập, vừa thoả mãn nhu cầu vui chơi giải trí.
Việc lựa chọn theo cách nào là phụ thuộc vào nhân tố chủ quan: sở thích cá nhân, thích làm việc hay thích vui chơi giải trí.
Thứ hai là nhân tố khách quan, đó là nhân tố giới hạn thu nhập trên thị trường lao động thông qua đường ngân sách
3. Cầu lao động
3.1. Khái niệm.
Cầu lao động là lượng lao động mà người thuê có thể thuê ở mỗi mức giá nhận được trong nền kinh tế thị trường. Cầu lao động được coi là cầu dẫn xuất hoặc là cầu gián tiếp.
Cầu về lao động khác với lượng cầu về lao động. Cầu về lao động mô tả toàn bộ hành vi người mua có thể mua được hàng hóa sức lao động ở mỗi mức giá hoặc ở tất cả các mức giá có thể đặt ra. Mỗi mức giá có một lượng cầu nhất định.
3.2. Các nhân tố tác động đến cầu lao động .
• Năng suất lao động là mức sản xuất của lao động, là thời gian hao phí để sản xuất một đơn vị sản phẩm hoặc số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Năng suất lao động tăng, lượng lao động hao phí để sản xuất một đơn vị sản phẩm giảm và ngược lại. Vấn đề áp dụng khoa học kỹ thuật là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp và toàn xã hội:
- Tương quan giữa giá cả và đầu vào: giá thực tế của hàng hoá và dịch vụ đó sẽ tác động đến số lượng sản phẩm, từ đó tác động đến cầu của đơn vị sản phẩm đó.
- Chiến lược phát triển kình tế, xã hội của quốc gia, ngành, vùng thay đổi theo hướng giảm lao động nông nghiệp, nông thôn, tăng lao động công nghiệp và dịch vụ. Thực hiện tập trung phát triển các ngành mũi nhọn, cần lao động có trình độ chuyên môn cao, chất lượng cao. Đồng thời phát triển các ngành nghề thủ công, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến,… có ưu thế thu hút nhiều lao động.
- Tiến bộ khoa học kỹ thuật: Làm cho năng suất lao động tăng lên, cầu lao động ở một số ngành công nghệ cao giảm, cầu lao động ở các ngành khác lại thu hút nhiều lao động hơn. Đồng thời tạo ra nhiều ngành nghề mới, lĩnh vực mới theo xu hướng phát triển. Mặt khác, nhờ có tiến bộ khoa học kỹ thuật đã hình thành và phát triển các công ty xuyên quốc gia chi phối toàn bộ nền kinh tế thế giới. Vì thế, đòi hỏi trình độ ngày càng cao của người lao động.
- Hệ thống chính sách của Nhà nước: Nhà nước tạo ra cơ chế chính sách, môi trường vĩ mô để hướng các thành phần kinh tế hoạt động theo một cơ chế pháp lý nhất định. Đồng thời cũng tạo điều kiện, cơ hội thu hút họ phát triển theo chiến lược, mục đích của Nhà nước đề ra: như chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, chính sách phát triển dân số, chính sách phát triển nguồn nhân lực...
Kết quả của TTLĐ phản ánh mối quan hệ giữa TTLĐ và thị trường hàng hoá thông qua 3 đại lượng chính là vốn, hàng hoá và việc làm. Tổng hợp lại ta có kết quả khác nhau của TTLĐ với 3 chỉ số quan trọng nhất đó là: tổng mức việc làm, tiền lương và thất nghiệp.
III- Hội nhập kinh tế (HNKT)
1. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế là xu hướng tất yếu của thế giới.
Khái niệm: TCH là một quá trình xã hội hoá ngày càng sâu sắc của lực lượng sản xuất (LLSX) và của quan hệ sản xuất (QHSX) cùng mối quan hệ biện chứng giữa 2 yếu tố này ở quy mô toàn cầu Nguyễn Bá Ngọc, Trần Đức Khởi: Toàn cầu hoá, cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam. NXB. Hà Nội 2002, Tr.13.
.
TCH về kinh tế là những mối quan hệ kinh tế vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia, vươn tới một qui mô toàn thế giới đạt chất lượng và chất lượng mới.
Tác động của TCH đến sự lưu chuyển ngày càng tự do nhiều loại hàng hoá vốn, công nghệ vượt ra ngoài phạm vi quốc gia. Các nước đang phát triển phải tận dụng cơ hội của TCH để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống. TCH là một xu thế tất yếu và bắt buộc đối với mọi thành viên. Mở ra nhiều cơ hội và thách thức đối với các nước đặc biệt là các nước đang phát triển.
2. Hội nhập kinh tế là một xu hướng tất yếu của toàn cầu hoá.
HNKT là sự chủ động tham gia tích cực của một quốc gia vào quá trình TCH và khu vực hoá kinh tế thông qua các nỗ lực tự do hoá và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng và sự kiểm soát của nền kinh tế Nguyễn Bá Ngọc, Trần Đức Khởi: Toàn cầu hoá, cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam. NXB. Hà Nội 2002, Tr.13.
.
Đặc điểm:
HNKT là sự tham gia của một nước vào quá trình phân công lao động quốc tế. Là một yêu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế dựa trên sự phát triển của LLSX, trình độ khoa học công nghệ.
HNKT là chủ trương, đường lối chính của Đảng và Nhà nước trong quá trình CNH HĐH đất nước, là xu thế tất yếu của TCH.
Tính chủ động của HNKT của một quốc gia thường biểu hiện qua (3):
• Năng lực cạnh tranh quốc tế của hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế;
• Đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế;
• Nhà nước kiểm soát được ròng vốn đầu tư nước ngoài;
• Chính sách tự do hoá thương mại phục vụ trước hết cho lợi ích quôc gia;
• Nhà nước kiểm soát di cư lao động;
• Thiết chế quản lý nền kinh tế dựa vào những thế mạnh của bản sắc dân tộc.
Có nhiều mức độ HNKT khác nhau: khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế, liên minh toàn diện. Ngày nay HNKT
Ngày càng mở rộng ở nhiều lĩnh vực với mức độ ngày càng sâu sắc và tinh vi hơn giữa các nước, mức độ phụ thuộc và tác động lẫn nhau ngày càng caovà toaqnf diện hơn: HNKT, hội nhập về lao động, về chính trị, về văn hoá, xã hộị…
IV- Mối quan hệ giữa dân số-thị trường lao động - hội nhập kinh tế.
1. Mối quan hệ giữa dân số và thị trường lao động.
Dân số và phát triển nguồn nhân lực (NNL), việc làm có mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau, tác động lẫn nhau trong quá trình phát triển. Quá trình tăng giảm dân số có quan hệ tới quy mô và chất lượng NNL xã hội, tác động đến quan hệ cung cầu trên TTLĐ.
1.1. Các mối quan hệ dân số, thị trường lao động đã được các nhà kinh tế nước ngoài tổng kết với tính quy luật sau.
Tăng dân số luôn kéo theo tăng nhu cầu việc làm để thoả mãn sự tăng thu nhập và tiêu dùng của số lượng người phải nuôi có quy mô lớn và tăng nhanh dân số, trong khi khả năng tạo thêm việc làm lại có hạn tại các nước có nền kinh tế ít phát triển. Mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng của nền kinh tế ngày càng gay gắt, tạo thêm việc làm trở thành vấn đề cấp bách.
Dân số tăng nhanh thì sau 10 đến 20 năm sẽ kéo theo sự gia tăng LLLĐ xã hội. Rõ ràng là, nhu cầu việc làm không chỉ là đối với quy mô người lao động hiện có mà còn là đòi hỏi cấp bách để thoả mãn nhu cầu của số lao động mới hàng năm bước vào tuổi lao động. Đối với các nước đang phát triển, cung-cầu lao động thường có sự mâu thuẫn gay gắt. Tình trạng thiếu lao động lành nghề, thừa lao động giản đơn, thiếu vốn mở rộng việc làm, sự lạc hậu về cơ cấu và phân bố NNL, thiếu khả năng chi trả cho người lao động từ doanh nghiệp và Chính phủ,… là những vấn đề nan giải đối với các nước đang phát triển cả về kinh tế cũng như xã hội tác động đến tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia.
Dân số tăng nhanh làm cho làm nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt, diện tích đất đai có thể trồng trọt ngày càng thiếu, đặc biệt là đối với nông dân, đất đai là tài nguyên quan trộng nhất của dân cư, thiếu đất đồng nghĩa với thiếu việc làm. Xu hướng khan hiếm đất đai, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái làm căng thẳng thêm quan hệ dân số với cung-cầu lao động tác động đến việc làm, thất nghiệp và tiền lương.
Quá trình CNH, đô thị hoá và tỷ lệ tăng dân số, NNL cao ở nông thôn đồng thời là quá trình di dân nông thôn tới các thành phố lớn và khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất.
Di dân trực tiếp tác động đến vấn đề lao động-việc làm ở cả hai vùng đi và đến. Đối với một số thành phố, di dân làm tăng đột biến về nhu cầu việc làm, quan hệ cung cầu trên TTLĐ có sự bất cân đối lớn, tỷ lệ thất nghiệp cao, đời sống bất ổn định, kéo theo nhiều tệ nạn xã hội khác.
Dân số tăng lên, nhu cầu hàng hoá và dịch vụ cũng tăng theo. Do đó sẽ kích thích tăng đầu tư để mở rộng sản xuất. Ngoài ra các yếu tố kinh tế kĩ thuật cũng ảnh hưởng lớn đến nhu cầu về lao động. Khi dân số tăng nhanh có thể làm cho vốn con người giảm xuống hoặc ở mức thấp và hầu như không cải thiện. Điều này trước hết liên quan đến việc cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, chăm sóc y tế cho trẻ em và người lao động, trình độ học vấn thấp không đáp ứng kịp và lao động không được đào tạo dẫn đến cung lao động không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Việc giáo dục đào tạo, chăm sóc y tế và tăng trưởng kinh tế cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dân số và đến cung trên TTLĐ.
1.2. Các chỉ tiêu phản ánh:
Tỷ lệ tham gia LLLĐ thô: Biểu thị bằng dân số hoạt động kinh tế trên tổng dân số.
Tỷ lệ tham gia LLLĐ chung: phản ảnh tỷ lệ dân số tham gia hoạt động kinh tế từ 15 tuổi trở lên trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên.
Tỷ lệ tham gia LLLĐ đặc trưng theo giới và tuổi đ: Là chỉ tiêu phản ánh mức độ tham gia hoạt động kinh tế của mỗi giới ở các độ tuổi khác nhau. Nó được đo bằng số người tham gia hoạt động kinh tế ở một độ tuổi (nhóm tuổi) của một giới nào đó trên dân số tương ứng ở độ tuổi (nhóm tuổi) của giới đó.
Chỉ số này dùng để so sánh giữa các vùng khác nhau trong một quốc gia hoặc giữa các quốc gia với nhau vì chúng không bị ảnh hưởng bởi cơ cấu tuổi và giới. Tuy nhiên, nó phức tạp và phải so sánh nhiều chỉ tiêu.
2. Thị trường lao động trong hội nhập kinh tế.
Cùng với tiến trình hội nhập trong xu hướng toàn cầu hoá đang mang lại những biến đổi to lớn, tác động đến hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc sống. TCH và HNKT tác động đến nguồn nhân lực, về mặt kinh tế có thể đánh giá một cách chung nhất là nền kinh tế phát triển cao hơn sẽ được lợi từ TCH và HNKT qua việc có được nguồn nhân công rẻ hơn; thị trường hàng hoá và tư bản được mở rộng hơn; trong khi nền kinh tế phát triển thấp hơn, có cơ hội mở rộng được thị trường lao động, thêm được cơ hội việc làm do tiếp nhận đầu tư nước ngoài, xuất khẩu hàng hoá, xuất khẩu lao động, chất lượng LLLĐ được cải thiện thông qua việc tiếp thu công nghệ và quản lý tiên tiến hơn, nguồn lực lao động được phân bố và sử dụng hợp lý hơn. Ngoài ra yếu tố bao trùm nhất của TCH và HNKT trong lĩnh vực lao động là các vấn đề liên quan đến tiêu chuẩn lao động. Tiêu chuẩn lao động vừa được sử dụng là mục tiêu, vừa là phương tiện của mỗi quốc gia và trong quan hệ giữa các nền kinh tế với tiến trình TCH.
Về mặt xã hội, TCH và HNKT làm thay đổi khái niệm biên giới quốc gia, tạo điều kiện cho việc thâm nhập, đan xen giữa các giá trị và chuẩn mực văn hoá, xã hội giữa các quốc gia khác nhau về văn hoá, về trình độ phát triển kinh tế xã hội, trình độ phát triển dân cư. Có thể khái quát một số vấn đề lớn tác động của TCH và HNKT đến thị trường lao động:
Trong xu thế TCH và HNKT do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, nhất là tác động vào các nước đang phát triển, hai xu thế tưởng chừng trái ngược nhau đang diễn ra đồng thời, đó là vừa thúc đẩy sự di chuyển lao động, vừa hạn chế dòng di chuyển này.
Một mặt nhu cầu của thị trường lao động của nhiều nước phát triển và các nước khan hiếm lao động đã tạo ra dòng chảy lao động tới những nước này từ những nước đang phát triển và dư thừa lao động. Mặt khác, sự bánh trướng của các công ty xuyên quốc gia thông qua FDI vào các nước đang phát triển đã trở thành yếu tố có tác dụng giữ lao động tại chỗ, hạn chế dòng di chuyển lao động trong nước từ nông thôn ra thành thị, từ khu vực kém phát triển tới những địa phương phát triển hơn và tới những ngành nghề có nhiều cơ hội việc làm, thu nhập cao hơn.
HNKT tạo ra sự phân công lao động quốc tế sâu sắc với trình độ ngày càng cao.
Xét theo nghĩa rộng thì đây chính là những hình thức khác nhau của thị trường lao động quốc tế vì lực lượng lao động làm việc trong các công ty được quản lý tập trung theo những tiêu chuẩn nhất định, buộc người lao động phải học hỏi, nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu công việc giống nhau trong các chi nhánh của công ty ở các quốc gia khác nhau. Lao động ở các quốc gia đang phát triển được thu hút vào các công ty xuyên quốc gia ngày càng nhiều.
Một hình thức của phân công lao động quốc tế và dịch chuyển lao động vô hình là thời đại tin học và internet ngày nay, cho phép người ta có thể làm việc từ xa, từ quốc gia mình mà vẫn có thể làm việc cho một công ty ở quốc gia khác. Như vậy, cho dù không có sự di chuyển lao động, trên thực tế lao động vẫn có thể được quốc tế hóa, có sự phân công và ràng buộc với nhau. Đây là đặc điểm mới của thị trường lao động quốc tế trong bối cảnh TCH và HNKT.
TCH và HNKT, cùng với nỗ lực cải cách đi liền với nó, đã làm tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường sản phẩm. áp lực cạnh tranh gia tăng đến lượt mình sẽ làm giảm bớt mức độ định đoạt tiền lương và phân biệt đối xử với người lao động.
Trong khi tác động ngắn hạn của tự do hoá thương mại đến tiền lương có thể làm tiêu cực, thì t._.ác động ngắn hạn của đầu tư trực tiếp nước ngoài lại là tích cực. Do vậy, mở cửa nền kinh tế, tự do di chuyển lao động mà không thu hút được vốn đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến những mất mát lớn về tiền lương và thu nhập từ lao động.
TCH và HNKT đặt ra những yêu cầu và điều kiện cho việc điều chỉnh cơ cấu lao động xã hội sao cho có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế. Nó xúc tiến xu hướng phân công lao động quốc tế đang chuyển từ phân công lao động theo chiều dọc sang phân công lao động theo chiều ngang với nội dung của nó là phân theo bộ phận cấu thành sản phẩm. Các cơ sở sản xuất ở khắp các nơi trên thế giới tham gia vào sản xuất, chi tiết, linh kiện theo một quy chuẩn rồi ráp nối nhau thành sản phẩm hoàn chỉnh.
Về chiến lược phát triển NNL
Các nước phát triển thường tập trung vào những ngành kỹ thuật có tỷ trọng công nghệ cao và vốn cao hơn, trong khi các nước đang phát triển lại tập trung phát triển vào ngành sử dụng nhiều lao động. Điều đó cũng phản ánh bức tranh chung về phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập phát triển đan xen như hiện nay, một mặt các quốc gia tập trung đầu tư vào các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, mặt khác vẫn có thể đầu tư phát triển NNL đáp ứng cho những ngành công nghệ cao, ngành mũi nhọn để đa dạng hóa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Do đó, chiến lược phát triển NNL luôn phải gắn chặt với chiến lược phát triển kinh tế xã hội vừa có tác dụng phục vụ, vừa có tác dụng thúc đẩy chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
3. Điều kiện cho sự hình thành và phát triển thị trường lao động trong hội nhập kinh tế.
TTLĐ là một tất yếu khách quan của nền KTTT. KTTT càng phát triển thì TTLĐ hoạt động càng sôi nổi. Do vậy, điều kiện hình thành và phát triển TTLĐ không thể tách rời trình độ phát triển của toàn bộ môi trường KTTT nói chung của một quốc gia.
Quyền tự do của người lao động và người sử dụng lao động: quyền tự do của người lao động bao gồm cả tự do thân thể, tự do học hành, tự do đi lại, lựa chọn nghề nghiệp,… trong khuôn khổ luật pháp và được luật pháp thừa nhận. Người sử dụng lao động được tự do mua sức lao động, tự do trả giá cho lao động trong khuôn khổ pháp luật.
Phải thừa nhận sự phân hoá xã hội thành giới chủ, giới thợ. Việc thừa nhận và tôn vinh những người sử dụng lao động là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế hàng hoá nói chung và TTLĐ nói riêng. Giới chủ có vai trò đặc biệt quan trọng trong TTLĐ, tạo ra thu nhập và việc làm cho chính họ và cho những người lao động. Nhà nươc phải có khuôn khổ pháp lý bảo vệ sự bình đẳng giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Bản lĩnh, trình độ của người lao động. Người lao động phải có kỹ năng lao động cần thiết để có thể bán sức lao động trên thị trường.
Hệ thống thể chế TTLĐ thích hợp và đẩy đủ của Nhà nước để giải quyết phát sinh nổi lên của TTLĐ: tiền lương, bảo hiểm xã hội, tuyển dụng, sa thải, giải quyết các tranh chấp lao động. Từ đó hình thành và phát triển các cơ quan dịch vụ việc làm, tổ chức công đoàn độc lập, hệ thống thông tin về biến động cung cầu TTLĐ đồng nhất và thông suốt.
4. Vai trò của thị trường lao động trong nền kinh tê thị trường Đinh Trọng Thắng. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, thông tin thị trường lao động, tháng 2/2003.
.
TTLĐ cũng như các thị trường bất động sản và thị trường vốn là các thể chế trung tâm trong nền KTTT. Về mặt kinh tế, TTLĐ là cơ chế hình thành và quyết định về việc lao động được sử dụng như thế nào và vì mục đích gì, cũng như giá cả như thế nào. Một nền KTTT hoàn chỉnh, đồng bộ không thể thiếu được TTLĐ phát triển.
Phát triển NNL không phải là nhiệm vụ của riêng Nhà nước mà trước hết là nhiệm vụ của mỗi người dân. Nhà nước cần thiết lập một cơ chế hợp lý để tiến hành xã hội hoá tối đa. Xây dựng TTLĐ có tính cạnh tranh, bảo đảm thông thoáng, thông suốt và thống nhất, tự do di chuyển và di chuyển dễ dàng cả trong và ngoài nước.
TTLĐ là cơ chế tốt nhất làm tăng tính hiệu quả các khoản đầu tư của nhà nước và nhân dân vào phát triển NNL, đặc biệt là trong giáo dục và đào tạo. Đầu tư phát triển NNL có hiệu quả kinh tế cao trong khuôn khổ TTLĐ phát triển ở trình độ cao, tại đó giá cả lao động phản ánh chân thực mối cân bằng cung,cầu lao động và là tín hiệu thị trường chuẩn xác cho các khoản đầu tư phát triển NNL của nhà nước cũng như mỗi người dân.
Một TTLĐ linh hoạt, hiệu quả sẽ tạo ra những sức ép cũng như khuyến khích để buộcmỗi người lao động phải liên tục hoàn thiện các kĩ năng, trình độ của mình nếu như họ muốn đầu tư được các nhu cầu của thị trường và bán sức lao động với giá cao.tuy nhiên mặt trái của sự cạnh tranh trên TTLĐ, một thị trường mà sự cạnh tranh thắng, thua giữa người lao động cá thể tạo ra các hậu quả tàn nhẫn với từng con người, gia đình cụ thể.
Phần II.: Thực trạng dân số Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động trong tiến trình hội nhập kinh tế
I- Thực trạng dân số Việt Nam
Vấn đề dân số đang là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới, thực tế đã trở thành những “vấn đề toàn cầu”.Các quốc gia ngày càng có sự thống nhất về nhận thức, chương trình, phương pháp giải quyết vấn đề dân số. Và coi phát triển dân số là một chiến lược tác động nhất định đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước,trong đó tác động trực tiếp đến số lượng và chất lượng nguồn lao động.
1. Việt Nam có quy mô dân số vào loại lớn xếp thức 2 khu vực Đông Nam á và thứ 13 trên thế giới.
Năm 1999 dân số Việt Nam khoảng 76,43 triệu người, năm 2001 là 78,68 triệu người, năm 2002 tăng lên 79,93 triệu người.Tốc độ tăng dân số cao và giảm dần từ năm 1999 đến 2001, năm 2002 hơi nhích lên.
Bảng 1: Quy mô và tốc độ tăng dân số qua các năm
Biến số
1979
1989
1999
2001
2002
Dân số(triệu người)
53,3
64,4
76,43
78,68
79,93
Tốc độ tăng(%)
2,76
2,1
1,86
1,27
1,59
Nguồn:Tổng điều tra dân số(TĐTDS) năm 1979,1989,1999 và điều tra biến động
dân số kế hoạch hoá gia đình(ĐTDS_KHHGĐ) 1/4/2001,1/4/2002
Do nguyên nhân độ tuổi sinh đẻ tăng lên, mức sinh tăng và số người già giảm ít.Tỷ lệ dân số tăng nhanh dẫn đến tỷ lệ tăng nguồn nhân lực nhanh và tăng trẻ em từ đó gây ra sức ép dân số và lao động việc làm, đất đai, điều kiện kinh tế xã hội. Dự báo dân số Việt Nam vẫn có khả năng tăng cao trong thời gian tới do có đội ngũ bước vào tuổi sinh đẻ lớn. Vì vậy Đảng và Nhà Nước phải có chiến lược phát triển kinh tế xã hội đúng hướng tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội.
2. Phân bố dân cư không đều giữa khu vực thành thị và nông thôn, đồng thời có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng lãnh thổ.
Khu vực nông thôn chiếm khoảng 80% dân số, khu vực thành thị chiếm khoảng 20%. Dân số tập trung chủ yếu ở nông thôn do quá trình định canh đinh cư trong lịch sử và tốc độ gia tăng dân số rất nhanh ở khu vực này. Đồng thời do quá trình đô thị hoá nước ta còn chậm do tốc độ tăng dân số thành thị còn rất thấp:Năm 1999 dân số thành thị chiếm 23,7%, nông thôn là 76,3%.
Vùng đồng bằng chiếm khoảng 75% dân số, các vùng miềm núi và trung du chiếm khoảng 25% dân số.
Bảng 2: Bảng phân bố phần trăm dân số và diện tích đất đai
chia theo vùng 2001,2002.
Vùng
2001
2002
Dân số(%)
Diện tích(%)
Dân số(%)
Diện tích(%)
ĐBSH
Đông Bắc
TÂy Bắc
Bắc trung Bộ
DHNTB
Tây Nguyên
ĐNB
ĐBSCl
4,5
19,8
10.8
15,6
10
16,5
10,5
12,1
21,8
11,5
3,0
12,9
8,5
5,6
15,7
21
4,5
19,8
10,8
15,6
10
16,5
10,5
12,1
21,9
11,5
2,9
12,9
8,5
5,5
15,8
21
Nguồn: ĐTBĐDS_KHHGĐ năm 2001,2002
Phân bố dân số giữa các vùng có sự khác biệt rất lớn. Hai vùng Đồng Bằng Sông Hồng (ĐBSH) và Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), là châu thổ của hai sông lớn, nơi có đất đai màu mỡ và có điều kiện canh tác nông nghiệp thuận lợi, có tới 43% dân số của cả nước sinh sống nhưng chỉ chiếm 17% đất đai của cả nước.Ngược lại hai vùng Tây Bắc vàTây Nguyên chỉ có 8,4% dân số của cả nước nhưng chiếm tới 20% diện tích toàn quốc.Những nơi có điều kiện thuận lợi,kinh tế xã hội phát triển, dân cư thường tập trung lớn với mật độ dân số cao. Đồng thời duới sự tác động của cơ chế thị trường, sự phân bố dân số giứa các vùng có sự chênh lệch lớn, vùng đồng bằng và những đô thị lớn dân số và mật độ dân số tiếp tục tăng nhanh do di dân đặc biệt là Đông Nam Bộ và Tây Nguyên thu hút nguồn lao động lớn nhất.
Mô hình di dân thay đổi,trước kia di dân chủ yếu là có tổ chức và di dân từ phía bắc vào phía nam, chủ yếu là di dân đến Tây Nguyên. Hiện nay phần lớn là di dân tự do đến ĐBSH và ĐNB,đến các vùng có kinh tế xã hội phát triển, thu hút lao động do quá trình đô thị hoá và đến các thành phố lớn. Nơi thu hút dân nhập cư lớn vẫn là Đông Nam Bộ (ĐNB) do có tốc độ đô thị hoá cao,các khu công nghiệp phát triển mạnh. Còn sáu vùng khác là vùng xuất cư thuần tuý đặc biệt là Tây Nguyên và Đông Bắc là cao nhất(là 1,97% và1,75%) vùng thấp nhất là Tây Bắc (0,98%). Đồng thời trước kia nam di chuyển nhiều,nay chủ yếu là nữ do các vùng ĐNB và ĐBSH là các vùng phát triển các khu công nghiệp gồm các nghành thu hút chủ yếu là lực lượng lao động nữ.
3. Cơ cấu dân số trẻ đang bước vào thời kỳ quá độ tiến tới cơ cấu dân số già,dư lợi dân số:
Dự báo trong hai thập kỷ tới dân số nước ta sẽ duy trì “cơ cấu dân số vàng” với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tiếp tục tăng và đạt cao nhất gần 70% năm 2009.
Trong nhiều năm gần đây mức sinh của nước ta giảm đáng kể và tuổi thọ trung bình ngày càng tăng.Dân số nước ta có xu hướng già hoá với tỷ trọng dân số trẻ cao. Tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi chiếm tỷ lệ khá cao và giảm dần: năm 1979 chiếm 42,55%,năm 1989 giảm còn 39,16%, năm 1999 và 2002 đều chiếm 30%. Năm 2002 tháp dân số tiếp tục rộng ra so với năm 1999 phản ánh người già tiếp tục tăng lên. Tỷ trọng người trên 65 tuổi: năm 1989 là 5%,năm 1999 tăng lên 5,8%, năm 2002 đạt 6,3%
Bảng 3: Cơ cấu dân số theo giới tính theo nhóm tuổi Việt Nam năm 2002
Nhóm tuổi
Nam (%)
Nữ (%)
Tổng số(%)
Tỷ số giới tính (%)
0-4
5-9
10-14
15-19
20-24
25-29
30-34
35-39
40-44
45-49
50-54
55-59
60-64
65+
tổng số
8,34
10,89
12,49
11,71
8,46
8,15
8,03
7,72
6,62
4,92
3,29
2,11
2,09
5,12
100
7,58
9,94
11,36
10,9
8,39
8,05
7,79
7,62
6,93
5,07
3,85
2,5
2,6
7,4
100
7,98
10,4
11,91
11,3
8,43
8,1
7,91
7,67
6,78
4,99
3,57
2,31
2,35
6,3
100
106,8
105,7
106,1
103,6
97,3
97,6
99,4
97,8
92,1
93,7
92,3
81,4
77,6
66,6
96,4
Nguồn điều tra biến động dân số và KHHGĐ năm 2002
Bảng 4: Tỷ lệ phụ thuộc qua các năm 1979, 1989, 1999, 2002
Biến số
1979
1989
1999
2002
DR0-14
84
73
56
51
DR60+
14
13
14
14
DRchung
98
86
70
65
Nguồn: tổng diều tra dân số và nhà ở 1979,1989, 1999 và ĐTBĐDS-KHHGĐ 2002
Tỷ lệ phụ thuộc của nước ta giảm nhanh qua các năm. Theo kết quả điều tra năm 19989, 1999 sau 10 nă, tỷ lệ phụ thuộc chung giảm 16%, đến 2002 tỷ lệ phụ thuộc này còn 65%. Sự giảm đó là do giảm tỷ lệ trẻ em vf mức sinh liên tục giảm, còn tỷ lệ của nhóm người già tăng chậm từ 43% năm 1989 lên 14% năm 1999 và không đổi sau 3năm từ 1999 đến 2002. Tuy nhiên tỷ lệ phụ thuộc của ta còn cao là ghánh nặng và sức ép về lao động việc làm trong ngắn hạn. Theo dự báo đến năm 2015 chúng ta sẽ có 23,8% dân số trẻ và 9,1% dân số già, tỷ lệ lao động tăng lên. Đó là hiện tượng dư lợi dân số vừa tạo ra cơ hội vừa là thách thức của nền kinh tế. Do đó nhà nước cần có chính sách đáp ứng nhu cầub giáo dục, y tế, và các vấn đề xã hội. Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh chỉ tiêu giảm sinh.
Ngoài ra sự mất cân đối giới tính nhìn chung dần thu hẹp và không có sự chênh lệch lớn. Tuy nhiên đối với trẻ em và trẻ sơ sinh có sự mất cân đối giới tính ngày càng tăng lên do vẫn còn tình trạng trọng nam khinh nữ dẫn đến việc nạo phá thai, xét nghiệm, cũng như chăm sóc sức khoẻ thai nhi, trẻ em gái không tốt bằng con trai. Nguyên nhân do chiến tranh, do nam giới làm nhiều công việc nặng nhọc hưon nữ giớivà do tình trạng hút thuốc, uống rượu, nghiện hút nhiều hơn nữ rất nhiều …và còn do nguyên nhân sinh lý khác
4. Mức sinh đã giảm mạnh nhưng còn cao và rất khác nhau giữa các vùng.
Kết quả điều tra và tổng điều tra dân số qua các năm cho thấy mức sinh của Việt Nam đã giảm khá nhanh trong hai thập kỷ qua và hiện đã tiệm cận mức sinh thay thế, xong tốc độ giảm sinh đang có xu hướng dừng lại. Tỷ suất sinhthô năm 1989 là 36,1%, năm 1999 đã giảm mạnh còn 19,9%, đến năm 2001 còn 18,6% và năm 2002 lại tăng lên 19%. Tổnh tỷ suất sinh đã giảm tưg 3,8 con năm1989 xuống 2,25 con năm 2001 nhưng đến năm 2002 đã nhích lên đạt 2,28 con.
Mức sinh đã giảm ở tất cả các nhóm tuổi đặc biệt là 3 nhóm 25-29, 30-34, 35-3.Tuy nhiên mức sinh tăng nhẹ trong năm 2002 cũng chủ yếu ở 3 nhóm tuổi đó trong khi các mức tuổi trẻ hơn hoặc già hơn vẫn tiếp tục giảm. Điều đó chứng tỏ tác dụng tốt của biện pháp chánh thai và giáo dục của người dân tăng lên, đời sống kinh tế phát triển, áp dụng các chính sách dân số có hiệu quả.
Tuy mức sinh chung của cả nước giảm khá nhanh, thì sự biến động mức sinh giữa các vùng kinh tế diễn ra khác nhau: cao nhất là ở Tây Nguyên có TFR là 3,2 con, sau đó là Bắc Trung Bộ, DHNTB, thấp nhất là ĐBSH và ĐBSCL. Qua điều tra cho thấy các vùng có mức sinh cao thì tỷ lệ cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai thấp thì mức sinh vẫn tiếp tục giảm, tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai cũng tăng lên khán nhanh. Ngược lại những vùng có mức sinh đã đạt hoặc tiệm cận mức sinh thay thế năm 1999 thì mức sinh lại có su hướng nhích dần lên làm cho mức sinh chung của cả nước tuy vẫn tiếp tục giảm nhưng với tốc độ ngày càng chậm hơn. Điều đó thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 5: Tỷ suất sinh thô(CBR) và tổng tỷ suất sinh(TFR) qua các năm:
Biến số
1989
1999
2001
2002
CBR(Phần nghìn)
36,1
19,9
18,6
19
TFR(con)
3,8
2,33
2,25
2,28
Nguồn: Tổng điều tra dân số năm 1989,1999 và ĐTBĐ DS và nhà ở 1/4/2002
Mức sinh ở khu vức thành thị và nông thôn đều có xu hướng giảm nhưng có sự khác biệt lớn thời kỳ 1989-2002. Khu vực thành thị, tổng tỷ suất sinh giảm từ 2,5 xuống 1,9 con/phụ nữ, trong khi đó ở nông thôn tổng tỷ suất sinh đã giảm từ 4,4 xuống 2,4 con. Tổng tỷ suất sinh ở khu vực thành thị là 1,9 con thấp hơn khu vực nông thôn khoảng 0,5 con và dưới mức sinh thay thế nhiều năm qua.
Tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên ở nước ta còn khá cao,trên 20% phụ nữ đã sinh con thứ ba.Tỷ lệ này ở khu vực nông thôn còn cao gần gấp đôi khu vực thành thị (24% so với 13% năm 2002). Nếu chỉ giới hạn nghiên cứu trong số những phụ nữ đã từng có chồng tỷ lệ này còn cao hơn nhiều. Tây Nguyên là khu vực có tỷ lệ sinh con thứ ba cao nhất là 35% và có số con trung bình cao nhất 3,2 con,trong khi ĐBSH có tỷ lệ thấp nhất là 15% và 2,1 con. Như vậy nơi nào có kinh tế xã hội phát triển có nỗ lực hướng tới gia đình chỉ có một đến hai con thành công thì có mức sinh thấp và ngược lại.
Bảng 6: Tỷ suất sinh thô và tổng tỷ suất sinh qua các năm theo thành thành, nông thôn và các vùng địa lý.
Vùng địa lý kinh tế
CBR(phần nghìn)
TFR(con)
1999
2001
2002
1999
2001
2002
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
ĐBSH
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc trung Bộ
DHNTB
Tây Nguyên
ĐNB
ĐBSCL
19,9
15,9
21,2
16,2
19,3
28,9
21,4
21
29,8
18,2
18,9
18,6
15,4
13,7
16,4
18,1
25,4
18,5
18,7
27
18,3
18,6
19
16,9
19,6
17,2
18,9
24,1
18,3
20,5
24,7
17,5
17,7
2,3
1,7
2,6
2,6
2,3
3,6
2,8
2,5
3,9
1,9
2,1
2,25
1,9
2,4
2,1
2,4
3,1
2,7
2,5
3,6
2,2
2,2
2,28
1,9
2,4
2,1
2,3
2,3
2,6
2,4
3,2
2,0
2,0
Nguồn:điều tra dân số năm 1999,ĐTBĐDS-Nhà ở 1/4/2001, 1/4/2002
5. Mức chết thấp, ổn định nhưng có sự khác nhau giữa các vùng, giữa khu vực thành thị và nông thôn.
Nhìn vào bảng cho thâý: Đến nay tỷ suất chết trẻ sơ sinh(IMR) của cả nước là 26 phần nghìn và tỷ suất chết thô(CDR) là 5,8 phần nghìn. So với năm 1999,tỷ suất chết trẻ sơ sinh của nước ta vẫn tiếp tục giảm, nhưng tỷ suất chết thô lại tăng dần do cơ cấu dân số nước ta ngày càng được già hoá.IMR của khu vực nông thôn là 29 phần nghìn cao hơn 1,6 lần khu vực thành thị (17 phần nghìn). CDR của khu vực nông thôn là 6,3 phần nghìn cao hơn 1,4 lần so với khu vực thành thị (4.5 phần nghìn).
Bảng 7: Tỷ suất chết trẻ sơ sinh và tỷ và suất chết thô theo khu vực thành thị, nông thôn và các vùng địa lý:
Vùng địa lý
1999
2001
2002
CBR(‰)
TFR(CON)
CBR(‰)
TFR(CON)
CBR(‰)
TFR(CON)
Cả Nước
Thành thị
Nông thôn
ĐBSH
ĐBắc
TBắc
BTBộ
DHNTB
TNguyên
ĐNBộ
ĐBSCL
19,9
15,9
21,2
16,2
19,3
28,9
21,4
21
29,8
18,2
16,8
2,3
1,7
2,6
2,6
2,3
3,6
2,8
2,5
3,9
1,9
2,1
19,6
15,4
19,7
16,4
18,1
25,4
18,5
18,7
27
18,3
18,6
2,25
1,9
2,4
2,1
3,1
2,7
2,5
3,6
2,2
2,2
19
16,9
19,6
17,2
18,9
24,1
18,3
20,5
24,7
17,5
17,7
2.28
1,9
2,4
2,1
2,3
2,3
2,6
2,4
3,2
2,0
2,0
Nguồn: Tổng điều tra dân số năm 1999 và điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/ 2001 và 1/4/ 2002.
Mặc dù mức độ chết sơ sinh của nước ta đã giảm đáng kể, song sự khác biệt giữa các vùng còn rất lớn. Hai vùng khó khăn nhất của nước tagồm tây bắc và và tây nguyên, là những vùng chưa đáp ứng đầy đủ các nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân, đời sống còn nhiều khó khăn mặc dù mức độ chết của những năm gần đây đã và đang có xu hướng giảm khá nhanh, song các tỷ suất chết lại dao động lên xuống với mức độ cao.
6. Chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta ngày càng được cải thiện, được xếp vào loại khá so với nhiều nước nghèo trên thế giới.
Chất lượng dân số ngày càng cao, và được cải thiện nhiều so với trước. Theo báo cáo của liên hợp quốc:
Bảng 7: Chỉ síi HDI qua các năm
Biến số
1997
1999
2001
2002
HDI
0,557
0,671
0,682
0,696
Xếp hạng
121/175
108/175
109/173
Do tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe, khám chữa và phòng bệnh xã hội có kết quả; 90% dân số đã được tiếp cận các dịch vụ y tế nên thể lực NNL được cải thiện. Trình độ học vấn và dân trí ngày càng cao, tỷ lệ dân số biết chữ đạt 91% gần đạt tới xoá mù chữ và phổ cập tiểu học đạt 90%. Tuổi thọ dân cư tăng nhanh và cao hơn nhiều nước trong khu vực một phần nhờ vào sự phát triển kinh tế xã hội đất nước và hưởng các thành quả phát triển y tế của thế giới.
Những thành tựu đạt được về dân số là do sự cùng nỗ lực của nhà nước và nhân dân ta trong cả thời kỳ dài. Và đặc biệt quan trọng nhà nước đã có các chính sách dân số và các biện pháp đúng đắn kết hợp đồng bộ với các chương trình phát triển kinh tế xã hội, phát triến giáo dục và phát triển y tế cho nhân dân. Năm 1995 nước ta đã được liên hợp quốc công nhận về chính sách dân số. Dân số là yếu tố tác động trực tiếp đến NNL và gián tiếp tác động đến mọi lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội, văn hoá. Do đó nhà nước cần phải chú trọng đến vấn đề dân số để có chiến lược phát triển đúng hướng.
II- Thực trạng ảnh hưởng của dân số đến thị trường lao động trong tiến trình hội nhập kinh tế.
Thị trường lao động là một bộ phận cấu thành của hệ thống thống thị trường trong nền KTTT phát triển. Nước ta sau 10 năm đổi mới, nền kinh tế đã chuyển sang nền KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng so với các loại thị trường khác như: vốn, công nghệ, hàng hoá thì TTLĐ hình thành chậm hơn.
Sự hình thành và phát triển TTLĐ nước ta cũng như nhiều nước gắn liền với quá trình phân hoá tự nhiên của nền sản xuất nhỏ. Từ những năm nửa cuối của thập kỷ 80 đến những năm đầu của thập kỷ 90, TTLĐ mới hình thành dưới hình thức các hình thức thuê mướn lao động theo kiểu hựop đôngf miệng, thời gian ngắn, tạm thời, không ổn định chủ yếu xảy rảơ các tỉnh phía nam. Giai đoạn này TTLĐ còn manh mún, phân tán, chia cắt, sự di chuyển lao động còn ít giữa các vùng cũng như thành thị và nông thôn, trong nước và ngoài nước. Lao động trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể theo hình thức biên chế, hoặch định biên cứng nên làm khô cứng các quan hệ lao động trên thị trường lượng dôi dư lớn, tâm lý phụ thuộc nhà nước, kinh phí cao, nhà nước không tự lo được cho mình. Khái niệm thất nghiệp cũng được đề cập đến một cách chính thức về mặt xã hội.
Chủ trương chuyển hướng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang KTTT theo định hướng XHCN được khởi đầu bởi nghị quyết Đại Hội Đảng lần thứ VI cùng với một loạt những cải cách lớn về thể chế và chính sách kinh tế đã tạo điều kiện cho TTLĐ hình thành và từng bước phát triển.
Bộ luật lao động (1995) ra đời đã thể chế hoá quan hệ việc làm cũng như các quy định có liên quan đến thị trường lao động như: hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, an toàn vệ sinh lao động, tiền lương và chế độ trả lương, bảo hiểm xã hội, xuất khẩu lao động. Bộ luật lao động cũng cụ thể hoá các quy định của hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992 về lao động, quản lý lao động, mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trên các vấn đề cơ bản về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên. Bộ luật lao động tạo điều kiện cho thị trương lao động thống nhất, linh hoạt trên phạm vi cả nước và trên thị trường quốc tế.
Thị trường lao động gắn liền với các NNL là nơi cung cấp sức lao động cho thị trường. Dân số laị là cơ sở hình thành nguồn nhân lực. Do đó phân tích tác động của dân số đến TTLĐ là phân tích mối quan hệ giữa dân số,nguồn nhân lực và TTLĐ tức là phân tích về cung lao động.
1. Thực trạng nguồn nhân lực dưới tác động của dân số.
NNL là một bộ phận cấu thành của dân số. NNL ở Việt nam đóng vai trò của lực lượng sản xuất và là động lực quan trọng tham gia vào quan hệ TTLĐ để tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng (Bộ luật lao động).
1.1. Quy mô nguồn nhân lực là một thuận lợi cho phát triển kinh tế.
Thực trạng dân số cho thấy việt nam là nước có dân số trẻ, tốc độ tăng dân số cao do qui mô NNL lơn và vẫn tiếp tục tăng. Nhìn vào biểu ta thấy tỷ lệ phụ thuộc ngày càng giảm qua các năm từ đó giảm ghánh nặng cho người lao động.
Bảng 8: Tỷ số phụ thuộc (DR) của trẻ em và người già qua các năm
Nhóm tuổi
1979
1989
1999
2001
0-14
41,7
39,2
33,0
31,3
15-19
39,2
53,7
59
60,2
60+
7
4,8
8
8,05
Nguồn:tổng điều tra dân số năm 1979, 1989, 1999 và ĐTBĐDS và nhà ở năm 2001
1.2. Tốc độ tăng bình quân của NNL qua nhiều năm đều lớn hơn tốc độ tăng dân số do mức sinh và mức chết giảm thể hiện qua biểu sau:
Qui mô và cơ cấu dân số trẻ, tốc độ tăng NNL nhanh vừa tạo ra lợi thế về NNL rồi rào nhưng cung gây sức ép về vấn đề việc làm và chất lượng dân số đối với nước ta khi nền kinh tế còn kém phát triển. Năm 2002 dân số tăng khoảng 1.098.820 người, NNL tăng khoảng 1,3-1,4 triệu người đời hỏi phải tạo công ăn việc làm mưói cho những người vào tuổi lao động. Dự báo dân số việt nam hai thập kỷ tơisex duy trì “ cơ cấu dân số vàng ” với NNLtiếp tục tăng cao nhất là 70% vào năm 2009 vưói con số tuyệt đôi là 56 triệu người
Bảng 9: Tỷ lệ tăng dân số và tỷ lệ tăng NNL (%)
Thời kỳ
Tỷ lệ tăngdân số hàng năm
Tỷ lệ tăng NNL hàng năm
1960-1975
3,05
3,2
1975-1980
2,45
3,47
1980-1990
2,3
3,2
1990-1995
1,8
2,8
1995-2000
1,5
2,05
2000-2005
2,05
1.3. Cơ cấu nguồn nhân lực xét theo ba khu vực hoạt động của lao động còn khá lạc hậu.
Lao động chiếm đa số trong khu vục nông(NN) nghiệp còn khu vực công nghiệp(CN) và dịch vụ (DV) mới chiếm tỷ trọng nhỏ. So sánh với một số nước trong khu vực mới công nghiệp hoá và một ssó nước công nghiệp phát triển trên thế giới sẽ thấy Việt Nam còn phải nỗ kực nhiều để chuyển dịch cơ cấu theo hai chặng đường: CN hoá xong và hậu CN.
Bảng 10: Cơ cấu lao động NN-CN-DV năm 1995 (%):
Tên nước
NN
CN
DV
Việt Nam
62
14
24
Mỹ
3
24
71
Hàn Quốc
15
33
52
Nguồn: ILO world labour report 1995
1.4. Tình hình phân bố nguồn nhân lực trên ruộng đất:
Số người lao động /ha ruộng đất bình quân cả nước là 33,4 người, riêng ĐBSCL là 7,47 người. Mật độ này còn tăng trong tương lai, tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp trong khi đó lại thiếu sức hút từ khu vực công nghiệp.Chênh lệch giữa các vung sẽ làm hạn chế việc khai thác tiềm năng đất đai và NNL ở một số vùng có điều kiện(cửa biển và ven biển).
Do trình độ phát triển không đồng đều giữa các vùng, cũng như các cản trở về địa lý và hạ tầng cơ sở, sự phân bố dân cư và NNL đang là một thách thức lớn. Dân cư tập trung phần lớn ở nông thôn vì thế càng gây sức ép về đất đai và việc làm. Đó là nguyên nhân di dân từ nông thôn ra thành phố lớn và các đô thị dẫn đến thất nghiệp thành thị ngày càng tăng cao và kéơ btheo các vấn đề xã hội khác, một mặt thúc đẩy quá trình đô thị hoá
1.5. Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao nhưng còn nhiều vấn đề dặt ra phải giải quyết.
Mặc dù nước ta đã có thành tửúât quan trọng trong lĩnh vực dinh dưỡng và chăm sóc sức khoẻ ban đầu và đạt được kết quả khả quan tuổi thọ cao nhưng tình trạng sức khoẻ và thể lực của người lao động còn thấp kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của phương pháp tổ chức và cường độ lao động theo kiểu CN. Năm 1996 chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam là 163cm (nam), 152cm(nữ) với cân nặng tương ứng là 51,3 và 48,5 kg (so với triều cao trung bình của thanh niên Nhật là 164 cm và 53,3 kg). Chất lượng NNL còn thấp kém so với nhiều nước trên thế giới một p-hần do tình trạng kém phát triển nên cơ hội học tập của người dân thấp (80% NNL chưa qua đào tạo), đông thời chất lượng đào tạo còn phải cố gắng nhiều mặt về kiến thức khoa học, năng lực thực hành, phương pháp tư duy nắm bắt công nghệ hiện đại, cơ cấu đào tạo vẫn chưa hợp lý …
Mặt khác, ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung làm cho lề lối, tác phong làm việc của người lao động còn chậm chạp, thiếu năng động sáng tạo trong lao động. Người lao động Việt Nam chưa có tinh thần sẵn sàng làm việc, khả năng hội nhập và thâm nhập thị trường ngày càng mạnh mẽ nhưng vẫn còn kém. Đánh giá về sức cạnh tranh lao động, tổ chức BER năm 1998đã đưa ra thang điểm cho mỗi chỉ tiêu là 100 thì Việt Nammới chỉ đạt 45 điểmvề khung pháp lý, 20 điểm về năng suất lao động. So với 58 nước được chọn để đánh giá, Việt Nam đứng thứ 48 .
2. Lực lượng lao động.
Bao gồm những người từ đủ tuổi 15 trở lên có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc họ tạo thành bộ phận chính của cung lao động.
Bảng 11: số lượng, cơ cấu và tốc độ tăng việc làm thường xuyên chia theo nhóm ngành của cả nước thời kỳ 1990 - 1996. và 1996 - 2003.
Biến số
1990 (triệu người)
1996 (triệu ngườd
2001(triệu người)
Tăng giảm bình quân hàng năm (1990-1996)
Tănggiảm bình quan hàng năm (1996-2001)
Tuyệt
đối
Tương đối(%)
Tuyệt đối
Tương đối(%)
TS VLTX
gồm:
30,13
33,97
37,68
613
1,93
740
2,1
NN
21,9
23,43
22,81
255
1,13
-124
-0,53
CN
4,2
3,698
5,428
-84
-2,1
346
7,98
DV
4,2
6,849
9,436
442
8,49
518
9,62
2. Cơ cấu VLTX (%) gồm:
100
100
100
100
100
100
100
NN
72,28
68,96
60,54
-0,55
-
-1,68
-
CN
13,88
10,88
14,41
-0,5
-
0,71
-
DV
13,86
20,16
25,05
1,05
-
0,98
-
Nguồn: Niên giám thống kê - Tổng cục Thống kê, 1991, Kết quả điều tra lao động việc làm 1996 - 2001.
2.1. Qui mô lực lượng lao động.
Tổng số lao động có việc làm thường xuyên đã tăng từ 33,987triệu năm 1996 lên 37,677 năm 2001, bình quân hành năm thời kỳ 1996-2001 số lao động có việc làm thường xuyên tăng thêm gần 2,1% với qui mô tăng thêm gần 740.000. Năm 2002 LLLĐ cả nước có 40,69 triệu người tăng 1205.460 người bằng 2.99%, trong đó nữd có 20.062.462 người chiếm 49,3%, so với năm 2001 tăng 467100 người (2,49%) LLLĐ thành thị tawng lên chiếm 23,87%, KVNT giảm đi còn 76,13%. KVTT tăng 526300 người bằng 5,73% và KVNT tăng 654600 người bằng 2,16% so với năm 2001
2.2. Cơ cấu lao động.
a. Cơ cấu lao động có việc làm thường xuyên chuyển dịch nhanh hơn theo hướng tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp, lao động, dịch vụ, giảm tỷ trọng trongnông nghiệp nhưng còn chậm. Lao động vẫn còn tập trung chủ yếu trong nông nghiệp được thể hiện qua bảng số lượng cơ cấu và tốc độ tăng việc làm thường xuyên.
b. Thành phần kinh tế có sự khác biệt khá rõ dệt về cơ cấu lao động làm việc theo nhóm ngành kinh tế quốc dân.Khu vực kinh tế nhà nước, lao động chủ yếu làm việc trong các nhóm ngành dịch vụ, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài(FDI), kinh tế hỗn hợp và kinh tế tư nhân, lao động chủ yếu làm việc trong các nhóm ngành công nghiệp và xây dựng. Khu vực kinh tế tập thể và cá thể lao động chủ yếu làm việc trong các nhốm ngành nông lâm ngư nghiệp thể hiện qua bảng số liệu .
Bảng 12: Cơ cấu lực lượng lao động chia theo nhóm ngành kinh tế 1/7/2002
Nhóm ngành KTQD
Tổng số
Khu vực thành phần kinh tế (%)
Nhà nước
Tập thể
Tư nhân
Cá nhân
Có vốn ĐTNN
Hỗn hợp
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
Chia ra
Nông nghiệp
60,67
6,42
96,54
14,64
64,98
7,94
5,51
Công nghiệp
15,43
27,65
1,71
54,53
12,31
74,84
67,53
dịch vụ
24,2
65,93
2,75
30,83
22,82
17,22
26,96
Nguồn: Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra lao động việc làm 1/7/2002.
c. Xét cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên của toàn quốc là 39286625 người trong đó kinh tế cá thể chiếm 68,55 % ; kinh tế tập thể chiếm 15, 67% kinh tế nhà nước chiếm 10,21 %, kinh tế tư nhân chiếm 3,59 %, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 1,12 %, kinh tế hỗn hợp chiếm 0,68 %
3. Phân bố lực lượng lao động
Thất nghiệp ở khu vực thành thị giảm,việc làm ở các thành phố trọng điểm tăng trong cả nước. Tỉ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn tăng lên.
a. Phân bố theo thành thị và nông thôn.
Bảng 13: Tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ ở khu vực thành thị và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn năm 1996-2002:%
Năm
Tỷ lệ thất nhgiệp của LLLĐ ở thành thị
Thời gian sử dụng lao động của LLLĐ ở nông thôn
1996
5,88
72,28
1997
6,01
73,14
1998
6,85
71,13
1999
6,74
73,56
2000
6,42
74,19
2001
6,28
74,37
2002
6,01
75,41
Nguồn: Số liệu thống kê BLĐTB_XH ở Việt Nam1996-2000. Kết quả điều ra lao động việc làm năm 2001, 2002
Có được kết quả đó trong nhiều năm là nhờ hiệu lực thi hành luật doanh nghiệp, hàng chục nghìn doanh nghiệp tư nhân đã thành lập trong hai năm 2000_2001 tạo thêm khoảng 600 lao động. Kinh tế thị trường phát triển cùng với tiến trình HNKT đã tạo điều kiện cho số hộ kinh doanh cá thể tăng nhanh, năm 2001 cả nước có khoảng 2 triệu hộ với tổng lao động làm việc khoảng 10,965 triệu người. Kinh tế trang trại ở nông thôn ph._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35511.doc