Chương I
Cơ sở lý luận về công nợ- quản lý công nợ trong các doanh nghiệp thương mại
I. Cơ sở hình thành và nội dung công nợ:
1.1. Cơ sở hình thành:
Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phát triển của các thành phần kinh tế cùng với cơ chế tự chủ tài chính đã thực sự tạo môi trường cạnh tranh cho tất cả các doanh nghiệp, chính sách phân phối hợp lý, linh hoạt đã làm biến đổi các vấn đề về lương, thu nhập và dự trữ vốn trong mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức kinh tế
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng công tác tổ chức quản lý và thanh toán công nợ tại Công ty Quan hệ Quốc tế Đầu tư Sản xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, xã hội.
Không còn được bao cấp về tài chính, mỗi chủ thể của nền kinh tế phải tự tìm kiếm nguồn vốn. Không có bất kỳ một doanh nghiệp nào kinh doanh bằng toàn bộ vốn tự có bởi vì trong kinh doanh cần một lượng vốn rất lớn để mua, thuê cửa hàng, nhà xưởng, máy móc, trang bị, mua hàng hoá, nguyên vật liệu, trả công người lao động....Và rất nhiều các khoản chi phí khác nữa. Vốn tự có thường không đủ để trang trải.
Mặt khác, đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ của các đơn vị sản xuất kinh doanh được vận động liên tục qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do đó nếu như mua bán không khớp nhau về không gian, thời gian và số lượng sẽ nảy sinh nhu cầu vốn tạm thời cần được bổ sung ngay để tiến hành sản xuất kinh doanh liên tục.
Trong xã hội, xét tại một thời điểm bất kỳ nào đó luôn xảy ra hiện tượng có những người có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, có đơn vị lại thiếu vốn do đó họ có thể cho vay hoặc đi vay để bổ sung vốn thiếu hụt trong kinh doanh. Vốn vay chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn vốn kinh doanh. Khi đi vay vốn, doanh nghiệp phải đảm bảo vốn vay được hoàn trả đầy đủ đúng kỳ hạn cả gốc và lãi theo cam kết do vậy vốn vay là một trong những nguồn chính hình thành nên công nợ phải trả của doanh nghiêp. Nguồn vốn vay là nguồn vốn mà các doanh nghiệp thường khai thác, huy động khi thiếu vốn cho sản xuất, kinh doanh. Các doanh nghiệp có thể vay vốn từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng và các đối tượng khác.... Trong điều kiện hiện nay, nguồn vốn tín dụng được coi là nguồn vốn dễ khai thác và tìm kiếm.
Bên cạnh đó, nguồn vốn chiếm dụng trong thanh toán cũng là một yếu tố quan trọng hình thành nên công nợ phải thu của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp có thể chiếm dụng vốn của các chủ thể khác nhau. Tín dụng thương mại là một hình thức chiếm dụng, đó là quan hệ mua bán chịu hàng hoá do đặc điểm thời vụ của sản xuất và mua hoặc bán sản phẩm. Do có một số doanh nghiệp có hàng hoá muốn bán, trong đó lại có một số doanh nghiệp khác muốn mua nhưng lại không có tiền do đó doanh nghiệp với tư cách là người bán muốn tiêu thụ sản phẩm của mình họ có thể bán chịu hàng hoá cho người mua. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có thể chiếm dụng các khoản nợ ngân sách nhà nước bằng cách chậm nộp thuế, các khoản nợ lương cán bộ công nhân viên...
Doanh nghiệp có thể huy động vốn từ công chúng với chi phí sử dụng không cao lắm qua hình thức phát hành chứng khoán.Tuy nhiên hình thức này chỉ áp dụng cho các công ty lớn được kiểm nghiệm qua thị trường chứng khoán.
Tóm lại, công nợ luôn luôn tồn tại trong bất cứ một doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nào bởi vì mỗi chủ thể kinh tế này đều phát sinh nhu cầu vốn bổ sungcho hoạt động kinh doanh.
Vậy công nợ là gì?
Công nợ là các khoản phải thu, phải trả với các cá nhân, đơn vị, tổ chức kinh tế.... có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2. Nội dung công nợ:
Công nợ của doanh nghiệp bao gồm hai mảng là: công nợ phải thu và công nợ phải trả. Đó là hai phạm trù đối nghịch nhau nhưng tồn tại song song ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1. Công nợ phải thu:
a. Khái niệm:
Công nợ phải thu là một bộ phận tài sản của doanh nghiệp đang bị các đơn vị và các cá nhân khác chiếm dụng mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thu hồi.
- Các đơn vị ở đây có thể là các doanhnghiệp khách hàng, mà trong quá trình mua hàng của doanh nghiệp đã nợ tiền của doanh nghiệp; Doanh nghiệp bán hàng cho doanh nghiệp: là các doanh nghiệp đã nhận tiền mua hàng ứng trước cho doanh nghiệp; các tổ chức tài chính: trong quá trình hoạt động kinh doanh trên thương trường việc các tổ chức tài chính có thể huy động vốn của doanh nghiệp nếu như doanh nghiệp có vốn nhàn rỗi hoặc chi phí cơ hội giữa việc kinh doanh và việc cho các tổ chức tài chính vay thì tỷ suất lợi nhuận cho các tổ chức tài chính vay là cao hơn...
b. Nội dung công nợ phải thu:
Các khoản công nợ phải thu của doanh nghiệp bao gồm:
w Các khoản phải thu từ khách hàng
w ứng trước cho người bán
w Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
w Các khoản phải thu nội bộ
w Các khoản tạm ứng cho công nhân viên
w Các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ
w Phải thu khác
Nội dung cụ thể của các khoản phải thu như sau:
v Các khoản phải thu từ khách hàng: là những khoản cần phải thu do doanh nghiệp bán chịu hàng hoá, thành phẩm hoặc cung cấp lao vụ, dịch vụ cho khách hàng.
Để có thể thắng lợi trong cạnh tranh, giành được nhiều thị phần trên thị trường, doanh nghiệp phải áp dụng hình thức bán chịu( tín dụng thương mại) để tăng tốc độ tiêu thụ hàng hoá, tăng khả năng chu chuyển vốn và rút ngắn chu kỳ kinh doanh. Khả năng tài chính của khách hàng mua chịu ảnh hưởng rất lớn tới mức độ chắc chắn thu hồi số tiền nợ phải thu. Để tránh rủi ro do khách hàng mất hoặc giảm khả năng thanh toán, doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác thu hồi công nợ đối với từng khách hàng, đặc biệt với các khách hàng có số tiền phải thu lớn, khách hàng dây dưa nợ.... Doanh nghiệp cần đề ra chính sách tín dụng thương mại phù hợp với tình hình tài chính của doanh nghiệp, với từng khách hàng, mặt hàng....
v ứng trước cho người bán (Doanh nghiệp áp dụng hình thức trả trước khi mua hàng) là việc doanh nghiệp ứng trước tiền hàng cho người cung ứng nhưng chưa nhận được hàng. Mục đích nhằm cấp tín dụng cho người bán để người bán chuẩn bị hàng.
v Thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ: chỉ phát sinh ở những cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ. Thuế GTGT được khấu trừ là số thuế đầu vào của những hàng hoá, dịch vụ, TSCĐ mà cơ sở kinh doanh mua vào để dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT.
v Các khoản phải thu nội bộ: Phát sinh trong đơn vị kinh doanh có sự phân cấp quản lý và công tác kế toán. Một đơn vị pháp nhân kinh tế được cấu thành bởi nhiều đơn vị trực thuộc, thành viên không có tư cách pháp nhân đầy đủ, ở các mức độ phân cấp khác nhau sẽ tạo nên các mối quan hệ nội bộ về tài chính. Quan hệ tài chính nội bộ giữa doanh nghiệp độc lập với các thành viên của nó chủ yếu về các khoản : cấp phát, điều chuyển vốn, các khoản thu hộ chi hộ giữa cấp trên và cấp dưới trực thuộc, nghĩa vụ tài chính giữa cấp dưới với cấp trên...
v Các khoản tạm ứng cho công nhân viên : Là những khoản tiền hoặc vật tư do doanh nghiệp giao cho cán bộ công nhân viên để thực hiện một nhiệm vụ được giao hoặc giải quyết một công việc như mua hàng, trả chi phí, đi công tác... Sau đó phải có trách nhiệm báo cáo thanh toán tạm ứng với doanh nghiệp.
v Các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ: Trong kinh doanh sự tin tưởng lẫn nhau giữa các bên có quan hệ hợp đồng kinh tế rất quan trọng. Mức độ tín nhiệm cao hay thấp sẽ quyết định các hình thức ràng buộc khác nhau phát sinh trong quá trình vay mượn, ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Thế chấp: Là việc con nợ dùng tài sản của mình như: vàng, đá quý, tín phiếu, trái phiếu, ô tô... hoặc giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản giao cho người cho vay cầm giữ trong thời gian vay vốn.
Ký cược: Doanh nghiệp dùng tiền vào việc đặt cược thuê mượn tài sản theo yêu cầu của bên cho thuê nhằm mục đích ràng buộc và nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc quản ly, sử dụng tốt tài sản đi thuê và hoàn trả đúng hạn.
Ký quỹ: Là số tiền hoặc tài sản gửi trước để làm tin trong các quan hệ mua bán, nhận làm đại lý bán hàng hoặc tham gia đấu thầu....nhằm đảm bảo sự tin cậy giữa đôi bên và ràng buộc trách nhiệm của các bên có liên quan trong việc thực hiện hợp đồng đã ký.
v Các khoản phải thu khác: Bao gồm:
w Giá trị tài sản thiếu chưa rõ nguyên nhân chờ xử lý.
w Các khoản phải thu về bồi thường vật chất.
w Các khoản vay mượn tài sản, tiền bạc có tính tạm thời.
w Các khoản phải thu về cho thuê TSCĐ, lãi đầu tư tài chính.
w Các khoản phải thu khác: phí, lệ phí, nộp phạt bồi thường.
1.2.2. Công nợ phải trả:
a. Khái niệm:
Công nợ phải trả là một bộ phận tài sản thuộc nguồn vốn của doanh nghiệp được tài trợ từ các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế khác mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải hoàn trả.
b. Nội dung công nợ phải trả:
w Các khoản tiền vay.
w Phải trả cho người bán.
w Người mua ứng trước.
w Phải trả công nhân viên.
w Các khoản phải nộp ngân sách
w Các khoản phải trả nội bộ doanh nghiệp.
w Nhận ký cược ký quỹ dài hạn
w Phải trả, phải nộp khác.
Nội dung cụ thể của các khoản này như sau:
v Các khoản tiền vay: các khoản tiền vay ở đây bao gồm các khoản tiền vay của ngân hàng, các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế và cá nhân để bổ sung vốn cho nhu cầu vốn kinh doanh.
+Vay ngắn hạn: Là những khoản tiền vay có thời hạn thanh toán trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh nhằm đáp ứng về vốn lưu động.
Mục đích:
ỹ Bổ sung vốn lưu động.
ỹ Mua sắm vật tư, hàng hoá dự trữ.
ỹ Vay thanh toán nợ cho nhà cung cấp.
ỹ Vay để trả nợ vay đến hạn, quá hạn.
Tiền trả vay và lãi vay là tiền lưu động của doanh nghiệp, thương doanh nghiệp có khả năng trả nợ từ các khoản:
Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển địa điểm sử dụng....khả năng trả vay tức thời.
ỹ Nợ thu đến hạn, quá hạn, trong hạn.
ỹ Doanh thu, thu trực tiếp trả vay.
ỹ Vay ngắn hạn mới để trả vay.
ỹ ....
w Vay dài hạn: Là khoản tiền vay có thời hạn thanh toán trên một năm hoặc sau một chu kỳ kinh doanh để đầu tư dài hạn cho việc mua sắm TSCĐ, XDCB, đầu tư tài chính dài hạn vào thị trường chứng khoán....
Các khoản vay dài hạn thường được thanh toán bằng các khoản nợ dài hạn mới phát sinh hay bằng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Do hoạt động vay dài hạn của các doanh nghiệp bao hàm nhiều rủi ro hơn hoạt động vay ngắn hạn nên lãi suất của hoạt động vay dài hạn thường cao hơn hoạt động cho vay ngắn hạn.
v Phải trả người bán: Là toàn bộ giá trị hàng hoá, nguyên vật liệu, lao vụ, dịch vụ mà doanh nghiệp mua chịu, đã nhận hàng nhưng chưa thanh toán tiền.
Đây cũng chính là chính sách ưu đãi trong việc thanh toán tiền hàng của các doanh nghiệp bán hàng cho doanh nghiệp. Do doanh nghiệp bán chịu hàng hoá nên hình thành nên các khoản phải thu. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng mua chịu hàng hoá của các doanh nghiệp bán hàng cho doanh nghiệp hình thành nên các khoản nợ phải trả. Trong nền kinh tế thị trường đây là một xu thế tất yếu không thể tránh khỏi.
v Người mua ứng trước : Doanh nghiệp nhận tiền của khách hàng nhưng chưa giao hàng
v Phải trả công nhân viên : Là các khoản tiền doanh nghiệp phải trả cho công nhân viên như tiền lương, tiền công, tiền thưởng, các khoản bảo hiểm xã hội và các khoản thu nhập khác của người lao động.
v Các khoản phải nộp ngân sách nhà nước:
w Thuế GTGT: Là loại thuế gián thu tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa,dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
w Thuế tiêu thụ đặc biệt: Là loại thuế gián thu đánh vào một số hàng hoá dịch vụ nhất định thuộc một trong hai nhóm sau:
Những hàng hoá-dịch vụ Nhà Nước không khuyến khích sản xuất, nhập khẩu, tiêu dùng.
Những hàng hoá dịch vụ mà chỉ có những người có thu nhập cao mới có thể sử dụng.
w Thuế xuất khẩu, nhập khẩu: Là loại thuế gián thu đánh vào giá trị của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu và biên giới Việt Nam.
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một trong những công cụ quan trọng của Nhà Nước để quản lý các hoạt động kinh tế đối ngoại.
w Thuế thu nhập doanh nghiệp: Là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế của các tổ chức, cá nhân có sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.
w Thuế nhà,đất,thuế môn bài, các loại thuế khác.....
w Thu trên vốn.
w Phí, lệ phí và các khoản phải nộp khác.
v Các khoản phải trả nội bộ doanh nghiệp:Là các khoản phải trả giữa đơn vị cấp trên là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập với các đơn vị cấp dưới là những đơn vị phụ thuộc hoặc giữa các đơn vị phụ thuộc đều có tổ chức kế toán riêng.
v Các khoản phải trả, phải nộp khác:
w Tài sản thừa chờ giải quyết.
w Kinh phí công đoàn.
w Bảo hiểm xã hội.
w Bảo hiểm y tế.
w Phải trả, phải nộp khác.
v Các khoản tài sản nhận ký cược ký quỹ:
Là các khoản tiền, tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ của đối tác kinh doanh trong hợp đồng kinh tế nhằm tạo sự tin tưởng lẫn nhau giữa các bên quan hệ trong hợp đồng kinh tế. Mức độ tín nhiệm cao hoặc thấp sẽ quyết định các hình thức ràng buộc khác nhau phát sinh trong quá trình vay, mượn, ký kết hợp đồng hợp tác kinh tế.
Bên cạnh việc phân chia công nợ theo nội dung từng khoản phải thu và phải trả, để tiện cho việc quản lý và theo dõi công nợ thì các nhà quản trị tài chính có thể phân chia công nợ của doanh nghiệp dựa vào các tiêu thức như sau:
Thứ nhất là theo tuổi thọ của công nợ:
Theo cách này thì công nợ của doanh nghiệp sẽ bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn, các khoản phải thu hồi được ngay trong chu kỳ kinh doanh và các khoản phải thu thu hồi được sau một chu kỳ kinh doanh. Khi phân loại như thế này thì các nhà quản trị tài chính sẽ có biện pháp để thu hồi và trả nợ công nợ ngắn hạn đồng thời có những biện pháp để thu hồi các khoản công nợ dài hạn và có kế hoạch tìm các nguồn để trả nợ dài hạn. Và từ các khoản nợ dài hạn doanh nghiệp sẽ xem xét được khả năng thu hồi được của các khoản nợ này để có biện pháp thu hồi tuỳ thuộc vào từng đối tượng nợ có thể là mềm mỏng hoặc cứng rắn, nhằm tránh rủi ro, trong trường hợp cần thiết thì doanh nghiệp sẽ lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi.
Thứ hai là theo khả năng thu hồi công nợ:
Theo cách phân loại này thì kế toán công nợ sẽ biết được các khoản nợ nào sắp đến hạn thanh toán để có những biện pháp chủ động nhằm thu được nợ đúng thời hạn như gọi điện nhắc nhở trước cho khách hàng hoặc nếu khách hàng mua chịu tiếp mà chưa thanh toán nợ thì yêu cầu doanh nghiệp phải trả hết nợ thì mới được mua chịu....Đặc biệt doanh nghiệp biết khoản nợ nào khó đòi để doanh nghiệp có biện pháp ứng phó thu hồi phù hợp, tìm hiểu lý do để doanh nghiệp triệt để hạn chế từ đó quản lý tốt hơn các khoản nợ khó đòi nhằm giảm thiểu rủi ro.
Thứ ba là theo đối tượng nợ hay là theo khách nợ :
Phân loại các khoản phải thu theo khách nợ nên được làm ở các doanh nghiệp vì khi đó doanh nghiệp sẽ biết rõ được tình hình kinh doanh của khách nợ, xem xét các khoản nợ mà khách nợ nợ nhiều hay ít đồng thời phân tích được vị thế tín dụng của khách hàng giúp doanh nghiệp khi áp dụng chính sách bán chịu ít gặp phải rủi ro trong thanh toán. Biết rõ khách hàng của mình là ai thì doanh nghiệp sẽ không bị mất vốn và có biện pháp đế thu hồi công nợ, không biết thì doanh nghiệp sẽ bị mất vốn.
Ngoài ra tuỳ thuộc vào từng loại hình kinh doanh thì doanh nghiệp nên phân loại công nợ chi tiết theo yêu cầu quản lý của doanh nghiệp nhằm có những biện pháp để theo dõi quản lý công nợ được tốt giúp doanh nghiệp thu hồi được các khoản nợ đầy đủ nhanh chóng, chịu chi phí thu hồi công nợ thấp và hạn chế được rủi ro.
Thứ tư là theo thời hạn thu hồi công nợ :
Theo cách phân loại này công nợ của doanh nghiệp bao gồm: nợ quá hạn, nợ khó đòi và nợ sắp đến hạn.
II. Các yếu tố ảnh hưởng đến công nợ:
Công nợ trong bất cứ một doanh nghiệp hay một tổ chức kinh tế nào bao giờ cũng tồn tại những khoản tiền phải thu đối với khách nợ và khoản nợ phải trả đối với chủ nợ của mình. Đây là mối quan tâm không chỉ của bản thân doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm của các chủ đầu tư, các tổ chức tài chính tín dụng hay các đối tác kinh doanh. Khi xem xét công nợ phát sinh giữa các chủ nợ và các khách nợ bao giờ cũng gắn liền với các vấn đề: quy mô công nợ, thời hạn thanh toán, chính sách lãi suất hay chính sách giá cả hàng hóa. Đặc biệt là để thu hồi được đầy đủ, đúng thời hạn các khoản nợ phải thu của doanh nghiệp thì các nhà quản trị tài chính phải quan tâm đến các yếu tố ảnh hưởng đến công nợ nhằm hạn chế rủi ro và có được những biện pháp hữu hiệu đẩy nhanh thu hồi các khoản nợ đến hạn và quá hạn. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm đến việc thanh toán các khoản nợ phải để đảm bảo uy tín của doanh nghiệp, tạo được các mối quan hệ làm ăn bền vững, tăng khả năng cạnh tranh.
2.1.Các vấn đề liên quan đến công nợ:
Để hiểu được công nợ chúng ta phải đi vào xem xét các vấn đề liên quan đến công nợ, nhằm nâng cao trình độ quản lý công nợ.
2.1.1. Phạm vi và quy mô của công nợ :
-Phạm vi: công nợ có thể phát sinh ở mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực trên toàn thế giới. ở đâu, ở bất cứ khu vực nào khi có các giao dịch mua và bán, khi có các nghiệp kinh tế phát sinh, khối lượng hàng hóa được trao đổi mua bán thì ở đó đều có thể phát sinh công nợ. Do vậy phạm vi của công nợ rất lớn nó hiện hữu trong toàn bộ nền kinh tế. Đôi khi chính công nợ- hay chính sách mua bán chịu lại kích thích hàng hoá lưu thông và duy trì được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, các tổ chức, các cá nhân. Hiện nay với xu thế hội nhập quốc tế, chính sách buôn bán giữa các quốc gia thông thoáng hơn, vì vậy công nợ phát sinh không chỉ trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà đã vượt ra ngoài phạm vi quốc gia. Chính vì vậy các doanh nghiệp cần chú ý để có thể thu hồi được tất cả các khoản công nợ phát sinh của doanh nghiệp, đảm bảo các khoản thu được thu hồi đầy đủ, đúng thời gian, hạn chế thấp nhất các rủi ro có thể gặp phải khi giao dịch mua bán. Để làm được điều này thì các nhà quản trị tài chính phải được trau dồi những kiến thức nhất định về công nợ, về thương mại quốc tế. Đối với các khoản phải trả doanh nghiệp cũng cần phải chú ý là thanh toán đúng thời hạn, tránh để nợ tồn đọng, dây dưa kéo dài ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
- Quy mô : Trong quan hệ giao dịch mua bán hiện nay hình thức thanh toán trả chậm chiếm tới 80% trong các giao dịch. Giá trị của từng hoá đơn bán chịu hay của từng tín dụng thương mại thể hiện lượng tiền hay tài sản mà các đơn vị đối tác nợ doanh nghiệp. Quy mô của công nợ phát sinh lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào tính chất của hàng hoá trên thị trường. Quy mô của công nợ nói lên số lượng tiền nợ nhiều hay ít. Trên diện rộng, đối với từng chủ nợ, khách nợ thì quy mô của công nợ được thể hiện là tổng tài sản mà doanh nghiệp nợ các đối tác và các đối tác và các đơn vị kinh tế khác nợ doanh nghiệp. Bên cạnh đó thì tiềm lực tài chính cũng quyết định quy mô công nợ và chính sách tín dụng mà doanh nghiệp áp dụng. Nếu doanh nghiệp cho phép các hoá đơn thanh toán được thanh toán chậm trả nhiều thì quy mô công nợ sẽ lớn và ngược lại. Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp mạnh, doanh nghiệp muốn tăng doanh số bán ra và các hoá đơn được thanh toán chậm trả thì quy mô công nợ sẽ ngày càng tăng. Doanh nghiệp nên áp dụng chính sách tín dụng thương mại phù hợp và nghiên cứu kỹ lưỡng về khách hàng để chính sách bán chịu không phải chịu rủi ro và đảm bảo các khoản thu được thu hồi nhanh chóng, chi phí thu hồi công nợ thấp. Tuy nhiên các doanh nghiệp không nên để các đơn vị và các đối tác kinh doanh chiếm dụng vốn nhiều ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
2.1.2. Thời hạn của công nợ:
Thời hạn công nợ là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp ký hóa đơn mua bán chịu đến khi hoá đơn đó được thanh toán.
Đây chính là giới hạn thời gian để doanh nghiệp có các biện pháp thu hồi các khoản nợ phải thu và thanh toán các khoản nợ phải trả. Đối với các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh thì trong chính sách tín dụng thương mại, để tăng tính hấp dẫn với khách hàng doanh nghiệp có thể gia tăng thời hạn trả nợ. Nhưng khi đó doanh nghiệp phải đầu tư lớn vào các khoản phải thu, nợ kéo dài sẽ tăng, bù lại sẽ thu hút thêm được nhiều khách hàng mới, doanh thu tiêu thụ sẽ tăng lên. Như vậy một quyết định tăng hay giảm thời hạn bán chịu cần xem xét cân nhắc kỹ giữa chi phí phải bỏ ra và lợi nhuận đem lại.
Doanh nghiệp nên xác định cho mình một thời hạn công nợ mà có lợi cho mình nhất nhưng đồng thời cũng phải có lợi cho bên thanh toán để công nợ được thu hồi nhanh chóng, đầy đủ hạn chế được rủi ro và chi phí để thu hồi công nợ. Đồng thời phải đẩy mạnh được bán ra.
Khi xem xét thời hạn của công nợ chúng ta cần chú ý đến các tiêu thức sau:
- Thời hạn nợ trung bình
- Kỳ hạn trả nợ : tính đến thời gian mà trong thời hạn thanh toán giữa doanh nghiệp và các đối tác đã được thoả thuận, đến thời hạn đó thì các khoản nợ phải được thanh toán.
- Thời hạn cho vay và trả nợ:
Thời hạn cho vay hay chính là thời gian mà các khoản nợ chưa phải thanh toán. Tính từ lúc khách hàng ký nhận nợ đến khi các khoản nợ được thanh toán.
Thời hạn trả nợ: là lúc mà các khoản nợ đến hạn thanh toán. Thông thường các doanh nghiệp thường để cho thời hạn trả nợ được dao động trong một khoảng thời gian ngắn nhất định. Trong khoảng thời gian đó thì các khoản nợ sẽ được thanh toán.
2.1.3. Lãi suất của công nợ:
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Nó không những ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định của các nhà doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các cá nhân mà còn ảnh hưởng đến các tổ chức kinh tế, các cá nhân mà còn ảnh hưởng đến biến động của nền kinh tế. Để hiểu thực chất về lãi suất, ta cần hiểu kỳ hạn trả nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, lãi suất quá hạn, khái niệm về lãi suất hoàn vốn là một khái niệm quan trọng để xem xét mức lãi suất nào là mức lãi suất có thể chấp nhận được, do dó sự khác nhau giữa một đồng nhận được hôm nay và một đồng nhận được trong tương lai.
Lãi suất của công nợ không tính riêng và trả riêng như lãi suất của ngân hàng mà được tính vào giá bán của sản phẩm hàng hoá và được thanh toán cùng khi thanh toán hết thời hạn tín dụng.
- Gia hạn nợ : được áp dụng trong trường hợp đến thời hạn thanh toán nhưng doanh nghiệp trả nợ không có khả năng trả nợ thì phải xin gia hạn nợ trong một thời gian nhất định và được sự đồng ý của chủ nợ với chủ nợ mà không phải chịu sự ràng buộc gì.
- Lãi suất hoàn vốn: là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được theo một công nợ với giá trị hôm nay của công nợ đó.
Khi doanh nghiệp bán hàng theo chính sách cấp tín dụng thương mại cho khách hàng thì giá bán hàng thanh toán trả chậm sẽ bằng giá bán hàng thanh toán ngay cộng thêm phần lãi suất. Phần lãi suất này sẽ được tính trên phần giá trị của lô hàng bán với thời hạn thanh toán chậm trả. Nếu khách hàng thanh toán tiền lô hàng trong thời hạn tín dụng thì khách hàng sẽ được hưởng chiết khấu thanh toán. Thực chất đó không phải là do doanh nghiệp giảm giá cho khách hàng mà đó chính là phần lãi suất mà khách hàng phải trả nếu khách hàng thanh toán sau.
Trường hợp mà sau khi gia hạn nợ mà khách hàng vẫn chưa thanh toán được cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ xử lý nợ phải trả theo từng cấp độ, bình thường sẽ chuyển sang nợ quá hạn và ép bên nợ phải trả lãi nợ quá hạn. Lãi nợ quá hạn thường gấp 1,5 lần lãi suất cho vay cao nhất của tổ chức tín dụng tại thời điểm chuyển sang nợ quá hạn.
Lãi nợ quá hạn = Dư nợ quá hạn *Thời hạn nợ quá hạn (tính theo ngày)* lãi suất nợ quá hạn tính 1 ngày.
Nghiên cứu lãi suất giúp doanh nghiệp tính toán được chính xác giá bán trả chậm, đảm bảo được lãi suất hoàn vốn được tính đúng, hạn chế rủi ro và có được biện pháp vừa cứng rắn vừa mềm mỏng đối với các khoản nợ quá hạn.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến công nợ:
2.2.1. ảnh hưởng của các nhân tố khách quan đến công nợ:
Các nhân tố khách quan là các nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp,
Có rất nhiều những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến công nợ dưới đây chúng ta sẽ xem xét một số những nhân tố như sau:
- Môi trường kinh doanh: doanh nghiệp đóng vai trò là chủ thể của nền kinh tế, do đó đây thực sự là một hệ thống các nhân tố ảnh hưởng có tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển, nếu môi trường kinh doanh phù hợp thì nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, ngược lại thì nó kìm hãm thậm chí có thể đưa doanh nghiệp đến chỗ làm ăn thua lỗ hoặc phá sản.
Thuộc nhóm nhân tố này bao gồm các nhân tố cụ thể sau:
+ Sự ổn định của nền kinh tế, của hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế của nhà nước:
Đây được coi là môi trường pháp lý quan trọng cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, thể hiện chủ trương, đường lối về kinh tế của quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Môi trường pháp lý bình đẳng, thông thoáng, rõ ràng sẽ tạo điều kiện thuận lợi và đòi hỏi doanh nghiệp phát triển, ngược lại gây khó khăn thậm chí kìm hãm. Khi đó thì các khoản phải thu và phải trả của doanh nghiệp cũng sẽ rơi vào hoàn cảnh như trên đó là một là doanh nghiệp sẽ thu được đầy đủ các khoản nợ và thanh toán đầy đủ các khoản nợ của mình khi đó doanh nghiệp sẽ làm ăn phát đạt, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường ngày càng được củng cố. Ngược lại khi có sự biến động của nền kinh tế thì tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng, cá nhân đều bị ảnh hưởng với các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào mối liên hệ với môi trường bên ngoài.Thực tế cho thấy khi nền kinh tế đang trong tình trạng khủng hoảng có nhiều biến động về tình hình tài chính thì khả năng thanh toán giảm. Do đó các giao dịch buôn bán thường được diễn ra dưới hình thức trả chậm, công nợ phát sinh nhiều và có thể tạo nên dây truyền nợ giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các cá nhân.
Hệ thống luật pháp về kinh tế nói chung và hệ thống luật pháp về ngân hàng nói riêng nếu chặt chẽ sẽ giúp doanh nghiệp ký kết được các hợp đồng kinh tế an toàn các khoản nợ sẽ thu hồi được đầy đủ và nhanh chóng, các khoản huy động từ ngân hàng với mức lãi suất thấp và ổn định sẽ giúp doanh nghiệp tăng vốn để có thể mở rộng được quy mô kinh doanh. Bên cạnh đó nếu doanh nghiệp có điều kiện tài chính doanh nghiệp có thể đầu tư chứng khoán một cách dễ dàng.
Các hợp đồng kinh tế khi ký kết đặc biệt là các hợp đồng kinh tế với nước ngoài mà trước khi ký kết được xem xét kỹ lưỡng thì sẽ giảm thiểu được rủi ro cho doanh nghiệp. Vì vậy khi ký kết hợp đồng kinh tế các doanh nghiệp phải hết sức cẩn thận nếu không sẽ không thu được tiền hoặc nhiều khi để hớ hênh sẽ phải mất thêm tiền đối với các khoản phải trả.
+ ảnh hưởng của các nhân tố giá cả, lãi suất, thuế.....đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Đây là các nhân tố thuộc môi trường kinh tế, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được đặt trong bối cảnh cụ thể như phát triển hay suy thoái của nền kinh tế, mỗi sự thay đổi của các nhân tố trên đều dẫn đến tác động tích tực hay tiêu cực. Nếu giá cả, lãi suất và thuế đưa ra phù hợp với doanh nghiệp thì sẽ thúc đẩy doanh nghiệp phát triển và khi đó các khoản công nợ của doanh nghiệp cũng được thanh toán đầy đủ đúng thời hạn. Ngược lại thì các khoản thanh toán sẽ không được thanh toán đầy đủ đúng hạn và doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng nợ nần chồng chất, các khoản phải thu thì sẽ không thu được.
- Môi trường hợp tác, hội nhập kinh tế:
Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, sự phụ thuộc về kinh tế và quan hệ kinh tế quốc tế là tất yếu. Sự hợp tác và hội nhập quốc tế mở ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội để mở rộng thị trường, liên kết sản xuất, thu hút vốn đầu tư nhưng nó cũng trở thành thách thức cho doanh nghiệp trong một môi trường mới đầy biến động và rủi ro, đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động trong hợp tác và hội nhập, tự hoàn thiện để nâng cao uy tín và chất lượng trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Để thuận tiện cho quá trình hợp tác và hội nhập thì hệ thống luật pháp trong nước phải chặt chẽ thì mới bảo vệ được lợi ích của doanh nghiệp, còn nếu lỏng lẻo thì rủi ro cho các doanh nghiệp sẽ cao. Khu vực thì có các chế tài về kinh tế và ngoại thương nếu đưa ra phù hợp với các doanh nghiệp thì sẽ thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, các khoản nợ sẽ được thanh toán đầy đủ đúng thời hạn, ngược lại sẽ kìm hãm các doanh nghiệp và rủi ro trong thanh toán sẽ cao.
Các hiệp định song phương hoặc đa phương khi ký kết giữa các quốc gia mà được xem xét kỹ lưỡng thì sẽ hạn chế được rủi ro cho các doanh nghiệp. Trong đó có quan hệ hàng hoá-tín dụng ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Chỉ có doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính lành mạnh, có khả năng thích nghi cao mới vượt qua được giai đoạn này. Trên phạm vi rộng thì sự biến động của nền kinh tế thế giới hay nền kinh tế khu vực cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến nền kinh tế trong nước từ đó ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
2.2.2. ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan:
Các khoản phải thu và phải trả tồn tại một cách tất yếu trong quá trình kinh doanh và quá trình thanh toán của doanh nghiệp, khó có thể có số dư các khoản phải thu và phải trả ở mọi thời điểm bằng 0 bởi mua chịu và bán chịu là việc thường xuyên xảy ra trong kinh doanh, và nó sẽ ảnh hưởng đến chính sách bán hàng và chính sách thanh toán của doanh nghiệp. Vì vậy kiểm soát các khoản phải thu, phải trả hợp lý, phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp là vấn đề đặt ra trong quản trị tài chính của doanh nghiệp. Chính vì điều đó mà chúng ta nên xem xét các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến tình hình thanh toán của doanh nghiệp để hạn chế thất thoát và có biện pháp để nâng cao khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Số lượng các khoản phải thu và độ lớn của nó thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào tốc độ thu hồi nợ cũ và tạo ra nợ mới, nói cách khác nó phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp và chính sách kinh doanh của doanh nghiệp.
Các yếu tố đó bao gồm:
- Trình độ quản lý của doanh nghiệp:
Đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định, nếu trình độ quản lý của các nhà quản trị tài chính tốt biết tổ chức các nhân viên kinh doanh hợp lý, đề ra chính sách bán chịu phù hợp, các tiêu chuẩn tín dụng đưa ra có thể thu hút được khách hàng đồng thời có những biện pháp để thẩm định khách hàng trước khi áp dụng chính sách bán chịu thì sẽ giảm thiểu được rủi ro trong thanh toán. Bên cạnh đó biết sử dụng việc phát hành trái phiếu để tăng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp vừa an toàn mà lại ổn định, doanh nghiệp có nguồn vốn bổ sung để phát triển và trang trải các khoản nợ. Trình độ quản lý còn thể hiện ở việc biết tổ chức hợp lý công nợ, phân chia công nợ hợp lý từ đó sẽ có biện pháp để thu hồi công nợ, hạn chế được rủi ro như phân công nợ theo tuổi thọ, theo khả năng thu hồi nợ và đối tượng nợ từ đó doanh nghiệp sẽ biết được khoản nợ nào đã đến hạn, khoản nợ nào quá hạn để có biện pháp thu hồi.
Ngoài ra trình độ quản lý còn quyết định:
+ Khối lượng sản phẩm hàng hoá._. bán chịu cho khách hàng:
Để có thể tăng thêm lợi nhuận từ việc mở rộng số lượng các sản phẩm tiêu thụ doanh nghiệp sẽ khuyến khích người mua bằng cách cấp tín dụng thương mại cho khách hàng. Khi đó sẽ làm tăng các khoản nợ phải thu và chi phí liên quan(chi phí quản lý khoản nợ phải thu, chi phí thu hồi nợ, chi phí rủi ro). Nếu không quản lý tốt các khoản phải thu này thì doanh nghiệp sẽ không thu được nợ hoặc sẽ phải chịu chi phí thu hồi nợ cao. Doanh nghiệp nên nghiên cứu kỹ trước khi quyết định bán chịu cho khách hàng.
+ Tính chất thời vụ của sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh:
Đối với doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm mang tính chất thời vụ thì trong thời kỳ sản phẩm của doanh nghiệp có nhu cầu tiêu thụ cao cần có những biện pháp để khuyến khích tiêu thụ sản phẩm nhằm thu hồi vốn nhanh. Do đó quy mô công nợ thường phát sinh lớn vào thời vụ của sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh.
+ Chính sách tín dụng của doanh nghiệp: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp vừa là người mua đồng thời lại vừa là người bán. Là người mua doanh nghiệp nhận được tín dụng thương mại từ nhà cung cấp hình thành nên các khoản phải trả, là người bán doanh nghiệp cấp tín dụng cho khách hàng hình thành nên các khoản phải thu. Do đó việc đánh giá chính sách tín dụng thương mại ta cần phải chú ý cân nhắc một số yếu tố sau:
ỹ Tác động của chi phí
ỹ Xác suất không trả tiền
ỹ Tác động của doanh thu
ỹ Chiết khấu tiền mặt
- Tác động của các khoản phải trả:
Trong thương trường làm ăn buôn bán với nhau cần sòng phẳng, có đi có lại. Cho nên để tạo được uy tín và vị thế của mình trên thị trường thì doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một hình ảnh tốt, để làm được điều này thì doanh nghiệp cần phải thanh toán đầy đủ các khoản nợ đầy đủ đúng thời hạn, có như vậy thì các khoản phải thu của doanh nghiệp cũng sẽ được thu hồi đầy đủ và đúng hạn, rủi ro trong thanh toán thấp. Bên cạnh đó hệ thống thông tin bây giờ rất phát triển các thông tin của doanh nghiệp sẽ được các đối tác lắm rất rõ vì vậy khi kinh doanh trên thương trường doanh nghiệp phải chú ý tới mối quan hệ qua lại lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, doanh nghiệp không nên đi chiếm dụng vốn quá nhiều và cũng không để các doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn của mình quá nhiều, có như vậy thì làm ăn mới tốt.
III. Các giải pháp nhằm tăng hiệu quả công tác quản lý thanh toán công nợ:
3.1. Các mục tiêu quản lý công nợ:
Công nợ phát sinh và tồn tại ở bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào, nó là một bộ phận không thể tách rời trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh tình trạng tài chính của doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp rất chú trọng đến công tác quản lý công nợ.
Đối với quản lý công nợ phải thu, doanh nghiệp theo dõi sự hình thành và biến động tăng giảm các khoản phải thu. Từ những con số phát sinh cụ thể, kế toán phân tích tình hình thu hồi để thấy mức độ bị chiếm dụng vốn, phân tích khả năng thu hồi công nợ, hiệu quả công tác thu hồi công nợ....Từ đó, doanh nghiệp đưa ra các biện pháp thu hồi công nợ phù hợp, hạn chế và xử lý các khách hàng cố tình để dây dưa nợ đọng, chủ động lập dự phòng phải thu khó đòi để tránh những biến động tài chính lớn khi không thu được nợ, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.
Mặt khác, công nợ phải thu là một bộ phận tài sản của doanh nghiệp bị chiếm dụng. Quản lý công nợ phải thu nhằm đảm bảo an toàn cho tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, tăng cường vốn lưu động, góp phần tăng cường thanh toán nợ phải trả.
Tương tự như vậy, để quản lý nợ phải trả kế toán cũng phải theo dõi sự biến động các khoản phải trả, đó chính là việc theo dõi việc trả nợ của doanh nghiệp. Phân tích tình hình nợ phải trả để thấy được phần tài sản thực tế của doanh nghiệp, phân tích khả năng thanh toán đánh giá hiệu quả công tác quản lý quỹ tiền mặt đáp ứng nhu cầu thanh toán, đánh giá tình hình vốn lưu động, tình hình tài chính của doanh nghiệp khả quan hay yếu kém...Từ đó, doanh nghiệp có kế hoạch dự đoán nhu cầu tiền mặt nói riêng, vốn lưu động nói chung, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, tăng cường khả năng tự chủ tài chính.
Bên cạnh đó, nợ phải trả là một bộ phận nguồn vốn của doanh nghiệp khi chưa đến hạ trả nợ. Các khoản này bổ sung vốn tạm thời phục vụ hoạt động kinh doanh nên việc quản lý nợ phải trả còn với mục đích tìm ra thời điểm trả nợ có lợi nhất, lập kế hoạch trả nợ hợp lý để tạo được nguồn tài trợ ngắn hạn và hạn chế thấp nhất chi phí sử dụng nguồn vốn này.
Tóm lại, quản lý công nợ đó chính là việc kiểm soát và duy trì tài chính doanh nghiệp ở trạng thái ổ định, tận dụng tối đa những lợi thế của nguồn vốn chiếm dụng nhưng phải đảm bảo phù hợp với pháp luật để phát triển.
3.2. Những nội dung quản lý công nợ:
3.2.1. Theo dõi tình hình công nợ:
Đối với các khoản phải thu:
- Mở sổ theo dõi chi tiết các khoản nợ phải thu, thường xuyên theo dõi, đôn đốc để thu hồi công nợ đúng hạn.
- Có biện pháp phòng ngừa rủi ro như : yêu cầu đặt cọc, tạm ứng hay trả trước một phần giá trị đơn đặt hàng, lựa chọn khách hàng có uy tín và độ tin cậy cao. Ngoài ra doanh nghiệp có thể lập quỹ dự phòng phải thu khó đòi để phòng khi phát sinh nợ khó đòi doanh nghiệp có khả năng bù đắp được.
- Có sự ràng buộc chặt chẽ trong hợp đồng mua bán hàng hoá, nếu quá thời hạn thanh toán theo hợp đồng thì doanh nghiệp có quyền thu tiền phạt theo mức lãi suất tương ứng như lãi suất ngân hàng.
- Phân loại các khoản nợ quá hạn tìm nguyên nhân để có cách sử lý phù hợp như: thương lượng để gia hạn nợ, giảm một phần nợ cho khách hàng, có biện pháp mạnh như yêu cầu toà án kinh tế giải quyết khi thấy cần thiết.
Đối với công nợ phải trả:
- Thường xuyên kiểm tra, đối chiếu các khoản phải thanh toán để chủ động đáp ứng các yêu cầu thanh toán khi đến hạn.
- Lựa chọn các hình thức thanh toán thích hợp, an toàn và có hiệu quả nhất đối với doanh nghiệp.
- Xác định và duy trì một số lượng tiền tệ cần thiết để giúp doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn phải trả.
3.2.2. Phân tích tình hình công nợ:
Phân tích tình hình công nợ phải thu, phải trả là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu các khoản phải thu, phải trả hiện hành với quá khứ.Thông qua việc phân tích này, những người ra quyết định có thể đánh giá chính xác thực trạng và tiềm năng của doanh nghiệp từ đó lựa chọn các phương án kinh doanh tối ưu. Do đó việc phân tích này có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tài chính nói riêng.
Nội dung phân tích tình hình thanh toán công nợ bao gồm:
a. Phân tích tình hình thanh toán công nợ:
Tình hình thanh toán công nợ các khoản phải thu, phải trả là một trong những chỉ tiêu phản ánh thực chất hoạt động tài chính. Nếu hoạt động tài chính tốt, lành mạnh, doanh nghiệp sẽ thanh toán kịp thời các khoản nợ phải trả cũng như kịp thời các khoản nợ phải thu, tránh tình trạng tranh chấp, mất khả năng thanh toán.
- Phân tích tình hình nợ phải thu
Để phân tích tình hình nợ phải thu ta sử dụng các chỉ tiêu sau:
v =
Chỉ tiêu này phản ánh với tổng nguồn vốn huy động được thì có bao nhiêu % vốn thực chất không tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh mức độ vốn bị chiếm dụng của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ này tăng lên là biểu hiện không tốt.
-Phân tích tình hình trả nợ:
Được thể hiện qua các chỉ tiêu sau:
v Hệ số nợ = = 1 - Hệ số nguồn vốn CSH
v =
Hệ số nợ cho biết trong một đồng vốn kinh doanh có bao nhiêu đồng được hình thành từ vay nợ bên ngoài, còn nguồn vốn CSH lại đo lường sự góp vốn của chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn hiện nay của doanh nghiệp(vì vậy hệ số nguồn vốn CSH còn gọi là hệ số tự tài trợ)
Nghiên cứu hai chỉ tiêu tài chính này, ta thấy mức độc lập hay phụ thuộc của doanh nghiệp với các chủ nợ, mức độ tự tài trợ của doanh nghiệp với nguồn vốn kinh doanh của mình.
v =
Phản ánh các khoản doanh nghiệp đi chiếm dụng so với các khoản doanh nghiệp bị chiếm dụng. Nếu tỷ lệ này lớn hơn 1 (lần) chứng tỏ số vốn của doanh nghiệp đi chiếm dụng lớn hơn số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng. Ngược lại, nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 1(lần) chứng tỏ số vốn doanh nghiệp đi chiếm dụng nhỏ hơn số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng.
Để có thể đánh giá nhận xét đúng đắn về tình hình thanh toán nợ khi phân tích doanh nghiệp cần kết hợp sử dụng các tài liệu hạch toán hàng ngày để:
Xác định tính chất, thời gian và nguyên nhân các khoản phải thu, phải trả.
Các biện pháp mà đơn vị áp dụng để thu hồi nợ hoặc thanh toán nợ.
Các nguyên nhân dẫn đến các khoản tranh chấp nợ phải thu, phải trả.
b. Phân tích khả năng thanh toán nợ:
Tình hình tài chính của doanh nghiệp thể hiện rõ nét qua khả năng thanh toán. Nếu doanh nghiệp có khả năng thanh toán cao thì tình hình tài chính sẽ khả quan và ngược lại. Do vậy khi đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp không thể xem xét khả năng thanh toán, đặc biệt khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Các hệ số về khả năng thanh toán dùng để phân tích tình hình tài chính được rất nhiều đối tượng quan tâm như các nhà đầu tư, người cho vay vốn,.... Họ luôn đặt ra câu hỏi liệu doanh nghiệp có khả năng trả các món nợ tới hạn?
- Phân tích khả năng thanh toán nợ phải trả:
v Khả năng thanh toán chung =
Hệ số khả năng thanh toán chung là mối quan hệ giữa tổng số tài sản mà hiện nay doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng với tổng số nợ phải trả.
Đây là chỉ tiêu dùng để đánh giá khả năng thanh toán tổng quát của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo (khả năng hoàn trả tất cả các khoản nợ). Chỉ tiêu này có vai trò rất quan trọng trong việc xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có chỉ số này luôn lớn hơn hoặc 1 thì doanh nghiệp đảm bảo được khả năng thanh toán và ngược lại. Nếu hệ số này dần tới 0 là báo hiệu sự phá sản của doanh nghiệp, tổng số tài sản hiện có (TSCĐ và TSLĐ) không đủ trả số nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán.
+ Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn:
v Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn =
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn là mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn và các khoản nợ ngắn hạn.
Chỉ tiêu này giả thiết : Nếu toàn bộ nợ của doanh nghiệp đồng thời cùng đến hạn thanh toán trong một thời gian ngắn thì khả năng thanh toán các khoản nợ đó thực hiện ở mứcđộ nào, nhanh hay chậm.
Như vậy để xác định chỉ tiêu này, chỉ quan tâm đến bộ phận tài sản doanh nghiệp có thể dễ dàng nhanh chóng chuyển đổi thành tiền mặt khi cần thiết.
Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán toàn bộ các khoản nợ ngắn hạn đến hạn và tình hình tài chính của doanh nghiệp bình thường hoặc khả quan. Ngược lại hệ số thanh toán nợ ngắn hạn càng < 1 thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn càng thấp. Tuy nhiên không phải hệ số này càng lớn càng tốt vì khi đó có một lượng TSLĐ tồn trữ lớn, phản ánh việc sử dụng TSLĐ không hiệu quả, vì bộ phận này không vận động, không sinh lời rất lãng phí. Tính hợp lý của hệ số phản ánh khả năng thanh toán nợ ngắn hạn phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh. Ngành có TSLĐ chiếm tỷ trọng lớn ( ví dụ ngành thương mại) trong tổng tài sản thì hệ số này lớn và ngược lại.
v Khả năng thanh toán nhanh =
Chỉ tiêu này giả thiết rằng tất cả công nợ của doanh nghiêp đồng thời cùng đến hạn thanh toán một thời điểm hoặc trong một khoảng thời gian rất ngắn thì việc chi trả thanh toán có thực hiện được không?
Phần tài sản được huy động trong chỉ tiêu này chỉ bao gồm toàn bộ số vốn bằng tiền có thể sử dụng ngay cho thanh toán mà không phải qua bất kỳ hành động trung gian nào.
Nếu hệ số thanh toán nhanh ( >0,5) thì tình hình thanh toán tương đối khả quan, nếu ( < 0,5) doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ, do đó có thể phải bán gấp hàng hoá sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán. Tuy nhiên nếu hệ số này quá cao lại phản ánh tình hình không tốt vì vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay vốn chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Tuy nhiên độ lớn của hệ số thường phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh và kỳ hạn thanh toán của các món nợ phải thu, phải trả trong kỳ.
- Phân tích khả năng thanh toán nợ phải thu:
Sử dụng các chỉ tiêu sau:
v Vòng quay các khoản phải thu =
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của doanh nghiệp.
Nếu số vòng quay khoản phải thu quá cao sẽ không tốt vì ảnh hưởng đến khối lượng hàng tiêu thụ do phương thức thanh toán chặt chẽ ( chủ yếu là thanh toán ngay và thời gian ngắn) làm giảm doanh thu, giảm lợi nhuận, giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
v Kỳ thu tiền bình quân
(tính theo số ngày)
=
Số dư bình quân các khoản phải thu
Doanh số bán chịu bình quân 1 ngày
Đây là chỉ tiêu phản ánh để thu được một khoản phải thu thì cần số ngày trung bình là bao nhiêu (các khoản phải thu quay một vòng mất mấy ngày). Vòng quay càng lớn thì kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ và ngược lại.
Thời gian này càng ngắn chứng tỏ tốc độ thu hồi nợ càng nhanh, doanh nghiệp ít bị chiếm dụng vốn. Ngược lại, nếu thời gian dài chứng tỏ tốc độ thu hồi nợ càng chậm, doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn nhiều.
Khi phân tích cần tính ra và so sánh với thời gian bán chịu quy định cho khách hàng. Nếu thời gian quay vòng các khoản phải thu lớn hơn thời gian bán chịu quy định cho khách hàng thì việc thu hồi các khoản phải thu là chậm và ngược lại, các khoản phải thu nhỏ hơn thời gian bán chịu quy định cho khách hàng thì việc thu hồi các khoản phải thu đạt được kế hoạch về thời gian.
3.3. Lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi:
Bên cạnh việc theo dõi chi tiết công nợ theo từng đối tượng, để tránh những thiệt hại, thất thu do việc các đối tượng phải thu của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán tiền hàng hay nợ đến hạn, các doanh nghiệp thường phải lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi. Dự phòng phải thu khó đòi là dự phòng phần giá trị dự kiến bị tổn thất của các khoản nợ phải thu khó đòi có thể không đòi được do con nợ không có khả năng thanh toán có thể xảy ra trong năm kế hoạch.
- Căn cứ để ghi nhận là khoản nợ phải thu khó đòi:
+ Nợ phải thu đã quá hạn thanh toán từ hai năm trở nên kể từ ngày khách hàng ký nhận nợ trên chứng từ vay nợ.
+ Nợ chưa quá hạn trong thời gian quy định 2 năm nhưng con nợ đã trong tình trạng giải thể,phá sản...
- Mục đích của việc lập dự phòng:
+ Đảm bảo nguyên tắc phù hợp của kế toán và tránh tình trạng biến động lớn tài chính của doanh nghiệp.
+ Phản ánh đúng giá trị thực về các khoản phải thu từ đó phản ánh đúng giá trị thực tài sản của doanh nghiệp.
- Nguyên tắc lập dự phòng:
Để tránh tình trạng các doanh nghiệp lập dự phòng với mục đích tăng chi phí, giảm lợi nhuận và thuế thu nhập, việc lập dự phòng phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
+ Chỉ được phép lập dự phòng các khoản phải thu thực sự khó đòi và phải lập cho từng khoản phải thu khó đòi.
+ Số dự phòng phải thu khó đòi được lập không quá 20% tổng công nợ phải thu và đảm bảo doanh nghiệp không bị lỗ.
+ Việc lập dự phòng phải thu khó đòi được lập một lần vào cuối niên độ kế toán trước khi lập báo cáo kế toán.
- Phương pháp xác định mức dự phòng:
Để xác định mức dự phòng cần phải sử dụng một trong hai phương thức:
+ Tính trực tiếp: số dự phòng được tính theo tỷ lệ % trên số công nợ phải thu, theo công thức
Số dự phòng phải lập = Số công nợ phải thu * Tỷ lệ ước tính
- Tính tuổi của các khoản phải thu: căn cứ vào sổ chi tiết theo dõi công nợ để xác định thời gian các khoản nợ, lập dự phòng theo số % khó thu.
Số dự phòng phải lập = % mất nợ có thể * Nợ phải thu khách hàng nghi ngờ.
Dự phòng phải thu khó đòi được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh khi lập và vào thu nhập khác khi hoàn nhập dự phòng.
3.4. ý nghĩa của công tác quản lý công nợ:
Như chúng ta đã biết công nợ trong doanh nghiệp luôn là một bài toán phức tạp, hóc búa đòi hỏi doanh nghiệp phải có những biện pháp thích hợp thì mới có thể tồn tại và phát triển được trong cơ chế cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Cũng có thể khẳng định một điều rằng “công nợ” là con dao hai lưỡi nếu không dung hoà được hai mặt nội dung phải thu và phải trả của công nợ thì doanh nghiệp rất dễ dẫn tới khả năng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và tồi tệ hơn nữa là dẫn tới sự phá sản của doanh nghiệp. Do đó, đặt ra cho mỗi doanh nghiệp một câu hỏi là làm thế nào để quản lý công nợ tốt nhất mà vẫn duy trì được mức tăng trưởng và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Không phải lúc nào nhắc đến công nợ là cũng nhắc đến các khoản doanh nghiệp phải thu từ các con nợ và ngược lại trong nhiều trường hợp “công nợ phải trả” lại tạo cho doanh nghiệp một khoản vốn chiếm dụng hợp pháp trong một khoảng thời gian nhất định. Đối với một số doanh nghiệp, người ta đề cao khoản vốn tín dụng này và lấy đó làm giải pháp tài chính tạm thời: “chiếm dụng càng nhiều vốn càng tốt” trong lúc doanh nghiệp thiếu vốn, nếu doanh nghiệp quá lạm dụng giải pháp chiếm dụng vốn bất hợp lý này thì tình hình tài chính không những không có tiến bộ mà sẽ ngày càng rơi vào ngõ cụt. Vậy làm thế nào để hợp lý hóa tất cả các khoản nợ phải thu, phải trả? Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có chính sách quản lý công nợ hợp lý. Từ chỗ tổ chức theo dõi chi tiết công nợ phải thu, phải trả đến việc phân tích tình hình công nợ hàng quý, hàng năm. cuối cùng phải đưa ra được quỹ dự phòng phải thu khó đòi nếu thấy cần thiết. Từ đây doanh nghiệp sẽ có các biện pháp xử lý kịp thời và nâng cao khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp.
3.5. Những giải pháp chủ yếu tăng hiệu quả quản lý thanh toán công nợ:
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh việc phát sinh công nợ là một vấn đề mang tính tất yếu. Để thực hiện tốt việc thu và trả nợ phải có thời gian nên nợ nần giữa các đơn vị kinh doanh trong một thời gian ngắn là chuyện bình thường. Nhưng nếu để tình trạng công nợ dây dưa kéo dài, chiếm dụng vốn lẫn nhau với khối lượng lớn thì tất yếu sẽ gây hậu quả xấu. Nếu công ty phá sản thì sẽ kéo theo hàng loạt các công ty khác lao đao thậm chí phá sản theo. Đây là tình trạng có thể xảy ra nếu các doanh nghiệp không tuân theo nguyên tắc kinh doanh cơ bản, không tuân theo luật tài chính và pháp luật nhà nước. Để tránh tình trạng công nợ dây dưa kéo dài các doanh nghiệp cần phải quan tâm đến công tác quản lý theo dõi công nợ một cách chi tiết.
Một là: Nghiên cứu về nhà cung cấp và khách hàng
Nhằm hạn chế mức độ rủi ro trong việc ứng trước tiền hàng và bán chịu hàng hoá, dịch vụ cũng như trong việc thanh toán công nợ sau này. Nên trước khi ứng trước tiền hàng hay bán chịu cho khách hàng doanh nghiệp cần điều tra nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra quyết định phù hợp. Tuỳ theo mức độ quy mô của công nợ phải thu đối với từng khách hàng và khoản ứng trước cho nhà cung cấp mà quản trị phải tập hợp các thông tin khác nhau. Các thông tin có thể như:
- Báo cáo tài chính: doanh nghiệp có thể đề nghị khách hàng cung cấp các thông tin tài chính như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn, tốc độ chu chuyển vốn lưu động.Từ đó xem xét và cân nhắc xem có nên bán hàng cho khách hàng theo phương thức tín dụng thương mại hay không?
- Báo cáo tín dụng về khả năng thanh toán của khách hàng đối với các doanh nghiệp khác : đây là nguồn thông tin rất khó khai thác,doanh nghiệp cần phải tìm kiếm từ các tổ chức chuyên cung cấp thông tin. Dựa vào đó doanh nghiệp có thể biết được tình trạng kinh tế của khách hàng làm cơ sở cho việc quyết định có bán chịu cho khách hàng hay không ?.
- Các ngân hàng: Do ngân hàng có nhiều mối quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp khác nhau nên bản thân ngân hàng cũng nhận được những thông tin về tình trạng tín dụng của các doanh nghiệp. Dựa vào thông tin của ngân hàng cung cấp doanh nghiệp có thể phần nào biết được tình trạng kinh tế của khách hàng, của nhà cung ứng.
Ngoài các thông tin trên doanh nghiệp cũng cần phải xem xét lịch sử thanh toán của khách hàng đối với doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp cũng phải biết được rằng trong quá khứ khách hàng có trả tiền đúng hạn hay không? Bao nhiêu lần khách hàng gây rắc rối trong việc trả tiền.
Sau khi tập hợp được các thông tin, doanh nghiệp sẽ phân tích và đưa ra kết luận có nên ứng trước tiền hàng cho nhà cung ứng hay chấp nhận bán chịu cho khách hàng.
Hai là: Xây dựng chính sách tín dụng thương mại đúng đắn
Trên thực tế, doanh nghiệp bán sản phẩm cho các doanh nghiệp khác hoặc cho các cơ quan nhà nước nhưng không thu được tiền ngay. Các hoá đơn chưa trả tiền gọi là tín dụng thương mại, các khoản tín dụng thương mại này tạo thành các khoản phải thu của doanh nghiệp. Do vậy việc xây dựng một chính sách tín dụng thương mại đúng đắn sẽ giúp cho việc quản lý công tác thanh toán công nợ thuận tiện hơn. Một chính sách tín dụng thương mại đúng đắn là một chính sách phải phù hợp với từng khách hàng cũng như với tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Chính sách tín dụng thương mại được xây dựng dựa trên sự hợp thành của các bộ phận sau:
- Tiêu chuẩn tín dụng: Là nguyên tắc chỉ đạo định rõ sức mạnh tài chính tối thiểu để có thể chấp nhận được của khách hàng mua chịu. Theo nguyên tắc này những khách hàng nào có sức mạnh tài chính hay vị thế tín dụng thấp hơn những tiêu chuẩn chấp nhận được thì sẽ bị từ chối cấp tín dụng theo thể thức tín dụng thương mại. Tuy nhiên tiêu chuẩn tín dụng phải mang tính động để phù hợp với từng trường hợp hoặc giai đoạn cụ thể.
Nếu các tiêu chuẩn đặt ra quá cao sẽ loại bỏ nhiều khách hàng tiềm năng và có thể làm giảm lợi nhuận. Ngược lại nếu tiêu chuẩn đặt ra quá thấp có thể thúc đẩy doanh số tăng nhưng sẽ rất nhiều khách hàng có mức rủi ro tín dụng cao, làm tăng các khoản nợ khó đòi và doanh nghiệp sẽ phải chịu những chi phí thu tiền cao hơn.
- Thời hạn tín dụng thương mại: Là khoảng thời gian doanh nghiệp cho phép khách hàng được chịu trả.
- Chiết khấu tiền mặt: Được sử dụng nhằm đẩy mạnh tốc độ thanh toán nợ, thu tiền nhanh, đồng thời định giá cao hơn với những khách hàng muốn kéo dài thời hạn trả nợ.
- Các công cụ tín dụng thương mại: Đây là bằng chứng về sự nợ nần. Nói chung, khi mua bán hàng hóa người ta thường sử dụng hoá đơn, hoá đơn được gửi như hàng hoá chuyên chở cho người mua. Khi người mua đã nhận đủ hàng hoá và ký vào hoá đơn thì lúc này hóa đơn có giá trị pháp lý về việc người mua nợ tiền người bán. Các thủ tục sau đó về việc người mua và người bán chỉ là việc chuyển tiền từ tài khoản người mua sang tài khoản của người bán.Tuy nhiên cũng có nhiều công cụ tín dụng thương mại khác được sử dụng trên thương trường như : thương phiếu, hợp đồng bán hàng có điều kiện.
Khi xây dựng chính sách tín dụng thương mại, doanh nghiệp cần cân nhắc đến các yếu tố: tác động của doanh thu, tác động của chi phí, chi phí của nợ nần, xác suất không trả tiền của người mua và chiết khấu tiền mặt.
Ba là: Phương thức quản lý công nợ
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh với nhiều lĩnh vực khác nhau do đó phương thức quản lý công nợ cũng khác nhau. Nhưng cũng có thể phân theo phương thức quản lý theo thời gian và theo từng khách nợ, chủ nợ.
- Quản lý công nợ theo thời gian:
Phương thức quản lý này dựa trên thời gian về “tuổi” của các khoản phải thu, phải trả. Nhà quản trị theo dõi các khoản phải thu, phải trả để xác định đúng thực trạng của doanh nghiệp và đánh giá tính hiện hữu của chính sách thu tiền của doanh nghiệp. Qua đó thấy được những khoản tín dụng có vấn đề để đưa ra được phương hướng quản lý và biện pháp khắc phục.
Theo phương pháp quản lý công nợ theo thời gian thì công nợ chia làm hai loại: công nợ trong thời hạn tín dụng và công nợ quá hạn.
+ Phương thức quản lý công nợ trong thời hạn tín dụng:
Đối với các khoản phải thu: cácdoanh nghiệp sẽ khuyến khích khách hàng thanh toán bằng chính sách chiết khấu thích hợp. Khách hàng thanh toán nhanh sẽ được hưởng chiết khấu, còn doanh nghiệp sẽ có vốn quay vòng kinh doanh tiếp theo.
Đối với các khoản phải trả: Đây là nguồn vốn kinh doanh được tài trợ hợp pháp từ bên ngoài mà doanh nghiệp có được. Do đó cần tận dụng triệt để nguồn tài trợ này, sử dụng hợp lý có hiệu quả nhằm mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Phươngthức quản lý công nợ đã quá hạn:
+Đối với các khoản phải thu:Doanh nghiệp phải có những chính sách thu tiền khác nhau đối với từng khoản nợ, tìm nguyên nhân của từng khoản nợ (nguyên nhân khách quan hay chu quan) để có những biện pháp xử lý thích hợp. Giao trách nhiệm cụ thể cho từng cán bộ công nhân viên đôn đốc thu hồi công nợ với thái độ mềm mỏng hay cứng rắn tuỳ thuộc vào từng đối tượng nợ. Đầu tiên hai bên có thể gặp nhau để thương lượng, nếu xét thấy khách hàng của mình có khả năng trả nợ được thì doanh nghiệp có thể gia hạn nợ cho khách hàng. Nếu không doanh nghiệp có thể áp dụng các biện pháp mạnh như phong toả hàng hoá và vốn khi doanh nghiệp bạn bị mất khả năng thanh toán. Sau đó mời cơ quan có trách nhiệm pháp lý đến làm thủ tục cần thiết.
+ Đối với các khoản phải trả:
Doanh nghiệp cần tránh xảy ra tình trạng nợ quá hạn. Nếu thông tin này bị lộ sẽ ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thương trường gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quan hệ với nhà cung cấp và các bạn hàng.
- Quản lý công nợ theo từng khách nợ và chủ nợ:
Theo phương pháp quản lý này các doanh nghiệp nhằm xác định được đúng thực trạng số nợ của mỗi khách hàng và thực trạng công nợ của doanh nghiệp, để từ đó khống chế số lượng bán ra đối với mỗi đối tác khi số lượng vốn thiếu chịu quá lớn. Đây là căn cứ thực tiễn giúp doanh nghiệp tiếp tục hoặc chính sách tín dụng thương mại. Phương pháp này giúp theo dõi chi tiết tình hình thanh toán của từng khách nợ để từ đó thấy được tình hình kinh doanh của mỗi đối tác. Đồng thời theo dõi được chi tiết kịp thời việc thanh toán với các chủ nợ để chủ động đưa ra các biện pháp tổng hợp khi cần thiết, tránh xảy ra tình trạng công nợ dây dưa, quá hạn ảnh hưởng tới vị thế uy tín của doanh nghiệp. Đó cũng là một công cụ để doanh nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh trong tương lai nhằm đáp ứng nhu cầu của các đối tác. Quản lý công nợ theo từng khách nợ để biết được tình hình tiêu thụ của khách hàng cũng như khả năng tiêu thụ của thị trường.
Chương II
Thực trạng công tác tổ chức quản lý và thanh toán
Công nợ tại công ty quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất
I. Đặc điểm, tình hình kinh doanh của công ty quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất
1.1. Một vài nét về quá trình hình thành và phát triển của công ty quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất.
Công ty Quan Hệ Quốc Tế Đầu Tư Sản Xuất (tên viết tắt CIRI), có trụ sở giao dịch tại 508 Trường Chinh- Hà Nội.
Công ty là doanh nghiệp nhà nước, được thành lập tháng 3/1997, giấy phép kinh doanh số 306546 do sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 20/3/1997, mã số thuế 0101147055 trực thuộc tổng công ty công trình giao thông 8(CIENC08)-bộ giao thông vận tải, vốn pháp định của tổng công ty là 179 tỷ đồng.
CIRI không ngừng xây dựng và phát triển theo hướng trở thành một doanh nghiệp mạnh, kinh doanh đa ngành. Công ty luôn phấn đấu thực hiện cung ứng tốt vật tư, thiết bị cho các đơn vị thành viên, các ban quản lý dự án của tổng công ty XD CTGT 8, sản xuất lắp ráp xe gắn máy hai bánh và xuất khẩu lao động.
Từ năm 1997 đến 1999, kinh doanh thương mại chiếm tỷ trọng lớn. Từ năm 2000 đến nay, công ty đã xây dựng được một số cơ cấu kinh doanh phù hợp với thị trường, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất, lắp ráp và kinh doanh xe máy dạng IKD, từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch.
Trong năm qua, mặc dù có sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng công ty đã kịp thời đưa ra những chiến lược để tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng. Công ty ngày càng nâng cao tỷ lệ nội địa hoá trong lĩnh vực kinh doanh xe gắn máy hai bánh như: động cơ khung, bộ đồ nhựa, giảm sóc...Công ty luôn chấp hành nghiêm chỉnh các qui định của Đảng và Nhà Nước, nộp ngân sách đầy đủ, luôn tuân thủ pháp luật trong sản xuất kinh doanh.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ đặc điểm kinh doanh
Chức năng nhiệm vụ của công ty là:
ỹ Tư vấn đầu tư chuyển giao công nghệ
ỹ Xây dựng các công trình
ỹ Kinh doanh bất động sản: đầu tư kinh doanh hạ tầng nhà đất
ỹ Sản xuất công nghiệp: sản xuất phụ tùng lắp ráp xe gắn máy hai bánh các loại
ỹ Đào tạo xuất khẩu lao động đi các nước
ỹ Kinh doanh xuất nhập khẩu vật tư thiết bị
Theo giấy phép kinh doanh, CIRI được phép hoạt động trong nhiều lĩnh vực. Nhưng qua thời gian hoạt động kinh doanh thì hai lĩnh vực đem lại hiệu quả cao cho công ty là: lĩnh vực lắp ráp sản xuất mô tô hai bánh, lĩnh vực kinh doanh vật tư thiết bị
Đầu năm 1998, CIRI được cấp phép nhập khẩu sản xuât, lắp ráp và nội địa hoá mô tô hai bánh dạng IKD. Công ty đã đầu tư lắp đặt một dây chuyền lắp ráp của tập đoàn ZONGSHEN- Trùng Khánh- Trung Quốc vơi tổng mức đầu tư 750.000 USD. Phương thức kinh doanh mô tô hai bánh dạng IKD đòi hỏi phải nhập khẩu linh kiện của nước ngoài và mua thiết bị, phụ tùng nội địa hóa trong nước. Các sản phẩm xe máy công ty chủ yếu mang nhãn hiệu như: Wana 110, Wake up C110...
Cơ cấu tổ chức sản xuất của công ty gồm : 01 xí nghiệp lắp ráp xe máy và 05 xưởng
Xí nghiệp lắp ráp xe máy
Xưởng sản xuất khung xe máy
Xưởng sản xuất lắp ráp giảm sóc, ly hộp
Xưởng sản xuất lắp ráp động cơ
Xưởng sản xuất lắp ráp đồng hồ công tơ mét, bộ dây điện
Xưởng sản xuất các sản phẩm nhựa.
1.3. Đặc điểm tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh
Quản lý sản xuất kinh doanh trong công ty đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống tổ chức điều hành sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo cho quá trình này diễn ra một cách nhịp nhàng. Để điều hành sản xuất, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng mong muốn có một bộ máy quản lý phù hợp, tiết kiệm chi phí mà vẫn đem lại hiệu quả cao, công ty Quan Hệ Quốc Tế Đầu Tư Sản Xuất đang từng bước hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý sản xuất từ phân xưởng đến các phòng ban dưới sự điều hành trực tiếp của ban giám đốc công ty.
Tổ chức bộ máy của công ty được tổ chức theo cơ cấu phòng ban chuyên trách thống nhất: quyền lực tập trung ở giám đốc và ban lãnh đạo. Chịu trách nhiệm chính và quản lý hoạt động của mỗi phòng ban là trưởng phòng. Giữa các phòng ban có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để giải quyết công việc chung của công ty như sau:
Đứng đầu trong công ty là ban giám đốc gồm có: Giám đốc là người điều hành hoạt độ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32635.doc