Thực trạng của kinh tế tư nhân trong quá trình hình thành & phát triển Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

A-đặt vấn đề Loài người đã trải qua nhiều hình thức tổ chức hình thái kinh tế – xã hội khác nhau. Kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc và chuyển sang nền kinh tế hàng hóa (kinh tế hàng hóa giản đơn của người dân, thợ thủ công… chuyển sang kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa ). Nền kinh tế hàng hóa phát triển ngày càng mạnh mẽ với đỉnh cao là nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường từ sản xuất đến tiêu dùng đều thông qua thị trường, kích thích được sức lao động và khả năng sáng tạo của ng

doc23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng của kinh tế tư nhân trong quá trình hình thành & phát triển Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ười lao động. Thời điểm miền Bắc giành độc lập đã trở thành mốc son lịch sử đánh dấu sự kiện trọng đại của đất nước ta khi Đảng Cộng sản quyết định đưa Việt Nam đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Khi thống nhất đất nước- 30/4/1975 cả nước ta bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng vấp phải sai lầm là duy trì quá lâu nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp làm cho nền kinh tế những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá. Mô hình kinh tế của Việt Nam được xác định là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua. Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định rằng: “Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật”. Căn cứ vào nguyên lý chung và điều kiện cụ thể của Vệt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định: nền kinh tế trong thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam có 6 thành phần: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó khu vực kinh tế tư nhân là một nhân tố mới của nền kinh tế chuyển đổi ở nước ta, được xác định là một giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Trong lịch sử, chủ nghĩa tư bản là phương thức sản xuất đầu tiên biết tổ chức nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường và đã đạt được những thành công không thể phủ nhận. Ngày nay, nền kinh tế thị trường được xác định là thành tựu chung của nhân loại. Thực tế cho thấy chưa có nước nào thành công trong phát triển nền kinh tế thị trường lại thiếu khu vực kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân như một động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường. Ngược lại nền kinh tế thị trường chính là môi trường hoạt động và phát triển của các thành phần kinh tế trong đó có kinh tế tư nhân. B-giải quyết vấn đề I-Những vấn đề lý luận về kinh tế tư nhân 1.Quan niệm về kinh tế tư nhân,đặc điểm của kinh tế tư nhân. 1.1-Quan niệm về kinh tế tư nhân Khu vực kinh tế tư nhân bao gồm các hình thức sau đây: + Kinh tế cá thể: là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình, không thuê mướn lao động làm thuê. + Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia điình. Quy mô vốn đầu tư và lao động nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. + Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. 1.2-Đặc điểm của kinh tế tư nhân a. Kinh tế cá thể và tiểu chủ Thành phần kinh tế này tồn tại gắn với hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất của các chủ kinh doanh cá thể hoặc các tiểu chủ. Hiện nay ở nước ta, thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, đang là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng, lâu dài. Trong đó chủ hộ kinh doanh toàn quyền làm chủ các quá trình sản xuất, quản lý, phân phối. b. Kinh tế tư bản tư nhân Hiện nay, ở nước ta, thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới hình thức các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn mà phần vốn của tư nhân chiếm tỷ lệ tương đối. Trong thành phần kinh tế này tồn tại nhiều hình thức phân phối. Với người lao động: phân phối theo quyền sở hữu sức lao động và trả công theo giá trị sức lao động. Với chủ doanh nghiệp ( chủ tư bản tư nhân) phân phối theo tài sản và vốn, phân phối theo năng lực kinh doanh, phân phối theo hiệu quả kinh tế. 2.Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang trong thời kì quá độ sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ở đó tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều trình độ phát triển thuộc nhiều phương thức sản xuất khác nhau đan xen nhau, tạo nên sự đa dạng trong cơ cấu các hình thức kinh tế thời kỳ quá độ. Trong đó các hình thức kinh tế tư nhân đã và sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Lịch sử phát triển hàng trăm năm của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng như hơn 70 năm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã chứng minh điều đó. Sau mấy trăm năm phát triển, nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát triển vẫn chủ yếu là nền kinh tế tư nhân; còn sau hơn 70 năm thử xây dựng một nền kinh tế gồm hai thành phần chi phối là nhà nước và tập thể, phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa trước đây phải trở lại với kinh tế tư nhân. Trong công cuộc đổi mới kinh tế vừa qua ở Việt Nam, trong khi chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã coi trọng sự phát triển của kinh tế tư nhân và điều đó đã đem lại những thành công đáng kể.Có thể nêu ra một sự kiện: chỉ với Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong chính sách đổi mới quản lý sản xuất nông nghiệp, trao lại quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh cho kinh tế hộ nông dân đã đủ sức gây nên một sự đột biến kỳ diệu mà ít người hình dung nổi là Việt Nam từ một nước luôn phải nhập khẩu lương thực chỉ sau hơn một năm đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển vẫn còn nhiều tồn tại và vướng mắc.Trong các cấp lãnh đạo Đảng và quản lý nhà nước vẫn còn băn khoăn, nghi ngại về sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân nên giữa chủ trương, chính sách và việc tổ chức thực hiện trong thực tế còn có khoảng cách, nhiều chính sách và các quy định cụ thể còn thể hiện sự phân biệt đối xử rõ rệt, dành lợi thế cho khu vực kinh tế nhà nước, gây phiền hà cho khu vực kinh tế tư nhân (cơ chế xin-cho, vay vốn, chính sách thuế, chính sách cho thuê mặt bằng sản xuất(đất đai), chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động v.v.). Những hạn chế nói trên đã gây ra nhiều hậu quả: sự hoài nghi về tính nhất quán của chủ trương, đường lối, chính sách với việc tổ chức thực hiện, giữa lời nói và việc làm v.v.; chưa tạo được lòng tin vững chắc cho nhà doanh nghiệp và sự đồng thuận xã hội đối với đường lối, chủ trương của Đảng; chưa tạo đựơc dư luận xã hội rộng rãi thật sự tôn vinh, coi trọng và đánh giá đúng vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy đã đến lúc cần khẳng định dứt khoát quan điểm: hỗ trợ và khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong mọi lĩnh vực mà luật pháp không cấm là chủ trương, chính sách nhất quán lâu dài trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta, coi đó là quan điểm chỉ đạo việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn mới; đồng thời phải thể chế hoá chủ trương này thành luật pháp, chính sách cụ thể sát hợp với thực tế, loại bỏ những chính sách, quy định phù hợp, v.v. tạo môi trường pháp lý và môi trường kinh tế- xã hội lành mạnh cho các hình thức kinh tế phát triển bình đẳng. Tóm lại, sự phát triển kinh tế tư nhân là nhu cầu tất yếu khách quan và lâu dài của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. II-thực trạng của kinh tế tư nhân trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam. 1.Khảo sát tiến trình phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 1.1-Thời kì trước đổi mới. Trước đổi mới (năm 1986), khu vực kinh tế tư nhân là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa, không được luật pháp bảo vệ và khuyến khích phát triển. Nhưng vì khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể không đủ thoả mãn nhu cầu mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội của đất nước, nên khu vực kinh tế tư nhân còn cần thiết cho nền kinh tế, vì vậy vẫn âm thầm tồn tại dưới dạng kinh tế phụ gia đình (của các hộ cán bộ công nhân viên nhà nước và hộ xã viên hợp tác xã), các tổ hợp tác, tổ hợp sản xuất núp bóng doanh nghiệp nhà nước hặc hợp tác xã (thực chất là những loại hình kinh tế tư nhân khác nhau). Tuy mức độ và phạm vi hoạt động còn hạn chế nhưng các hình thức kinh tế tư nhân cũng đã thực sự góp phần tăng thu nhập, cải thiện đáng kể đời sống cho một bộ phận lớn cán bộ, công nhân viên và xã viên các hợp tác xã, giảm bớt căng thẳng cho nền kinh tế thời bấy giờ. Nhìn lại lịch sử kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay, kinh tế tư nhân đóng vai trò hết sức quan trọng. Trong giai đoạn khôi phục kinh tế ở miền Bắc (năm 1955-1957), Đảng và Nhà nước đã chủ trương duy trì và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân. Nghị quyết của Bộ chính trị (tháng 9-1954) xác định “phải hết sức coi trọng công tác phục hồi công thương nghiệp, làm cho các xí nghiêp công tư hiện có tiếp tục kinh doanh”. Nhờ có chính sách đúng đắn đó kinh tế miền Bắc đã khôi phục nhanh chóng... kinh tế tư nhân phát triển rầm rộ. Năm 1955 công nghiệp tư nhân và tiểu thủ công nghiệp ở miền Bắc có tới 51.688 cơ sở, với 128.622 công nhân tăng lên thành 54.985 cơ sở, với 161.241 công nhân (năm 1956). Trong giai đoạn này,thương nghiệp tư nhân chiếm tỉ trọng khá cao, 71.8% tổng mức bán buôn và 79.7% tổng mức bán lẻ. Năm 1957 trong cơ cấu giá trị sản xuất toàn xã hội, kinh tế quốc doanh và công ty hợp danh mới chỉ chiếm 17.9%, kinh tế tập thể và hợp tác xã chiếm 0.2%, trong khi đó kinh tế tư nhân chiếm 81.9%...Trong giai đoạn này(1955-1960), tốc độ tăng GDP của Việt Nam đạt đỉnh điểm cao (10.1%). Đây là bài học của sự phát huy sức mạnh tổng hợp các thành phần kinh tế, đặc biệt là phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn phát triển đầu tiên của nhà nước ta. Từ năm 1958 miền Bắc nước ta chuyển sang thời kì phát triển kinh tế với mục tiêu là xây dựng chủ nghĩa xã hội.Trong thời gian này, với quan niệm chủ nghĩa xã hội là công hữu hoá về tư liệu sản xuất, là sư thống trị của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Vì vậy Đảng và Nhà nước đặt ra nhiệm vụ là phải cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế tư nhân. Hội nghị trung ương 14 khóa II (11-1956) đề ra: đẩy mạnh công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân, đồng thời, phải ra sức phát triển kinh tế quốc doanh. Với chủ trương như vậy đã đưa đến một số tình hình sau đây: + Các xí nghiệp tư bản tư nhân bị cải tạo dưới hai hình thức công ty hợp danh đối với tư bản lớn và hợp tác xã đối với tư sản nhỏ.Trong những năm 1958-1960, ở miền Bắc đã cải tạo 2.135 xí nghiệp với 13.500 công nhân làm thuê. Như vậy, có thể nói thành phần kinh tế tư bản tư nhân lúc đó ở miền Bắc đã bị xoá bỏ hoàn toàn. + Đối với kinh tế tiểu nông, cá thể, tiểu chủ thì vận động đưa vào làm ăn tập thể dưới hình thức như: hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, sản xuất tiểu thủ công nghiệp và tổ hợp tác mua bán... Tình hình trên làm cho kinh tế tư nhân không được tôn trọng về mặt xã hội. Một tâm lý xã hội đã được hình thành ở Việt Nam lúc bấy giờ là khinh ghét những người làm kinh tế tư nhân. Luật pháp không bảo đảm cho tư nhân quyền tự do kinh doanh, tự do lập nghiệp. Mặc dù vậy, kinh tế tư nhân vẫn tồn tại và có những đóng góp quan trọng vào nền kinh tế quốc dân. Kế hoạch 5 năm 1976-1980 chủ trương tiếp tục công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những người sản xuất nhỏ ở miền Bắc và triển khai mạnh mẽ ở miền Nam, nhưng trong công nghiệp vẫn có trên 60 vạn người sản xuất cá thể và tạo ra khoảng 15% giá trị sản lượng toàn ngành. Trong nông nghiệp, hộ nông dân là xã viên hợp tác xã nông nghiệp thu nhập từ kinh tế tập thể thường chỉ chiếm 30-40%, kinh tế phụ gia đình chiếm 60-70%- thực chất là khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, thực tế đã cho thấy, sự tồn tại của kinh tế tư nhân là một yêu cầu khách quan. Nhà nước không chỉ thừa nhận mà còn phải biết khai thác những tiềm năng của nó vào mục tiêu dân giầu , nước mạnh. 1.2-Thời kì đổi mới. Cùng với quá trình đổi mới tư duy, trong suốt chặng đường phát triển của đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp để phát triển kinh tế tư nhân. Vì vậy, kinh tế tư nhân đã phát triển nhanh, thu hút đông đảo các tầng lớp dân cư tham gia. 1.2.2-Sự phát triển về số lượng của các hình thức kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI( tháng 12-1986) và nhất là từ khi ban hành luật doanh nghiệp tư nhân ( năm 1990) và Nghị định số 221/HĐBT (ngày 23-7-1991) về “cá nhân và nhóm kinh doanh” cùng nhiều chỉ thị, nghị quyết, chính sách khuyến khích khác của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân đã có bước ngoặt trong sự hồi sinh và phát triển. Năm 1990 mới có khoảng 800.000 cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ, thì đến năm 1992 đã có 1.498.600 hộ cá thể, tiểu chủ đăng ký kinh doanh. Hai năm sau, năm 1994, đã lên tới 1.533.100 cơ sở, tăng thêm 51.100 cơ sở: năm 1996 có 2.215.000 cơ sở, tăng thêm 164.900 cơ sở(so với năm 1995). Cùng với kinh tế cá thể, tiểu chủ, các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần cũng có bước phát triển vượt bậc về số lượng. Nếu năm 1991 tổng số các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần là 414 doanh nghiệp thì đến năm 1992 là 5.198 doanh nghiệp, năm 1998 đã tăng lên đến 26.021 doanh nghiệp. 1.2.2- Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân theo ngành nghề sản xuất kinh doanh Đa số các cơ sở kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân đều tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ, kế đó mới đến sản xuất công nghiệp và sau cùng là sản xuất nông nghiệp. Những năm gần đây, xu thế trên vẫn được duy trì và có chiều hướng tập trung vào các lĩnh vực dịch vụ và sản xuất nông nghiệp. Trong tổng số trên 2,2 triệu hộ cá thể, tiểu chủ được khảo sát thời kỳ 1997-1998 thì: lĩnh vực dịch vụ có trên 1,2 triệu cơ sở, lĩnh vực công nghệ và xây dựng có tới 527 ngàn cơ sở và cuối cùng là lĩnh vực nông nghiệp với khoảng 369 ngàn cơ sở. Xu hướng tập trung đầu tư vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ của khu vực kinh tế tư nhân không chỉ thể hiện về mặt số lượng, cơ cấu các loại hình doanh nghiệp, hộ cá thể, tiểu chủ, mà còn thể hiện qua cơ cấu vốn đầu tư và số lượng lao động sử dụng, doanh thu, nộp thuế, ... Trong lĩnh vực sản xuất khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng thấp, tiềm lực còn rất nhỏ bé, dễ bị tác động trước sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường. 1.2.3- Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân theo vùng lãnh thổ. Sự phát triển và phân bố các doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân diễn ra không đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Năm 1997, trong tổng số 25.002 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thì 18.728 doanh nghiệp tập trung ở miền Nam, trong khi miền Bắc chỉ có 4.187 doanh nghiệp và miền Trung có 2.087 doanh nghiệp. Những vùng có nhiều cơ sở kinh tế tư nhân cũng là những vùng sử dụng nhiều lao động: trong tổng số 4.849.142 lao động (năm 1996) làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân thì Đông Nam Bộ chiếm 26%, Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 23%, Đồng bằng sông Hồng gần 20%, Duyên hải miền Trung trên 11%, khu Bốn cũ 11%, miền núi và trung du Bắc Bộ gần 7%, Tây Nguyên gần 3%. 1.2.4- Những đặc điểm về vốn, lao động và sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân + Kinh tế tư bản tư nhân - Về vốn sản xuất: trong 5 năm (1991-1996), vốn bình quân của loại hình doanh nghiệp tư nhân tăng lên gấp 2 lần, công ty trách nhiệm hữu hạn có số vốn bình quân 2 tỷ đồng, công ty cổ phần có số lượng vốn bình quân cao gấp trên 60 lần vốn bình quân của công ty trách nhiệm hữu hạn và 600 lần vốn bình quân của doanh nghiệp tư nhân. - Về gía trị tài sản cố định: trong 3 loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thì doanh nghiệp tư nhân có giá trị tài sản cố định bình quân chung thấp nhất nhưng có xu hướng tăng lên và giữ ổn định ở mức 0,2 tỷ đồng; giá trị tài sản cố định bình quân của công ty trách nhiệm hữu hạn tăng không đều và có xu hướng giảm; công ty cổ phần có bình quân chung giá trị tài sản cố định cao nhất đạt 16,9 tỷ đồng năm 1995. - Về lực lượng lao động: Số lượng lao động bình quân một doanh nghiệp tư nhân là 8 lao động năm 1991 lên 19 lao động năm 1998, số lao động bình quân của một công ty trách nhiệm hữu hạn khoảng 47 lao động năm 1998, công ty cổ phần có quy mô lao động bình quân tăng gần gấp đôi từ 89 lao động năm 1991 lên 155 lao động năm 1996. - Về doanh thu: Năm 1991, bình quân doanh thu của một cơ sở thuộc khu vực kinh tế tư nhân là 2.7 tỷ đồng, sau 5 năm doanh thu đạt 2,8 tỷ đồng trong đó doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần đều có mức tăng cao hơn so với công ty trách nhiệm hữu hạn. - Về chỉ tiêu nộp ngân sách: Bình quân chung cả 3 loại hình doanh nghiệp trên là 0,12 tỷ đồng/ cơ sở năm 1991, sau 5 năm mức bình quân này giảm còn 0,07 tỷ đồng (năm 1996). Trong đó doanh nghiệp tư bản tư nhân có mức nộp ngân sách bình quân thấp nhất, công ty trách nhiệm hữu hạn mặc dù có doanh thu giảm mạnh nhưng vẫn duy trì được mức nộp ngân sách, công ty cổ phần nộp ngân sách nhà nước có mức bình quân cao nhưng sau đó liên tục giảm. + Kinh tế cá thể, tiểu chủ - Vốn sản xuất kinh doanh khoảng 11 triệu đồng. - Sử dụng khoảng 3,3 lao động ở nông thôn và 6,3 lao động ở thành phố. - Doanh thu hằng năm khoảng 18 triệu đồng. + Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân: doanh ngiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả nhất tiếp đó là công ty trách nhiệm hữu hạn và sau cùng là công ty cổ phần. Còn xét theo ngành sản xuất thì các ngành có hiệu quả hơn cả vẫn là thương nghiệp, sửa chữa và công nghiệp chế biến; ngành nông- lâm nghiệp vẫn có hiệu quả thấp nhất. + Về tốc độ tăng trưởng, phát triển của khu vực kinh tế tư nhân: các loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ có tốc độ tăng về số lượng không đều, bình quân giai đoạn 1992-1997 tăng khoảng 13%/năm. Các loại hình kinh tế tư bản tư nhân có tốc độ tăng cao vào năm 1994 nhưng các năm tiếp theo tốc độ tăng giảm dần, đạt bình quân khoảng 37%/năm. Khu vực kinh tế tư nhân được đánh giá là có tốc độ phát triển khá nhanh và cao hơn so với tốc độ phát triển của khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, nhưng kém hơn so với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nhờ có tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh nên khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp ngày càng quan trọng vào GDP của nền kinh tế: từ 102.468 tỷ đồng năm 1995 lên 151.388 tỷ đồng vào năm1998. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là tốc độ phát triển của khu vực kinh tế tư nhân cũng như toàn bộ nền kinh tế nước ta có dấu hiệu chững lại vào năm 1997- sau một thời gian phát triển ngoạn mục. Cụ thể là, khu vực kinh tế cá thể đang có tốc độ tăng gdp gần 10% năm 1995 đã tụt xuống còn 5% năm 1998, kinh tế tư bản tư nhân tụt từ 9% năm 1995 xuống còn 1% năm 1998. Mặc dù vậy, những đóng góp to lón của khu vực kinh tế tư nhân vào công cuộc đổi mới là rất to lớn, không thể phủ nhận được. 2.Đánh giá chung về thực trạng của thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam. 2.1-Những thành tựu đã đạt được. Thực hiện mục tiêu lớn nhất của Đảng và Nhà nước ta là “lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thái tổ chức kinh doanh”, huy động sức mạnh tổng lực của nền kinh tế cho phát triển đất nước, xây dựng nước Việt Nam “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”...,thì chính sách khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân những năm qua đã góp phần thực hiện có kết quả mục tiêu đó. Nhìn tổng thể, sự hồi sinh và phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong những năm đổi mới vừa qua đã mang lại nhiều kết quả kinh tế-xã hội to lớn mà nổi bật là: 2.1.1- Khơi dậy và phát triển tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư tham gia vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm. + Huy động mọi nguồn vốn đầu tư phát triển. Kinh tế cá thể, tiểu chủ tuy quy mô nhỏ nhưng với số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh lớn nên đã động viên được nhiều nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh từ 14.000 tỷ đồng năm 1992 đã tăng lên 26.500 tỷ đồng vào năm 1996. Các doanh nghiệp tư bản tư nhân đã huy động được lượng vốn vào kinh doanh là 20.665 tỷ đồng (tính đến hết năm 1996), chiếm khoảng 5% tổng số vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội và 6,9% vốn kinh doanh của các ngành. Mặc dù trong những năm đổi mới vừa qua với chính sách mở cửa, kêu gọi đầu tư nước ngoài của Nhà nước đã thu hút thêm nguồn FDI ngày một tăng nhưng khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn đóng góp lượng vốn đầu tư rất đáng kể: 21% tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội năm 1998 - là tỷ trọng không nhỏ. + Tạo việc làm, tận dụng lao động xã hội Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là lực lượng tham gia tích cực và có hiệu quả đối với việc giải quyết việc làm. Tính đến năm 1996 đã giải quyết việc làm cho 4.700.742 lao động, chiếm gần 70% lực lượng lao động xã hội trong khu vực sản xuất phi nông nghiệp. Xét ở góc độ giải quyết việc làm thì đây là khu vực có tỷ lệ thu hút lao động trên vốn đầu tư cao nhất trong nền kinh tế, cụ thể là: kinh tế cá thể thu hút 165 lao động/1 tỷ đồng vốn; doanh nghiệp tư bản tư nhân thu hút 20 lao động/1 tỷ đồng vốn...Các doanh nghiệp tư bản tư nhân trong 5 năm 1991-1996 bình quân mỗi năm giải quyết thêm khoảng 70.020 việc làm. Tổng số lao động thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm 90,1% tổng số lao động toàn xã hội - đây thực sự là khu vực kinh tế có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm cho lao động xã hội cả hiện tại và trong tương lai. + Đóng góp quan trọng trong GDP và thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Bên cạnh mục tiêu cơ bản là huy động tiềm năng về vốn và giải quyết việc làm cho lao động xã hội, khu vực kinh tế tư nhân còn đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm xã hội. Năm 1998 khu vực tư nhân đóng góp 41,1% GDP, nếu cộng với 9,1% GDP của khối đầu tư nước ngoài , khu vực ngoài quốc doanh chiếm trên 50% GDP cả nước. Nhờ vậy khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng cùng với khu vực kinh tế nhà nước và đầu tư nước ngoài thúc đẩy nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng cao trên 8%/1 năm, liên tục trong giai doạn 1992-1997, và đỉnh cao đạt 9,5% vào năm 1995. Không chỉ đóng góp lớn vào tổng sản phẩm quốc nội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân còn góp phần quan trọng tăng nguồn thu cho nhân sách Nhà nước, góp phần giải quyết nhiều vấn đề kinh tế- xã hội đặt ra. Nếu năm 1990, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nộp ngân sách là 969 tỷ đồng, thì đến năm 1998 đã tăng lên 11.086 tỷ đồng; tính ra bình quân hàng năm khu vực ngoài quốc doanh đóng góp vào nguồn thu cho ngân sách trên dưới 32% GDP của cả nước cao gấp trên 3 lần đóng góp của khu vực liên doanh với nước ngoài và gần bằng 1/2 đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước vào nguồn thu ngân sách hàng năm. Điều đó cho thấy đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân có đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách, tăng tiềm lực cho nền kinh tế. 2.1.2 Thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản ứy theo hướng thị trường, tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế. Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các ngành sản xuất kinh doanh,v.v.. đều do kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đảm nhận. Hiện nay, trừ một số lĩnh vực, ngành nghề mà Nhà nước độc quyền, kinh tế tư nhân không được kinh doanh, còn lại hầu hết các nghành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác nhau khu vực kinh tế tư nhân đều tham gia.Trong đó, nhiều lĩnh vực, nghành nghề, khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng áp đảo như: sản xuất lương thực, thực phẩm, nuôi trồng thuỷ hải sản, đánh cá, lâm nghiệp, hàng hoá bán lẻ, chế biến, sành sứ, giày dép, dệt may, v.v.Nhiều lĩnh vực đã mang về hàng tỷ đôla cho nền kinh tế, trong đó có đóng góp to lớn của khu vực kinh tế tư nhân.Chính sự phát triển phong phú, đa dạng các cơ sở sản xuất, các nghành nghề, các loại sản phẩm dịch vụ, các hình thức kinh doanh, v.v..của khu vực kinh tế tư nhân đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp Nhà nước, buộc khu vực kinh tế nhà nước phải cải tổ, sắp xếp lại, đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức kinh doanh, dịch vụ,v.v.. để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Qua đó, khu vực kinh tế tư nhân đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vực kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên năng động; đồng thời cũng tạo nên sức ép lớn buộc cơ chế quản lý hành chính của Nhà nước phải đổi mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng hình thành và xác lập vai trò, vị trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách cơ chế quản lý theo hướng thị trường, mở cửa hợp tác với bên ngoài. 2.1.3 Hình thành và phát triển các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, góp phần xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam, làm đầu tàu thúc đẩy nền kinh tế bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa hợp tác với bên ngoài. Nhờ đổi mới và phát triển khu vực kinh tế tư nhân, chúng ta đã từng bước hình thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề của nền kinh tế quốc dân với số lượng ngày một lớn: khoảng trên 40.000 chủ doanh nghịêp và trên 120.000 chủ trang trại. Mặc dù được hình thành một cách tự phát nhưng nhờ được đào luyện trong cơ chế thị trường, đội ngũ các nhà doanh nghiệp tư nhân đã tỏ rõ bản lĩnh, tài năng, thích ứng khá kịp thời với sự chuyển đổi của nền kinh tế. Họ đã vươn lên, tham gia vào hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất kinh doanh mà luật pháp không cấm- trong đó bao gồm cả những ngành kỹ thuật cao và đã làm chủ nhiều lĩnh vực, nhiều ngành hàng. 2.1.4 Góp phần xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thực hiện công bằng xã hội. Chính nhờ phát triển kinh tế tư nhân với nhiều loại hình kinh tế khác nhau, đã góp phần làm cho quan hệ sản xuất chuyển biến phù hợp với lực lượng sản xuất trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế nước ta. Nếu trước đây quan hệ sở hữu ở nước ta chỉ bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể thì giờ đây quan hệ sở hữu đã được mở rộng hơn: còn có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sở hữu hỗn hợp. Trong quan hệ quản lý: hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân, đội ngũ những người lao động ồam thuê trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân...; xuất hiện quan hệ chủ thợ, quan hệ thuê mướn lao động thông qua hợp động kinh tế; thị trường lao động bước đầu được hình thành và ngày càng mở rộng, tạo cơ hội tìm kiếm việc làm cho mọi người thay cho việc phân bổ lao động vào các doanh nghiệp theo chỉ tiêu...Quan hệ phân phối càng trở nên đa dạng, linh hoạt: xuất hiện các hình thức phân phối theo vốn góp, theo tài sản, theo cổ phần và các hình thức khác,... Chính những sự chuyển biến trên đã làm cho quan hệ sản xuất trở nên mềm dẻo, đa dạng, linh hoạt, dễ được chấp nhận và phù hợp với thực trạng nền kinh tế và tâm lý xã hội ở nước ta hiện nay. Nó đã khơi dậy và phát huy được tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là nguồn lao động dồi dào và tiềm lực của hàng triệu hộ tư nhân vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Nhờ vậy đã góp phần quan trọng xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống dân cư, góp phần đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhiều năm liền trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh mặt tích cực kể trên, sự chuyển biến của quan hệ sản xuất trong thời gian qua cũng ít nhiều bộc lộ tính tự phát và những mặt tiêu cực chưa phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa như: phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội, chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn...Mặc dù vậy, những tác động tích cực do sự chuyển biến của quan hệ sản xuất trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phá triển tạo nên những thành tựu kinh tế- xã hội to lớn của đất nước thời kỳ đổi mới là không thể phủ nhận. 2.2-Những tồn tại, yếu kém chủ yếu. + Phần lớn các cơ sở kinh tế tư nhân đều có quy mô nhỏ, năng lực và sức cạnh tranh hạn chế, dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Hiện nay có tới 87,2% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng.Thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất là hiện tượng phổ biến đối với toàn bộ các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân hiện nay và được coi là một trong những cản trở lớn nhất đến sự phát t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0312.doc
Tài liệu liên quan