Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần may 10

CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.1 Vai trò của tài chính doanh nghiệp 1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp Doanh nghiệp là một tổ chức độc lập, có tư cách pháp nhân được thành lập để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục tiêu tối đa hoá, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp. Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, doanh nghiệp được phân loại theo nhiều hình thức. Tuy nhiên trong phạm vi tài chính và các quan hệ tài chính, d

doc107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần may 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh nghiệp được phân loại theo hình thức sở hữu. Với cách phân loại này doanh nghiệp được phân loại thành thành các loại sau: Công ty cổ phần Công ty TNHH Doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Doanh nghiệp liên doanh Mỗi loại hình doanh nghiệp có các hình thức tài chính quản lý tài chính khác nhau nhưng nội dung và bản chất của hoạt động tài chính và giá trị tài chính cơ bản là giống nhau. 1.1.2 Khái niệm tài chính doanh nghiệp Tài chính là một hệ thống các mối quan hệ tiền tệ nảy sinh trong quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh và thực hiện các chức năng quản lý nhà nước của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ. Mức độ phát triển của tài chính trong doanh nghiệp phụ thuộc vào tính chất và nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế tập trung bao cấp đã sản sinh ra cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp là bao cấp. Nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện hàng loạt các quan hệ tài chính mới. Do đó, tính chất và phạm vi của hoạt động tài chính doanh nghiệp cũng có những thay đổi đáng kể. Tài chính doanh nghiệp là tài chính của những tổ chức, các đơn vị sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân. Tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, ở đó diễn ra các quá trình sản xuất kinh doanh như: đầu tư, cung ứng đầu vào, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ ra thị trường. Trong đó, sự chu chuyển của vốn luôn gắn liền với sự vận động của tài sản, vật tư, hàng hóa. Như vậy, xét về mặt bản chất thì các mối quan hệ tiền tệ và các quỹ tiền tệ là hình thức biểu hiện bề ngoài của tài chính doanh nghiệp, mà đằng sau nó ẩn dấu những quan hệ kinh tế phức tạp, những luồng tiền chuyển dịch giá trị gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Sự vận động đó không chỉ bó hẹp trong một chu kỳ kinh doanh mà trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan đến tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Hay nói cách khác, sự vận động của nó làm phát sinh các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong các khâu của quá trình tái sản xuất giữa doanh nghiệp và các đối tác trong nền kinh tế thị trường. Những quan hệ đó tuy chứa đựng những nội dung kinh tế khác nhau nhưng chúng có những đặc trưng giống nhau, luôn luôn tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Các quan hệ kinh tế đó là: Nhóm quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với nhà nước Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các thị trường khác: thị trường lao động, thị trường hàng hóa dịch vụ…. Quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp Các quan hệ tài chính khác. Từ đó ta có thể khẳng định rằng: Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận. 1.1.3 Vai trò của tài chính doanh nghiệp Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tài chính doanh nghiệp có các vai trò chủ yếu sau: Đảm bảo huy động đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện mọi quá trình kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải có vốn kinh doanh. Vai trò của tài chính doanh nghiệp được thể hiện là xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tiếp đó phải lựa chọn các phương pháp và hình thức huy động vốn để hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện một cách nhịp nhàng, liên tục với chi phí huy động vốn tối ưu. Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng như việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư, chọn ra dự án đầu tư tối ưu, lựa chọn và huy động vốn có lợi nhất cho hoạt động kinh doanh, bố trí cơ cấu vốn hợp lý, sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh. Đòn bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh. Vai trò này của tài chính doanh nghiệp được thể hiện thông qua việc tạo sức mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động, vật tư, dịch vụ, đồng thời xác định giá bán hợp lý khi tiêu thụ hàng hóa, cung cấp dịch vụ và thông qua hoạt động phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ khen thưởng, quỹ lương, thực hiện các hợp đồng kinh tế. Giám sát, kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình tài chính của doanh nghiệp là một tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu tài chính mà các nhà quản lý doanh nghiệp dễ dàng nhận thấy thực trạng quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những vướng mắc, tồn tại để từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nhằm đạt tời các mục tiêu đã đinh. Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động trước hết là phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, cơ chế tổ chức tài chính doanh nghiệp và các nguyên tắc cần quán triệt trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp. 1.2 Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh. Phân tích tài chính là một hệ thống các phương pháp, công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin trong quản lý doanh nghiệp nhằm xem xét, kiểm tra, đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp cũng như hiệu quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính có các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp. Thông qua một hệ thống các phương pháp, công cụ, kỹ thuật phân tích giúp cho người sử dụng thông tin có thể vừa đánh giá tổng hợp toàn diện khái quát, vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp để qua đó có thể đánh giá chính xác sức mạnh tài chính và triển vọng phát triển của doanh nghiệp. Vì thế phân tích tài chính mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng. Mỗi nhóm đối tượng này có nhu cầu thông tin khác nhau do vậy họ sẽ quan tâm đến những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của doanh nghiệp. 1.2.1 Đối với nhà quản trị doanh nghiệp Mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý là lợi nhuận và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Vì vậy hơn ai hết các nhà quản lý cần đầy đủ thông tin để nhận biết, đánh giá khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào có hiệu quả hay không, cơ cấu vốn, khả năng thanh toán... thông qua việc phân tích tài chính. Đây chính là cơ sở để các nhà quản lý doanh nghiệp đưa ra các quyết định cần thiết có hiệu quả để thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp và là cơ sở để định hướng cho ban giám đốc, giám đốc tài chính xây dựng các kế hoạch đầu tư, dự báo tài chính, kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp. 1.2.2 Đối với các nhà đầu tư Các nhà đầu tư ở đây chính là các tổ chức và cá nhân giao vốn cho doanh nghiệp sử dụng và sẽ chấp nhận chịu chung mọi rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải. Thu nhập của họ bao gồm: tiền chia lợi tức và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư, hai yếu tố chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp. Đối với các nhà đầu tư lớn họ thường dựa vào các nhà chuyên môn, các chuyên gia phân tích tài chính, các nhà nghiên cứu kinh tế tài chính để phát triển và làm dự báo về triển vọng phát triển của doanh nghiệp, đánh giá cổ phiếu của doanh nghiệp, khả năng đảm bảo mức lợi tức mà họ yêu cầu. Đối với các nhà đầu tư hiện tại cũng như các nhà đầu tư tiềm năng thì mối quan tâm của họ trước hết là việc đánh giá những đặc điểm đầu tư của doanh nghiệp. Họ quan tâm tới an toàn trong đầu tư và mức lợi tức kỳ vọng được phản ánh thông qua điều kiện tài chính của doanh nghiệp và tình hình hoạt động tài chính. Các nhà đầu tư này quan tâm tới phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lời của doanh nghiệp, khả năng tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp, những rủi ro mà doanh nghiệp có thể phải hứng chịu. Thông qua đó để họ đưa ra quyết định đầu tư một cách có hiệu quả nhất: có nên bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp hay không, nếu đầu tư thì với khối lượng bao nhiêu và trong thời gian bao lâu? 1.2.3 Đối với người cho vay, nhà cung cấp vật tư, hàng hóa, dịch vụ, các cơ quan quản lý nhà nước, và các đối tượng khác. Người cho vay là các ngân hàng, các công ty tài chính, tổ chức tín dụng ... họ phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng. Khi quyết định cho vay thì một trong những vấn đề mà người cho vay cần xem xét là doanh nghiệp thực sự có nhu cầu hay không? khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào? Đối với các nhà cung cấp vật tư, hàng hóa, dịch vụ, họ phải quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua trả chậm hàng hóa hay không, họ cần thiết phải nắm thông tin về khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại cũng như trong tương lai …. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước như cơ quan thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh… Họ phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có đúng chính sách chế độ và luật pháp không, tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước để đề ra các biện pháp quản lý phù hợp. Người lao động cũng quan tâm đến các thông tin về tình hình tài chính doanh nghiệp để đánh giá triển vọng của nó trong tương lai. Những người đi tìm việc đều có nguyện vọng được làm việc ở những công ty có triển vọng sáng sủa với tương lai lâu dài để hy vọng có mức lương tương xứng và chỗ làm việc ổn định. Do vậy, một công ty có tình hình tài chính và tương lai ảm đạm đang đứng trên bờ vực phá sản sẽ không thu hút được người lao động. Các đối thủ cạnh tranh cũng quan tâm đến khả năng sinh lợi, doanh thu bán hàng và các chỉ tiêu tài chính khác trong điều kiện có thể để tìm biện pháp cạnh tranh với công ty. Các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung còn được cả các nhà nghiên cứu, các sinh viên kinh tế quan tâm phục vụ cho việc nghiên cứu và học tập của họ. Tuy các đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của các doanh nghiệp dưới những góc độ khác nhau, song nhìn chung họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra các dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa. Bởi vậy, việc phân tích tình hình tài chính của các doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu nhất định sau: Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ các thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các nhà cho vay và những người sử dụng thông tin tài chính khác để giúp họ có những quyết định đúng đắn khi ra các quyết định đầu tư, quyết định cho vay. Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp cho các chủ công ty, các nhà đầu tư, các nhà cho vay và những người sử dụng thông tin khác trong việc đánh giá khả năng và tính chắc chắn của dòng tiền mặt vào, ra và tình hình sử dụng có hiệu quả nhất vốn kinh doanh, tình hình và khả năng thanh toán của công ty. Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp những thông tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, sự kiện và các tình huống làm biến đổi các nguồn vốn và các khoản nợ của các công ty. Tóm lại, phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là một công việc có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản trị doanh nghiệp. Nó không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân doanh nghiệp, mà còn cần thiết cho các chủ thể khác có liên quan đến doanh nghiệp. Phân tích tài chính doanh nghiệp 1.3.1 Quy trình phân tích tài chính Để có được những thông tin đầy đủ chính xác cho người sử dụng thì phân tích tài chính cần phải tổ chức thực hiện theo một quy trình hoàn thiện với nguồn thông tin đầy đủ, phương pháp và nội dung phân tích khoa học. Quy trình phân tích tài chính có thể thực hiện theo 4 bước sau: Bước 1: Lập kế hoạch phân tích: Nội dung phân tích: cần xác định rõ các vấn đề được phân tích: có thể là toàn bộ hoạt động tài chính hoặc chỉ là một số vấn đề cụ thể nào đó như cơ cấu vốn, khả năng thanh toán…. Đây là cơ sở để xây dựng đề cương cụ thể để tiến hành phân tích. Phạm vi phân tích: Có thể là toàn đơn vị hoặc một số đơn vị được chọn làm điểm để phân tích, tùy yêu cầu và thực tiễn quản lý mà xác định nội dung và phạm vi phân tích thích hợp. Thời gian ấn định trong kế hoạch phân tích bao gồm cả thời gian chuẩn bị và thời gian tiến hành công tác phân tích. Trong kế hoạch phân tích cần phân công trách nhiệm cho các bộ phận trực tiếp thực hiện và bộ phận phục vụ công tác phân tích, cũng như các hình thức hội nghị phân tích nhằm thu thập nhiều ý kiến, đánh giá đúng thực trạng và phát hiện đầy đủ tiềm năng giúp doanh nghiệp phấn đấu đạt kết quả cao trong kinh doanh. Bước 2: Thu thập và xử lý thông tin: Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin, từ thông tin trong nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài, từ những thông tin số lượng đến những thông tin giá trị, từ những thông tin lượng hóa được đến những thông tin không lượng hóa được. Thông tin tài chính: Để có được nguồn thông tin này cần thu thập các kế hoạch tài chính chi tiết và tổng hợp, các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị, các tài liệu kế toán chi tiết có liên quan. Thông tin phi tài chính: Sự phát triển của doanh nghiệp do tác động của nhiều nhân tố trong và ngoài doanh nghiệp. Phân tích tài chính là việc phân tích hướng tới tương lai của doanh nghiệp. Bởi vậy, ngoài các thông tin tài chính hiện tại và quá khứ, việc phân tích tài chính doanh nghiệp phải sử dụn nhiều thông tin phí tài chính khác: thông tin về môi trường chung về kinh tế, chính trị, pháp luật…, thông tin về ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động, thông tin về doanh nghiệp. + Các thông tin chung: là những thông tin về môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp có liên quan đến cơ hội kinh doanh của một doanh nghiệp: sự tăng trưởng hay suy thoái của một nền kinh tế, sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, biện pháp giúp đỡ tài chính, chính sách thuế, chính sách tiền tệ …. + Các thông tin theo ngành kinh tế ( theo lĩnh vực hoạt động): Đặt sự phát triển của doanh nghiệp trong mối liên hệ với hoạt động chung của ngành kinh doanh. Nghiên cứu theo ngành cần thấy được đặc điểm kinh doanh của ngành có liên quan đến: Sản phẩm, công nghệ, xu thế biến động của ngành ( tăng trưởng, suy thoái hay bão hòa), áp lực trong cạnh tranh + Các thông tin về doanh nghiệp: * Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, hình thức sở hữu vốn, hình thức hoạt động, thâm niên, quy mô của doanh nghiệp. * Cơ cấu tổ chức: Giá trị của doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ với giá trị của những người làm việc tại doanh nghiệp. Đặc biệt doanh nghiệp nhỏ càng phụ thuộc vào những người làm việc tại doanh nghiệp. * Chủ doanh nghiệp: Cần tìm kiếm thông tin về phương diện cá nhân như tuổi, tình hình gia đình, nguồn gốc đào tạo, trách nhiệm, nhân cách đạo đức, thái độ …. Về người thừa kế như khung cán bộ hay sự hình thành ê kíp lãnh đạo, việc tuyển lựa đề bạt. Về nhân viên như kết cấu lao động, trình độ lành nghề, bầu không khí tập thể, việc thay thế nhân viên…. * Mục tiêu của nhà lãnh đạo: Mục tiêu tăng trưởng mạnh doanh thu sẽ kéo theo tăng chi phí quảng cáo, tăng phải thu do tăng điều kiện ưu đãi để khuyến khích bán hang, tăng lượng hàng tồn kho để đáp ứng các đơn đặt hàng lớn…. * Sản phẩm của doanh nghiệp: Mặt hàng, chất lượng, vị trí của sản phẩm trên thị trường, mức độ đa dạng hóa sản phẩm trong doanh nghiệp, chu kỳ sống của sản phẩm đó. * Thị trường của các sản phẩm trong doanh nghiệp mang tính chất quốc tế hay nội địa, thị phần mà doanh nghiệp chiếm lĩnh cũng như tính ổn định của thị trường…. * Chính sách của doanh nghiệp để tăng cường và bảo vệ vị trí của mình: Chính sách dự trữ vật tư, hàng hóa, chính sách bán hàng, chính sách giá cả, chính sách khách hàng, chính sách quảng cáo….. Chất lượng công tác phân tích phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của các thông tin thu thập được. Bởi vậy, trước khi phân tích, nhà phân tích phải kiểm tra tính hợp pháp của tài liệu chứa đựng thông tin (trình tự lập, ban hành, người lập, cấp thẩm quyền phê duyệt…. ) cũng như độ tin cậy của nguồn thông tin thu thập được: tính nhất trí của cùng một thông tin kế toán trên các tài liệu khác nhau, tính trung thực hợp lý của các thông tin kế toán…. Phạm vi kiểm tra không chỉ giới hạn ở các tài liệu trực tiếp làm căn cứ phân tích mà cả các tài liệu khác có liên quan, đặc biệt là các tài liệu gốc. Bước 3: Xác định những biểu hiện đặc trưng: Tính toán các tỷ số tài chính, lập các bảng biểu theo từng nội dung đã đặt ra, so sánh với các chỉ số kỳ trước, các chỉ số của ngành, của các doanh nghiệp khác trong cùng một lĩnh vực hoạt động. Trên cơ sở đó, đánh giá khái quát mặt mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp, vạch ra những vấn đề, những trọng tâm cần được phân tích. Bước 4: Phân tích: Phân tích các nhân tố, xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến các chỉ tiêu phân tích. Phân tích các nguyên nhân thành công và nguyên nhân thất bại. Bước 5: Tổng hợp và dự đoán: Tổng hợp kết quả, rút ra nhận xét, dự báo xu hướng phát triển. Đề xuất các giải phát tài chính cũng như các giải pháp khác nhằm thực hiện mục tiêu. 1.3.2 Tài liệu cơ bản được sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử dụng các thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Mặt khác, các doanh nghiệp còn có nghĩa vụ cung cấp những thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính – được hình thành thông qua xử lý các báo cáo kế toán chủ yếu là: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính. 1.3.2.1 Bảng cân đối kế toán (balance sheet) Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành nên tài sản đó của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Kết cấu của bảng cân đối kế toán gồm hai phần: Phần tài sản và phần nguồn vốn. Phần tài sản: Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu ở phần TS phản ánh số TS hiện có của DN ở thời điểm lập báo cáo, còn xét về mặt pháp lý, nó phản ánh vốn thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản lý lâu dài của DN. Phần nguồn vốn: Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu thuộc phần NV phản ánh các nguồn hình thành nên các TS của DN, còn xét về phương diện pháp lý, các chỉ tiêu này phản ánh trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với các đối tượng đầu tư vốn ( nhà nước, ngân hàng, cổ đông) cũng như với khách hàng thông qua công nợ phải trả. Nhìn vào bảng cân đối kế toán có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. 1.3.2.2 Báo cáo kết quả kinh doanh (profit and loss statement) Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính phản ánh toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định và những nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải thực hiện với nhà nước. Dựa vào số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh, người sử dụng thông tin có thể kiểm tra, phân tích và đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, so sánh với các kỳ trước và với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành để nhân biết khái quát kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ và xu hướng vận động, nhằm đưa ra các quyết định quản lý, quyết định tài chính phù hợp. Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết tình hình doanh thu, chi phí và lợi nhuận của một doanh nghiệp trong một kỳ kế toán đã qua. 1.3.2.3 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Cash flow statement) BCLCTT là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Nếu BCĐKT cho biết những nguồn lực, của cải (tài sản) và nguồn hình thành của những tài sản đó và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết thu nhập và chi phí phát sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì BCLCTT được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến các luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Theo chuẩn mực kế toán 24 quy định: Một BCLCTT phải được chia thành ba phần: - Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh - Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư - Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính 1.3.2.3 Thuyết minh báo cáo tài chính (Descriptive financial statement) Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp, được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày chi tiết được. Nội dung của báo cáo: - Trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp. - Nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp lựa chọn để áp dụng. - Tình hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn vốn. - Phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và kiến nghị của doanh nghiệp. 1.3.3 Phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Về lý thuyết, có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp nhưng thực tế người ta thường sử các phương pháp sau: 1.3.3.1 Phương pháp so sánh Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Phương pháp này dùng để xây dựng xu hướng phát triển và mức độ biến động của các chỉ tiêu phát triển. Để có thể áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện: phải có sự thống nhất về thời gian, không gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán nghĩa là các chỉ tiêu phải được tính trên cùng một khoảng thời gian hạch toán, phải cùng phản ánh một nội dung kinh tế, phải cùng một phương pháp tính toán, phải cùng một đơn vị đo lường và các chỉ tiêu cần phải quy đổi về cùng một quy mô và điều kiện kinh doanh tương đương nhau. Tùy theo từng mục đích phân tích mà nhà phân tích sẽ lựa chọn gốc so sánh cho phù hợp. Gốc so sánh được lựa chọn có thể là gốc về mặt thời gian hoặc không gian. Tuỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch. Giá trị so sánh có thể lựa chọn là số tương đối hoặc số tuyệt đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh gồm: So sánh kỳ này với kỳ trước để thấy rõ hơn xu thế thay đổi về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. So sánh giữa số liệu thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. So sánh số liệu của doanh nghiệp với số liệu của doanh nghiệp khác hoặc với số liệu trung bình của ngành để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp là tốt hay xấu, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp. Đây là một phương pháp đơn giản, dễ tính toán, dễ thực hiện. Sử dụng phương pháp này giúp cho các nhà phân tích đánh giá được vị thế của doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp, xem xét việc thực hiện kế hoạch đã đề ra. Thông qua đó nhà quản lý đưa ra được kế hoạch chiến lược hoạt động cho thời gian tới. Tuy nhiên kết quả thu được khi sử dụng phương pháp này chưa phản ánh một cách tổng quát nhất thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Do vậy khi tiến hành phân tích tài chính nhà phân tích thường sử dụng phối hợp nhiều phương pháp. 1.3.3.2 Phương pháp tỷ lệ. Là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Để áp dụng phương pháp này cần xác định được các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình trạng tài chính của doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với tỷ số tham chiếu. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ từng bộ phận của hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau tùy theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ cho mục tiêu phân tích của mình. 1.3.3.3 Phương pháp phân tích tài chính Dupont Phương pháp Dupont được công ty Dupont của Mỹ đưa vào sử dụng trong phân tích tài chính lần đầu tiên vào khoảng chiến tranh thế giới thứ nhất. Ngày nay được sử dụng phổ biến trên toàn thế giới. Phương pháp Dupont cho biết mối quan hệ tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính đặc trưng. Từ một chỉ tiêu tổng thể tách thành nhiều chỉ tiêu bộ phận. Qua đó, nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Hai tỷ lệ phổ biến được dùng để phân tích là ROA và ROE. Ví dụ khi phân tích ROA: ROA = LN (trước) sau thuế = LN (trước) sau thuế X DT và TN khác TTSbq DT và TN khác TTSbq ROA phụ thuộc vào 2 yếu tố: lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp trên doanh thu và hiệu suất sử dụng tổng tài sản. Sự phân tích cho phép xác định được nguồn gốc làm tăng hay giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. 1.3.4 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 1.3.4.1 Phân tích khái quát về môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường ngành Nhà phân tích phải phát hiện những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô, ngành nghề kinh doanh từ đó đánh giá sơ bộ về môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp như thế nào? Xác định xu hướng phát triển, nguy cơ cũng như cơ hội đối với doanh nghiệp. Phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp 1.3.4.2.1 Phân tích khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các cân bằng trên bảng cân đối kế toán. Bảng cân đối kế toán cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại những thời điểm nhất định, nó bao gồm hệ thống các chỉ tiêu tài chính phát sinh phản ánh từng nội dung tài sản và nguồn vốn. Như vậy, dựa vào số liệu trên bảng cân đối kế toán ta có thể phân tích được kết cấu nguồn vốn và tài sản của doanh nghiệp xem xét sự tăng giảm của tài sản và nguồn vốn để phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn. Để phân tích kết cấu nguồn vốn và tài sản trước hết ta xem xét quy mô của từng loại nguồn vốn và tài sản thông qua giá trị tuyệt đối của chúng, sau đó tính tỷ trọng của từng loại tài sản và nguồn vốn. Qua đó đánh giá được cơ cấu của từng loại tài sản và nguồn vốn chiếm bao nhiêu % trong tổng nguồn. Ta tính trên cả cột đầu năm và cuối kỳ để xem xét kết cấu nguồn vốn và tài sản của doanh nghiệp trong năm có ổn định không. Ta cũng có thể so sánh kết cấu nguồn vốn và tài sản của doanh nghiệp qua một vài năm để xem xét cụ thể biến động của chúng qua cac năm. Căn cứ vào mối quan hệ trên bảng cân đối kế toán, các nhà phân tích có thể phân tích được tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu sau: Thứ nhất: Xác định vốn lưu động thường xuyên: Vốn lưu động thường xuyên là phần chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn và tài sản dài hạn. Đây là một phần vốn ổn định sử dụng cho việc tài trợ tài sản ngắn hạn. Vốn lưu động thường xuyên được xác định theo 2 cách: Cách 1: Vốn lưu động thường xuyên=(Nguồn vốn dài hạn) – (Tài sản dài hạn) Cách 2: Vốn lưu động thường xuyên=(Tài sản ngắn hạn) – (Nguồn vốn ngắn hạn) Nếu VLĐTX>0, chứng tỏ công ty có một phần nguồn vốn dài hạn đầu tư cho tài sản ngắn hạn, điều này đem lại cho công ty một nguồn vốn tài trợ ổn định, một dấu hiệu an toàn, một quyền độc lập nhất định. Nếu VLĐTX<0, chứng tỏ công ty có một phần tài sản dài hạn được tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn, công ty kinh doanh với cơ cấu vốn rất mạo hiểm. Do nguồn vốn ngắn hạn chỉ được sử dụng trong thời gian ngắn, do vậy khi đến hạn doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, hoặc phải huy động vốn với chi phí cao, hay chấp nhận bán tài sản cố định của doanh nghiệp, thu hẹp quy mô tài sản. Tuy nhiên nếu rủi ro chưa xảy ra thì doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí sử dụng vốn. Khi phân tích VLĐTX, ta so sánh VLĐTX giữa các kỳ để thấy được sự biến động của nó. Theo công thức 1, ta thấy VLĐTX chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố là nguồn vốn dài hạn và tài sản dài hạn. Bất cứ sự biến động nào của VLĐTX đều cần lý do để giải thích, cần đặc biệt chú ý đối với các trường hợp vốn dài hạn giảm, tài sản cố định giảm hoặc tài sản cố định tăng nhưng làm mất cân đối tình hình tài chính của công ty. Thứ hai: Xác định nhu cầu vốn lưu động: Nhu cầu vốn lưu động là nhu cầu vốn phát sinh trong quá trình sản suất kinh doanh của công ty nhưng chưa được tài trợ bởi bên thứ 3 (người bán, nhận thầu, ngân sách …) trong quá trình kinh doanh đó. N/cVLĐ được xác định theo công thức: Nhu cầu vốn lưu động=(Tài sản kinh doanh) – (Nợ kinh doanh) Khi N/cVLĐ>0, tức là TSKD > NKD, cho thấy công ty có một phần tài sản lưu động chưa được tài trợ bởi bên thứ 3. Khi N/cVLĐ<0, tức là TSKD < NKD, chứng tỏ toàn bộ phần vốn chiếm dụng từ bên thứ 3 lớn hơn toàn bộ nhu cầu vốn ngắn hạn phát sinh trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ ba: Xác định vốn bằng tiền: Vốn bằng tiền có thể được xác định theo 2 cách: Cách 1: Vốn bằng tiền = (Ngân quỹ có) – (Ngân quỹ nợ) VBT dương hay ngân quỹ có lớn hơn ngân quỹ nợ, chứng tỏ công ty chủ động ._.về vốn bằng tiền. Ngược lại VBT âm thể hiện công ty bị động về VBT. Cách 2: Vốn bằng tiền = (Vốn lưu động thường xuyên) – (Nhu cầu vốn lưu động) VBT>0, với N/cVLĐ dương chứng tỏ VLĐTX thỏa mãn N/cVLĐ. Ngược lại, công ty có quá nhiều tiền do chiếm dụng được vốn từ bên thứ 3 nếu N/cVLĐ âm. VBT0, VLĐTX>0, chứng tỏ VLĐTX chỉ tài trợ được một phần N/cVLĐ, phần còn lại công ty phải dựa vào tín dụng ngắn hạn ngân hàng, phần này càng nhiều, doanh nghiệp càng phụ thuộc vào ngân hàng. 1.3.4.2.2 Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh Số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh cung cấp những thông tin tổng hợp về phương thức kinh doanh, việc sử dụng các tiềm năng vốn, lao động kỹ thuật, kinh nghiệm của doanh nghiệp và chỉ ra rằng hoạt động kinh doanh đó đem lại lợi nhuận hay gây ra tình trạng lỗ vốn. Nó không chỉ cung cấp số liệu về hoạt động kinh doanh mà DN đã thực hiện trong kỳ mà còn dự báo các hoạt động của DN trong tương lai. Thực chất, phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của DN là phân tích thu nhập và chi phí. Thứ nhất: Phân tích doanh thu và thu nhập khác của doanh nghiệp: Về mặt lý thuyết một DN thông thường cần có nguồn thu nhập chủ yếu, thường xuyên và ổn định là DTT từ bán hàng và cung cấp dịch vụ. Các khoản thu nhập khác từ hoạt động tài chính và hoạt động khác chỉ nên mang tính chất bổ sung cho hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ. Khi phân tích DT, trước hết nhà phân tích cần xác định rõ được nguồn gốc các khoản thu nhập trong kỳ của DN, từ đó đánh giá tầm quan trọng, sự ổn định cũng như khả năng tăng trưởng của chúng trong tương lai. Để làm được điều đó, nhà phân tích có thể tách riêng số liệu về DT và thu nhập khác của DN từ báo cáo KQKD sau đó xác định tỷ trọng từng loại DT hay thu nhập khác trong tổng số thu nhập của DN và có thể so sánh cơ cấu thu nhập của năm hiện tại với các năm trước hay so sánh với cơ cấu thu nhập của doanh nghiệp khác cùng ngành. Thứ hai: Phân tích tình hình quản lý chi phí của DN: Phân tích chi phí của DN để xem xét quá trình phát sinh chi phí, xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi các yếu tố chi phí để từ đó cắt giảm những chi phí không cần thiết nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm…. Việc quản lý chi phí để làm căn cứ xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét mức độ hiệu quả, mức độ tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh của DN. Phân tích chỉ tiêu trong báo cáo kết quả kinh doanh chúng ta chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh. So sánh chỉ tiêu kỳ này với kỳ trước để xem xét kết quả hoạt động kinh doanh của DN năm nay có tốt hơn năm trước không? Thứ ba: Phân tích lợi nhuận: Lợi nhuận là kết quả cuối cùng trong hoạt động kinh doanh của DN. Nó là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Một khi nhà phân tích đã hiểu rõ về sự thay đổi của doanh thu và chi phí thì sẽ có thể đánh giá được sự thay đổi của lợi nhuận, biết được sự thay đổi đó là tốt hay xấu, phản ánh những thay đổi mang tính bản chất trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hay chỉ là kết quả của những tác động mang tính ngoại lai, và triển vọng của nó như thế nào. 1.3.4.2.3 Phân tích khả năng thanh toán ngắn hạn Khả năng thanh toán là năng lực đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán của công ty. Với dòng tiền đủ lớn, công ty có thể trang trải cho các nghĩa vụ tài chính, nhờ đó không lâm vào tình trạng vỡ nợ hay kiệt quệ về tài chính. Chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán phổ biến nhất là hệ số thanh toán ngắn hạn và hệ số thanh toán nhanh. Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn: Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn = Tài sản ngắn hạn Nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn đo lường khả năng mà các tài sản ngắn hạn có thể chuyển đổi thành tiền để hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn. Nếu hệ số này cao có thể đem lại sự an toàn về khả năng thanh toán cao so với nghĩa vụ phải thanh toán. Nếu gặp khó khăn tài chính, công ty có thể không còn khả năng thanh toán đúng hạn các khoản phải trả hoặc cần mở rộng hạn mức tín dụng tài ngân hàng. Kết quả là, nợ ngắn hạn sẽ tăng nhanh hơn tài sản ngắn hạn, chỉ số thanh toán ngắn hạn có thể giảm xuống. Đây có thể là tín hiệu đầu tiên của sự trục trặc về tài chính. Chỉ số này chỉ thể hiện khả năng thanh toán tại một thời điểm nhất định, vì vậy khi nghiên cứu cũng cần phải tính toán, thống kê trong một khoảng thời gian đủ dài để có cái nhìn đầy đủ về lịch sử vận hành và phát triển của công ty. Ngoài ra, cũng có thể so sánh chỉ số này giữa các công ty trong cùng ngành để đánh giá hiệu quả tương đối của công ty. Hệ số khả năng thanh toán nhanh tương đối. Hệ số này đo lường khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của công ty bằng việc chuyển đổi các tài sản ngắn hạn không kể hàng tồn kho, do không phải lúc nào, nguyên vật liệu, thành phẩm … hay quá trình từ dự trữ chuyển thành tiền cũng được diễn ra ngay nhanh chóng mà phải trải qua một thời gian nhất đinh. Hệ số khả năng thanh toán nhanh tương đối = Tiền + ĐTTC ngắn hạn + Phải thu Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này được đánh giá là tin cậy hơn chỉ tiêu khả năng thanh toán nợ ngắn hạn vì nó đã loại bỏ ra các tài sản chậm chuyển thành tiền. Nhìn chung, các chủ nợ thích cho vay đối với các công ty có chỉ tiêu này lớn hơn hoặc bằng 1. Hệ số khả năng thanh toán ngay. Trong một số trường hợp, tuy công ty có hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và hệ số khả năng thanh toán nhanh tương đối cao nhưng vẫn có thể mất khả năng thanh toán các nghĩa vụ nợ đến hạn do các khoản phải thu chưa thu hồi được. Vì vậy, muốn biết khả năng thanh toán nhanh tức thì của công ty tại thời điểm nghiên cứu, nhà phân tích có thể sử dụng chỉ tiêu khả năng thanh toán ngay Hệ số khả năng thanh toán ngay = Tiền + ĐTTC ngắn hạn Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán ngay tức thì của công ty bằng tiền và các chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao, không bị chi phối bởi thời gian chuyển đổi hàng tồn kho và các khoản phải thu. Chỉ tiêu này đánh giá chính xác hơn khả năng thanh toán của công ty vì đã loại bỏ đi được các khoản phải thu khó đòi hoặc không thể thu hồi. Hệ số khả năng thanh toán lãi tiền vay: Hệ số khả năng thanh toán lãi tiền vay = Lợi nhuận trước thuế + Chi phí lãi vay Chi phí lãi vay Hệ số này nói lên trong kỳ doanh nghiệp đã tạo ra lợi nhuận gấp bao nhiêu lần lãi phải trả tiền vay. Thông thường hệ số này càng cao thì rủi ro mất khả năng thanh toán lãi tiền vay càng thấp và ngược lại. Ngoài ra để đánh giá khả năng thanh toán của DN có thể dung các chỉ tiêu: Hệ số vòng quay khoản phải thu Hệ số vòng quay hàng tồn kho Phương pháp phân tích chủ yếu là so sánh hệ số khả năng thanh toán của doanh nghiệp giữa các kỳ khác nhau, hệ số khả năng thanh toán của DN với các DN khác trong ngành, hệ số trung bình ngành. Tuy nhiên, để có kết luận đúng về khả năng thanh toán của doanh nghiệp cần phải có cách nhìn toàn diện, phải thấy được sự tác động của các nhân tố làm tăng hay giảm các chỉ tiêu. 1.3.4.2.4Phân tích các chỉ số về cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư Cơ cấu tài chính đề cập tới việc công ty sử dụng nguồn tài trợ từ các khoản vay thay cho vốn cổ phần. Các tỷ lệ này được dùng để đo lường vốn góp của các chủ sở hữu với công ty so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với công ty và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số VCSH của công ty để xem xét mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho chủ nợ về các món nợ. Nếu CSH công ty chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro trong sản xuất kinh doanh chủ yêu do chủ nợ phải gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, chủ công ty vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành công ty, nếu công ty thu được lợi nhuận từ tiền vay lớn hơn chi phí sử dụng vốn thì lợi nhuận dành cho chủ lợi nhuận sẽ gia tăng đáng kể. Đòn bẩy tài chính là công cụ để khuếch đại tỷ xuất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, khi doanh nghiệp làm ăn có lãi. Thêm vào đó, vay nợ cũng là một hình thức tài trợ vốn quan trọng, tạo lợi thế lá chắn thuế cho công ty vì chi phí lãy vay là một khoản chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên khi doanh nghiệp sử dụng càng nhiều nợ thì càng có nguy cơ mất khả năng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ, dẫn tới các rủi ro tài chính và nguy cơ phá sản. Khi sử dụng nợ, chủ nợ và chủ sở hữu công ty có thể gặp phải những xung đột về quyền lợi. Chủ nợ có thể muốn công ty thực hiện các khoản đầu tư ít rủi ro hơn so với mong muốn của những người đầu tư vào cổ phiếu công ty. Cơ cấu tài chính được tính toán như sau: Hệ số nợ: Hệ số nợ = Nợ phải trả Tổng nguồn vốn Hệ số nợ nói lên trong tổng nguồn vốn của công ty, nguồn vốn từ bên ngoài là bao nhiêu phần, hay trong tổng tài sản hiện có của công ty, có bao nhiêu phần được hình thành từ vốn vay nợ. Hệ số này càng nhỏ thể hiện mức độ độc lập về tài chính của công ty càng cao và ngược lại. Hệ số tự tài trợ = Vốn chủ sơ hữu Tổng nguồn vốn Hệ số này dùng để đo lường sự góp vốn của chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Nếu hệ số nợ càng thấp thì hệ số tự tài trợ càng cao và ngược lại. Hệ số nợ dài hạn = Nợ dài hạn Vốn chủ sơ hữu Chỉ tiêu này phản ánh mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp đối với chủ nợ. Chỉ tiêu này càng cao thì rủi ro của DN càng tăng. Chỉ tiêu này cao hay thấp cũng tùy theo từng ngành hoạt động, những ngành có tỷ trọng tài sản cố định lớn thường có chỉ số này cao. Tuy nhiên theo kinh nghiệm, để hạn chế rủi ro tài chính, thường người cho vay chấp nhận chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 hay nợ dài hạn không vượt quá nguồn vốn chủ sở hữu. Khi chỉ tiêu này càng gần 1, doanh nghiệp càng ít có khả năng được vay thêm các khoản vay dài hạn. Hệ số tự tài trợ tài sản dài hạn = Vốn chủ sơ hữu Tài sản dài hạn bình quân Tỷ suất này lớn hơn 1, thể hiện khả năng tài chính vững mạnh. Ngược lại, nếu nhỏ hơn 1 có nghĩa là có 1 phần tài sản cố định được tài trợ bằng nguồn vốn vay, nợ. Nếu nguồn vốn đó là nguồn vốn ngắn hạn thì doanh nghiệp đang sử dụng cơ cấu vốn mạo hiểm. 1.3.4.2.5 Phân tích chỉ tiêu phản ánh năng lực hoạt động của tài sản Nhóm chỉ tiêu này được tính cho một thời kỳ thường là 1 năm dương lịch hoặc năm tài chính, cho thấy công ty khai thác và sử dụng các nguồn lực hiệu quả như thế nào. Nhóm chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu sau: - Vòng quay khoản phải thu và kỳ thu tiền bình quân: Vòng quay khoản phải thu = DTT về bán hàng và cung cấp dịch vụ Các khoản phải thu bình quân Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của công ty. Thông thường vòng quay các khoản phải thu càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu càng nhanh, công ty ít bị chiếm dụng vốn và ngược lại. Tuy nhiên không phải lúc nào vòng quay tăng cũng tốt và giảm là không tốt, phân tích biến động của doanh thu thuần và các khoản phải thu bình quân trong kỳ để có được cách nhìn nhận đúng đắn. Kỳ thu tiền bình quân = Số ngày trong kỳ phân tích Vòng quay các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để chuyển các khoản nợ của khách hàng thành tiền. Kỳ thu tiền bình quân tỷ lệ nghịch với vòng quay các khoản phải thu. Thông thường, kỳ thu tiền trung bình ngắn thì càng tốt, nó thể hiện thời gian công ty bị chiếm dụng vốn ngắn. - Vòng quay hàng tồn kho và số ngày một vòng quay hàng tồn kho: Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán Hàng tồn kho bình quân Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển hàng tồn kho, trong kỳ hàng tồn kho luân chuyển được bao nhiêu vòng, thể hiện hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Vòng quay hàng tồn kho thấp, thể hiện tốc độ luân chuyển hàng tồn kho chậm, tăng ứ đọng vốn ở hàng tồn kho, giảm hiệu quả sử dụng vốn, làm tăng nhu cầu vốn lưu động trong khi quy mô kinh doanh không thay đổi, làm giảm khả năng thanh toán nhanh tương đối. Giai đoạn hàng tồn kho bắt đầu từ khi doanh nghiệp bỏ tiền ra mua nguyên vật liệu, sản xuất xong sản phẩm cho đến quá trình lưu thông để bán sản phẩm. Số ngày một vòng quay hàng tồn kho = Số ngày kỳ phân tích Vòng quay tồn kho bình quân - Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = DTT về bán hàng và cung cấp dịch vụ Tài sản cố định bình quân Hiệu suất sử dụng tài sản cố định phản ánh trong một kỳ, một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Thông thường, hệ số này càng cao phản ánh sức sản xuất của tài sản cố định hiệu quả. Tuy nhiên, hệ số này cao nhưng là do doanh nghiệp thu hẹp quy mô sản xuất là không tốt. - Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = DTT về bán hàng và cung cấp dịch vụ Tổng tài sản bình quân Chỉ tiêu này thể hiện trong kỳ, một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập. Thông thường hệ số này càng cao chứng tỏ công ty sử dụng càng hiệu quả tài sản của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh và ngược lại. 1.3.4.2.6 Phân tích khả năng sinh lợi Đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý công ty. - Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: Tỷ suất lợi nhuận doanh thu = Lợi nhuận X 100% Doanh thu Tỷ suất này thể hiện trong 100 đồng doanh thu mà công ty thu được trong kỳ có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất này càng cao chứng tỏ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp càng tốt. Tỷ suất này được dùng để phản ánh khả năng sinh lời toàn bộ hoạt động, khả năng sinh lời hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời hoạt động bán hàng. - Khả năng sinh lời tổng tài sản: Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản (ROA) = Lợi nhuận (trước) sau thuế X 100% Tổng tài sản bình quân Tỷ suất này thể hiện trong 100 đồng tài sản hiện có tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế điều chỉnh trên tổng tài sản (ROA) = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay X 100% Tổng tài sản bình quân Chỉ tiêu này phản 100 đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập trước thuế và lãi vay. Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư. Vì nguồn vốn công ty sử dụng để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm cả vốn của chủ sở hữu và chủ nợ. - Khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu: Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE) = Lợi nhuận sau thuế X 100% Vốn chủ sở hữu bình quân Chỉ tiêu phản ánh 100 đồng vốn chủ sở hữu trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Thông thường các chỉ số trên càng cao thể hiện khả năng sinh lời càng tốt. Bên cạnh đó, nhà phân tích cần sử dụng phương pháp phân tích Dupont kết hợp với phương pháp thay thế liên hoàn và số chênh lệch để hiểu rõ nguyên nhân tạo nên những biến động đó. 1.2.4.2.7 Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ Đánh giá các nguồn thu và chi tiền Bước 1: Đánh giá xem nguồn thu và chi bằng tiền chủ yếu từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư hay hoạt động tài chính. Các nguồn tiền chính của một công ty có thể thay đổi theo giai đoạn tăng trưởng của nó. Trong dài hạn thì công ty phải tạo ra tiền từ hoạt động kinh doanh. Nếu dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty liên tục bị âm thì công ty cần phải vay tiền hoặc phát hành cổ phiếu (hoạt động tài chính) để tài trợ cho phần thiếu hụt. Nhưng cuối cùng thì các nhà tài trợ vốn này cũng phải nhận lại được tiền nhờ hoạt động kinh doanh, nếu không họ sẽ không tiếp tục cấp vốn cho doanh nghiệp. Tiền được tạo ra từ hoạt động kinh doanh có thể được dùng cho hoạt động tài chính và hoạt động đầu tư. Nếu công ty có những cơ hội kinh doanh hoặc cơ hội đầu tư khác tốt thì sử dụng tiền cho hoạt động đầu tư, nếu không thì nên trả lại vốn cho các nhà cấp vốn tức là hoạt động tài chính. Tóm lại phải xác định được dòng tiền thu và chi chính của doanh nghiệp là gì? , lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh có dương hay không và có đủ để tài trợ chi phí đầu tư hay không? Bước 2: Đánh giá các nhân tố chủ yếu của lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh. Nhà phân tích cần tìm hiểu các nhân tố quan trọng nhất quyết định dòng tiền từ hoạt động kinh doanh. Trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp gián tiếp, ta có thể xem xét sự tăng, giảm của các khoản phải thu, tồn kho, phải trả, … để biết xem công ty đang tạo ra tiền hay phải chi tiền cho hoạt động kinh doanh và tại sao. Việc so sánh giữa lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh với lợi nhuận sau thuế cho ta thấy chất lượng của lợi nhuận. Nếu một công ty có lợi nhuận sau thuế lớn mà dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh kém thì đó có thể là một dấu hiệu của chất lượng lợi nhuận thấp. Tóm lại, cần phải xem xét các yếu tố: Những nhân tố chính quyết định dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh cao hơn hay thấp hơn lợi nhuận sau thuế, lý do, và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh có ổn định không? Bước 3: Đánh giá nhân tố chủ yếu của lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư. Trong phần hoạt động đầu tư, nhà phân tích cần đánh giá từng khoản mục một. Mỗi khoản mục đều thể hiện hoặc là nguồn tiền, hoặc là sử dụng tiền của doanh nghiệp. Điều này cho phép ta hiểu được xem tiền đang được thu hay chi cho hoạt động gì. Nếu công ty thực hiện một khoản đầu tư lớn, ta cần biết xem tiền đầu tư được lấy từ đâu, từ hoạt động kinh doanh hay hoạt động tài chính. Bước 4: Đánh giá các nhân tố chủ yếu của lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính. Trong phần này nhà phân tích cần xem xét từng khoản mục để hiểu được xem công ty đang thu hút vốn hay hoàn trả vốn, cũng như bản chất của nguồn vốn là gì. Nếu mỗi năm công ty đều vay nợ thêm thì ta cần cân nhắc tới thời điểm đáo hạn nợ là bao giờ. Phần này cũng cho biết lượng cổ tức được chi trả cùng giá trị của cổ phiếu quỹ mà công ty mua lại. Đây chính là các cách thức hoàn trả vốn khác nhau cho chủ sở hữu của công ty. Các tỷ số dòng tiền Các tỷ số phản ánh kết quả hoạt động: Tỷ số dòng tiền trên tổng tài sản: tỷ số này cho biết bình quân mỗi đồng tài sản trong kỳ mang lại bao nhiêu đồng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh: Dòng tiền trên tổng tài sản = Dòng tiền thuần từ HĐKD Tổng tài sản bình quân Tỷ số dòng tiền trên vốn chủ sở hữu: Tỷ số này đo lường mức độ hiệu quả của việc sử dụng vốn chủ sở hữu để tạo ra tiền từ hoạt động kinh doanh. Nó cho biết bình quân cứ mỗi đồng vốn chủ sở hữu trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh. Dòng tiền trên vốn chủ sở hữu = Dòng tiền thuần từ HĐKD Vốn chủ sở hữu bình quân Tỷ số dòng tiền trên doanh thu thuần: là chỉ tiêu cho biết mỗi đồng doanh thu thuần từ bán hàng và cung cấp dịch vụ trong kỳ mang lại bao nhiêu đồng dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh. Dòng tiền trên doanh thu thuần = Dòng tiền thuần từ HĐKD DTT từ bán hàng và cung cấp dịch vụ Tỷ số dòng tiền trên lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh: phản ánh khả năng tạo tiền của hoạt động kinh doanh. Do lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh có thể gồm cả các khoản thu từ hoạt động tài chính nên có thể điều chỉnh lợi nhuận này cho phần thu nhập vào chi phí từ hoạt động tài chính. Dòng tiền trên LNT từ HĐKD = Dòng tiền thuần từ HĐKD LNT từ HĐKD Các tỷ số phản ánh khả năng thanh toán: Tỷ số khả năng trả nợ: phản ánh rủi ro tài chính và mức độ đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp nói chung nhìn từ giác độ dòng tiền. Tỷ số này cho biết trung bình mỗi đồng nợ phải trả của doanh nghiệp được đảm bảo thanh toán bởi bao nhiêu đồng tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh. Khả năng trả nợ = Dòng tiền thuần từ HĐKD Tổng nợ phải trả bình quân Tỷ số khả năng trả nợ ngắn hạn: Cho biết khả năng thanh toán nợ ngắn hạn bằng dòng tiền từ hoạt động kinh doah của DN. Với các công ty trong lĩnh vực sản xuất và thương mại có tình hình tài chính lành mạnh thì giá trị tỷ số này thường lớn hơn hoặc bằng 40%. Khả năng trả nợ ngắn hạn = Dòng tiền thuần từ HĐKD Nợ ngắn hạn bình quân Thời gian trả hết nợ dài hạn: tỷ số này cho biết DN cần bao nhiêu thời gian để tạo đủ số tiền từ hoạt động kinh doanh nhằm chi trả cho các khoản nợ dài hạn. Nếu giá trị tỷ số này nhỏ hơn so với thời hạn trung bình của các khoản nợ dài hạn của DN thì đó là dấu hiệu cho thấy DN sẽ gặp khó khăn chi trả khi các khoản nợ đó đáo hạn. Thời gian trả hết nợ dài hạn = Nợ dài hạn bình quân Dòng tiền thuần từ HĐKD Tỷ số khả năng trả lãi vay: cho biết dòng tiền trước thuế và lãi vay gấp bao nhiêu lần lãi vay đã trả của công ty: Khả năng trả lãi vay = CFO+tiền thuế đã nộp+tiền lãi vay đã trả Tiền lãi vay đã trả Tỷ số khả năng trả nợ gốc vay: đo lường khả năng trả nợ gốc bằng nguồn tiền từ hoạt động kinh doanh: Khả năng trả nợ gốc vay = CFO Tiền chi trả nợ gốc vay Tỷ số khả năng chi trả cổ tức: Đo lường khả năng chi trả lợi nhuận, cổ tức cho chủ sở hữu của doanh nghiệp bằng nguồn tiền từ hoạt động kinh doanh: Khả năng chi trả cổ tức = CFO Cổ tức và lợi nhuận đã trả cho chủ sở hữu Tỷ số khả năng tái đầu tư: tỷ số này cho biết khả năng đầu tư vào tài sản dài hạn bằng tiền từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu tỷ số này càng lớn, DN càng dễ dàng thực hiện việc đầu tư mua sắm TSCĐ và các tài sản dài hạn khác. Nếu tỷ số này nhỏ hơn 1, DN sẽ phải huy động thêm tiền từ hoạt động tài chính để đầu tư. Khả năng tái đầu tư = CFO Tiền chi mua sắm tài sản dài hạn 1.3.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động phân tích của công ty 1.3.5.1 Nhân tố khách quan 1.3.5.1.1 Về phía nhà nước Để có thể thực hiện được chức năng, vai trò điều tiết, định hướng và quản lý các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, nhà nước cần thiết phải ban hành một hệ thống các quy phạm pháp luật để có thể điều chỉnh một bộ phận lớn và đặc thù các hoạt động và quan hệ xã hội. Đối với lĩnh vực tài chính kinh tế, nhà nước cần ban hành các chính sách, chế độ có tính chuẩn mực. Trong điều kiện đó, báo cáo tài chính được nhà nước quy định theo một số chuẩn mực nhất định và có tính chất bắt buộc. Một số loại hình báo cáo tài chính tùy theo điều kiện của mỗi công ty có thể có tính chất bắt buộc hoặc không đối với các công ty. Báo cáo tài chính được nhà nước quản lý rất chặt chẽ theo cấp và được xác định thống nhất về phương pháp lập, phương pháp tính, thời gian lập và gửi… Các thông tin kế toán trên báo cáo tài chính phải có tính chất xác thực và có cơ sở. Các công ty thực hiện tốt quá trình phân tích tài chính phải lập đầy đủ và chính xác các báo cáo tài chính. Nếu chính sách của nhà nước nói chung và chính sách kinh tế tài chính nói riêng chưa hoàn thiện thì sẽ có sự ảnh hưởng tới công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. 1.3.5.1.2 Đặc điểm của công ty Đặc điểm của công ty ảnh hưởng không nhỏ tới quản trị tài chính công ty. Mỗi ngành kinh doanh có đặc điểm về mặt kinh tế và kỹ thuật ngành khác nhau. Tính chất ngành kinh doanh ảnh hưởng tới quy mô của vốn sản xuất kinh doanh, do đó có ảnh hưởng tới phương pháp phân tích tài chính công ty. Tính thời vụ và chu kỳ sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng trước hết đến nhu cầu sử dụng vốn và doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Những công ty sản xuất có chu kỳ ngắn thì nhu cầu vốn ngắn hạn giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn, công ty cũng thường xuyên thu được tiền bán hàng, điều đó giúp cho công ty dễ dàng đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền, cũng như cho công ty trong quá trình tổ chức nguồn vốn cho nhu cầu kinh doanh. Những công ty sản xuất sản phẩm có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài, phải ứng ra một lượng vốn ngắn hạn tương đối lớn, công ty hoạt động trong ngành sản xuất có tính thời vụ, thì nhu cầu vốn ngắn hạn giữa các quý trong năm thường có sự biến động, tiền thu về bán hàng cũng không được đều, tình hình thanh toán chi trả cũng thường gặp khó khăn hơn. Ngoài ra, môi trường kinh doanh bao gồm tất cả những điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến mọi hoạt động của công ty. Sự ổn định của nền kinh tế, của thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến mức doanh thu của công ty, từ đó ảnh hưởng đến nhu cầu về vốn kinh doanh. Những biến động này của nền kinh tế có thể gây ra những rủi ro trong kinh doanh mà các nhà phân tích tài chính công ty phải lường trước, những rủi ro đó có thể ảnh hưởng tới các khoản chi phí trả lãi tiền vay hay thuê nhà xưởng, máy móc, thiết bị hay việc tìm nguồn tài trợ. 1.3.5.2 Nhân tố chủ quan 1.3.5.2.1 Quyết định của nhà quản trị công ty Điều này cũng có ảnh hưởng đến chính sách tài chính của công ty, bởi mục đích của nhà quản trị công ty là lợi nhuận. Nếu những người lãnh đạo của công ty quan tâm đến các chỉ tiêu trong quá trình phân tích tài chính, có sự quản lý chặt chẽ thường xuyên thì công tác phân tích tài chính của công ty sẽ có hiệu quả tốt. Các thông tin trong báo cáo tài chính sẽ trung thực, chính xác, đáp ứng được đòi hỏi, yêu cầu của nhà quản lý. Từ đó, nhà quản lý sẽ có thêm những cơ hội đầu tư mới mang lại hiệu quả cao đối với công ty. 1.3.5.2.2 Trình độ của cán bộ công nhân viên Cán bộ, công nhân viên là những người trực tiếp tiến hành công tác phân tích báo cáo tài chính công ty. Nếu những cán bộ có đầy đủ những năng lực và chuyên môn nhất định thì việc phân tích tài chính sẽ được diễn ra thuận lợi. Các chỉ tiêu, các nhận xét đánh giá cũng được quan tâm đúng mức. Nếu cán bộ, công nhân viên có ý thức trách nhiệm trong quá trình phân tích tài chính thì công tác phân tích tài chính sẽ hợp lý, chính xác và hiệu quả. Nếu cán bộ phân tích tài chính là người có đạo đức nghề nghiệp, thì công tác phân tích tài chính sẽ phản ánh được trung thực các số liệu tài chính của công ty, giúp cho nhà quản trị cũng như các đối tượng quan tâm tới tình hình tài chính công ty có thể đưa ra được các quyết định đầu tư đúng đắn. 1.3.5.2.3 Cơ sở vật chất Ngoài các yếu tố trên, cơ sở vật chất, kỹ thuật cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới công tác phân tích tài chính công ty. Cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết và hữu ích nhất, đó là các hệ thống phần mềm máy tính được sử dụng trong công tác phân tích tình hình tài chính. Nếu có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại thì công ty có khả năng giảm bớt được khối lượng công việc, tiết kiệm thời gian, công sức trong quá trình phân tích. Như vậy, để quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp đạt hiệu quả thì công ty cần xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phân tích đó. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Chương 1 của khóa luận đã trình bày và phân tích những vấn đề căn bản về công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Những lý luận trên đã tập trung tìm hiểu và trình bày khái niệm, mục đích của phân tích tài chính, các phương pháp sử dụng, các nội dung của phương pháp phân tích tài chính, và các thông tin sử dụng trong phân tích tài chính, cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính. Đây là những nền tảng lý luận cần thiết và quan trọng, làm cơ sở cho những nghiên cứu của khóa luận về thực trạng và giải pháp để hoàn thiện công tác phân tích tài chính của công ty cổ phần May 10 trong những chương tiếp theo. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN MAY 10 2.1 Giới thiệu khái quát về công ty cổ phần may 10 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty Tiền thân của công ty may 10 ngày nay, là các xưởng may quân trang được thành lập ở các chiến khu trong toàn quốc từ năm 1946 để phục vụ trong kháng chiến chống pháp. Từ năm 1954, sau khi kháng chiến thắng lợi, các xưởng may từ Việt Bắc, Khu Ba, Khu Bốn, liên Khu Năm và Nam Bộ tập hợp về Hà nội thành xưởng may 10 thuộc cục quân nhu -Tổng cục hậu cần- Bộ quốc phòng. Với nhiệm vụ chủ yếu là may quân trang cho bộ đội với chất lượng cao và nhiều loại quân trang cho các binh chủng của quân đội. Tháng 2 năm 1961, do yêu cầu phát triển kinh tế đất nước với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xí nghiệp may 10 chuyển từ Bộ Quốc Phòng sang Bộ Công Nghiệp Nhẹ quản lý. Nhiệm vụ của xí nghiệp là sản xuất theo kế hoạch của Bộ Công Nghiệp Nhẹ nhưng mặt hàng chủ yếu vẫn là may quân trang cho bộ đội (chiếm tới 90- 95% tổng sản lượng may mặc của công ty) và sản xuất các mặt hàng cho xuất khẩu và dân dung (5- 10%). Tháng 1 năm 1964, May 10 lại một lần nữa chuyển đổi, chịu sự quản lý của Bộ Nội Thươhg với nhiệm vụ sản xuất gia công hàng may mặc phục vụ cho xuất khẩu theo Nghị Định Thư giữa Việt Nam - Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đồng thời sản xuất hàng may mặc phục vụ cho xuất khẩu. Năm 1971, xí nghiệp May 10 lại quay về chịu sự quản lý chỉ đạo của Bộ Công Nghiệp Nhẹ với nhiệm vụ may quân trangcho quân đôị và gia công xuất khẩu hàng may mặc. Sang năm 1975, xí nghiệp May 10 chuyển sang bước ngoặt mới trong nhiệm vụ sản xuất kinh doanh là chuyên làm hàng may xuất khẩu. Có thể nói đây là điểm khởi đầu cho sự phát triển về sau của xí nghiệp May 10. Những năm sau đó, xí nghiệp liên tục xuất sang thị trường các nước XHCN từ 4-5 triệu áo sơ mi có chất lượng cao. Tháng 8 năm 1990, Liên Xô cũ tan rã và khối XHCN - Đông Âu sụp đổ liên tục đã làm cho các ngành hàng xuất khẩu của nước ta đứng trước những khó khăn lớn. Thị trường quen thuộc của xí nghiệp may 10 mất đi, hàng loạt các đơn đặt hàng, các hợp đồng bị huỷ bỏ hoặc không được thanh toán khiến xí nghiệp May 10 cũng như một số xí nghiệp khác khốn đốn và có nguy cơ bị phá sản. Trước tình hình đó, xí nghiệp May 10 phải tìm hướng giải quyết ngay những khó khăn về thị trường, mạnh dạn chuyển sang thị trường "khu vực 2". Bên cạnh đó, xí nghiệp thực hiện giảm biên chế, đầu tư đổi mới 2/3 thiết bị cũ, lạc hậu bằng các thiết bị mới hiện đại. Các bạn hàng mới được thiết lập, khó khăn từng bước được tháo gỡ, các sản phẩm của xí nghiệp từng bước chiếm lĩnh được thị trường trong nước, vươn tới các thị trường khó tính khác như Đức, Pháp,Nhật Bản, Mỹ ..... Trước những đòi hỏi của thị trường may mặc trong nước cũng như trên thế giới, ngày 14/1/1992 với quyết định số 1090/TCLĐ của Bộ Công Nghiệp Nhẹ, xí nghiệp May 10 đã chuyển đổi tổ chức, phát triển thành công tyMay 10 thuộc Tổng công ty dệt may Việt nam. Với tên giao dịch Việt Nam : Công Ty May 10 Tên giao dịch quốc tế : GARMENT COMPANY 10 Tên viết tắt : GARCO 10 Tổng số vốn của công ty : 20 tỷ VNĐ Trong đó : Vốn cố định 17 tỷ VNĐ Vốn lưu động 3 tỷ VNĐ Trụ sở chính: Thị trấn Sài Đồng - Gia Lâm - Hà Nội Sau khi phát triển thành công ty, khả năng sản xuất của công ty tăng lên nhanh chóng, thể hiện ở cả số lượng sản phẩm tăng, số lao động tăng, số xí nghiệp liên doanh liên kết tăng. Đến năm 2004, công ty chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần do nhà nước nắm cổ phần chi phối theo quyết định số 105/2004/QĐ-B._.ận vốn chủ sở hữu giảm: (4.44%-3.81%)x2.09x1.56=2% Hiệu suất sử dụng tổng tài sản tăng 0.34 làm cho tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu tăng: 3.81%x(2.44-2.09)x1.56=2% Cơ cấu nợ bình quân của công ty thay đổi làm cho tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu tăng: 3.81%x2.44x(1.66-1.56)=0.9% Từ quá trình phân tích Dupont, ta nhận thấy, để nâng cao tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản và tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu, Công ty cần phải nâng cao hơn hiệu suất sử dụng tài sản, quản lý tốt chi phí, cũng như nâng cao các nguồn doanh thu và thu nhập khác. Hiện tại, hệ số nợ của Công ty vẫn còn thấp, vì vậy Công ty có thể nghiên cứu để đạt tới một cơ cấu vốn sử dụng nhiều nợ hơn, tận dụng ưu thế của đòn bẩy tài chính khi Công ty làm ăn có lãi. 3.3.3 Bổ sung các chỉ tiêu phân tích tài chính cho phù hợp với điều kiện của công ty. Để đánh giá một cách toàn diện tình hình tài chính của mình, Công ty cổ phần May 10 nên sử dụng thêm một số chỉ tiêu phân tích tài chính: VLĐTX, N/cVLĐ, VBT, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động, và đánh giá tình hình tài chính thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ. 3.3.3.1 Các mối quan hệ trên bảng cân đối kế toán. Bảng 3.4: Mối quan hệ trên bảng cân đối kế toán Chỉ tiêu 01/01/2009 31/12/2009 Chênh lệch % VLĐTX 44,872,323,648 20,004,153,110 (24,868,170,538) (55.41) N/cVLĐ 22,128,590,960 24,700,232,520 2,571,641,560 11.62 VBT 22,743,732,688 (4,696,079,410) (27,439,812,098) (120.65) (Nguồn: phòng kế toán – tài chính Công ty) Vốn lưu động thường xuyên: VLĐTX ở cả đầu kỳ và cuối kỳ đều dương, VLĐTX cuối kỳ giảm mạnh so với đầu kỳ 24,868 triệu đồng (55.41%), cho thấy nguồn vốn dài hạn dùng để tài trợ cho tài sản ngắn hạn giảm. Trong đó nguồn vốn dài hạn tăng 939 triệu đồng làm tăng VLĐTX, tuy nhiên tài sản dài hạn tăng làm VLĐTX giảm là 25,803 triệu đồng. Tài sản cố định tăng mạnh 21,539 triệu đồng, nguyên giá tài sản cố định hữu hình tăng 7,404 triệu đồng, nguyên giá tài sản cố định vô hình tăng 10,000 triệu đồng, đây là một xu hướng rất tốt đối với Doanh nghiệp nhằm mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường và vị thế của Doanh nghiệp. Mặt khác việc đầu tư này vẫn trên cơ sở nguồn vốn dài hạn.Ngoài ra, Doanh nghiệp cũng mở rộng lĩnh vực đầu tư tài chính (tăng 6,402 triệu đồng) nhằm đa dạng hóa nguồn thu nhập. Trong nguồn vốn dài hạn tăng hoàn toàn do tăng nguồn vốn chủ sở hữu, còn nợ dài hạn giảm rất mạnh 2,916 triệu đồng (87.06%), như đã phân tích ở trên, điều này là do trong kỳ, phần lớn nợ dài hạn đã đến hạn thanh toán và chuyển sang khoản mục nợ ngắn hạn. Ta thấy hệ số nợ của Doanh nghiệp vào thời điểm cuối kỳ là 0.39<0.5 vì vậy trong các năm tiếp theo Doanh nghiệp có thể vay thêm nợ dài hạn để tăng nguồn vốn có tính ổn định cao, trong khi vẫn giữ được một cơ cấu tài chính có rủi ro cho phép. Việc tăng vốn chủ sở hữu 3,851 triệu đồng là do tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh, Doanh nghiệp trích lập quỹ nhiều hơn, làm tăng năng lực tài chính cho Doanh nghiệp. VLĐTX giảm là cần thiết trên góc độ sử dụng vốn nhưng vẫn đảm bảo một cơ cấu vốn an toàn. Nhu cầu vốn lưu động: N/cVLĐ ở đầu năm và cuối năm đều dương, chứng tỏ Doanh nghiệp có phần vốn ngắn hạn phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nhưng chưa được tài trợ bởi bên thứ 3 trong quá trình sản xuất kinh doanh. N/cVLĐ của Doanh nghiệp tăng 2,571 triệu đồng (11.62%) trong khi doanh thu thuần của Doanh nghiệp tăng 68,382 triệu đồng (19.21%), tốc độ tăng của doanh thu thuần lớn hơn tốc độ tăng của nhu cầu vốn lưu động, cho thấy hiệu quả sử dụng vốn ngắn hạn của doanh nghiệp đã tăng lên, đây là tín hiệu tốt cho doanh nghiệp. Bảng 3.5: Sự biến động của các nhân tố ảnh hưởng tới N/c VLĐ: Tài sản kinh doanh Nợ kinh doanh 1. Các khoản phải thu (11,799,519,862) 1. Phải trả người bán 633,620,869 Phải thu khách hàng (15,048,427,065) 2. Người mua trả tiền trước (9,155,415,361) Trả trước cho người bán 2,932,632,203 3. Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước 2,869,816,164 Các khoản phải thu khác 316,275,000 4. Phải trả người lao động (1,938,905,088) 2. Hàng tồn kho 16,588,547,128 5. Chi phí phải trả (108,088,687) Hàng tồn kho 16,588,547,128 6. Các khoản phải trả, phải nộp ngắn hạn khác 4,859,620,714 3. Tài sản ngắn hạn khác (5,056,737,095) Chi phí trả trước ngắn hạn 126,010,600 Thuế GTGT được khấu trừ (5,824,180,601) Tài sản ngắn hạn khác 641,432,906 Cộng (267,709,829) Cộng (2,839,251,389) (Nguồn: phòng kế toán – tài chính Công ty) Qua bảng, ta nhận thấy N/cVLĐ tăng, hoàn toàn do nợ kinh doanh tăng 2,839 triệu đồng, trong khi đó tài sản kinh doanh giảm 267 triệu đồng. Sự giảm đi của tài sản kinh doanh chủ yếu do sự giảm của khoản phải thu và tài sản ngắn hạn khác, trong khi hàng tồn kho vẫn tăng. Hàng tồn kho tăng 16,558 triệu đồng, trong đó lượng thành phẩm tồn kho cuối kỳ là 24,227 triệu đồng ,đầu kỳ là 9,887 triệu đồng, thể hiện vốn công ty bị ứ đọng nhiều trong khâu dự trữ. Bên cạnh đó, khoản phải thu của Công ty giảm trong khi doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ vẫn tăng 19.21%, đây là một xu hướng tốt, tuy nhiên nếu vì điều này mà làm giảm sản lượng hàng hóa tiêu thụ thì cần phải xem xét. Nợ kinh doanh giảm mạnh 2,839 triệu đồng thể hiện Doanh nghiệp giảm chiếm dụng vốn từ bên thứ 3, trong đó khoản mục người mua trả tiền trước giảm 9,155 triệu thể hiện trong kỳ Doanh nghiệp đã giao hàng cho bên mua đã đặt hàng và ứng trước, thể hiện uy tín của Doanh nghiệp. Trong năm, Doanh nghiệp tận dụng được nguồn vốn do chiếm dụng người bán và các khoản nợ nhà nước, tuy nhiên Công ty cần thực hiện nghiêm chỉnh kỷ luật tài chính và kỷ luật thanh toán. Vốn bằng tiền: Vốn bằng tiền của Doanh nghiệp giảm mạnh, tại thời điểm đầu kỳ, Doanh nghiệp dư thừa ngân quỹ 22,743 triệu đồng, ở thời điểm cuối kỳ, Doanh nghiệp thiếu hụt ngân quỹ là 4,696 triệu đồng, như vậy ở thời điểm cuối kỳ, Doanh nghiệp chưa có đủ tiền để thanh toán các khoản nợ cho nhà cho vay nếu các khoản nợ này đến hạn. Điều này chủ yếu do khoản mục tiền và tương đương tiền giảm mạnh 21,165 triệu đồng, trong khi khoản mục vay và nợ ngắn hạn tăng 7,274 triệu đồng. Bảng 3.6: Mối quan hệ cân bằng trên BCĐKT: Đầu kỳ VBT 22,743 VLĐTX 44,872 N/cVLĐ 22,128 Cuối kỳ N/cVLĐ 24,700 VBT 4,696 VLĐTX 20,004 (Nguồn: phòng kế toán – tài chính Công ty) Tại thời điểm đầu kỳ, VLĐTX lớn, N/c VLĐ được tài trợ hoàn toàn bằng nguồn vốn dài hạn, Doanh nghiệp dư thừa ngân quỹ trên cơ sở nguồn vốn dài hạn, đây là một cơ cấu tài chính ít rủi ro, tuy nhiên giảm hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp trong kỳ vì chi phí sử dụng vốn dài hạn luôn cao hơn chi phí sử dụng vốn ngắn hạn đặc biệt là chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu. Tại thời điểm cuối kỳ, N/cVLĐ>0, VLĐTX>0, VBT<0, nhu cầu vốn lưu động được tài trợ bằng một phần bằng nguồn vốn dài hạn, một phần bằng nguồn vốn tín dụng ngắn hạn. Ta nhận thấy Doanh nghiệp đang dịch chuyển sang một cơ cấu vốn hợp lý hơn, vừa đảm bảo có nguồn vốn dài hạn ổn định tài trợ cho nhu cầu ngắn hạn, vừa tối ưu hóa chi phí sử dụng vốn. 3.3.3.2 Chỉ tiêu phản ánh năng lực hoạt động của tài sản. Bảng 3.7: Chỉ tiêu phản ánh năng lực hoạt động của tài sản Chỉ tiêu 2008 2009 Chỉ tiêu 2008 2009 DTT BH,CCDV 355,908,886,226 424,291,141,564 VqKPT 12.62 13.95 GVHB 267,706,080,576 312,985,806,684 Kỳ thu tiền TB 28.53 25.81 KPTbq 27,631,254,164.50 36,681,466,791.00 VqHTK 9.69 8.53 HKTbq 53,910,447,620.00 67,766,212,345.50 Số ngày 1 VqHtk 37.16 42.19 TTS 170,507,759,982 183,770,441,478.00 HSSDTTS 2.09 2.44 TSCĐ 53,910,447,620 67,766,212,345.50 HSSDTSCĐ 6.60 6.26 (Nguồn: phòng kế toán – tài chính Công ty) Vòng quay khoản phải thu: Vòng quay khoản phải thu đo lường mức độ đầu tư vào các khoản phải thu để duy trì mức doanh số bán hàng cần thiết cho Doanh nghiệp. Vòng quay khoản phải thu năm 2009 là 13.95 vòng cao hơn năm 2008 (12.62 vòng), kỳ thu tiền tương ứng là 25.81 ngày và 28.53 ngày. Như vậy trong năm 2009, Doanh nghiệp chỉ mất trung bình 25.81 ngày để thu được tiền về từ các khoản cấp tín dụng cho khách hàng, trong khi đó doanh thu thuần từ bán hàng vả cung cấp dịch vụ tăng, đây là tín hiệu tốt của Doanh nghiệp, Doanh nghiệp đã quản lý tốt chính sách tín dụng cho khách hàng, quản lý tốt các khoản phải thu, và vẫn giữ được mức tăng doanh thu. Vòng quay hàng tồn kho: Vòng quay hàng tồn kho dùng để đánh giá hiệu quả quản trị hàng tồn kho của Doanh nghiệp. Vòng quay hàng tồn kho năm 2009 là 8.53 vòng giảm so với năm 2008 (9.69 vòng), số ngày một vòng quay hàng tồn kho tương ứng là 42.19 ngày và 37.16 ngày. Cho thấy trong năm 2009 hàng tồn kho của Doanh nghiệp chỉ luân chuyển được 8.53 vòng, thời gian hàng tồn kho tồn tại trong kho dài hơn, vốn ứ đọng nhiều hơn kéo theo nhu cầu vốn của Doanh nghiệp tăng, như đã phân tích ở trên, hàng tồn kho ứ đọng chủ yếu dưới dạng thành phẩm. Vì vậy, Doanh nghiệp cần phải nhanh chóng có những biện pháp để giải phóng lượng hàng tồn kho, áp dụng chính sách tín dụng, khuyến mãi, chính sách giá … để bán sản phẩm. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả quản trị bộ phận tài sản cố định đối với quá trình sản xuất kinh doanh trong Doanh nghiệp. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định năm 2008 là 6.60, năm 2009 giảm xuống còn là 6.26 thể hiện, trong năm 2009 cứ 1 đồng tài sản cố dịnh đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra 6.26 đồng doanh thu thuần. Ta nhận thấy trong năm 2009, Doanh nghiệp đã đầu tư mua sắm trang thiết bị mới, cũng như đầu tư xây dựng nhà xưởng, làm tăng mạnh tài sản cố định, tuy nhiên những tài sản này chưa thể ngay lập tức phát huy hiệu quả vì còn đang trong quá trình vận hành thử, và xây dựng, đóng góp của những tài sản này vào quá trình sản xuất kinh doanh chưa cao. Vì vậy, dù doanh thu thuần năm 2009 tăng 19.21%, hiệu suất sử dụng tài sản cố định vẫn bị giảm nhưng đây không phải là một tín hiệu xấu của Doanh nghiệp, chúng ta có thể chờ đợi kết quả khả quan hơn trong những năm tiếp theo. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Chỉ tiêu này đo lường tổng quát về năng lực hoạt động của tài sản trong Doanh nghiệp, thể hiện qua mối quan hệ giữa tổng doanh thu và thu nhập khác trong Doanh nghiệp (bao gồm cả doanh thu thuần, doanh thu hoạt động tài chính, thu nhập khác) với tổng tài sản hiện có của Doanh nghiệp. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản năm 2009 là 2.44, năm 2008 là 2.09, như vậy hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty năm 2009 cao hơn năm 2008, điều này có được phần lớn là do trong năm 2009 Doanh nghiệp đã quản lý hiệu quả hơn tài sản ngắn hạn. Trong năm 2009, cứ một đồng tài sản của Doanh nghiệp đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ tạo ra được 2.44 đồng thu nhập. 3.3.3.3 Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Bảng 3.8: Tình hình biến động của các khoản mục trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ (2008-2009) ĐVT: VNĐ CHỈ TIÊU Mã số TM Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch % I. LƯU CHUYỂN TIỀN TỪ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH 1- Lợi nhuận trước thuế: 01 17,501,125,935 22,097,920,064 4,596,794,129 26.27 2- Điều chỉnh cho các khoản: 12,181,189,363 3,040,431,360 (9,140,758,003) (75.04) - Khấu hao tài sản cố định 02 8,392,667,012 9,808,358,892 1,415,691,880 16.87 - Các khoản dự phòng 03 2,931,100,000 2,931,100,000 - Lãi, lỗ chênh lệch tỉ giá hối đoái chưa thực hiện 04 69,934,575 (1,102,876,866) (1,172,811,441) (1,677.01) - Lãi, lỗ từ hoạt động đầu tư 05 (149,607,891) (11,318,492,002) (11,168,884,111) 7,465.44 - Chi phí lãi vay 06 3,868,195,667 2,722,341,336 (1,145,854,331) (29.62) 3- Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trước những thay đổi vốn lưu động 08 29,682,315,298 25,138,351,424 (4,543,963,874) (15.31) - Tăng giảm các khoản phải thu 09 (16,446,202,733) 19,880,345,741 36,326,548,474 (220.88) - Tăng giảm hàng tồn kho 10 (1,511,878,125) (16,588,547,128) (15,076,669,003) 997.21 - Tăng giảm các khoản phải trả 11 15,449,733,851 (6,051,875,032) (21,501,608,883) (139.17) - Tăng giảm chi phí trả trước 12 85,075,075 (1,974,083,777) (2,059,158,852) (2,420.40) - Tiền lãi vay đã trả 13 (3,868,195,667) (2,722,341,336) 1,145,854,331 (29.62) - Thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp 14 (961,574,793) (2,085,903,568) (1,124,328,775) 116.93 - Tiền thu khác từ hoạt động kinh doanh 15 1,175,380,220 6,630,643,921 5,455,263,701 464.13 - Tiền chi khác từ hoạt động kinh doanh 16 (24,039,811,123) (15,387,086,431) 8,652,724,692 (35.99) Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh 20 (435,157,997) 6,839,503,814 7,274,661,811 (1,671.73) II. LƯU CHUYỂN TIỀN TỪ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ 1- Tiền chi để mua sắm, xây dựng TSCĐ 21 (6,344,636,576) (34,254,829,290) (27,910,192,714) 439.90 2- Tiền thu từ thanh lý, nhượng bán TSCĐ 22 225,690,909 16,819,942,636 16,594,251,727 7,352.65 5- Tiền chi đầu tư góp vốn vào các đơn vị khác 25 (5,671,550,000) (11,227,400,000) (5,555,850,000) 97.96 6- Tiền thu hồi đầu tư góp vốn vào các đơn vị khác 26 2,107,280,000 2,107,280,000 7- Tiền thu lãi cho vay, cổ tức và lợi nhuận được chia 27 100,720,000 273,545,000 172,825,000 171.59 Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư 30 (11,689,775,667) (26,281,461,654) (14,591,685,987) 124.82 III.LƯU CHUYỂN TIỀN TỪ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH 1- Tiền thu phát hành cổ phiếu, nhận vốn góp của chủ sở hữu 31 63,442,090,000 (63,442,090,000) (100.00) 2- Tiền chỉ trả vốn góp cho các chủ sở hữu, mua lại cổ phiếu của doanh nghiệp đã phát hành 32 (1,500,000) (87,250,000) (85,750,000) 5,716.67 3- Tiền vay ngắn hạn, dài hạn nhận được 33 145,158,725,609 169,964,028,111 24,805,302,502 17.09 4- Tiền chi trả nợ gốc vay 34 (157,531,269,236) (164,178,059,323) (6,646,790,087) 4.22 6- Cổ tức, lợi nhuận đã trả cho chủ sở hữu 36 (6,031,579,000) (9,335,475,000) (3,303,896,000) 54.78 Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính 40 45,036,467,373 (3,636,756,212) (48,673,223,585) (108.08) Lưu chuyển tiền thuần trong kì 50 32,911,533,709 (23,078,714,052) (55,990,247,761) (170.12) Tiền và tương đương tiền tồn đầu kì 60 6,825,564,352 39,647,720,150 32,822,155,798 480.87 Anh hưởng của thay đổi tỷ giá hối đoái quy đổi ngoại tệ 61 (89,377,911) 1,913,409,823 2,002,787,734 (2,240.81) Tiền và tương đương tiền tồn cuối kì 70 39,647,720,150 18,482,415,921 (21,165,304,229) (53.38) (Nguồn: phòng kế toán – tài chính Công ty) Từ báo cáo lưu chuyển tiền tệ, ta nhận thấy trong năm 2009, lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh là 6,839 triệu đồng, lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư là (26,281) triệu đồng, lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính là (3.636) triệu đồng. Như vậy. dòng tiền thu về của Công ty hoàn toàn từ hoạt động kinh doanh, đây là một xu hướng tốt của Doanh nghiệp đặc biệt trong khi năm 2008 dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp âm. Tuy nhiên, do lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh 6,839 triệu đồng thấp hơn lợi nhuận sau thuế của Công ty 17,120 triệu đồng, cho thấy chất lượng lợi nhuận của Công ty chưa được cao. Trong hoạt động kinh doanh, ta nhận thấy luồng tiền bị ứ đọng ở hàng tồn kho rất lớn, 16,588 tỷ, làm giảm dòng thu tiền thuần từ hoạt động kinh doanh, vì vậy Doanh nghiệp cần nhanh chóng có biện pháp khắc phục, trong năm 2009 Doanh nghiệp đã thực hiện tốt công tác quản lý khoản phải thu, thu về 19,880 triệu đồng. Đối với hoạt động đầu tư, hoạt động đầu tư tài sản mới và thanh lý tài sản cũ là nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới dòng tiền thuần. Tiền chi để mua sắm và xây dựng tài sản cố định mới là 34,254 triệu đồng, còn tiền thu về từ thanh lý nhượng bán là 16.819 triệu đồng, đây là một xu hướng tốt của Doanh nghiệp, nhằm đổi mới trang thiết bị, loại bỏ các tài sản cũ, lạc hậu, hiệu quả sử dụng thấp. Đối với hoạt động tài chính, trong năm 2009, Doanh nghiệp thực hiện việc trả các khoản nợ gốc đến hạn thanh toán, chia cổ tức cho các cổ đông, và thực hiện các khoản vay mới để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh là 6,839 triệu đồng, thấp hơn dòng tiền chi ra từ hoạt động đầu tư của Doanh nghiệp, vì vậy, trong năm 2009, doanh nghiệp vẫn phải vay nợ để tài trợ cho hoạt động đầu tư và trả nợ gốc các khoản vay đến hạn thanh toán. Do dòng tiền thuần của năm 2008 âm, nên chỉ tính cho năm 2009 Bảng 3.9 : Các chỉ số lưu chuyển tiền tệ: Chỉ tiêu Năm 2009 Dòng tiền trên TS 3.72% Dòng tiền trên VCSH 6.17% Dòng tiền trên DTT 1.61% Khả năng trả nợ 0.09 Khả năng trả nợ ngắn hạn 0.10 Thời hạn trả hết nợ dài hạn 0.28 Khả năng trả lãi vay 4.28 Khả năng trả nợ gốc vay 0.04 Khả năng chi trả cổ tức 0.73 Khả năng tái đầu tư 0.20 (Nguồn: phòng kế toán – tài chính Công ty) Thông qua bảng 3.8, ta có các nhận xét sau: - Tỷ số dòng tiền trên tổng tài sản 3.72% cho biết trong kỳ, bình quân 100 đồng tài sản mang lại 3.72 đồng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh. - Tỷ số dòng tiền trên vốn chủ sở hữu 6.19% cho biết bình quân trong kỳ 100 đồng vốn chủ sở hữu tạo ra 6.19 đồng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh. - Tỷ số dòng tiền trên doanh thu thuần 1.61% cho biết 100 đồng doanh thu thuần từ bán hàng và cung cấp dịch vụ mang lại 1.61 đồng tiền tuần từ hoạt động kinh doanh. - Khả năng trả nợ 0.09 cho biết trung bình 100 đồng nợ phải trả của doanh nghiệp được đảm bảo thanh toán bơi 9 đồng tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh. - Khả năng trả nợ ngắn hạn 0.10 cho biết khả năng thanh toán nợ ngắn hạn bằng dòng tiền từ hoạt động kinh doanh là 10%. - Thời gian trả hết nợ dài hạn 0.28, thể hiện Công ty chỉ mất 0.28 năm để tạo đủ số tiền từ hoạt động kinh doanh nhằm chi trả cho các khoản nợ dài hạn. -Khả năng trả lãi vay 4.28 cho biết dòng tiền trước thuế và lãi vay gấp 4.28 lần lãi vay phải trả của công ty. - Khả năng trả nợ gốc vay 0.04 thể hiện khả năng trả nợ gốc bằng nguồn tiền từ hoạt động kinh doanh. - Khả năng chi trả cổ tức 0.73 cho biết khả năng chi trả lợi nhuận, cổ tức cho chủ sở hữu của doanh nghiệp bằng nguồn tiền từ hoạt động kinh doanh. - Khả năng tái đầu tư 0.20 cho biết khả năng đầu tư vào tài sản dài hạn bằng tiền từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 3.4 Kiến nghị với cơ quan quản lý Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với thị trường quốc tế, môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, để tồn tại và phát triển các công ty phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý. Năng lực phân tích tài chính được coi là yếu tố quan trọng mang lại sự thành công trong công ty. Vì vậy, hoàn thiện công tác phân tích tài chính là một công việc không chỉ là vấn đề riêng của từng doanh nghiệp, mà là vấn đề của cả các cơ quan quản lý. Bởi vì, nếu doanh nghiệp thực hiện tốt công tác phân tích tài chính, thì đó sẽ là tiền đề để doanh nghiệp đưa ra các quyết định, chiến lược kinh doanh đúng đắn và kịp thời. Điều này đảm bảo tính ổn định và sự phát triển bền vững của cả nền kinh tế. Các giải pháp được đề xuất ở trên đều là những việc làm thiết thực đối với công ty cổ phần May 10 nhằm thực hiện công tác phân tích tài chính một cách tốt hơn. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho công ty thực hiện các giải pháp trên thì các cơ quan quản lý nhà nước cần có sự hỗ trợ để tạo ra môi trường thuận lợi không chỉ cho riêng công ty cổ phần May 10 mà với cả các công ty khác. Những tác động hỗ trợ cảu các cơ quan quản lý đối với công tác phân tích tài chính của công ty nói chung và công ty cổ phần May 10 nói riêng phải nhằm mục đích tạo ra môi trường thuận lợi và động lực thúc đẩy các công ty phân tích tài chính có hiệu quả. Với tinh thần đó, em xin mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau: Thứ nhất, điều chỉnh, ban hành chế độ kế toán phù hợp, tạo cơ sở cho việc cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác. Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều chuyển biến lớn, do đó, chế độ kế toán Việt Nam cũng đã liên tục được đổi mới cho thích nghi với hoàn cảnh đất nước và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, việc thay đổi liên tục gây ra nhiều khó khăn cho công tác kế toán ở công ty, làm cho việc hạch toán sổ sách thiếu tính thông nhất, đồng bộ ở các công ty. Vì vậy, bộ tài chính cần điều chỉnh hệ thống kế toán phù hợp, thống nhất và đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân viên kế toán của công ty thực hiện công việc của mình một cách chính xác, không phải thay đổi nhiều. Hiện nay việc nộp báo cáo lưu chuyển tiền tệ không mang tính chất bắt buộc đối với các doanh nghiệp mà chỉ mang tính khuyến khích nên một số doanh nghiệp không lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ khiến công tác phân tích gặp nhiều khó khăn, vì vậy trong thời gian tới bộ tài chính nên bắt buộc các doanh nghiệp phải nộp báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện các biểu mẫu báo cáo tài chính. Ngoài ra chế độ kế toán của Việt Nam hiện nay chưa áp dụng toàn bộ các chuẩn mực kế toán quốc tế nên việc so sánh số liệu với các công ty nước ngoài là rất khó khăn. Trong xu thế hội nhâp, nước ta cần phải hoàn thiện chế độ kế toán dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế, đặc biệt cần phải ban hành đồng bộ. Bên cạnh đó, nhà nước cũng phải quy định về việc kiểm toán nhất là công tác kiểm toán nội bộ tại công ty nhằm nâng cao tính chính xác của sổ sách kế toán, góp phần lành mạnh hóa tình hình tài chính của công ty Thứ hai, Chính phủ cần ban hành các quy định mang tính bắt buộc đối với việc hoàn thiện công tác phân tích tài chính hàng năm tại các doanh nghiệp và xí nghiệp, cần quy định rõ về thời gian phân tích và việc báo cáo kết quả phân tích. Quy định công tác phân tích tài chính phải tách riêng ra khỏi công tác kế toán. Trong thời gian đầu, doanh nghiệp mới bắt đầu thực hiện công tác phân tích tài chính, nhà nước nên tăng cường hoạt động giám sát, kiểm tra để đôn đốc các doanh nghiệp hoạt động đi vào nề nếp. Nên mở các khóa học tìm hiểu về công tác phân tích tài chính và tầm quan trọng của công tác phân tích tài \chính cho các cấp quản lý của doanh nghiệp, nâng cao nhận thức của ban lãnh đạo doanh nghiệp về vai trò ngày càng trở nên quan trọng của công tác phân tích tài chính. Thứ ba, hiện nay, một trong những yếu tố khiến cho hoạt động phân tích tài chính của các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần May 10 nói riêng chưa thực sự hiệu quả là do chưa có hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành.Về lý thuyết, nếu để các tỷ số riêng rẽ thì nó không có ý nghĩa gì và cũng chẳng chỉ ra được điều gì. Nó chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được so sánh về cả không gian và thời gian. So sánh về thời gian thì đã được thực hiện bởi đó chỉ là việc so sánh các chỉ tiêu tài chính của công ty qua các năm còn so sánh với các chỉ tiêu mức trung bình của các doanh nghiệp cùng ngành để thấy được vị thế của doanh nghiệp cũng như thấy được các kết quả đạt được có thực sự hiệu quả hay không thì chưa tiến hành được bởi hiện nay chưa có hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Chính vì vậy trong thời gian tới Nhà nước cần sớm cung cấp hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành để giúp cho công tác phân tích tài chính hiệu quả hơn. Nhà nước nên thành lập thêm các công ty tư vấn do các cơ quan quản lý làm chủ quản, chuyên cung cấp thông tin, tư vấn và đánh giá về doanh nghiệp cung cấp nguồn thông tin chính thống, tin cậy mang tính khách quan cao để ngày càng đa dạng hóa nguồn thông tin và nâng cao chất lượng nguồn thông tin. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Xuất phát từ những tồn tại trong công tác phân tích tài chính tại công ty cổ phần May 10 đã được trình bày tại chương 2, trong chương 3 của khóa luận, em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại và hạn chế trong công tác phân tích tài chính và góp phần hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính tại công ty cổ phần May 10. Đó là: Tổ chức tốt công tác phân tích tài chính. Hoàn thiện phương pháp phân tích. Bổ sung các chỉ tiêu phân tích cho phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp. Cuối cùng, khóa luận đã đưa ra một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý vĩ mô nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện công tác phân tích tài chính có hiệu quả. Cụ thể là: Điều chỉnh, ban hành chế độ kế toán phù hợp, tạo cơ sở cho việc cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác. Ra quyết định mang tính bắt buộc đối với việc thực hiện phân tích tài chính hàng năm của công ty. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, nhà nước nên thành lập thêm các công ty tư vấn do các cơ quan quản lý làm chủ quản, chuyên cung cấp thông tin, tư vấn và đánh giá về doanh nghiệp để ngày càng đa dạng hóa nguồn thông tin và nâng cao chất lượng các nguồn thông tin. KẾT LUẬN Trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp, phân tích tài chính đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Phân tích tài chính giúp cho nhà quản lý đánh giá được thực trạng tài chính và đưa ra những xu hướng trong tương lai. Từ đó, các nhà quản lý thấy được ưu và nhược điểm trong hoạt động tài chính để đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời. Để phân tích, nhà quản lý phải thu thập được những thông tin chính xác, biết vận dụng linh hoạt các phương pháp phân tích để hạn chế rủi ro. Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần May 10, đi sâu vào phân tích tình hình tài chính của công ty qua các báo cáo tài chính và một số tài liệu khác, em thấy hoạt động tài chính ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Mặc dù công tác phân tích tài chính của công ty còn gặp nhiều khó khăn, còn hạn chế về đội ngũ cán bộ phân tích nhưng công ty đã thực hiện đầy đủ các bước cơ bản, thực hiện phân tích các chỉ tiêu quan trọng sao cho hiệu quả nhất. Do hạn chế về nguồn thông tin (thiếu tài liệu về các doanh nghiệp cùng ngành, chỉ tiêu trung bình ngành) nên việc phân tích chủ yếu chỉ tập trung vào nội dung phân tích tài chính của công ty. Sử dụng các kiến thức ở trường và một số tài liệu tham khảo, em đã đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính công ty cổ phần may 10. Tuy nhiên, do kiến thức thực tiễn có giới hạn và thời gian nghiên cứu không nhiều nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các bạn cho khóa luận được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn tới thạc sĩ: Nguyễn Thị Đào đã nhiệt tình hướng dẫn em làm đề tài, cùng các thầy cô giáo trong khoa tài chính cũng như ban lãnh đạo, phòng kế toán – chính công ty cổ phần May 10 đã tạo điều kiện cho em hoàn thành khóa luận này. DANH MỤC BẢNG BIỂU MỤC LỤC CHƯƠNG 1LÍ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1 1.1 Vai trò của tài chính doanh nghiệp 1 1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp 1 1.1.2 Khái niệm tài chính doanh nghiệp 1 1.1.3 Vai trò của tài chính doanh nghiệp 3 1.2 Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp 4 1.2.1 Đối với nhà quản trị doanh nghiệp 5 1.2.2 Đối với các nhà đầu tư 5 1.2.3 Đối với người cho vay, nhà cung cấp vật tư, hàng hóa, dịch vụ, các cơ quan quản lý nhà nước, và các đối tượng khác. 6 1.3 Phân tích tài chính doanh nghiệp 8 1.3.1 Quy trình phân tích tài chính 8 1.3.2 Tài liệu cơ bản được sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp 12 1.3.2.1 Bảng cân đối kế toán (balance sheet) 12 1.3.2.2 Báo cáo kết quả kinh doanh (profit and loss statement) 13 1.3.2.3 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Cash flow statement) 13 1.3.2.3 Thuyết minh báo cáo tài chính (Descriptive financial statement) 14 1.3.3 Phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp 14 1.3.3.1 Phương pháp so sánh 15 1.3.3.2 Phương pháp tỷ lệ. 16 1.3.3.3 Phương pháp phân tích tài chính Dupont 16 1.3.4 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 17 1.3.4.1 Phân tích khái quát về môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường ngành 17 1.3.4.2 Phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp 17 1.3.4.2.1 Phân tích khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các cân bằng trên bảng cân đối kế toán. 17 1.3.4.2.2 Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh 20 1.3.4.2.3 Phân tích khả năng thanh toán ngắn hạn 21 1.3.4.2.4Phân tích các chỉ số về cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư 24 1.3.4.2.5 Phân tích chỉ tiêu phản ánh năng lực hoạt động của tài sản 26 1.3.4.2.6 Phân tích khả năng sinh lợi 28 1.2.4.2.7 Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ 29 1.3.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động phân tích của công ty 35 1.3.5.1 Nhân tố khách quan 35 1.3.5.1.1 Về phía nhà nước 35 1.3.5.1.2 Đặc điểm của công ty 35 1.3.5.2 Nhân tố chủ quan 36 1.3.5.2.1 Quyết định của nhà quản trị công ty 36 1.3.5.2.2 Trình độ của cán bộ công nhân viên 37 1.3.5.2.3 Cơ sở vật chất 37 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN MAY 10…………………………………………………………………… 39 2.1 Giới thiệu khái quát về công ty cổ phần may 10 40 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty 40 2.1.2 Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của công ty 43 2.2.1 Tổ chức công tác phân tích tài chính 48 2.2.2 Các nội dung phân tích tài chính của công ty cổ phần may 10 49 2.2.2.1 Phân tích khái quát về môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường ngành 49 2.2.2.2 Phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp 50 2.2.2.2.1 Phân tích khái quát sự biến động của tài sản và nguồn vốn. 54 2.2.2.2.2 Phân tích các chỉ tiêu trên bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. 58 2.2.2.2.3 Đánh giá tìn hình tài chính của công ty cổ phần may 10 qua các chỉ tiêu tài chính đặc trưng: 63 2.3.1 Những kết quả đạt được 67 2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân 69 2.3.2.1 Những hạn chế 69 2.3.2.2 Nguyên nhân 73 2.3.2.2.1 Nguyên nhân khách quan 73 2.3.2.2..2 Nguyên nhân chủ quan 73 CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN MAY 10 76 3.1 Định hướng phát triển công ty 76 3.2 Các mục tiêu của công tác phân tích tài chính công ty cổ phần may 10 76 3.3 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty cổ phần May 10 78 3.3.2 Hoàn thiện phương pháp phân tích. 80 3.3.3 Bổ sung các chỉ tiêu phân tích tài chính cho phù hợp với điều kiện của công ty. 85 3.3.3.1 Các mối quan hệ trên bảng cân đối kế toán. 85 3.3.3.2 Chỉ tiêu phản ánh năng lực hoạt động của tài sản. 89 3.3.3.3 Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ. 91 3.4 Kiến nghị với cơ quan quản lý 96 KẾT LUẬN 100 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26922.doc
Tài liệu liên quan