Chuyên đề được kết cấu gồm 3 phần chính:
Chương I: Cơ sở lý luận của công tác kế hoạch phát triển thị trường .
Chương II: thực trạng công tác kế hoạch phát triển thị trường tại công ty đóng tàu hồng hà
Chương III: một số giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển thị trường tại công ty đóng tàu hồng hà .
Em xin chân thành cám ơn thầy Bùi Đức Tuân và các thầy cô trong khoa Kế hoạch phát triển đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và đóng góp ý kiến để giúp em có thể hoàn thiện đề tài này.
Em
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng công tác kế hoạch phát triển thị trường tại Công ty đóng tàu Hồng Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty đóng tàu hồng hà đã tạo điều kiện để em có thể hoàn thành tốt đợt thực tập ở công ty.
Chương I
Cơ sở lí luận của công tác kế hoạch phát triển thị trường trong doanh nghiệp
I. Các vấn đề lí luận chung trong công tác kế hoạch.
1. Lịch sử phát triển của công tác kế hoạch trong doanh nghiệp.
Nền kinh tế thế giới trong thời kì từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỉ 20 là nền kinh tế trọng cung, người ta chỉ chú trọng, tập vào việc sản xuất những sản phẩm mà mình có nguồn lực, chứ chưa quan tâm đến nhu cầu của thị trường, chưa quan tâm đến việc sản xuất ra có tiêu thụ được không. Chính vì vậy công tác kế hoạch hoá đơn giản chỉ là dự báo vì chưa chịu sức ép của cầu.
Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 có sự xuất hiện ý tưởng về kinh tế trọng cầu, mối quan tâm của chủ doanh nghiệp là đảm bảo sự tăng trưởng của doanh nghiệp ít nhất bằng sự tăng trưởng của cầu, và như vậy công tác kế hoạch hoá trở thành một hệ thống hoàn chỉnh từ việc dự báo, lập ngân sách hàng năm để kiểm soát, kế hoạch được chú trọng dưới các hình thức khác nhau ở mỗi quốc gia, mỗi ngành hay mỗi doanh nghiệp.
Kế hoạch dài hạn: Xuất hiện từ cuối những năm 50 đầu những năm 60 trước sức ép ngày một tăng của cầu được đặc trưng bởi thời hạn từ 5 đến 10 năm, sự ràng buộc về mặt tài chính và cơ sở của dự báo dựa trên các phương pháp ngoại sung từ quá khứ với môi trường của kế hoạch hoá được hạn chế bởi thị trường nội tại của doanh nghiệp.
Kế hoạch tập trung: Xuất hiện những năm 1920 ở Liên Xô, đòi hỏi thiết lập một khu công nghiệp, nông nghiệp vận hành theo hệ thống phân phối chỉ tiêu hiên vật ở cấp doanh nghiệp với sự chỉ đạo của hệ thống bảng cân đối. Việc sản xuất áp đặt để bắt ép các nguồn lực về kinh tế và tập trung chúng vào các lĩnh vực ưu tiên, các giao dịch giữa các chủ thể kinh doanh không dựa trên các tính toán về lợi thế kinh tế, về cơ hội mà là việc giao nhận các sản phẩm hiện vật nhằm thực hiện những chỉ tiêu do nhà lập kế hoạch đề ra.
Kết quả của kế hoạch này tạo ra sự tích luỹ lớn và tiết kiệm cao, tuy nhiên thiếu sự năng động về công nghệ vì cho ra đời những sản phẩm không gắn liền với sự khuyến khích của thị trường, hiệu quả kinh tế rất thấp vừa do không có các chỉ tiêu kinh tế tương đối, vừa không có sự trừng phạt đối với tính phi hiệu quả và sự khuyến khích đối với tính hiệu quả, bên cạnh đó các doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh, nhất là trong logic nền kinh tế trọng cầu.
Kế hoạch trong nền kinh tế thị trường: cho phép doanh nghiệp nhận biết được các nhiệm vụ chủ đạo và các chính sách của mình một cách rõ ràng nhất, trợ giúp việc ra quyết định của các bộ phận chức năng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao tiếp nội bộ trong doanh nghiệp cũng như đối với các đối tác bên ngoài.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, kế hoạch hoá cho phép doanh nghiệp sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả khuyến khích các nhà quản lý thực hiện các quyết định quản lý trong tương lai, cho phép doanh nghiệp đối phó với những thay đổi bất ngờ của môi trường bên ngoài, đồng thời tăng cường khả năng kiểm tra trong mỗi doanh nghiệp.
2. vai trò của kế hoạch hoá :
2.1 sức mạnh thần bí của kế hoạch hoá :
trong thập kỷ sau thế chiến thứ hai, việc theo đuổi phát triển kinh tế của các nước thế giới thứ ba được báo hiệu bằng sự chấp nhận hầu như phổ biến của họ đối với kế hoạch hoá phát triển như là con đường chắc chắn nhất và trực tiếp nhất đi tới những tiến bộ kinh tế . Cho đến gần đây , ít nước thế giới thứ ba nghi ngờ tính hợp lí của việc hoạch định và thực hiện một kế hoạch quốc gia .Việc kế hoạch hoá đã thành một nếp sống trong các bộ của hầu hết các nước kém phát triển và cứ 5 năm hoặc gần như thế một kế hoạch phát triển mới nhất lại được tổng duyệt với sự phô trương ầm ĩ .nhưng tại sao , cho đến gần đây lại có ánh hào quang và sức mạnh bí hiểm về việc kế hoạch hoá phát triển và niềm tin vào tính hữu ích hiển nhiên của nó đến như vậy ? cơ bản là bở vì nhiều người tin rằng kế hoạch hoá quốc gia tập trung sẽ tạo ra một cơ chế quản lý cốt yếu và và có lẽ là duy nhất để vượt qua tất cả mọi trở ngại để phát triển và đảm bảo duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao . Trong một số trường hợp kế hoạch hoá tập trung còn được xem là “vừng ơi , mở cửa ra “cho phép các nước thế giới thứ ba nhanh chóng vượt qua hàng rào ngăn cách mức sống thấp của họ vơí sự thịnh vượng của những kẻ cầm quyền trước đây . Nhưng để đuổi kịp ,các nướ nghèo đã bị thuyết phục và còn tin rằng họ cần một kế hoạch quốc gia toàn diện .Thật không may , thành tích kế hoạch hoá lại không tồn tại được như sự quoảng cáo của nó và nhiều nước kém phát triển giờ đây đang chuyển hướng theo các nền kinh tế định hướng thị trường .
2.2 kế hoạch hoá trong nền kinh tế mệnh lệnh .
Nói đến kế hoạch hoá trong nền kinh tế mệnh lệnh chủ yếu được liên tưởng đến nền kinh tế liên xô và những nền kinh tế kiểu xô viết ở đông âu , nơi mà trước những cuộc cải cách kinh tế năm 1990 chính phủ đã trực tiếp khống chế những hoạt động kinh tế thông qua quá trình đưa ra những quyết định từ trung ương . Một loạt những mục tiêu cụ thể được định trước bởi những nhà kế hoạch kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ . Các nguồn lực , cả vật tư và tài chính , đã được phân phối không phải theo gía thị trường và các điều kiện cung cầu như ở như ở các nền kinh tế thị trường lí tưởng , mà phân phối theo nhu cầu vật tư , lao động và vốn của kế hoạch tổng thể . Do sự khác nhau cốt yếu giữa kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường và kinh tế mệnh lệnh là sự khác nhau giữa thuyết phục và khống chế trong khi nền kinh tế thị trường chỉ cố gắng ngăn chặn nền kinh tế khỏi đi lạc con đường tăng trưởng ổn định mong muốn bằng những công cụ chính sách năng động nhưng gián tiếp , thì nền kinh tế tập trung không chỉ đề ra một loạt những mục tiêu cụ thể thể hiện một quá trình tiến bộ kinh tế mong muốn , mà còn cố gắng thực hiện kế hoạch của mình bằng việc khống chế trực tiếp những hoạt động của hầu như tất cả các đơn vị sản xuất trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân . Tóm lại , kế hoạch kinh tế tập trung áp đặt tình trạng tương lai của tất cả các biến số kinh tế ,bao gồm cả giá cả .
2.3 kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường .
Trước tiên chúng ta phải nhận thức rằng , thậm chí trong những nền kinh tế mà công ty tư nhân chiếm ưu thế như ở mỹ , Anh ,Nhật , kế hoạch hoá cũng đóng vai trò sống còn , mặc dù tương đối gián tiếp trong nền kinh tế .Trong khung cảnh những nền kinh tế này , kế hoạch hoá thường bao gồm những cố gắng có ý thức của chính phủ để đạt được tăng trưởng kinh tế nhanh chóng với mức việc làm cao và giá cả ổn định thông qua những chính sách tài khoá và tiền tệ khác nhau của mình . Nhận thức được rằng thả lỏng hoàn toàn nền kinh tế theo cơ chế thị trường có thể dẫn đến tình trạng kinh tế mất ổn định cao độ , những chính phủ này đã tích cực lập kế hoạch để tạo ra những điều kiện mà sẽ ngăn chặn được sự mất ổn định kinh tế trong khi vẫn kích thích tăng trưởng kinh tế .Những công cụ chính sách được sử dụng chủ yếu là những công cụ trong những lĩnh vực tiền tệ tài chính và các quan hệ ngoại thương . Những chính sách tăng chi tiêu tài chính và tỉ lệ thuế được tăng cường đã tạo ra việc làm nhiều hơn và thu nhập cao hơn cho số dân ngày một tăng , lạm phát và giảm phát được kiểm soát bằng những chính sách phản chu kỳ ,các cuộc điều chỉnh lãi suất và các nguyên tắc chỉ đạo về giá và tiền lương . Những biến động trong cán cân thanh toán được sử lí bằng những điều chỉnh về thuế nhập khẩu , kiểm soát tỉ giá , hạn ngạch nhập khẩu và khuyến khích thuế trong tất cả các phương pháp nói trên , thì những công cụ của chính sách là năng động nhưng gián tiếp Chúng năng động ở chỗ chúng thúc đẩy nền kinh tế theo hướng mong muốn Chúng gián tiếp ở chỗ chỉ nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi sẽ ảnh hưởng đến quyết định của tư nhân xử sự theo cách có thể thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng ổn định . Mặc dù không có kế hoạch chi tiết nào theo nghĩa là một loạt những mục tiêu cụ thể được lập ra trong hầu hết các nền kinh tế thị trường , nhưng việc đật kế hoạch có giới hạn của chính phủ cũng đã được thực hiện trên cơ sở phân tích những xu hướng quá khứ và những dự án cho những điều kiện kinh tế trong tương lai .
2.3 kế hoạch trong nền kinh tế hỗn hợp đang phát triển :
Kế hoạch trong nền kinh tế hỗn hợp đang phát triển được áp dụng hầu hết ở các nước thế giới thứ ba . Đặc điểm của những nền kinh tế này là sự tồn tại của một bối cảnh thể chế ,trong đó một phần nguồn lực sản xuất do tư nhân sở hữu và điều hành trong khi phần kia do nhà nước kiểm soát .Tỷ lệ phân chia thực sự quyền sở hữu tư nhân và nhà nước là khác nhau tuỳ theo từng nước , tuy nhiên không giống như những nền kinh tế thị trường thường chỉ có một mức độ nhỏ cho sở hữu nhà nước , các nền kinh tế hỗn hợp của những nước kém phát triển có sự khác biệt là phần lớn quyền sở hữu và kiểm soát nằm trong tay chính phủ . Khu vực tư nhân của những nền kinh tế này thường có bốn dạng sở hữu riêng biệt :
Thành phần tự túc truyền thống bao gồm các tiểu trang trại tư nhân , bán một phần sản phẩm của họ ra thị trường địa phương
Kinh doanh thương mại và các dịch vụ quy mô nhỏ của các cá nhân và gia đình
Các công ty thương mại tầm trung trong các lĩnh vực nông nghiệp , công nghiệp , thương mại và giao thông được sở hữu và điều hành bởi các doanh nghiệp địa phương
Các xí nghiệp chế tạo , công ty khai thác mỏ và các đồn điền lớn , liên doanh với nước ngoài hoặc có vốn nước ngoài hoàn toàn , chủ yếu bán ra thị trường nước ngoài nhưng đôi khi khá nhiều trên thị trường địa phương . Vốn cho những xí nghiệp này thường được huy động từ nước ngoài , trong khi phần lớn lợi nhuận có xu hướng chuyển ra nước ngoài .
trong bối cảnh thiết lập thể chế như vậy , chúng ta có thể nhận biết hai thành phần cơ bản của việc kế hoạch hoá phát triển trong nền kinh tế hỗn hợp đó là :
Việc chính phủ sử dụng có cân nhắc tiền tiết kiệm trong nước và tài chính nước ngoài là đẻ thực hiện những dự án đầu tư của nhà nước và để huy động những nguồn lực khan hiếm vào các lĩnh vực có thể được mong đợi là đòng góp lớn nhất cho việc thực hiện những mục tiêu kinh tế lâu dài .
Chính sách kinh tế của chính phủ dể kích thích , hướng dẫn , và trong một số trường hợp them chí còn kiểm soát hoạt động kinh tế tư nhân , nhằm bảo đảm một mối quan hệ hài hoà giữa nhữngnguyện vọng của những doanh nghiệp tư nhân và những mục đích xã hội của chính phủ trung ương .
3. Sự cần thiết và bản chất của kế hoạch hoá doanh nghiệp trong cơ chế quản lý mới.
3.1. Sự cần thiết khách quan.
Cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước mà nước ta đang hướng tới xây dựng, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề về lí luận và thực tiễn cần được nghiên cứu giải quyết. Riêng trong lĩnh vực kế hoạch hoá, trong những năm chuyển đổi cơ chế vừa qua đã tồn tại các ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về vai trò và sự tồn tại khách quan của công tác này. Giờ đây thị trường trực tiếp điều tiết và hướng dẫn doanh nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản, công tác kế hoạch nói chung, công tác kế hoạch doanh nghiệp nói riêng tồn tại như một khâu, một bộ phận của công tác quản lý. Thực tế quản lý doanh nghiệp trong những năm chuyển đổi cơ chế đưa lại những bài học bổ ích. “ Coi thường yêu cầu của công tác kế hoạch theo phương thức hạch toán kinh doanh, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ “, đã dẫn đến một số cách làm tuỳ tiện thiếu kỷ cương không kiểm soát nổi. Thực tế đó đã dẫn đến một thực trạng thiếu ổn định trong quản lí và kế hoạch hoá doanh nghiệp.
Từ năm 1981 trở lại đây, qua các cuộc trao đổi, nghiên cứu và bài học thực tế, tài liệu, kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đã cho phép khẳng định: sự tồn tại của công tác kế hoạch trong cơ chế quản lí mới là một tất yếu khách quan, trong điều kiện mới kế hoạch hoá cần phải được tăng cường và đổi mới.
Thực chất của quá trình kế hoạch hoá là quá trình định hướng và điều khiển theo định hướng đối với sự phát triển sản xuất theo quy luật tái sản xuất mở rộng ở mọi cấp của nền kinh tế. Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình xã hội hoá sản xuất và mở rộng phân công hiệp tác lao động, phạm vi và trình độ kế hoạch ngày càng được nâng cao tương xứng. Mô hình kinh tế mà nước ta đang hướng tới xây dựng là mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp, thích ứng với nó là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Trong đó kế hoạch được xác định là một trong những công cụ điều tiết để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế. Như vậy kế hoạch hoá sẽ cùng tồn tại và cùng được cải tiến với các công cụ điều tiết khác của nhà nước. sản xuất
Trong thực tế các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều rất quan tâm đến kế hoạch hoá công ty. Họ đánh giá đúng vai trò, vị trí, xác định rõ chức năng và tổ chức nghiên cứu, thực thi nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện công tác này. Nhà kinh tế học người Anh Roney cho rằng hoạt động kế hoạch hoá công ty là thực sự cần thiết nhằm hai mục đích là tận dụng cơ hội để tăng khả năng thành công của doanh nghiệp và tránh các rủi ro, cạm bẫy của thị trường.
Trong cuốn “ The Pratic of Manafement “, nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ Peter - Drucker cho rằng: Việc lập các đích quyết định các mục tiêu của công ty, huy động các nguồn lực thực hiện và xác định cách đánh giá việc thực hiện các mục tiêu, là nhóm công tác đầu tiên trong tổ hợp gồm 4 nhóm với 19 công việc của quản lý có kế hoạch cấp công ty. Các nhà kinh tế học và các chuyên gia quản lý Pháp và Thuỵ Điển cũng xác định chức năng dự kiến hay kế hoạch hoá là chức năng đầu tiên trong chu trình quản lý cấp công ty.
3.2. Thực chất của kế hoạch doanh nghiệp:
Cũng như mỗi phạm trù quản lý, công tác kế hoạch hoá cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên đều nhằm lột tả đúng bản chất của phạm trù quản lý này. Cách tiếp cận theo quá trình cho rằng, kế hoạch hoá hoạt động của doanh nghiệp là một quá trình liên tục kể từ khi chuẩn bị xây dựng kế hoạch cho tới khi thực hiện kế hoạch nhằm đưa các hoạt động của doanh nghiệp phát triển theo các mục tiêu đã chọn.
Theo Steiner thì: “ Kế hoạch hoá là một quá trình bắt đầu bởi việc thiết lập các mục tiêu và qui định chiến lược, các chính sách và các kế hoạch chi tiết để đạt được mục tiêu. Nó cho phép thiết lập các quyết định và đưa vào thực thi và nó bao gồm một chu kỳ mới của việc thiết lập mục tiêu và qui định chiến lược được thực hiện nhằm hoàn thịên hơn nữa “.
Trong cách tiếp cận này, các khái niệm, hiện tượng tương lai, tính liên tục của quá trình, sự gắn bó của hàng loạt hành động và quyết định để đạt được kết quả mong muốn đều đã được thể hiện. Ngày nay kế hoạch hoá doanh nghiệp được xem như là một quá trình xác định các mục tiêu, các phương án huy động nguồn lực nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã chọn.
3.3. Lợi ích và hạn chế của hoạt động kế hoạch doanh nghiệp.
+ Lợi ích của kế hoạch hoá.
Trước hết, kế hoạch hoá giúp doanh nghiệp phác thảo những ý tưởng và định hướng các tiến triển của doanh nghiệp, bằng cách vạch ra các rủi ro có thể gặp phải và những cơ hội có thể xảy ra.
Kế hoạch hoá vạch ra các chiến lược, chương trình, kế hoạch. . . đó là những khung tổng quát cho sự suy nghĩ, đồng thời là cơ sở cho những quyết định về quản lý doanh nghiệp.
Các khung tổng quát do kế hoạch hoá thiết lập là công cụ trong chỉ đạo và điều hành sản xuất kinh doanh, nó giúp khắc phục những bất trắc trong sản xuất-kinh doanh do sự thiếu hoặc méo mó của thông tin thị trường.
Cuối cùng bằng việc vạch ra các con đường có thể phối hợp các nguồn lực thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp, kế hoạch hoá giúp điều chỉnh nhanh chóng, kịp thời các quyết định quản lý trước những biến đổi thường xuyên, nhanh chóng của thị trường.
+ Hạn chế của kế hoạch hoá.
Các phương án và quyết định kế hoạch thường dựa trên cơ sở kết quả các dự đoán, dự báo, do đó kế hoạch hoá có thể gặp sai lầm do các hiện tượng, quá trình dự tính có thể thay đổi trước các biến động của môi trường. Các thay đổi đó, làm đảo lộn các dự kiến và kết quả dự đoán ban đầu. Khi đó sự sai lệch so với kế hoạch ban đầu sẽ xẩy ra và việc điều chỉnh lại là một tất yếu.
Kế hoạch hoá là một quá trình dài và khó khăn nó đòi hỏi sự nỗ lực của nhiều người, những khoản chi phí lớn. Mọi sự thay đổi hoặc điều chỉnh phương án kế hoạch thường kéo theo các hậu quả nhiều mặt, vì vậy đều khó thực hiện.
Cùng với sự gò bó của thủ tục hành chính, sự thiếu đồng bộ của môi trường pháp lý cũng làm sai lệch kết quả thực hiện và cản trở đến các hoạt động khác nhau của kế hoạch hoá.
4. Vai trò của công tác kế hoạch trong điều kiện hiện nay.
4.1. Doanh nghiệp, thị trường và vai trò hoạt động của kế hoạch hoá doanh nghiệp.
Trong mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp, về nguyên tắc thị trường sẽ trực tiếp điều tiết hoạt động của doanh nghiệp. Thị trường sẽ hướng dẫn doanh nghiệp trong định hướng, xây dựng và thực thi các phương án sản xuất kinh doanh tối ưu để tìm giải pháp cho các vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp. Song trong mô hình kinh tế hiện nay ở nước ta với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì trước khi trực tiếp điều tiết và hướng dẫn hoạt động của doanh nghiệp, thị trường đã được nhà nước điều tiết.
Sơ đồ 1 mối quan hệ giữa nhà nước, doanh nghiệp và thị trường.
Nhà nước
Thị trường trong nước
Cung Cầu
Thị trường quốc tế
Cầu Cung
Cung
-----------------
Doanh nghiệp
-----------------
Cầu
( Nguồn: Giáo trình chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp. )
Trong phạm vi doanh nghiệp, kế hoạch hoá là khâu đầu tiên, bộ phận quan trọng của công tác quản lý. Hoạt động này giúp doanh nghiệp hoạch định các mục tiêu hoạt động dự báo các khả năng và nguồn lực, xác định và đánh giá các phương án hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh. Các phương án kế hoạch với các sản phẩm khác nhau theo thời gian (chiến lược, chương trình, dự án. . . ) là công cụ để điều hành và chỉ huy sản xuất, là cơ sở để xác định nhiệm vụ và mối quan hệ công tác giữa các bộ phận và giữa người lao động trong quá trình thực thi các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
4.2. Kế hoạch trong chu trình quản lý doanh nghiệp.
Quản lý là một quá trình liên tục bao gồm các khâu xác định mục tiêu, tổ chức thực hiện các mục tiêu và kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu. Quá trình đó lập thành một chu trình quản lý với việc thực hiện các chức năng quản lý kế tiếp nhau. Chu trình quản lí doanh nghiệp được biểu hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: chu trình quản lý doanh nghiệp.
Lập kế hoạch thực hiện các mục tiêu
Chỉ huy đơn vị hướng tới mục tiêu
Tổ chức các nguồn lựcthực hiện mục tiêu
Phối hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài
Kiểm tra và điều chỉnh
( Nguồn: Giáo trình chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp. )
Trong chu trình này, lập kế hoạch là khâu đầu tiên với việc phác thảo các mục tiêu và phương án thực hiện. Trong thực hành quản lý, dù ở bất kì cấp nào, các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều xác định dự kiến là loại chức năng đầu tiên trong hệ thống các chức năng quản lý. Hoạt động này không những góp phần xác định đúng các mục tiêu, hướng đi mà còn góp phần xác lập, đánh giá và lựa chọn các phương án phối hợp các nguồn lực bên trong để thực hiện có kết quả tốt các mục tiêu sản xuất kinh doanh.
5. Yêu cầu của công tác kế hoạch doanh nghiệp:
Quá trình lập kế hoạch hoá doanh nghiệp cần quán triệt những yêu cầu chủ yếu sau:
5.1. Công tác kế hoạch trong doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu hiệu quả.
Phải coi hiệu quả là tiêu chuẩn hàng đầu cho việc xây dựng, lựa chọn và quyết định phương án kế hoạch của doanh nghiệp. Để làm được điều này cần thực hiện kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh, đặt nền tảng hoạt động của doanh nghiệp trên các nguyên tắc kinh doanh, xoá bỏ bao cấp, đẩy doanh nghiệp đối mặt với thị trường, xoá bỏ sự bảo hộ sản xuất trong lĩnh vực kinh doanh, đồng thời coi nhu cầu thị trường và các tiềm năng của doanh nghiệp là căn cứ hàng đầu trong quá trình hoạch định, đánh giá và lựa chọn phương án kinh doanh của doanh nghiệp.
5.2. Công tác kế hoạch doanh nghiệp cần phải quán triệt yêu cầu hệ thống - đồng bộ -linh hoạt.
Thực hiện yêu cầu này, trong các khâu công tác kế hoạch hoá phải đảm bảo cho mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp đồng hướng và góp phần thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu bao trùm cả hệ thống. Để làm được việc này thì việc đổi mới công tác kế hoạch phải gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý và kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân chuyển hệ thống kế hoạch doanh của nghiệp từ chỗ là tổng hợp các chỉ tiêu được tính toán rời rạc, cơ học. . . sang xác định các phương án kế hoạch theo phương pháp đồng bộ có mục tiêu.
Bên cạnh đó việc đổi mới, hoàn thiện công tác kế hoạch doanh nghiệp phải tiến hành đồng bộ từ phạm vi, nội dung phương pháp đến đổi mới các vấn đề lí luận và phương pháp luận truyền thống.
5.3. Công tác kế hoạch doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu vừa tham vọng vừa khả thi.
Yêu cầu này đòi hỏi khi hoạch định kế hoạch phải điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, môi trường kinh doanh, nắm chắc cơ hội, rủi ro và cạm bẫy của thị trường.
Kế hoạch phải được hoạch định trên cơ sở chủ động khai thác các khả năng của nguồn lực bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, có tính đến sự thay đổi của chúng dưới tác động của tiến bộ khoa học-kĩ thuật. Đồng thời phải đảm bảo được tính toàn diện và kế thừa.
5.4. Công tác kế hoạch doanh nghiệp phải quán triệt nhu cầu kết hợp mục tiêu chiến lược và mục tiêu tình thế.
Các mục tiêu kế hoạch phải được hoạch định và điều chỉnh linh hoạt theo yêu cầu thay đổi của môi trường và điều kiện kinh doanh, phải thực hiện phương châm “Lợi dụng mọi cơ hội kinh doanh, lấy ngắn nuôi dài coi lợi ích trước mắt là phương tiện để đạt được mục đích cơ bản hơn, cao hơn trong tương lai. Kết hợp chuyên môn hoá với đa dạng hoá sản xuất và kinh doanh tổng hợp trong hoạch định kế hoạch.
5.5. Công tác kế hoạch doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp.
Kết hợp hài hoà các loại lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp là động lực cho sự phát triển, là cơ sở thực thi các phương án kinh doanh. Yêu cầu này cần được quán triệt trong các khâu của công tác kế hoạch doanh nghiệp theo các hướng:
+Việc hoạch định, lựa chọn và điều chỉnh các phương án kinh doanh phải quán triệt yêu cầu toàn diện và hệ thống. Vừa chú trọng quan điểm cục bộ, vừa chú ý đúng mức đến lợi ích kinh tế quốc dân.
+Xử lý các quan hệ tài chính giữa nhà nước với doanh nghiệp và các phương án phân phối trong nội bội doanh nghiệp. Đồng thời trong việc giải quyết các mối quan hệ hợp tác, liên doanh và liên kết kinh tế phải trên nguyên tắc: Bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau hai bên cùng có lợi.
Sơ đồ 4: mối quan hệ giữa các kế hoạch tác nghiệp của doanh nghiệp.
Kh
tài chính
KH
Marketing
Kh r&p
Kh
sản xuất
Kh
nhân sự
( Nguồn: Giáo trình kế hoạch kinh doanh. )
II / các vấn đề lí luận chung về thị trường và cạnh tranh .
Khái niệm về thị trường :
khái niệm chung theo cách hiểu thông thường , thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi mua bán hàng hoá . Theo quan đIểm của marketing thì thị trường là biểu hiện thu gọn quá trình lưu thông mà thông qua đó người tiêu dùng quyết định mua những mặt hàng nào , người sản xuất quyết định sản xuất cái gì , sản xuất như thế nào , sản xuất cho ai , tất cả những yếu tố này dược dung hoà bằng sự điều chỉnh giá .
Theo các nhìn nhận khác thì thị trường chứa tổng cung tổng cầu về một loại hàng hoá nào đó , là tấm gương soi để các doanh nghiệp nhận thức nhu cầu sản xuất và đánh giá hiệu quả kinh doanh đối với những nhà làm kế hoạch doanh nghiệp thì thị trường vừa là cơ sở vừa là đối tượng của của kế hoạch . Từ những thông tin nhận dược từ thị trường những nhà làm kế hoạch lập nên kế hoạch phát triển chung của công ty và các kế hoạch tác nhgiệp khác như kế hoạch sản xuất , kế hoạch tài chính , kế hoạch Marketing , kế hoạch thị trường …
Thị trường là một phạm trù của nền sản xuất hàng hoá- nơi mà hàng hoá thực hiện sứ mệnh của nó là vật thể trao đổi , mua bán . Một hàng hoá chỉ là hàng hoá khi nó đi ra thị trường và dược thị trường chấp nhận . Ngược lại thị trường cũng chỉ là thị trường khi có sự trao đổi hàng hoá .
Mối quan hệ giữa ngành sản xuất và thị trường được thể hiện trong hình sau đây :
Ngành sản xuất
(tập thể người
bán )
Thị trường
(tập thể người mua)
Thông tin
Hàng hoá
Tiền
Thông tin
(nguồn : giáo trình Marketing )
đặc điểm của thị trường :
Thị trường gắn liền với phân công lao động xã hội và lao động quốc tế Thị trường là nơi thể hiện sự lao động xã hội một cách tự phát do bàn tay điều tiết của cung và cầu nó có một số đặc điểm sau :
+ Thị trường là nơi thể hiện vai trò mua và bán tại đây người tiêu dùng tối đa hoá sự thoả mãn nhu cầu còn người sản xuất tối đa hoá lợi nhuận của mình .
+ Quyền sở hữu trong quan hệ thị trường tạo ra cho cơ quan kinh tế các doanh nghiệp tư nhân quyền định đoạt đối với tài sản , và vì vậy khuyến khích tối đa hoá lợi nhuận từ những lỗ lực của họ .
+ Việc tối đa hóa lợi nhuận đó được thực hiện trong một môi trường tự do đối với các doanh nghiệp và thông qua những lựa chọn sao cho các lợi ích kinh tế quyết định xây dựng những phương án kinh doanh .
+ Sự cạnh tranh bảo đảm để các nhà sản xuất phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả nhất .
Chức năng của thị trường :
- Chức năng thừa nhận :
Một hàng hoá sẽ không có giá trị nếu nó không dược thị trường thừa nhận . Vấn đề không phải là nhà sản xuất có cái gì mà là khách hàng đang cần cái gì và sẽ cần cái gì .
Chức năng thực hiện :
Thị trường là nơi để hàng hoá thực hiện giá trị và giá trị trao đổi của nó . ở đó người bán thực hiện giá trị của hàng hoá còn người mua thực hiện giá trị sử dụng của hàng hoá .
- Chức năng điều tiết và kích thích :
Bằng chức năng điều tiết của mình , cơ chế thị trường điều chỉnh các quá trình sản xuất xã hội để tạo ra một cơ cấu kinh tế – xã hội tương đối ổn định . Sự điều tiết đó người ta gọi là sự điều tiết của " Bàn tay vô hình " . Trước hết thị trường là nơi kích thích các nhu cầu của người tiêu dùng . Khi ra thị trường người tiêu dùng thấy và có thể mua được những hàng hoá , dịch vụ thoả mãn nhu cầu của họ việc thoả mãn những nhu cầu chính là một động lực kích thích sản xuất , lao động và kiếm tiền ,đồng thời lợi nhuận cao tạo ra động lực kích thích họ sản xuất nhiều hơn .
- Chức năng thông tin :
Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi hàng hoá , dịch vụ nên chỉ có ở đó người mới biết được cần phải sản xuất cái gì , sản xuất cho ai , sản xuất bao nhiêu với giá cả như thế nào . Chỉ có ra thị trường thì ngườiĩ và người tiêu dùng mới biết được mình phải làm gì trong một tương quan xã hội nhất định .
Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường :
các nhân tố kinh tế :
Các nhân tố này bao hàm các nguồn lực vật chất mà mỗi nhóm khách hàng có , như các nguồn lực cho sản xuất , tốc độ tăng trưởng kinh tế , thu nhập , các nguồn lực đầu tư … , Các nguồn lực này ảnh hưởng đến cung cầu hàng hoá trên thị trường .
Các nhân tố chính trị – xã hội :
Các chính sách đối nội , đối ngoại của một quốc gia , các nền văn hoá , những phong tục tập quán đều tạo ra những nhu cầu khác nhau đối với những nhóm dân cư . Mỗi một biến động về chính trị cũng tạo ra những tác động rất lớn đến thị trường .
Các nhân tố tâm sinh lí :
Những tác động về mặt tâm sinh lí cũng ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu dùng bởi vì xét cho cùng thì những yếu tố tâm lí thay đổi cũng tạo ra những nhu cầu khác nhau về mặt chủng loại hàng hoá nào đó .
Các nhân tố thời tiết khí hậu :
Sự thay đổi thưòi tiết và khí hậu tạo ra những nhu cầu mới và và những điều kiện mới cho sản xuất do đó thị trường cũng thay đổi theo .
Cung cầu và giá cả:
Quy mô của thị trường phụ thuộc vào nhu cầu , nhu cầu lớn thì cung lớn và ngược lại . Giá cả được quyết định bởi lượng cung và cầu trên thị trường .
Phân loại thị trường :
Phân loại thị trường theo quan hệ mua bán giữa các nước :
Thị trường dân tộc là nơi diễn ra hoạt động mua bán của những người trong cùng một quốc gia và các quan hệ kinh tế diễn ra ở đây chỉ ảnh hưởng đến tình hình kinh tế – chính trị trong quốc gia đó .
Thị trường thế giới là nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hoá giữa các nước với nhau . Các quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường thế giới ảnh hưởng trực tếp đến việc phát triển của mỗi nước .
phân loại thị trường căn cứ vào mức độ xã hội hoá của của thị trường :
Theo cách này người ta phân chia thị trường thành thị trường khu vực và thị trường thống nhất toàn quốc
thị trường khu vực là thị trường thuộc một địa phận của một vùng nào đó , nó được giới hạn bởi không gian địa lí cụ thể .Thị trường khu vực bị chi phối bởi các nhân tố kinh tế – xã hội , tự nhiên của các khu vực (vùng ) đó .Các quan hệ mua bán chủ yếu diễn ra trong vùng .
Thị trường thống nhất toàn quốc là thị trường dược giới hạn bởi phạm vi lãnh thổ của một quốc gia ( ví dụ : thị trường Việt Nam , thị trường Nhật Bản , thị trường EU… ) thị trường thống nhất đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của quốc gia .Tuy nhiên sự ổn định của các quan hệ kinh tế trên thị trường này không lớn bằng trên thị trường khu vực .
5.3. phân loại thị trường căn cứ vào hàng hoá lưu thông trên thị trường :
Theo cách này người ta phân chia thành thị trường tư liẹu sản xuất và thị trường tiêu dùng
Vai trò của tư liệu sản xuất trong tái sản xuất quyết định vai trò của thị trường tư liệu sản xuất . Trên thị trường tư liệu sản xuất thường có các nhà kinh doanh lớn ( vua sắt thép , vua xăng dầu …) tại đây sự cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ hơn , quy mô thị trường và khả năng hình thành thị trường thống nhất toàn quốc lớn hơn .nhu cầu trên thị trường này không phong phú đa rạng như thị trường tiêu dùng , nó tương đối rõ ràng .
Tính đa dạng của thị trường tiêu dùng cuối cùng quyết định tính đa dạng phong phú sôi động của thị trường tiêu dùng .thị trường tiêu dùng phổ biến là thị trường cạnh tranh , nhưng mức độ cạnh tranh không gay gắt như thị trường tư liệu sản xuất .
5.4. phân loại thị trường theo vai trò của người mua và ngư._.ời bán trên thị trường :
trên thị trường ngưòi bán vai trò quyết định thuộc về người bán hàng , các quan hệ kinh tế trên thị trường này là không khách quan . Giá cả bị áp đặt , cạnh tranh bị thủ tiêu hoặc không đủ điều kiện để hoạt động , các kênh phân phối và lưu thông không hựop lý . Nhiều mặt hàng loại hàng cung ứng ra thị trường không theo yêu cầu của thị trường .
trên thị trường người mua vai trò quyết định trong quan hệ mua bán thuộc người mua các quan hệ kinh tế được hình thành một cách khách quan . Để đạt được thành công trên thị trường người mua các nhà kinh doanh cần khôn khéo nhận thức tiếp cận , xâm nhập và khai thác thị trường .
5.5. phân loại thị trường căn cứ vào vai trò của từng khu vực thị trường trong hệ thống thị trường :
Theo cách này người ta phân thành thị trường chính và thị trường bổ xung
thị trường là mà khối lượng hàng hoá tiêu thụ trên đó chiếm đại bộ phận so với khối lượng hàng hoá được đưa ra tiêu thụ ở các khu vực thị trường khác trên thị trường chính có các nhà kinh doanh lớn hoạt động do đó mức độ cạnh tranh cũng gay gắt và phức tạp hơn . Số lượng người mua đông vì tâm lý tin tưởng vào các hãng các doanh nghiệp lớn . Nhình chung khi đã xâm nhập được thị trường chính thì quá trình kinh doanh tương đối an toàn .
5.6. phân loại thị trường theo mức độ cạnh tranh :
Theo cuốn từ điển kinh doanh xuất bản năm 1992 ở Anh thì “cạnh tranh là sự ganh đua , sự kình định giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một loại nguồn lực sản xuất hoặc cùng loại khách hàng về phía mình “ .Dưới góc độ thực chứng ngưòi ta cho rằng có hai mức độ cạnh tranh :
Cạnh tranh hoàn toàn hay cạnh tranh thuần tuý : là tình trạng giá cả không thay đổi trong toàn bộ các điạ danh của thị trường , bởi vì người mua ,người bán đều biết tường tận về các điều kiện của thị trường .Cạnh tranh hoàn toàn xuất hiện khi có các điều kiện sau :
+ Có nhiều người mua và người bán , không ai có thể khống chế được giá cả .
+ Sản phẩm của doanh nghiệp là giống nhau về tính chất và chất lượng.
+ Các nguồn lực có thể di chuyển tự do trên thị trường .
+ Người cạnh tranh có đầy đủ hoặc tương đối về thông tin diễn biến của thị trường .
Cạnh tranh không hoàn hảo :
Là hình thức cạnh tranh khi có một số nhà sản xuất có thể chi phối giá cả trên thị trường .
III / kế hoạch phát triển thị trường .
Bất kỳ một doanh nghiệp nào từ khi bắt đầu thành lập để hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vức nào đó thì đều phải trải qua một quá trình phát triển từ chỗ quy mô nhỏ đến quy mô lớn ,từ chỗ thị trường nhỏ đến chiếm lĩnh những thi phần lớn . Đây là mong muốn tất yếu của các doanh nghiệp . Tuy nhiên để đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay là một điều không đơn giản . Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải đưa ra những kế hoạch phát triển , hướng đi đúng đắn và những giải pháp hiệu quả .Phát triển thị trường là một vấn đề quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp nó khẳng định sự lớn mạnh của các doanh nghiệp . Và việc phát triển thị trườnglà rất khó khăn , không thể thực hiện trong thời gian ngắn mà nó đòi hỏi một quý trình lâu dài ,do đó phải có kế hoạch cụ thể để thực hiện để chánh những sai lầm và hạn chế rủi ro .
kế hoạch Marketing :
. Nội dung hoạt động của Marketing :
nghiên cứu thị trường :
Bước đầu tiên của công tác Marketing là phải tìm ra được nhu cầu của khách hàng .
Theo Mashcow thì nhu cầu được chia thành hai cấp bậc là nhu cầu thấp và nhu cầu cao :
Sinh lý
An toàn
Xã hội
Được tôn trọng
Tự hoàn thiện
Nhu cầu thấp Nhu cầu cao
Xây dựng chiến lược Marketing :
Qua quá trình nghiên cứu thị trường và đánh giá nguồn lực của doanh nghiệp , doanh nghiệp vạch ra hướng đi để tiếp cận nhu cầu thị trường . Cụ thể doanh nghiệp phải xây dựng được :
Chiến lược cụ thể về thị trường mục tiêu
Định vị sản phẩm .
Xây dựng Marketing hỗn hợp (Marketing – Mix).
Dự toán ngân sách cho Marketing .
Tổ chức thực hiện Marketing –Mix.
Marketing –mix được thực hiện theo nguyên tắc 4P : Product – Price – Place – Promotion ( Sản phẩm – Giá cả - Địa điểm – Xúc tiến ) .
1.2 Vai trò của kế hoạch Marketing :
Khái niệm chung về Marketing :
Marketing là những gì doanh nghiệp làm để tìm hiểu khách hàng của mình là những ai và họ cần gì , muốn gì và làm thế nào để thoả mãn nhu cầu của họ đồng thời tạo ra lợi nhuận .
Marketing thực hiện những vấn đề chủ yếu sau :
cung cấp sản phẩm , dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của khách hàng .
Đưa ra mức giá mà khách hàng có thể chấp nhận được
Đưa được sản phẩm và dịch vụ đến tay khách hàng
Cung cấp thông tin và thu hút khách hàng mua sản phẩm , dịch vụ của doanh nghiệp .
Vai trò của kế hoạch Marketing :
Kế hoạch Marketing là một trong những kế hoạch chức năng quan rang để giúp doanh nghiệp thực hiện được các mục tiêu tổng thể .
Cơ sỏ hình thành kế hoạch Marketing :
Mục tiêu
Các lực lượng thị trường
Những mạnh yếu của doanh nghiệp
Vị trí mong muốn
Khoảng cách chiến lược
Vị trí hiện tại
Kế hoạch Marketing
( nguồn : giáo trình kế hoạch kinh doanh )
những nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch Marketing :
+ Xác định nhu cầu của khách hàng thông qua nghiên cứu thị trường.
+ Định rõ những thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp sẽ hướng tới .
+ phân tích vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp từ đó đưa ra kế hoạch Marketing hợp lý .
+ giúp doanh nghiệp phát triển các công cụ Marketing để thoả mãn nhu cầu của khách hàng
Thông qua việc xây dựng và sử dụng kế hoạch Marketing cho doanh nghiệp biết :
+ biết được mục tiêu Marketing của doanh nghiệp
+ triển vọng và thực trạngcủa nhu cầu thị trường từ đó khám phá các cỏ hội kinh doanh mới .
+ xác định vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp .
+ phối hợp các hoạt động Marketing của doanh nghiệp .
+ đặt khuôn khổ thành lập ngân sách và lịch trình hoạt động .
1.3. Kế hoạch Marketing :
Là cơ sở của mọi kế hoạch tác nghiệp khác trong doanh nghiệp, từ dự báo nhu cầu, đến kế hoạch bán hàng, kế hoạch sản xuất, kế hoạch dự trữ, kế hoạch ngân sách. Từ kế hoạch phát triển sản phẩm mới đến kế hoạch bán hàng và kế hoạch nhân sự. Để có thể xây dưng kế hoạch Marketing doanh nghiệp phải xác định được khối lượng bán hàng trên thị trường, phải đánh giá được nhu cầu của thị trường từ đó đưa ra các hoạt động Marketing khác. Muốn làm vậy doanh nghiệp cần quan tâm đến:
Cầu thị trường về loại sản phẩm hàng hoá mà công ty sản xuất kinh doanh :
Đó là toàn bộ khối lượng sản phẩm được mua bởi một loại khách hàng nhất định, tại một vùng địa lý nhất định, với những điều kiện môi trường nhất định và tương ứng với một chương trình Marketing nhất định. Chính vì vậy việc dự báo nhu cầu thị trường là vô cùng quan trọng đối với việc lập các kế hoạch Marketing của doanh nghiệp.
Cầu doanh nghiệp :
Là một bộ phận của cầu thị trường do doanh nghiệp lắm giữ, việc xác định, đánh giá yếu tố này là rất quan trọng, nó cho phép doanh nghiệp biết vị thế của họ trên thị trường, về nhu cầu và khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nó là cơ sở để quyết định quy mô, phương thức tiến hành các hoạt động Marketing. Doanh nghiệp sẽ căn cứ vào thị phần của mình trên thị trường, đối tượng khách hàng mình đang phục vụ để ra các quyết định Marketing cho phù hợp.
Cầu của doanh nghiệp có thể xác định bằng công thức:
Di =Si * D . Di : Cầu của thị trường .
D : Cầu của doanh nghiệp .
Si : Thị phần của doanh nghiệp .
Việc lựa chọn thị trường của doanh nghiệp : là quá trình phân chia người tiêu dùng thành nhóm trên cơ sở khác biệt về nhu cấu, tính cách, hành vi từ đó căn cứ vào khả năng thực tế của doanh nghiệp để lựa chọn thị trường cho phù hợp.
Doanh nghiệp có thể tập trung vào một thị trường đơn lẻ phù hợp tự nhiên với sản phẩm của doanh nghiệp, hoặc phải tập trung để sản xuất 1 loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường, hoặc tập trung vào việc thoả mãn tối đa nhu cầu của một nhóm người nào đó, hay là việc tập trung vào thoả mãn nhu cầu của toàn bộ thị trường.
Sau khi doanh nghiệp đã xác định được thị trường mục tiêu, cần tiến hành việc dự báo nhu cầu của thị trường. Công việc này cho phép các đơn vị sản xuất kinh doanh thiết kế được sản phẩm để thoả mãn nhu cầu. Quyết định đầu tư thiết bị và thiết kế công suất hợp lý, làm giảm chi phí sản xuất và chi phí hoạt động. Bên cạnh đó việc dự báo cầu thị trường chó phép doanh nghiệp giảm được tối đa các chi phí về dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất, bố trí lao động, quản lý sản xuất, tồn kho …. Làm giảm chi phí cho doanh nghiệp.
Để tiến hành công tác dự báo, người làm công tác kế hoạch có thể sử dụng một số phương pháp sau:
+ Phương pháp giản đơn: theo phương pháp này thì nhu cầu về hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường trong thời kì dự báo chính bằng yêu cầu thực tế kì trước.
Ta có Ft+1 = Dt
Trong đó Ft+1: nhu cầu về sản phẩm doanh nghiệp trong tương lai.
Dt: mức yêu cầu thực tế kì trước.
Phương pháp này có ưu điểm đơn giản, rễ áp dụng tuy nhiên chỉ chính xác trong một số trường hợp, đó là các sản phẩm thiết yếu ít chịu sự tác động biến đổi của các yếu tố trong nền kinh tế.
+ Phương pháp trung bình: theo phương pháp này nhu cầu của thị trường kì dự báo chính bằng trung bình cộng của các mức yêu cầu thực tế trong quá khứ.
Ft+1 =
Trong đó Ft+1 : nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trong tương lai.
Dt : mức yêu cầu thực tế trong quá khứ.
+ Phương pháp trung bình động: là sự kế hợp giữa phương pháp giản đơn và phương pháp trung bình. Với n là số hữu hạn thì mỗi kì dự báo ta bỏ đi số liệu thống kê cũ và số liệu thống kê mới.
+ Phương pháp phân tích cấu trúc dòng cầu: thông qua sự tác động của 3 yếu tố là tính xu hướng của dòng cầu, tính thời vụ và tính ngẫu nhiên, người ta có thể xác định được xu hướng biến đổi của dòng cầu thị trường, sự thay đổi như thế nào của cầu thị trường về các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đang tham gia sản xuất kinh doanh trước những tác động mang tính thời vụ cũng như các tác động mang tính ngẫu nhiên.
Bên cạnh các phương pháp định lượng người làm công tác kế hoạch cũng cần quan tâm đến một số phương pháp định tính như việc dự báo trên đánh giá của người bán, dự báo trên đánh giá của khách hàng cũng như việc sử dụng phương pháp mô phỏng để dự báo.
Kế hoạch Marketing được thực hiện thông qua một loạt các kế hoạch như: kế hoạch bán hàng, kế hoạch phân phối, kế hoạch quảng cáo, kế hoạch khuyến mại và kế hoạch phát triển lực lượng bán hàng .
Dự báo bán hàng
Chiến lược của doanh nghiệp
ấn định mục tiêu
Phù hợp năng lực của doanh nghiệp
Kế hoạch bán hàng
Kế hoạch bán hàng :
( nguồn : giáo trình kế hoạch kinh doanh )
Kế hoạch phân phối :
- Kênh phân phối :
+ Trực tiếp : Gía thấp , tiếp xúc ít khách hàng , thông tin phản hồi từ khách hàng chính xác .
+ Gián tiếp : Tiếp cận nhiều khách hàng , thông tin phản hồi có độ chính xác giảm .
ấn định mục tiêu phân phối : từ việc dự báo cầu doanh nghiệp ,doanh nghiệp đưa ra mức sản lượng phải đạt được cho các đại lý bán hàng .
Doanh nghiệp sẽ đưa ra các giải pháp Marketing , và các hành động cụ thể để thực hiện mục tiêu kế hoạch .
Kế hoạch quảng cáo :
Kế hoạch quảng cáo là công cụ giao tiếp , nhìn và nghe nhìn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
+ Mục đích của quảng cáo : làm cho khách hàng biết đến sản phẩm của doanh nghiệp , thích sản phẩm của doanh nghiệp và mua sản phẩm đó .
Mục tiêu của kế hoạch quảng cáo :
+ định tính : uy tín , tăng hình ảnh sản phẩm …
+ định lượng : tăng doanh số , tăng thị phần …
Kế hoạch cho các phương tiện quảng cáo .
Kế hoạch khuyến mại :
bao gồm các công cụ khuyến mại ngắn hạn để kích thích mua hàng hay để bán được nhiều hàng hoá , dịch vụ hơn , công cụ khuếch trương sản phẩm , nó có tác dụng tăng doanh số tức thì . Để đạt được mục tiêu này cần phải có ngân sách .
Kế hoạch bán hàng trực tiếp :
bán hàng trực tiếp là việc nhân viên bán hàng tiếp xúc trực tiếp một cách có nghệ thuật với khách hàng mua sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp hoặc mua với khối lượng lớn hơn dự định .
Kế hoạch bán hàng trực tiếp bao gồm các bước :
+ Khảo sát và đánh giá khách hàng .
+ Tiếp cận khách hàng .
+ Giới thiệu sản phẩm .
+ Kết thúc bán hàng .
+ Quản lý sau bán hàng
Kế hoạch phát triển lực lượng bán hàng :
- Lực lượng bán hàng bao gồm : +Nhân viên bán hàng.
+ Cán bộ phụ trách .
+Nhân viên hành chính.
Bảng 01 : Kế hoạch phát triển lực lượng bán hàng
Phát triển lực lượng bán hàng cho cặp sản phẩm trên thị trường
Số lượng
Thời gian
Ngân sách
* Cơ cấu lực lượng bán hàng
Người phụ trách
- Tư vấn
-Nhân viên bán hàng
* Tuyển dụng
- Nội bộ
- Bên ngoài
* Đào tạo :
- Kỹ thuật
- Thương mại
2. Kế hoạch phát triển thị trường :
2.1. Phân khúc thị trường :
Các thị trường đều bao gồm những người mua dều khác nhau về một mặt và nhiều mặt .Họ có thể khác nhau về mong muốn ,sức mua , địa điểm , thái độ mua sắm và cách thức mua sắm . Trong số những biến này biến nào cũng có thể ding để phân khúc thị trường .
Mọi thị trường đều có thể phân ra thành các khúc thị trường các nhóm nhỏ thị trường và cuối cùng là những cá nhân .
Khúc thị trường là những nhóm lớn có thể nhận biết được trong thị trường .Các khúc thị trường thu hút một số đối thủ cạnh tranh , trong khi đó nhóm nhỏ thị trường chỉ thu hút một hay một vài đối thủ cạnh tranh .
Các cách phân khúc thị trường :
Sở thích đông nhất : Thể hiệnmột thị trường trong đó tất cả người tiêu dùng đều có sở thích đại loại như nhau . Thị trường này không thể hiện các khúc tự nhiên . Ta có thể dự đoán ràng những nhãn hiệu hiện có đều tương tự nhau và cụm lại ở giữa .
Sở thích phân tán : Trong thị trường này người tiêu dùng có những sở thích khác nhau rất nhiều .
Sở thích cụm lại : thị trường này có thể có những cụm sở thích khác nhau gọi là những khúc thị trường tự nhiên .
Quy trình phân khúc thị trường :
Gai đoạn khảo sát : nhà nghiên cứu tiến hành phỏng vấn thăm dò và tập trung vào các nhóm để hiểu sâu hơn những động cơ , thái độ và hành vi của người tiêu dùng , sử dụng những kết quả thu được , người nghiên cứu soạn thảo một mẫu phiếu câu hỏi để thu nhập những số liệu về
+ Những tính chất và xếp hạng tầm quan trọng của chúng .
+ Mức độ biết đến nhãn hiệu và xếp hạng nhãn hiệu .
+ Thái độ đối với những loại sản phẩm .
+ những yếu tố về nhân khẩu học , tâm lý và phương tiện truyền thông ưa thích của những người trả lời .
Gai đaon phân tích : Người nghiên cứu áp dụng những cách phân tích yếu tố đối với các số liệu để loại bỏ những biến có liên quan chặt chẽ . Sau đó người nghiên cứu sẽ áp dụng cách phân tích cụm để tạo ra một số nhất định về những khúc thị trường khác nhau nhiều nhất .
Thái độ xác định đặc điểm : Bây giờ mỗi cun được xác định đặc điểm phân biệt về thái độ , hành vi ,nhân khẩu học , tâm lý học và thói quen sử dụng phương tiện truyền thông .
Mỗi khúc thị trường có thể đặt tên theo đặc điểm nổi bật nhất . Quy trình phân khúc thị trường này phải được lặp lại định kỳ bởi vì các khúc thị trường sẽ thay đổi theo thời gian .
. Xác định thị trường mục tiêu :
2.2.1. Đánh giá các khúc thị trường :
Câu hỏi đầu tiên là khúc thị trường tiềm ẩn có những đặc điểm về quy mô và tốc độ tăng trưởng có vừa sức hay không . Những công ty lớn ưa thích những thị trường có mức tiêu thụ lớn , công ty nhỏ lại tránh những thị trường lớn vì lí do cạnh tranh và tranh thủ những thị trường nhỏ .
Mức tăng trưởng của thị trường cũng là đặc điểm quan trọng để doanh nghiệp chon thị trường mục tiêu bởi vì các công ty nói chung đều muốn có lợi nhuận ngày càng tăng . Song các đối thủ cạnh tranh sẽ nhanh chóng xâm nhập những thị trường đang tăng trưởng và làm giảm đi khả năng sinh lời của chúng .
Mức độ hấp dẫn về cơ cấu của khúc thị trường :
Một khúc thị trường có thể có quy mô và mức tăng trưởng cao nhưng lại thiếu tiềm năng sinh lời . Porter đã phát hiện ra năm lực lượng quyết định mức độ hấp dẫn nội tại về lợi nhuận lâu dài của một thị trường hay một khúc thị trường :
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Đối thủ cạnh tranh trong ngành
Sản phẩm thay thế
Người cung ứng
Khách hàng
Đối thủ cạnh tranh trong ngành : Một khúc thị trường sẽ không hấp dẫn nếu có quá nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh hay là hay tấn công . Sẽ nguy hiểm hơn khi các khúc thị trường đó đã ổn định hay đang suy thoái. Nừu tăng thêm năng lực sản xuất quá nhiều , nếu chi phí cố định cao ,nếu rào cản suất cao hay nếu các đối thủ cạnh tranh đều đã đầu tư quá nhiều để bám trụ tại thị trường đó . Tình hình này sẽ dẫn đấn các cuộc chiến về giá cả thường xuyên , những chiến dịch quảng cáo cùng những đợt tung ra sản phẩm mới và sẽ làm cho các công ty phải chi phí rất nhiều để cạnh tranh .
Mối đe doạ từ đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn : Một thị trường sẽ không hấp dẫn nếu nó có thể thu hút những đối thủ cạnh tranh mới , những công ty sẽ mang theo vào năng lực sản xuất mới , những nguồn tài nguyên đáng kể và phấn đấu để tăng thị phần .
Mức đọ hấp dẫn của khúc thị trường thay đổi theo chiều cao của rào cản nhập , xuất :
Rào cản Xuất
Thấp Cao
Lợi nhuận ổn định , thấp Rủi ro, lợi nhuân thấp
Lợi nhuân ổn định , cao Rủi ro , lợi nhuận cao
Rào
Thấp
Cản
Nhập Cao
Mối đe doạ từ những sản phẩm thay thế : Một khúc thị trường sẽ không hấp dẫn nếu có những sản phẩm thay thế thực tế hoặc tiềm ẩn . Các sản phẩm thay thế sẽ tạo ra giới hạn đối với giá cả và lợi nhuận mà một khúc thị trường có thể kiếm được .
Mối đe doạ từ phía khách hàng : Nếu người mua có quyền thương lượng lớn hay ngày càng tăng sẽ lamg cho thị trường kém hấp dẫn . Người mua sẽ cố gắng buộc phải giảm giá , đòi chất lượng và dịch vụ cao hơn.
Mối đe doạ từ người cung ứng : Một khúc thị trường sẽ không hấp dẫn nếu những người cung ứng của công ty có thể nâng giá hay giảm chất lượng . Những nhà cung ứng sẽ có quyền lực hơn khi họtập trung và có tổ chức , khi có ít sản phẩm thay thế , khi sản phẩm nhận được cung ứng là một đầu vào quan trọng , khi chi phí chuyển đổi cao .
2.2.2 Lựa chọn khúc thị trường mục tiêu :
Sau khi đánh giá các đoạn thị trường khác nhau doanh nghiệp cần phải quyết định lựa chọn các doạn thị trường cụ thể để tiến hành kinh doanh , đó là vấn đề lựa chon thị trường mục tiêu .
Khái niêm về thị trường mục tiêu :
Thị trường mục tiêu là thị trường bao gồm các khách hàng có cùng nhu caauf hoặc mong muốn mà công ty có khả năng đáp ứng nhu cầu đồng thời có thể tạo ra ưu thế hơn so với đối thủ cạnh tranh và đật được các mục tiêu đã định
Các phương án lựa chọn thị trường mục tiêu :
+ Tập trung vào một đoạn thị trường : Trong trường hợp đơn giản nhất công ty có thể chọn một đoạn thị trường đơn lẻ . Đoạn thị trường được chọn có thể có chứa sẵn một sự phù hợp tự nhiên giữa cầu và sản phẩm của công ty .
+ Chuyên môn hoá tuyển chọn : Theo phương án này công ty có thể chọn một số đoạn thị trường riêng biệt , mỗi đoạn phù hợp với mục đích và khả năng riêng của công ty . Phương án này thích hợp với các công ty có ít hoặc không có lực trong việc phối hợp các đoạn thị trường với nhau nhưng ở đoạn đó chứa đựng những hứa hẹn về thành công kinh doanh .
+ Chuyên môn hoá theo sản phẩm : Theo phương án này công ty có thể tập trung vào việc sản xuất một loại sản phẩm có đặc tính nhất định để đáp ứng nhu cầu cho nhiều đoạn thị trường ( ví dụ: Bitis sản xuất giầy , dép cho tất cả các lứa tuổi …) .
+ Chuyên môn hoá theo thị trường : Trong trường hợp náy công ty giành nỗ lực tập trung vào việc thoả mãn nhu cầu đa dạng của một nhóm khách hàng riêng biệt
+ Bao phủ toàn bộ thị trường : với phương án này công ty cố gắng đáp ứng nhu cầu của mỗi khách hàng về tất cả các sản phẩm mà họ cần . Thường chỉ có doanh nghiệp lớn mới có khả năng áp dụng phương pháp bao phủ toàn bộ thị trường ( ví dụ : Hãng IBM , CoCa CoLa…).
3. Các chiến lược xâm nhập thị trường :
3.1. Chiến lược Marketing :
3.1.1. Marketing phân biệt:
Người bán có thể bỏ qua những khác biệt giữa các đoạn thị trường và hoạt động trong toàn bộ thị trường tổng thể chỉ bằng một loại sản phẩm . Họ tập trung vào những cái đồng nhất trong nhu cầu hơn là những điểm khác biệt . Họ thiết kế một sản phẩm , soạn thảo một chương trình Marketing để có thẩ lôi kéo một lượng khách hàng đông đảo nhất .Họ áp dụng một chương trình phân phối và quảng cáo rộng rãi ,quy mô lớn .Họ khắc hoạ hình ảnh sản phẩm của công ty trong mỗi khách hàng bằng việc nhằm vào các hoạt động tài trợ mang tính chất xã hội rộng lớn .Marketing không phân biệt được xem như “ đồng dạng Marketing theo kiểu tiêu chuẩn hoá và sản xuất đại trà “ .Vì vậy nó có những ưu điểm nổi bật là tiết kiệm chi phí do tận dụng được lợi thế của hiệu quả ra tăng theo quy mô và giảm bớt được các chi phí cho vân chuyển , lưu kho,quảng cáo và những chi phí Marketing khác .
Ưu điểm này là cơ sở để thực hiện chính sách giá rẻ , được áp dụng rất có hiệu quả ở những thị trường nhạy cảm về giá .Tuy nhiên ciến lược Marketing không phân biệt cũng có những hạn chế đáng kể Bởi vì thứ nhất : không dễ dàng nhãn hiệu có khả năng thu hút mọi giới khách hàng .Thứ hai: khi có nhiều công ty cùng áp dụng kiểu Marketing không phân biệt sẽ làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt hơn ở những đoạn thị trường có quy mô lớn song lại bỏ qua những nhu cầu riêng biệt trong những thị trường quy mô nhỏ gây nên tìnhtrạng mất cân đối trong việc đáp ứng thị trường . Thứ ba : công ty gặp khó khăn trong việc đối phó với những rủi ro khi hoàn cảnh kinh doanh thay đổi.
3.1.2. Marketing phân biệt :
Theo chiến lược này công ty quyết định tham gia voà nhiều đoạn thị trường và soạn thảo những chương trình Marketing riêng biệt cho từng đoạn .thay vì .Thay vì việc cung ứng một loại sản phẩm cho mọi khách hàng bằng việc cung ứng những sản phẩm khác nhau cho tong nhóm khách hàng riêng biệt .Chiến lược Marketing phân biệt trong việc đáp ứng nhu cầu và ước muốn đa dạng của thị trường .Bằng việc đa dạng hoá sản phẩm và các nỗ lực Marketing .Công ty có khả năng gia tăng doanh số bán và xâm nhập sâu hơn vào nhiều đoạn thị trường .tuy nhiên cũng phải kể đến những đòi hỏi của chiến lược này về nỗ lực của công ty . Nổi bật là công ty phải đối phó với chi phí ra tăng phải bỏ ra rong sản xuất và thương mại , trong đó có những chi phí tăng nhanh và đáng kể như : chi phí cải tiến sản phẩm ,chi phí sản xuất , chi phí lưu kho , chi phí hoạt động Marketing .vấn đề trọng tâm công ty áp dụng chiến lựơc này là công ty phải cân đối được các đoạn thị trường và quy mô của tong đoạn .Việc chọn số lượng đoạn quá lớn dẫn đến phải cung ứng quá nhiều mặt hàng cho tong quy mô của mặt hàng quá nhỏ , thường không có hiệu quả . Xu hướng hiện nay ,các công ty tìm cách “ giảm phân đoạn” hoặc “mở rộng phần cơ bản”để tiêu thụ một lượng lớn hơn cho mỗi loại nhãn hiệu .
3.1.3. Marketing tập trung :
Khi áp dụng chiến lược này ,công ty thay vì việc theo đuổi những tỉ phần nhỏ trong thị trường lớn bằng việc tìm cách chiếm lấy thị trường lớn của một vài hoặc một đoạn thị trường nhỏ
Ưu thế của chiến lược Marketing tập trung là ở chỗ qua việc chỉ dồn sức vào một khu vức thị trường , nên công ty có thể dành một vị trí vững mạnh trên thị trường khu vực đó ,tạo được thế độc quyền nhờ hiểu biết rõ nhu cầu và ước muốn của khách hàng , thiết kế cung ứng sản phẩm đạt được uy tín đặc biệt về mặt hàng đó .Ngoài ra công ty còn khai thác được những lợi thế của việc chuyên môn hoá trong sản xuất, phân phối và các hoạt động xúc tiến bán .Nừu sự lựa chọn đoạn thị trường mục tiêu của công ty đảm bảo được tính chất của đoạn thị trường có hiệu quả họ thường đạt được tỉ suet lợi nhuận cao.
Rủi ro mà công ty có thẻ gặp phải khi áp dụng chiến lược này phải kể đến : đoạn thị trường mục tiêu có thể không tồn tại hoặc giảm sút lớn do nhu cầu thay đổi hoặc có một hãng cạnh tranh , thế lực kinh tế mạnh đột nhiên cũng quyết định lao vào hoạt động kinh doanh ở khu vực thị trường đó .Vì những lí do này nên nhiều công ty có xu hướng đa dạng hoá kinh doanh của mình vào vài ba thị trường hơn là chỉ duy nhất tập trung vào một đoạn thị trường .
Chươngii
thực trạng công tác kế hoạch phát triển thị trường tại công ty đóng tàu hồng hà
I. giới thiệu chung về công ty.
Sơ lược về Công ty đóng tàu hồng hà .
1.1. Lịch sử hình thành của công ty:
- Công ty đóng tàu hồng hà,tổng cục hậu cần nay thuộc tổng cục công nghiệp quốc phòng - bộ quốc phòng
được thành lập tiền thân từ xí nghiệp đóng tàu 173 {thành lập 30/10/1965 }
là đơn vị gán nhiệm vụ sản xuất quốc phòng với kinh tế ,chuyên đóng mới và sửa chữa tàu các loại .
- Địa chỉ kinh doanh của công ty hiện nay : Xã Lê Thiện - An Hải - Hải Phòng{Km 17 quốc lộ 5 ; Hải Phòng - Hà Nội } .
- Trước đây xí nghiệp đóng tàu 173 là một xí nghiệp nhỏ trang thiết bị lạc
hậu chủ yếu là t được những thành tựu xuất xắc . công ty đã phát huy nội lực
dám nghĩ dám làm dám chịu trách nhiệm . Đã tổ chức lại sản xuất đào tạo tuyển sửa chữa ca nô , sà lan và tàu sông .
Khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước ngoài nhiệm vụ phục vụ quân đội công ty còn được giao quyền tự chủ hạch toán kinh doanh thêm một số sản phẩm khác
Cũng trong thời kỳ này nhất là những năm gần đây công ty đã tuyển dụng đội ngũ kỹ sư chuyên ngành ,thợ bậc cao , nhanh chóng đổi mới công nghệ , hiện đai hoá may móc chuyên dùng cho ngành đóng tàu , đồng thời xây dựng bộ dây truyền công nghệ cho đóng mới và sửa chữa các loại tàu đến 1.500 tấn được bộ quốc phòng đanh giá cao .
- Tháng 4/1996 có quyết định thành lập lại doanh nghiệp nhà nước theo nghị định 388/ HĐBT của hội đồng bộ trưởng {nay là Chính Phủ }.
Giấy phép đăng ký kinh doanh của công ty số 110062/dnnn do trọng tài kinh tế thành phố hải phòng cấp ngày 25/4/1996
- Công ty được thành lập theo quyết định của bộ quốc phòng và chịu sự chỉ huy trực tiếp của tổng cục hậu cần . Công ty có đầy đủ tư cách pháp nhân hoạt động theo nguyên tắc tự chủ kinh doanh vá quản lý theo chế độ một thủ trưởng.
- Hiện nay công ty chuyên :
+ Đóng tàu các loại nhỏ ,vừa và lớn đến 1.000 tấn ,Sửa chữa các loại tàu từ 1.500 tấn trở suống , đóng tàu vỏ hợp kim nhôm ,vỏ thép cường độ chịu lực cao và vỏ composít .
+ Sản xuất ô xi công nghiệp : trang thiết bị mới hiện đại . Hệ thống triền đà lên xuống tàu 600 tấn , âu tàu 1.200 tấn điều khiển bán tự động
Công ty chủ yếu sản xuất theo đơn đặt hàng ,và phục vụ cho quân đội là chủ yếu . hiện nay công ty đang có một số chiến lược mở rộng thị trường ra bên ngoài , cung cấp sản phẩm cho nhiều đối tượng khác nhau .
1.2. Mối liên hệ giữa công ty với cục hậu cần, các cơ quan Nhà nước chính quyền địa phương và các công ty khác :
- Công ty phải chấp hành các quy định của bộ quốc phòng cũng như tổng cục hậu cần liên quan tới hoạt động của Công ty.
- Công ty phải thực hiện quy hoạch, chiến lược Công ty trong tổng thể quy hoạch chiến lược phát triển của Tổng Cục Công nghiệp –Bộ Quốc Phòng .
- Công ty phải chấp hành các quy định về thành lập, giải thể, chính sách về tổ chức cán bộ và các quy định khác của Tổng Cục Công nghiệp –Bộ Quốc Phòng theo điều lệ của công ty .
- Công ty phải chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước về những lĩnh vực thuộc chức năng đã được pháp luật quy định cho các cơ quan đó khi có yêu cầu.
- Với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước trên địa bàn lãnh thổ , công ty chịu sự quản lý Nhà nước và chấp hành các quy định hành chính các nghĩa vụ với Hội đồng nhân dân, UBND các cấp theo quy định của pháp luật.
1.3. Cơ cấu tổ chức của công ty.
Cơ cấu tổ chức:
Là một doanh nghiệp nhà nứơc được phép tự chủ hạch toán kinh đôanh đó mọi hoạt động của công ty đều do bbộ máy quả lý sản xuất trực tiếp điều hành . Cùng với quá trình phát triển công ty đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện bộ may tổ chức quản lý của mình .
Hiện nay công ty tổ chức ộ may theo trực tuyến : đứng đầu là giám đốc phụ trách chung và chịu trách nhiệm về toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh .Bộ máy giúp việc cho giám đốc có 2 phó giám đốc và 7 phòng ban chức năng , bên dưới là các phân xưởng .
Cụ thể :
-Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật .
-Phó giám đốc phụ trách kinh doanh .
-Phòng tổ chức hành chính .
-Phòng tổ chức kế hoạch .
-Phòng chính trị .
-Phòng tài chính kế toán .
-Phòng kinh doanh .
-Phòng kỹ thuật .
-Ban kiểm tra chất lượng sản phẩm ( KCS).
-Và các phân xưởng :
+ Phân xưỏng vỏ tàu .
+ Phân xưởng cơ khí .
+ Phân xưởng cơ điện.
+ Phân xưởng trang trí .
+ Phân xưởng ô xi.
Giám đốc công ty chỉ đạo hoạt động thông qua các phòng ban chức năng đến các phân xưởng , tổ sản xuất .
Trong quá trình hoạt động kinh doanh phát sinh các nghiệp vụ ngoài kế hoạch , sẽ được báo cáo kịp thời xin ban lãnh đạo , giám đốc giải quyết .
Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý SXKD của công ty đóng tàu hang hà
Giám đốc
Phòng tổ chức kế hoạch
Phòng hành
chính
Phòng chính trị
Phòng tài chính kế toán
Phòng kinh doanh
Phòng kỹ thuật
Ban kcs
Phó g.đ
kinh doanh
Phó g.đ
Kỹ thuật
Phân xưởng vỏ tàu
Phân xưởng
Cơ khí
Phân xưởng
Cơ điện
Phân xưởng
Trang trí
Phân xưởng
Khí ô xi
1.4. Chức năng :
1. Ban Giám đốc :
Chịu trách nhiệm chung và chỉ đạo toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty thông qua hai đ/c Phó Giám đốc và 7 phòng ban chức năng. Hai Phó Giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp các phần việc phụ trách giám sát. Phó Giám đốc kỹ thuật chịu trách nhiệm về kỹ thuật, chất lượng và tiến độ thi công . Phó giám đốc chính trị phụ trách về công tác Đảng, công tác chính trị, công tác nội chính.
2. Phòng Kế hoạch và lao động :
- Lập kế hoạch sản xuất tổng thể, kế hoạch chi tiết từng cung đoạn, từng Phòng , Ban , Phân xưởng.
- Tổ chức phân công và giám sát lao động, ký kết các hợp đồng về lao động
- ấn định tiến độ thời gian hoàn thành kế hoạch.
- Đôn đốc chỉ đạo, giám sát thực hiện kế hoạch.
- Đánh giá kết quả thực hiện
- Tổng hợp những vấn đề phát sinh và tình hình thực hiện kế hoạch của các đơn vị báo cáo Giám đốc.
3. Phòng Kỹ thuật :
- Lập kế hoạch triển khai các bước công nghệ
- Lập bản vẽ thi công, bản vẽ công nghệ dựa trên bản vẽ thiết kế.
- Phóng dạng đường hình
- Lập phiếu công nghệ và định mức vật tư cho từng chi tiết, từng công đoạn
- Chỉ đạo các Phân xưởng, tổ đội thực hiện thi công đúng qui trình, phiếu công nghệ đã được chủ nhiệm công trình duyệt.
- Chỉ đạo, q._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT180.doc