những định hướng cơ bản xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta
Lời mở đầu
Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của toàn bộ chính sách kinh tế vĩ mô của đảng và nhà nước trong sự nghiệp đổi mới toàn bộ nền kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Nhằm đưa nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng thị trường có sự quản lý vĩ mô, đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao, xoá bỏ nghèo nàn
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng của chính sách tiền tệ thời gian qua và những định hướng cơ bản xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới ở VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lạc hậu, thực hiện xã hội công bằng văn minh. cần phải có một nền kinh tế tài chính lành mạnh thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng kinh tế đối ngoại và tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam. Chính sách tiền tệ quốc gia là công cụ đắc lực cho việc thực hiện đổi mới nền kinh tế. Mục tiêu chiến dược mà đại hội toàn quốc lần thứ VII đề ra là ổn định và phát triển kinh tế trong đó xác định nhiệm vụ hàng đầu mà chính sách tiền tệ cần đạt dược là giữ vững và ngày càng ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam,kiêm chế và kiêm soát được lạm phát ở mức thấp góp phần ổn định và tăng trưởng kinh tế. Để điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả phải tạo ra được và điều hành các công cụ của nó một cách nhạy bén, linh hoạt và phù hợp với điều kiện nước ta như: lãi suất, dự trữ bắt buộc, tín dụng và các công cụ thị trường mở, tỷ giá ngoại tệ, dự trữ vàng và ngoại tệ, cán cân thanh toán, đặc biệt là xác định được lượng tiền cung ứng hàng năm và điều hành theo tín hiệu thị trường.Khi nắm chắc và dùng các công cụ kinh tế vĩ mô điều hành một cách có hiệu lực lượng tiền cung ứng hàng năm và điều hành theo tín hiệu thị trường. Khi nắm chắc và dùng các công cụ vĩ mô điều hành một cách có hiệu lực tiền cung ứng ra lưu thông hoặc rút tiền từ lưu thông về phù hợp yêu cầu của thị trường sẽ tạo ra cho nền kinh tế một mặt bằng giá cả và giá trị đồng tiền ổn định góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy mạnh xuất khẩu tăng trưởng kinh tế, ổn định và nâng cao đời sống xã hội.
Chính sách tiền tệ nước ta đã từng đổi mới và tiếp tục cần đổi mới trong những năm tới nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan của tình hình kinh tế xã hội cụ thể là:
- Nền kinh tế nước ta tiếp tục đổi mới theo định hướng chiến lược mà đại hội toàn quốc lần thứ VII và lần thứ VIII đã đề ra.Thực hiện hội nghị toàn quốc lần thứ VII (khoá VII) về CNH- HĐH đất nước đòi hỏi phải có một nền tài chính tiền tệ lành mạnh và ổn định để khuyến khích đầu tư trong nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Nhu cầu vốn tín dụng, nhất là vốn chung và dài hạn để đầu tư cho nền kinh tế ngày càng lớn, phải có một chính sách tiền tệ phù hợp, tích cực để thay đổi cơ cấu tín dụng đối với nền kinh tế.
- Các thị trường vốn, thị trường tiền tệ đang dần được hình thành và phát triển tiền tệ chứng khoán đã ra đời ở nước ta đòi hỏi sự hỗ trợ, đồng thời đặt ra những vấn đề mới đối với chính sách tiền tệ.
- Mở rộng quan hệ tài chính, tiền tệ với nước ngoài, ngày càng hoà nhập với cộng đồng tài chính tiền tê quốc tế.
Phần I
Những nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ
I Chính sách tiền tệ là gì ? vai trò của chính sách tiền tệ
1.Chính sách tiền tệ là gì ?
Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận chính sách kinh tế- tài chính của nhà nước, nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và năng cao đời sống nhân dân với các nội dung sau:
- Nhà nước quản lí mọi hoạt động ngân hàng.
- Có biện pháp động viên các nguồn lực trong nước là chính, tranh thủ tối đa nguồn lực ngoài nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế.
- Đảm bảo vai trò chủ dạo và chủ lực của các tổ chức tín dụng nhà nước lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
- Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia, mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
- Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, góp phần CNH-HĐH đất nước.
- Đây là chính sách mang tính định hướng cho hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và trong lĩnh vực tiền tệ nói riêng.Xin nói rõ thêm một vài yếu tố mà chính sách tiền tệ có đề cập đến:
- Việc đảm bảo quốc phòng an ninh và năng cao đời sống nhân dân được hiểu là hiệu quả của quá trình phát triển kinh tế – xã hội và kết quả ổn định giá trị đồng tiền, chứ không hoàn toàn phải phát hành tiền trực tiếp cho các mục đích nói trên.
- Góp phần thực hiện CNH-HĐH đất nước.nó được thực hiện trên cơ sở động viên các nguồn lực trong nước và ngoài nước,để đầu tư chứ không phải nhìn vào các máy in tiền (lạm phát)
2.Vai trò của chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều tiết khối lượng tiền lưu thông trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua chính sách tiền tệ NHTW có thể kiểm soát được chính sách tiền tệ từ đó kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mặt khác, chính sách tiền tệ còn là công cụ để kiểm soát toàn bộ hệ thống kinh doanh tiền tệ, lành mạnh hoá hoạt động của hệ thống các NHTW và các tổ chức tín dụng.
Một quốc gia với chính sách tiền tệ thích hợp sẽ tạo được thế ổn định và kích thích tăng trưởng kinh tế.nhưng ngược lại một chính sách tiền tệ không đúng sẽ gây mất ổn đinh, sự phát triển kinh tế chậm lại,thậm chí lâm vào đình trệ, suy thoái và khủng hoảng .
đối với nước ta, trong một mối cảnh kinh tế quốc tế đầy thách thức và trở ngại với công cuộc CNH-HĐH đất nước, thì vai trò của chính sách tiền tệ càng trở nên quan trọng.
II.Mục tiêu của chính sách tiền tệ:
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ xuất phát từ NHTW.chức năng và nhiệm vụ của NHTW là cung ứng và điều hoà khối lượng tiền tệ,điều khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng,kiểm soát hệ thống ngân hàng, baỏ vệ giá trị của đồng tiền trong nước. NHTW thực hiện các chức năng nghiệp vụ trên thông qua chính sách tiền tệ của mình bằng chác xử lý tổng hợp bốn đầu mối quan hệ (chính phủ, ngân hàng trung gian, các thụ trường tiền tệ tài chính và khu vực tiền tệ tài chính đối ngoại ) nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Có hai much tiêu chính trong chính sách tiền tệ: mục tiêu tiền tệ và mục tiêu kinh tế.
1.Mục tiêu tiền tệ.
Về phương tiện tiền tệ, có bốn mục tiêu mà chính sách tiền tệ mong muống đạy tới:điều hoà khối tiền tệ, kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền, bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền và ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền.
1.1.Điều hoà khối tiền tệ
Đó là mục tiêu duy trì mối tương quan tiền –hàng được ổn định bằng cách gĩ, tăng hay giảm khối tiền tệ. Có một nguyên tắc tổng quát:Nếu mỗi năm nền kinh tế đều tăng trưởng, thì phải tăng khối tiền tệ bằng tỉ lệ tăng trưởng kinh tế. Nguyên tắc này khắc chế xu hướng ấn định khối tiền tệ cứng nhắc một lần cho khoảng thời gian dài.Một khối tiền tệ được ấn định một cách chặt chẽ sẽ có tác dụng làm cho giá cả và lương bổng giảm nếu sản xuất tăng lên. Nhưng làm như vậy sẽ tạo ra nhiều căng thẳng trong các hoạt động sản xuất, lưu thông phân phối làm nguy hại đến cức tăng trưởng kinh tế.
1.2.Kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền (MV)
Việc kiểm soát khối tiền tệ đơn thuần có nhược điểm là không chú ý tới tốc độ lưu hành tiền tệ. Cái gì ảnh hưởng mạnh mẽd tới vật giá, không phải chỉ có khối lượng tiền tệ M, mà còn có tốc độ lưu hành tiền tệ V nữa.Vậy kiểm soát khối lượng tiền M chưa đủ, mà còn phải lsưu ý tới V nữa, hay đúng hơn kiểm soát MV mà ngườu ta goị là trào lượng tiền tệ, tức là tổng số tiền tệ dùng để chi trả trong khoảng thời gian nhất định với tốc độ V.
Tốc độ Vcó tác dụng khuyếch đại nhiều hay ít khối lượng tiền M. Trào lượng tiền tệ tăng hay giảm chưa nói lên được tác dụng của nó làm giảm hay tăng giá trị tiền tệ.cần phải xem nó có tác dụng như thế nào,bao gồm trong bản thân nó hai thành phần:Một là số lượng hàng hoá dịch vụ do sản xuất trong nước cung ứng và số lượng hàng hoá xuất phát từ nhập khẩu. Nhưng việc kiểm soát MV rất khó,bởi vì tuỳ thuộc vào các chủ thẻ kinh tế riêng biệt trong sử dụng tiền tệ.nó tuỳ thuộc vào niềm tin của công chúng đối với giá trị tiền tệ, sự tiên liệu của họ về thời cơ kinh tế, những cơ hội làm ăn sinh lời, khuynh hướng tiêu xài của dân chúng, lòng tin vào chính sách kinh tế của nhà nước, trình độ kĩ thuật ngân hàng, mức độ tin tưởng của dân chúng đối với ngân hàng. ở những nước công nghiệp phát triển, các chủ thể quen dùng séc trong thanh toán. Tổng số thanh toán các cuộc giao dịch bằng phương tiện này lên dến 70-80% trên tổng số thanh toán của dân cư. Vì vậy NHTW kiểm soát số chi trả của toàn bộ xã hội qua hệ thống ngân hàng bằng cách tính tổng giá trị séc đưa đi giao hoán tại NHTW và theo dõi chuyển biến của nó.
Còn ở nước ta việc dùng séc trong dân cư ít thông dụng, dùng tiền mặt chi trả là phổ biến, cho nên một khối lượng tiền mặt rất lớn lưu thông bên ngoài hệ thống ngân hàng, vượt qua tầm kiểm soát của NHTW.Đó là đầu mối gây bất ổn cho nền kinh tế một cách đột biến. Đó cũng chính là lí do cần thu hút lượng tiền trong tay dân cư vào hệ thống ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kì hạn và dùng séc để thanh toán, một yếu tố cần thiết cho việc thực thi chính sách tiền tệ được hiệu quả.
1.3.Bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền bằng cách ổn định vật giá.
Giá trị quốc nội của đồng tiền là sức mua của ns đối với hàng hoá và dịch vụ trong nước.Sức mua của đồng tiền biến đổi ngược chiều với vật giá. Khi mức vật giá chung gia tăng, sức mua của đồng tiền giảm.ngược lại, khi mức vật giá chung giảm thì sức cua của đồng tiền tăng, tuy nhiên nếu vế thứ nhất không có điều gì phải bàn cãi, vế thứ hai cần xác định rõ hơn.
Sức mua của đồng tiền tăng khi cức vật giá chung giảm chỉ là điều đáng mừng khi nào năng suất chung tăng lên.Thật vậy, trong trường hợp này nhà sản xuất tuy bán lẻ với giá hạ hơn nhưng vẫn có lợi vì nhờ tăng năng suất, giá thành mỗi đơn vị vẫn thấp hơn giá bán, nhân công chẳng những vẫn có lợi vì nhờ tăng năng suất, giá thành mỗi đơn vị vẫm thấp hơn giá bán,nhân công chẳng những duy trì được việc làm mà còn có thể tăng thu nhạp nếu đó là do năng suất lao động tăng.
Trái lại, nếu vật giá chung giảm không do năng suất mà do mức cung trên thị trường giảm, thì là một biều hiện đáng lo.Vật giá giảm,sức mua của đồng tiền tuy có tăng nhưng đó chỉ là tăng nhất thời thôi, vì người sản xuất có thể rơi vào tình trạng thua lỗ. Họ có thể xem lại kế hoạch sản xuất, có thể bớt nhân công, bớt số lượng sản xuất, nếu tình trạng hạ giá, hàng hoá tồn kho kéo dài,.tình hình đó mà lan rộng, thất nghiệp sẽ trầm trọng, làm giảm số cầu của thị trường, làm cho kinh tế suy thoái thêm.
do đó, chính sách thị trường phải đảm bảo cức vật giá chung ổn định. Sự ổn định của vật giá là điều cần thiết để nhân dân được an tâm, tin tưởng trong việc tính toán công việc đầu tư, vì đầy tư là cột quá trình lâu dài. Vậy cần có sự ổn định lâu dài để khuyến khích đầu tư.
Trong trường hợp không duy trì được sự ổn định, cột cức vật giá tăng hàng năm ở mức 2-3% là cức gia tăng thuận lơị cho sự phát triển mà chính sách tiền tệ có thể chấp nhận được.
1.4. ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền.
Giá trị quốc ngoại của đồng tiền được đo lường bởi tỉ giá hối đoái thả nổi.một sự biến động của tỉ giá hối doái ít hay nhiều ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế trong nước tuỳ theo mức độ hướng ngoại của nền kinh tế. trái lại, một bước chuyển biến về tiền tệ cũng tác động tới mối tương quan giữa tiền tệ trong nước và tiền tệ nước ngơài. tỉ giá hối đoái chịu sự tác động mạnh của khối dự trữ ngoại hối, thị trường và chính sách hối đoái,tình mhình giá cả trong nước. do đó, một chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế trong nước cần phải đi đôi với những biện pháp nhằm ổn định tỉ gía hối đoái.
Về phương diện tiền tệ: khối dự trữ ngoại hối, thị trường và chính sách hối đoái, tỉ giá hối đoái là những yếu tố tác động mạnh đến khối tiền tệ.
Dự trữ ngoại hối: mỗi nước đều có dự trữ ngoại hối, lớn hay nhỏ tuỳ theo khả năng của nền kinh tế nước đó có thể tạo lập nhiều hay ít.nó là kết quả của tổng số thu và chi ngoại tệ (kể cả vàng) của một nước trong một thời gian nhất định, thường là một năm.dự trữ ngoại hối tăng khi thu lớn hơn chibất kể thu, chi ngoại hối về lí do gì.điều đó có có được khi NHTW mua bán ngoại hối.NHTW mua ngoại hối khối tiền tệ tăng thêm, ngược lại khi bán ngoại hôí, khối tiền tệ giảm, nếu những yếu tố khác không thay đổi.
Khối dự trữ ngoại hối nước ta hiện nay còn khiêm nhường, vì vậy tác động của sự chuyển biến trong dự trữ ngoại hối trở nên quan trọng hơn, tác động của nó trên khối tiền tệ cũng lớn. Nói chung cột sự gia tăng trong dự trữ ngoại hối kéo theo sự gia tăng của khối tiền tệ. ngược lại, cột sự giảm thiểu trong sự trữ đó đưa đến hậy quả tất yếu là giảm thiểu khối tiền tệ.
đối với nước ta hiện nay, khả năng ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền còn rất hạn chế.vì vậy cần có kế hoạch mở rộng dầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, làm sai cho đát nước ta trở thành điểm thu hút mạnh hơn nữa để tăng nhanh khả năng ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền việt nam.
2. Mục tiêu kinh tế
2.1.Mục tiêu cao nhất hay còn gọi là mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và kiểm soát lạm phát.
Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất trong ba mục tiêu của chính sách tiền tệ. với tư cách là trung tâm tiền tệ, tín dụng và thanh toán trong nền kinh tế quốc dân, NHTW có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này.
Muốn tăng trưởng kinh tế phải gia tăng đầu tư, thực hiện tái sản xuất mở.Để gia tăng đầu tư, bên cạnh sử dụng công cụ tài trợ của ngân sách nhà nước,người ta chủ yếu trông vào sự gia tăng đầu tư tín dụng của hệ thống ngân hàng dưới sự tác động của NHTW. Đối với Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2000 đạt 9-10% đó là một tốc độ tăng trưởng cao, nó đòi hỏi sự gia tăng đầu tư hàng năm hàng chục tỉ USD. Ngân hàng nhà nước việt nam cần bằng mọi phương thức để có thể động viên được hầu hết các nguồn vốn nhàn rỗi trong nước và vay của nước ngoài để phục vụ mục tiêu này.
Tạo việc làm là một đòi hỏi bức xúc và thường trực của xã hội, nó đương nhiên phải trở thành một mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ.
Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm chủ yếu tuỳ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên khi tăng trưởng kinh tế đạt được do cải biến kĩ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm dẫn đến thất nghiệp tăng.
Tình hình đó đặt ra cho NHTW trách nhiệm là phải vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng trưởng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Đồng thời phải tham gia tích cực vào việc tăng trưởng kinh tế liên tục và ổn định, khống chế tỉ lệ thất nghiệp không vượt quá mức thất nghiệp tự nhiên.
Kiểm soát lạm phát:
Kiểm soát lạm phát là một mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại thường xuyên có lạm phát. Trong điều kiện như vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế thông thường tác đông đến tốc độ gia tăng của lạm phát. Vì vậy, NHTW phải góp phần duy trì sự tăng trưởng liên tục ổn định, triệt tiêu những nhân tố gây nên nhu cầu giả tạo hoặc đẩy chi phí lên cao. Trong cuộc đấu tranh này lãi suất và cung ứng là hai vũ khí lợi hại. Lạm phát vừa phải là mục tiêu phấn đấu chung của các nền kinh tế thị trường hiện đại, trong đó có Việt Nam.
Sự phối hợp của cả ba mục tiêu của chính sách tiền tệ là rất quan trọng vì không phải cùng một lúc cả ba mục tiêu đó đều đã phải thực hiện mà không có sự mâu thuẫn. Do vậy khi xác định các mục tiêu này phải tuỳ lúc tuỳ nơi mà sắp xếp thứ tự. Điều quan trọng là phải luôn nắm bắt được thực tế diễn biến của quá trình thực hiện các mục tiêu để kịp thời điều chỉnh chúng khi cần thiết với những giải pháp thích hợp.
Nội dung của chính sách tiền tệ.
3.1 Điều hoà khối tiền tệ.
NHTW phải có giải pháp để duy trì được tương quan giữa tổng cung và tổng cầu, giữa hàng và tiền bằng cách giữ nguyên hay tăng giảm khối tiền tệ.
Nếu nền kinh tế hàng hoá vẫn tăng trưởng thì khối tiền tệ phải tăng bằng mức tăng trưởng kinh tế.
Nếu có lạm phát mà chưa kiềm chế được thì khối tiền tệ cung ứng còn phải được tăng thêm bằng tỉ lệ lạm phát đã được kìm chế.
Trong những điều kiện nhất định như ở Việt Nam có số lượng ngoại tệ trong tay những người cư trú (thể nhân và pháp nhân) tương đối lớn nên cần được tính vào khối tiền tệ có sẵn và sẽ tăng thêm.
Khi kiểm soát khối tiền tệ còn phải tính đến tốc độ luân chuyển của nó. Tốc độ lưu thông tiền tệ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tốc độ chu chuyển hàng hoá vật tư, lòng tin của dân cư vào giá trị đồng tiền…sự tiên liệu của dân cư vào thời cơ và vận hội làm ăn sinh lời, khuynh hướng chi tiêu của dân chúng, chính sách kinh tế của nhà nước, trình độ kĩ thuật và khả năng thanh toán của ngân hàng.
Tóm lại, qua chính sách tiền tệ phải khống chế sao cho khối lượng tiền cung ứng trong một thời kì nhất định phải cân đối với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa (mức tăng thực tế công với tỉ lệ trượt giá đã được khống chế) và vòng quay tiền tệ trong cùng một thời kì.
3.2.Về chính sách tín dụng cho nền kinh tế:
Thực chất của chính sách tín dụng là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân, thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng,dựa trên các quỹ vay được tạo lập từ các nguồn tiền của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo, phù hợp với sự vận động của động cơ chế thị trường.
3.3.Chính sách ngoại hối:
Để ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia,NHTW thực hiện các nhiệm vụ giao dịch về tài chính và tiền tệ đối ngoại trên phương diện sau:
Quản lý ngoại hối:
Lập và theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế.
Thực hiện các nghiệp vụ hối đoái.tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước.
Xây dựng và thống nhất quản lí quỹ dự trữ ngoại hối của đất nước.
Quan hệ với các NHTW khác, với tổ chức tài chính tiền tệ nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ (vay nợ) nước ngoài có diều kiện ưu dãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối.
Tổ chức quản lí nợ vước ngoài.
Trong số các vấn đề nêu trên thì chính sách hối đoái, dự trữ ngoại hối, thị trường hối đoái và tỉ giá hối đoái là những yếu tố tác động mạnh tới khối tiền tệ và giá strị đồng tiền trong nước.
3.4 Chính sách đối với ngân sách nhà nước.
Chính sách tiền tệ của NHTW muốn có tác dụng cần xử lý tốt mối tương quan của nó với chính sách tài chính, trước hết là chính sách thu và chi của ngân sách.Tuỳ theo tình trạng ngân sách có cân bằng gay không sẽ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực với những mức độ khác nhau đối với lưu thông tiền tệ.Do vậy,cách xử lí của chính sách tiền tệ trong quan hệ với ngân sách cũng khác nhau trong trường hợp sau đây:
3.4.1. Trường hợp ngân sách cân bằng:
Khi chính phủ thu thuế tức là đã lấy ra khỏi lưu thông một lượng tiền và chi trả số tiền ấy vào boọ máy kinh tế.Khối tiền tệ không thay đổi vì nó được tăng giảm một ngạch số như nhau.Tuy nhiên,nó có thể làm thay đổi kết cấy giữa tiêu dùng và tiết kiệm.
Chẳng hạn, nếu tầng lớp chịu thuế không giảm tiêu thụ mà giảm tiết kiệm.
Trong khi đó, chính phủ phải dùng số thuế thu được cấp trợ cấp cho những người có thu nhập thấp thì số tiêu thụ chung lại gia tăng,dố đầu tư giảm và kết quả là khả năng kàm tăng vật giá.Nếu nhà nước dùng dố chi ngân sách thì số đầu tư của tư nhân giảm, trong khi đầu tư của nhà nước tăng lên đầu tư chung không đổi.Cho nên cần lưu ý hai trường hợp:
Thứ nhất,nếu chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát, ngân sách thăng bằng vẫm có thể có tác dụng ngược với chính sách tiền tệ, làm tăng vật giá
Thứ hai,trường hợp chính sách tièn tệ nhằm chống suy thoái,ngân sách thăngbằng vẫn có thẻ chuyển dịch thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ.
3.4.2.Trường hợp ngân sách thiếu hụt:
Chênh lệch giữa thu và chi ngan sách sẽ có tác dụng khác nhau đến nền kinh tế, tuỳ cách tài trợ số chênh lệch ấy, có bốn cách để tài trợ thiếu hụt ngân sách:
Một là:vay dân cư.
Hai là: vay hệ thống tín dụng và thị trường tài chính trong nước.
Ba là: vay NHTW.
Bốn là: vay nợ nước ngoài.
Vay của NHTW và vay của nước ngoài (bằng ngoại tệ) sẽ lạm tăng mạnh khối tiền tệ, gây áp lực lạm phát tiền thời gian về sau,vay của dân cư và của các NHTM trong nước nguy cơ làm tăng khối tiền tệ nhẹ hơn.áp lực lạm phát các nước đang phát triển mạnh hơn so với các nước có thu nhập cao là do các nước này chủ yếu sử dụng biện pháp vay NHTW bằng cách phát hành tiền trực tiếp và vay nợ nước ngoài.
3.4.3 Trường hợp ngân sách thặng dư:
Đây là trường hợp rất quý, vì nó rút bớt tiền tệ dư thừa, tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ.
Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ:
Xét cho cùng, NHTW có thể thực thi hai loại chính sách tiền tệ phù hợp với tình hình thực tiễn của nền kinh tế:Đó là chính sách nới lỏng tiền tệ và chính sách thắt chặt tiền tệ là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế, nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế là kiềm chế lạm phát.
Để thực hiệm chính sách tiền tệ này,NHTW có thể sử dụng hàng loạt cộng cụ tiền tệ nằm trong tầm tay của mình, đó là công cụ trực tiếp và gián tiếp.
4.1. Các công cụ trực tiếp:
Gọi là những công cụ trực tiếp vì thông qua chúng, NHTW có thể tác động trực tiếp đến cung cầu tiền tệ, mà không phải thông qua công cụ khác.
4.1.1.ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay:
NHTW có thể quyết định khung lãi suất tiền gửi và buộc các NHTM phải thi hành.
Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng nguồn vốn cho vay.Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh doanh tính dụng.Song biện pháp này sẽ làm cho các THTM mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh.Mặt khác, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng, nhưng lại thiếu vốn đầu tư, hoặc khuyến khích dân cư vào dự trữ vàng, ngoại tệ, bất động sản, trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt, cũng như nguồn vốn cho vay.
NHTW có thể quy đinh khung lác suất chi vay buộc các ngân hàng kinh doanh chấp hành.Khi muốn tăng khối lượng cho vay,NHTW giảm mức laic suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn.Khi cần hạnh chế đầu tư, NHTW ấn định mức lãi suất cao.
Biện pháp này có ưu điểm là giáp ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu dể cho vay, loại bỏ sự án kinh tế kém hiệu quả.
Tuy nhiên, cũng như sự quy định khung lãi suất tiền gửi, biện pháp quy định khung lãi suất cho vay làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm các NHTM bị động trong kinh doanh.
Việc ấn định các khung lãi suất tiền gửi và cho vay nhìn chung ngày càng ít được áp dụng ở các nước theo cơ chế thị trường, lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
4.1.2. ấn định hạn mức tín dụng:
Đây là cột biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể.Thực chất biện pháp này cho phép NHTW ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm con đường để đưa nó vào nền kinh tế.
Song trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín dụng biến động không ngừng, biện pháp này chỉ được áp dụng một các hạn chế khi tình huống yêu cầu.
4.1.3. Phát hành tiền trực tiếp cho ngân hàng và cho đầu tư:
Trong điều kiện ngân sách bị thiết hụ, NHTW phải phát hành tiền để bù đắp sự thiếu hụt đó.Rõ ràng biện pháp này làm gia tăng tiền trong lưu thông, trong khi đó lựơng hàng hoá không tăng hoặc tăng không kịp. Hậu quả đương nhiên là gia tăng lạm phát.Nó cần được nhanh chóng loại trừ trong điều kiện kinh tế thị trường bình thường.
Phát hành trực tiếp cho đầu tư có thể qua ngân sách nhà nước hoặc qua con đường tín dụng ngân hàng (Biện pháp này gọi là biện pháp ứng trước cho sản xuất hay gọi là biệnn pháp lạm phát lạnh mạnh) biện pháp này cần thiết trong điều kiện nền kinh tế suy thoái.Nó sẽ mang lại hiệu quả tich cực, nếu việc phát hành được sử dụng để khơi dậy các tiềm năng về tài nguyên và con người.
4.1.4. Phát hành trái phiếu nhà nước để làm giảm lượng tièn trong lưu thông:
Trong điều kiện không thể áp dụng các biện pháp khác.Chính phủ có thể phát hành một lượng trái phiếu nhất định đẻ thu hút bớt lượng tiền trong lưu thông.Việc phân bổ trái phiếu thường mang tính chất bắt buộc.
4.2. Các công cụ gián tiếp:
Là những công cụ mà tác dụng của nó được là nhờ cơ chế thị trường.
4.2.1. Dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các NHTM phải đưa vào dự trữ theo luật định.Phần sự trữ này được gửi vào tài khoản chuyên dùng ở NHTW và để tại quĩ của mình, với mục đích góp phần bảo đảm khả năng thanh toán NHTM và dùng làm phương tiên kiểm soát khối lượng tín dụng của ngân hàng này.Khi tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụng làm giảm khả năng cho vay và đầu tư của NHTM, từ đó làm giảm lượng tiền trong lưu thông, góp phần làm giảm cầu tiền tệ dể cân bằng với sự giảm cung trog xã hội.Trong trường hợp giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng mở rộng cho vay của NHTM sẽ tăng lên, dẫn đến sự gia tăng tièn trong lưu thông, góp phần tăng cung xã hội để cân đối cầu về tiền.
4.2.2. Lãi suất tái triết khấu, tái cấp vốn:
Tái cấp vốn là cách để NHTW đưa tiền ra lưu thông, đồng thời khống chế về số lượng và chất lượng tín dụng của các ngân hàng trung gian. Qua việc cấp tín dụng, NHTW đã tạo ra cơ sở đầu tiên thúc đẩy toàn bộ hệ thống các ngân hàng trung gian tạo ra tiền, cũng như khai thông được năng lực thanh toán cho họ.
Khi một ngân hàng trung gian, bằng nguồn vốn đi vay hợc huy động được, cáp ra một khoản tín dụng và lập tức biến thành tiền gửi tại ngân hàng dó hoặc tại các ngân hàng kiên đới. Họ nhanh chóng có nhu cầu tiền trung ương để:
Đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt cuả khách hàng thanh toán tiền chuyển khoản cho các ngân hàng khác.
Mua ngoại tệ trên thị trường hối đoái hoặc của NHTƯ
Các ngân hàng trung gian tìm đến NHTW xin tái cấp vốn bằng cách xin tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá mà mình đã chiết khấu trước đó.
Tái cấp vốn là đầu mối phát sinh tiền trung ương: tăng khối lượng tiền tệ, nệ NHTW giải quyết rất thận trọng trên cơ sở:
Chỉ tiêu tín dụng cho nền kinh tế nằm trong khối tiền cung ứng thêm trong kỳ kế hoạch.
Hạn mức tín dụng đã phân phối cho từng NHTM theo mức sư nợ tín dụng thực hoặc theo vốn tự có của NHTM đó nhưng chưa dùng tới.
Tỷ lệ tiền mặt và tièn ghi sổ đã hình thành trong nền kinh tế.Tuy nhiên, trong số tiền trung ương được tái cấp vốn, NHTM sử dụng bao nhiêu tiền mặt cũng được.
Điều kiện để được NHTW tái cấp vốn là:
- Còn hạn mức tín dụng (tái cấp vốn) dành cho NHTM đó.
- Các khoản tín dụng đem đến tái chiết khấu có lành mạnh và đảm bảo thu hồi nợ hay không.
Tuỳ yêu cầu cần khuyến khích hay mở rộng tín dụng, tái cáp vốn bình thường hay mang ý nghĩa phạt mà lãi suất tái chiết khấu có thể bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mức lãi suất khoản tín dụng mà NHTM cho khách hàng mình vay.
Qua công cụ tái cấp vốn,NHTW là người cho vay sau cùng, kiểm tra chất lượng hoạt động tín dụng của các NHTM, bơm tiền vào lưu thông theo mức họ đã được khống chế để kìm chế kạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế.Tái cấp vốn được coi là hình thức phát hành tiền lành mạnh, vì nó dựa trên thương phiếu tượng trưng cho những món nợ về thương mại và đằng sau nó có vật tư hàng hoá.
Nghiệp vụ và biện pháp tác động qua cho vay tái chiết khấu của NHTW rất phong phú:
Bằng cách kiểm soát “tín dụng chọn lọc” NHTW tác động vào cơ cấu tín dụng của các ngân hàng thung gian (hạn chế tín dụng vào những ngành nhà nước không muốn phát triển,ưu đãi những vùng và những ngành cần ưu tiên)
Tỷ lệ giá trị chiết khấu hoặc tái chiết khấu trên thương phiếu có thể thấp hay cao tùy theo ý muốn mở rộng hay thu hẹp khối tiền tệ (có thể từ 50 đến 100%) làm như vậy, NHTW gián tiếp thúc đẩy các doanh nghiệp giải phóng tồn kho, không giữ hàng chờ giá lên.
Kiểm soát tín dụng tiêu thụ:trong nghiệp vụ bán hàng tiêu dùng đắt tiền hay mua nhà trả góp, NHTW thường can thiệp bằng cách quy định cé trả tiền ngày cao hay thấp, nới rộng hay rút ngắn thời hạn thiếu chịu, nhằm khuyến khích hay hạn chế nghiệp vụ này.
4.2.3. Thị trường mở:
Trước kia các nghiệp vụ tái chiết khấu của NHTW chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ.Với thời gian người ta thấy rõ một hạn chế của nghiệp vụ này: phải đợi ngân hàng trung gian đi vay, NHTW mới thực hiện được ý đồ thu hẹp hay bành trướng tín dụng.Trong khi đó, các NHTM không muốn vay ở NHTW vì điều kiện và thủ tục chặt chẽ, hoặc có khi tự họ không cảm thấy có nhu cầu vay.Nhờ thị trường mở, các ngân hàng trung gian có thể tìn cho mình nguồn tài trợ cần thiết với thủ tục nhanh gọn hơn.
Thị trường mở là một trong những cửa ngõ để NHTW phát hành tiền vào guồng máy kinh tế, hoặc rút bới khối tiền tệ lưu thông trong đó bằng cách mua bán các loại trái phiết thông qua nghiệp vụ của thị trường mở.Qua nghiệp vụ mua bán này, NHTW làm tăng hay giảm bớt dự trữ của NHTM,tác động đến khả năng tín dụng của các ngân hàng này và từ đó làm tăng hay giảm khối tiền tệ: bằng cách bán các loại trái phiếu có giá, NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát.
Ngược lại khi cần, NHTW sẽ mua vào các loại chứng khoán nhằm kích thích tăng khối tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng nhân dụng.
Nếu không có sự tham gia của NHTW trên thị trường mở mà chỉ có việc mua bán trái phiếu giữa các ngân hàng trung gian với nhau, thì khối tiền tệ nói chung sẽ không thay đổi. Bởi vì, một NHTM này bán trái phiết cho cột NHTM khác thì trong toàn cục chỉ là sự chuyển dịch trái phiếu và sự di chuyển ngược lại của mộat phần dự trữ đang thừa từ NHTM này qua NHTM khác đang thiếu mà thôi.
Công cụ thị trường mở có ưua diểm là nó trực tiếp tác động ngay đến dự trữ của các ngân hàng kinh doanh và buộc các ngân hàng này phải gia tăng tín dụng hoặc giảm tín dụng đối với nền kinh tế. Muốn sử dụng tố công cụ trên phải có sự phát triển cao của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt.Trong điều kiện đó, tiền trong lưu thông hầu hết nằm ở tài khoản của ngân hàng.Vì vậy, công cụ này tất hữu hiệu đối với các nước có nền kinh tế phát triển, có thị trường tài chính hoàn chỉnh.
Phần II
Thực trạng của chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua (1991-2000) và những định hướng cơ bản xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta
trong thời gian tới
I.Đánh giá thực trạng xây dựng và đổi mới việc điều hành chính sách tiền tệ
1 Những kết quả đạt được:
Mặt nổi bật nhất là xây dựng kế hoạch và điều hành khối lượng tiền cung ứng theo tín hiệu của thị trường thay cho phương pháp điều hành theo quan điểm phát hành tiền mặt theo chỉ tiêu kế hoạch hàng năm do chính phủ khống chế từ những năm 1991 trở._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34651.doc