Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Vai trò của Ngân hàng Thương mại đối với sự phát triển kinh tế
1. Khái niệm NH TM
Ngân hàng xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân loại (đầu thế kỷ 15), quá trình phát triển lâu dài của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng đồng thời sự phát triển của hệ thống ngân hàng lại là động lực thúc đẩy sự phát
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng công tác huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quận Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển của nền kinh tế. Do đó ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế.
Năm 1986 nước ta chuyển nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Xuất hiện nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Các cá nhân, tổ chức không phân biệt hình thức sở hữu đều được tự do kinh doanh, hợp tác, cạnh tranh với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Nền kinh tế hàng hóa phát triển dẫn đến sự ra đời của nhiều loại hình Ngân hàng và tổ chức tín dụng. Để quản lý và hướng dẫn hoạt động cho các ngân hàng tổ chức tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, bảo vệ lợi ích của cá nhân tổ chức tham gia hoạt động trong nền kinh tế... Đảng và Nhà nước đã ban hành các Pháp lệnh, Nghị định, Bộ luật liên quan. Theo Luật các tổ chức tín dụng (ban hành tháng 12/1997): “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo qui định của luật này và các qui định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo tính chất và mục tiêu hoạt động các loại hình ngân hàng gồm: NH TM, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác, ngân hàng điện tử, ngân hàng phát triển và các loại hình ngân hàng khác.
Nghị định 49/2000/NĐ-CP do Thủ tướng chính phủ ban hành ngày 12/9/2000, khoản 2 điều 1 cũng qui định: “NHTM là ngân hàng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”.
Điểm khác biệt chính giữa NHTM và các tổ chức tài chính môi giới khác đó là: NHTM cung cấp một danh mục các dịch vụ nhiều nhất, đa dạng nhất và đồng thời có 3 nghiệp vụ chính là nhận gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ thanh toán, còn các tổ chức tài chính khác cũng cung cấp các dịch vụ nhưng không đầy đủ và không đồng thời thực hiện 3 nghiệp vụ trên.
2. Vai trò của ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế
2.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích lũy và tiết kiệm của cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. Để có được nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân.
Để tăng thu nhập quốc dân phải mở rộng qui mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hóa, đẩy mạnh sự phát triển các ngành... để thực hiện cần rất nhiều vốn, ngược lại khi nền kinh tế phát triển sẽ tạo ra nhiều nguồn vốn tác động tích cực đến hoạt động ngân hàng.
NHTM là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, là người đứng ra huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mọi tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Bằng số vốn huy động được và thông qua các nghiệp vụ tín dụng NHTM sẽ cung cấp vốn trở lại cho nền kinh tế đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho sản xuất, giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc và công nghệ, sử dụng nguyên vật liệu mới sản xuất các sản phẩm với mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, giá cả hợp lý... Từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo cho doanh nghiệp có một chỗ đứng vững chắc tren thương trường.
2.2. NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, sự hoạt động có hiệu quả của hệ thống ngân hàng sẽ là một công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Với các hoạt động tín dụng NHTM góp phần điều tiết khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Trong trường hợp cần áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt: NHTM sẽ tăng lãi suất chiết khấu, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc... các NHTM sẽ cho vay ít đi làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Ngược lại khi áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng: giảm lãi suất chiết khấu, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc… các NHTM cho vay nhiều hơn làm lượng tiền lưu thông tăng.
Với chức năng tạo phương tiện thanh toán NHTM là một trong các thủ thể tham gia vào quá trình cung ứng tiền tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay. Để có thể điều tiết có hiệu quả nền kinh tế, NHNN sử dụng các công cụ để điều tiết vĩ mô của nền kinh tế như: ổn định giá trị tiền tệ, kiềm chế lạm phát... Nhưng các công cụ này chỉ thực sự đạt hiệu quả khi có sự hợp tác tích cực và có hiệu quả của các NHTM.
2.3. NHTM là cầu nối nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới
Với xu hướng hội nhập của kinh tế thế giới hiện nay, nhu cầu giao lưu kinh tế xã hội giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết. Sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là bộ phận cấu thành của sự phát triển đó. NHTM cùng với các hoạt động kinh doanh của mình như nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán và các dịch vụ kinh doanh khác, sẽ tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng mở rộng và phát triển.
Ngân hàng thực sự trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia, ngân hàng thay thế khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Cùng với việc đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử kết nối các quỹ, cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần, các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau hoặc qua ngân hàng trung ương, giúp cho việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí cho khách hàng.
Nhiều hình thức thanh toán đã được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán giữa các ngân hàng trong một quốc gia và cả trên thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
II. Khả năng huy động vốn của NHTM
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác.
Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. thực chất nó là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng mà người chủ sở hữu chúng gửi vào ngân hàng với mục đích: thanh toán, tiết kiệm hay đầu tư.
Như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích thích sự vận động kinh tế phát triển, đồng thời chính các hoạt động đó lại quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
1. Các loại nguồn vốn của NHTM
1.1. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc sở hữu của NHTM. Vốn chiếm tỷ trọng không lớn (khoảng 10%) trong tổng nguồn vốn song nó là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và đi vào hoạt động. Tùy thuộc từng quốc gia, từng loại hình ngân hàng mà có những quy định về vốn chủ sở hữu khác nhau. Ngân hàng sử dụng nó để thuê mua mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho quá trình hoạt động, thuê mướn nhân viên...
Vốn chủ sở hữu là căn cứ quyết định khả năng và khối lượng vốn huy động, nó tạo niềm tin đối với công chúng, đảm bảo chi trả cho người gửi tiền hay đáp ứng nhu cầu tín dụng cho người đi vay ngay cả khi nền kinh tế gặp khó khăn.
Việc phát triển các hình thức dịch vụ mới, mở rộng trụ sở, xây dựng thêm các chi nhánh, văn phòng đại diện... nhằm nâng cao chất lượng phục vự khách hàng, mở rộng thị phần, thu hút thêm khách hàng... đảm bảo sự phát triển bền vững của ngân hàng, cần có lượng vốn đầu tư không nhỏ. Vốn chủ sở hữu và sự bổ sung vốn cho phép ngân hàng thực hiện các chương trình hoạt động của mình.
Vốn chủ sở hữu còn được dùng để duy trì khả năng thanh toán khi ngân hàng gặp rủi ro, giúp ngân hàng có thời gian tìm cách giải quyết vấn đề, đưa ngân hàng trở lại hoạt động tránh lâm vào tình trạng phá sản. Nguồn vốn chủ sở hữu luôn được bổ sung trong quá trình hoạt động nhằm đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển bền vững của ngân hàng, là cơ sở đảm bảo an toàn khi ngân hàng phát triển thêm các loại hình dịch vụ mới. Hiện nay vốn chủ sở hữu còn có vai trò quan trọng trong xu thế sáp nhập của các ngân hàng.
Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
1.1.1. Vốn ban đầu
Vốn của chủ sở hữu ban đầu hình thành khi ngân hàng bắt đầu hoạt động kinh doanh với tính chất sở hữu và nguồn hình thành khác nhau. Nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là vốn do cá nhân bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước do ngân sách nhà nước cấp; nếu là ngân hàng cổ phần thì do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh thì do các bên liên doanh góp vốn.
Vốn chủ sở hữu ban đầu thường phải tuân thủ các qui định của các nhà chức trách tiền tệ. Theo luật Ngân hàng nhà nước có quyền qui định vốn pháp định cho từng loại ngân hàng trong từng điều kiện cụ thể.
Vốn điều lệ của NHTM lớn hơn hoặc bằng mức vốn pháp định, mức vốn điều lệ tùy thuộc khả năng của chủ sở hữu ngân hàng, qui mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng đó.
1.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, vốn chủ sở hữu được gia tăng qua nhiều phương thức khác nhau như phát hành thêm cổ phần (hoặc ngân sách cấp trên), lợi nhuận tích lũy, thặng dư vốn, các quỹ…
* Nguồn vốn từ lợi nhuận: Các ngân hàng cổ phần lợi nhuận sau thuế sau khi bù đắp các khoản chi phí đặc biệt một phần được đem chia cho các cổ đông theo giá trị các cổ phần, phần còn lại để lại không chia được tính vào vốn của chủ bổ sung dưới tên gọi “lợi nhuận tích lũy để lại”_quỹ tích lũy. Đối với NHTM thuộc sở hữu nhà nước, lợi nhuận sau thuế sau khi bù trừ thua lỗ của năm trước và các chi phí khác sẽ được trích một phần bổ sung vào vốn của chủ theo quy định của nhà nước. Các NHTM trong quá trình hoạt động của mình thường xuyên bổ sung vào số vốn ban đầu bằng trích lợi nhuận. Các NHTM hoạt động lâu năm lợi nhuận tích lũy có thể đạt được rất lớn.
* Nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, ngân sách cấp trên
Để mở rộng quy mô hoạt động của mình hay chống đỡ rủi ro trong những trường hợp cần duy trì thị giá của cổ phiếu hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng nhà nước qui định, ngân hàng có thể phát hành thêm cổ phần hoặc xin cấp thêm vốn ngân sách, hình thức huy động này không thường xuyên song nó giúp ngân hàng có được một lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
* Quỹ dự phòng
Khi nền kinh tế xảy ra lạm phát, vốn của chủ bị giảm giá, để bảo toàn giá trị các ngân hàng tiến hành trích lập quỹ bảo toàn vốn theo tỷ lệ lạm phát.
Quá trình kinh doanh của ngân hàng luôn gắn với rất nhiều rủi ro có thể dẫn tới những tổn thất to lớn cho ngân hàng. Do vậy các ngân hàng đều trích lập các khoản dữ trữ nhằm bù đắp tổn thất (nếu có)_ quỹ dự phòng tổn thất.
Quỹ thặng dư (thặng dư của vốn) là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi ngân hàng phát hành thêm cổ phiếu mới.
Độ lớn của các quỹ phụ thuộc vào tổn thất ròng, thu nhập của ngân hàng và tỷ lệ trích lập quỹ. Khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh còn tùy thuộc vào mục đích sử dụng quỹ của ngân hàng.
* Quỹ đầu tư
Một số NHTM còn thực hiện nhiều loại hoạt động cho vay đặc biết khác theo chỉ định của Chính phủ, Ngân hàng sẽ được Chính phủ cấp cho một khoản vốn đặc biệt dưới hình thức quỹ cho vay. Ngân hàng không phải trả lại cho Chính phủ khoản vốn này ,nhưng cũng không được “tùy ý” sử dụng.
* Các quỹ khác
Tùy theo qui định cụ thể của từng quốc gia các ngân hàng tiến hành trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế như quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ giám đốc…
* Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay trung và dài hạn của NHTM mà có khả năng chuyển đổi thành cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu các ngân hàng (vốn bổ sung).
1.2. Nguồn tiền gửi
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Ngay từ khi bước vào hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên của ngân hàng là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách này ngân hàng huy động được tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư.
Khách hàng gửi tiền nhằm những mục tiêu khác nhau: bảo toàn, hưởng các dịch vụ thanh toán hay tìm kiếm lợi nhuận. Về phía ngân hàng, đây là nguồn vốn lớn có chi phí thấp - cơ hội để ngân hàng có được lợi nhuận cao.
Tuy nhiên với sự cạnh tranh khốc liệt của các NHTM hiện nay, để có thể gia tăng nguồn tiền gửi các NHTM đã phải đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động vốn khác nhau cùng các dịch vụ đi kèm để có thể thu hút thêm khách hàng.
1.2.1. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
Các tổ chức kinh tế thường gửi tiền vào ngân hàng dưới 2 hình thức:
* Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền gửi mà sau khi gửi tiền vào khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào để sử dụng và ngân hàng có trách nhiệm phải thỏa mãn yêu cầu đó. Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được hưởng lãi, tuy nhiên khách hàng có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với chi phí thấp.
Tiền gửi không kỳ hạn gồm tiên gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần túy.
- Tiền gửi thanh toán
Đây là khoản tiền mà doanh nghiệp gửi vào ngân hàng nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ.
Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán (tài khoản có thể phát séc) cho khách hàng. Trong phạm vi số dư cho phép ngân hàng sẽ đáp ứng các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp đồng thời các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán nếu có yêu cầu. Một số ngân hàng còn kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi- chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán).
- Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy
Đây là khoản tiền ký gửi của khách hàng với mục đích an toàn tài sản, khách hàng được hưởng lãi nhưng không được phát hành séc cho nhu cầu thanh toán. Tùy thuộc sự thỏa thuận giữa khoản và khách hàng mà mức lãi suất được ấn định cho loại tiền gửi có kỳ hạn hay không kỳ hạn.
Tuy đối với tiền gửi không kỳ hạn khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào nhưng ở ngân hàng việc gửi vào và rút ra luôn có sự chênh lệch về thời gian và số lượng trên các tài khoản này luôn có số dư. Từ đó tạo nên một khoản tiền tạm thời nhàn rỗi và khoản có thể sử dụng số dư này để kinh doanh.
Tuy nhiên do phải đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng đối với loại tiền gửi này nên các ngân hàng đều phải thực hiện một tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhất định theo qui định của ngân hàng Nhà nước.
* Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền gửi có sự thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi tiền. Do nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian nhất định. Tiền gửi thanh toán tuy thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất được hưởng lại thấp, ngân hàng đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn đáp ứng nhu cầu tăng thu của khách hàng. Tuy nhiên khách hàng không được sử dụng các hình thức thanh toán như đối với tiền gửi thanh toán.
Trong khoảng thời gian thỏa thuận giữa hai bên, ngân hàng có thể tùy ý sử dụng số tiền khách hàng ký gửi khi cần chi tiêu khách hàng báo trước cho ngân hàng và phải được sự đồng ý của ngân hàng. Thực tế hiện nay để cạnh tranh với các ngân hàng khác đồng thời thu hút thêm khách hàng và đảm bảo cho nhu cầu vốn của khách hàng, các ngân hàng thường cho phép khách hàng rút ra trước thời hạn nếu họ có nhu cầu nhưng không hưởng lãi hoặc hưởng một mức lãi suất thấp hơn.
Đối với khách hàng tiền gửi có kì hạn tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán song nó lại được hưởng mức lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kì hạn. Về phía ngân hàng, đây là nguồn vốn có tính ổn định cao mà ngân hàng có thể sử dụng một cách chủ động trong quá trình kinh doanh. Hiện nay, nhằm khuyến khích và đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng các ngân hàng đã đưa nhiều loại kì hạn khác nhau đối với loại hình tiền gửi này.
1.2.2. Tiền gửi của dân cư
* Tiền gửi tiết kiệm
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng, họ có thể gửi khoản tiền tiết kiệm này vào ngân hàng với mục đích an toàn và sinh lời.
Đây là loại tiền gửi có tỷ trọng cao nhất trong tổng số tiền gửi của ngân hàng, nó là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Để thu hút tiền gửi tiết kiệm của dân cư, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất hấp dẫn. Trong hình thức này người gửi tiền sẽ được ngân hàng mở cho nhiều chương mục tiết kiệm (hoặc sổ tiết kiệm) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này khách hàng không dùng nó để thanh toán tiền hàng hóa và dịch vụ, nhưng có thể mang ra thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
- Tiết kiệm không kỳ hạn
Đây là khoản tiền gửi khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào nhưng không được dùng các công cụ thanh toán. Thường khách hàng gửi tiền do họ chưa có nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai nên gửi vào ngân hàng với mục đích an toàn và hưởng lãi trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
- Tiết kiệm có kỳ hạn
Đây là khoản tiền gửi có sự thỏa thuận của khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Hiện nay các ngân hàng thường cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn nhưng chỉ được hưởng một mức lãi suất thấp hơn hay hưởng mức lãi suất không kỳ hạn.
* Tài khoản tiền gửi cá nhân
Cá nhân mở tài khoản tại ngân hàng nhằm thực hiện các giao dịch thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ. ở các nước phát triển, tài khoản tiền gửi cá nhân rất phổ biến nhưng ở nước ta mới chỉ đưa vào thực hiện.
Kinh tế phát triển đời sống vật chất của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu an toàn tài sản và thuận tiện trong thanh toán ngày càng tăng, đồng thời với sự phát triển của khoa học công nghệ, các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng được mở rộng và phát triển đã khuyến khích cá nhân mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng - góp phần tăng nguồn vốn huy động cho các ngân hàng.
1.2.3. Tiền gửi của các ngân hàng khác
Với mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, ngân hàng này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy qui mô nguồn vốn này không lớn nhưng cũng góp phần làm tăng nguồn vốn huy động cho các ngân hàng.
1.3. Nguồn đi vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp ngân hàng phải đi vay mượn thêm để đáp ứng các nhu cầu chi trả khi mà khả năng huy động bị hạn chế. Khi ngân hàng trung ương thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM hay các ngân hàng phải tuân thủ qui định về tỉ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ...
* Vay NHNN (Vay ngân hàng trung ương)
NHNN đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM. Do đó các NHTM chỉ thực hiện các khoản vay này nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán) các NHTM tiến hành vay NHNN. NHNN cho các NHTM vay dưới hình thức chủ yếu là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn) các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền họ sẽ mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm và dự trữ (tiền mặt, tiền gửi tại NHNN)của NHTM tăng lên. NHNN chỉ tái chiết khấu cho những loại thương phiếu có chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao). Khi chưa có thương phiếu, NHNN có thể cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Các khoản vay NHNN tuy NHTM chỉ phải chịu mức lại suất thấp nhưng chỉ vay trong thời hạn ngắn và chỉ đảm bảo cho thanh toán tức thời của ngân hàng, NHNN điều hành việc vay mượn này một cách chặt chẽ; NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định.Việc cho vay của NHNN cũng hạn chế phụ thuộc rất nhiều vào chính sách tiền tệ mà nó theo đuổi trong từng thời kỳ.
* Vay các tổ chức tín dụng khác
Các ngân hàng tiến hành vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác nhằm đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, trong nhiều trường hợp nó bổ sung và thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân hàng nhà nước. Các ngân hàng đang có mức dự trữ vượt yêu cầu có thể cho vay các ngân hàng có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo khả năng thanh khoản nhằm tìm kiếm một mức lãi suất cao hơn. Ngân hàng đi vay liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay (hay thông qua ngân hàng đại lý) hoặc qua NHNN, tùy theo yêu cầu của ngân hàng cho vay và khả năng của ngân hàng đi vay mà các khoản vay phải được đảm bảo bằng các chứng khoán kho bạc hay không cần đảm bảo.
Trong từng thời kỳ việc vay mượn các ngân hàng khác trên cùng địa bàn có thể gặp khó khăn khi nhiều ngân hàng đang thiếu phương tiện thanh toán, khi đó ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng quốc tế với khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
* Vay trên thị trường vốn
Nhiều NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn tới không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Vì vậy để bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn các NHTM tiến hành vay mượn trên thị trường vốn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu).
Các khoản vay này thường không có đảm bảo, khả năng vay mượn lại phụ thuộc vào uy tín và lãi suất đi vay của NHTM, ngoài ra nó còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng.
Mặc dù lãi suất vay thường cao hơn các nguồn khác, nghiệp vụ vay lại tương đối phức tạp nhưng các ngân hàng vẫn phải sử dụng phát hành giấy nợ trung và dài hạn khi tiền gửi không đáp ứng được những yêu cầu như tính ổn định và qui mô đủ lớn trong khoảng thời gian xác định.
1.4. Các nguồn khác
1.4.1. Nguồn ủy thác
NHTM thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ…… các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân hàng.
Các tổ chức, cá nhân ủy thác tiền, tài sản vào ngân hàng nhờ ngân hàng để cho vay, đầu tư….. Ngân hàng có lợi thế về thông tin, công nghệ, kinh nghiệm… sẽ thực hiện hộ khách hàng và thu hoa hồng.
Hình thành nguồn ủy thác, làm gia tăng nguồn vốn của ngân hàng.
1.4.2. Nguồn trong thanh toán
Nguồn hình thành nhờ các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt (séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C…)
1.4.3. Nguồn khác
Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả…
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của NHTM
Vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn và là nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Một ngân hàng muốn hoạt động hiệu quả và khả năng đạt lợi nhuận cao trước hết cần quan tâm đến công tác huy động vốn ,Vì vậy việc nâng cao khả năng huy động vốn của ngân hàng là điều hết sức cấp thiết ,nhất là trong một môi trường cạnh tranh quyết liệt như hiện nay. Khả năng huy động vốn của mỗi ngân hàng là khác nhau bởi nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố thuộc về bản thân ngân hàng như: uy tín của ngân hàng, các hình thức huy động vốn ,chính sách lãi suất ,các dịch vụ đi kèm …có sức hấp dẫn với khách hàng hay không ,thể hiện một phần qua quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng ,ngoài ra nó còn chịu những tác động ngoài ngân hàng như: môi trường cạnh tranh, các chính sách của nhà nước…Việc nghiên cứu nắm rõ các yếu tố tác động này sẽ giúp ngân hàng có các quyết định đúng đắn trong quá trình hoạt động kinh doanh.
2.1.Nhóm nhân tố khách quan:
- Hành lang pháp lý:
Có ảnh hưởng lớn đến nghiệp vụ huy động vốn của NHTM như luật các tổ chức tín dụng, luật NHNN... Những luật này quy định tỷ lệ huy động vốn của NHTM so với vốn tự có, quy định việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và quy định cả mức cho vay của NHTM đối với một khách hàng...
Sự can thiệp của NHNN khi thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng tới việc huy động vốn, vì khi thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ mang lợi thuận lợi cho NHTM trong việc huy động vốn vay .Đồng thời, nó còn tác dụng làm giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ khó khăn hơn trong việc huy động vốn vay.
Chính sách đầu tư của nhà nước hợp lý hay không hợp lý cũng ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn của ngân hàng. Để khuyến khích sản xuất, đầu tư, nhà nước có chính sách bảo hộ cho hàng hóa sản xuất trong nước, chính sách trợ giá... tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển và có lãi. Các doanh nghiệp và người lao động có tích lũy là nền tảng tốt cho ngân hàng huy động vốn được nhiều hơn.
- Sự tăng trưởng của nền kinh tế:
Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng, doanh nghiệp và cá nhân có thu nhập khá, tích lũy được nhiều nên các khoản tiền ký thác thường tăng nhanh để đáp ứng các giao dịch kinh tế. Mặt khác, nền kinh tế phát triển sẽ có tác động trở lại, nhiều doanh nghiệp mới được thành lập, giao dịch kinh tế tăng hơn hình thành một bộ phận tích lũy, tạo môi trường tiềm tàng để NHTM thu hút vốn.
THTM phải tìm biện pháp huy động vốn sao cho có hiệu quả, vừa thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, vừa đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, sản xuất bị đình trệ, môi trường đầu tư của ngân hang sẽ bị thu hẹp, lợi nhuận của ngân hàng giảm, quá trình huy động vốn sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Hơn thế nữa, lạm phát làm cho đồng tiền mất giá, người dân sẽ không gửi tiền vào ngân hàng, mà dùng tiền để mua hàng hóa có giá trị để cất giữ cũng ảnh hưởng đến việc huy động vốn của ngân hàng.
- Thu nhập và tâm lý của người dân:
Đời sống thu nhập của người dân là yếu tố trực tiếp quyết định đến lượng tiền gửi vào ngân hàng. Thật vậy, thu nhập của người dân càng cao thì nguồn vốn huy động được vào ngân hàng càng lớn. Bởi vì, người dân có thu nhập cao ngoài việc thỏa mãn được yêu cầu đời sống, họ còn giành một phần để tích lũy. Số tiền tích lũy này sẽ dùng đễ thỏa mãn những yêu cầu cao hơn trong tương lai.
Tâm lý và thói quen tiêu dùng của người dân cũng ảnh hưởng đến việc huy động vốn của ngân hàng.Yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến động ra vào của các nguồn tiền,Tâm lýtin tưởng vào tương lai của Ngân hàng có tác dụng làm ổn định lượng tiền gửi vào và rút ra,còn khi nền kinh tế suy thoái tâm lý lo lắng của khách hàng có thể gây ra sự rút tiền hàng loạt vốn là mối lo ngại lớn nhất của Ngân hàng.
ở các nước phát triển, nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng rất phát triển,hầu hết người dân đều mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng làm cho số vốn huy động và khả năng tạo tiền của ngân hàng tăng đáng kể. Ngựơc lại, ở các nước chậm phát triển, tâm lý ưa dùng tiền mặt và tích lũy tiền không gửi vào ngân hàng là phổ biến. Tâm lý và thói quen tiêu dùng còn rất khác nhau giữa các dân tộc và các vùng, miền ở nước ta. Vì vậy, phát triển nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa quan trọng việc huy động vốn của ngân hàng.
2.2. Nhóm nhân tố chủ quan:
- Chính sách lãi suất :
Là một nhân tố quan trọng, có tác động mạnh đến việc huy động vốn của NHTM; đặc biệt đối với các khoản vốn mà người gửi hoặc người dân đầu tư ngân hàng với mục đích hưởng lãi. Các ngân hàng cạnh tranh không chỉ về lãi suất huy động với các ngân hàng khác mà cả với thị trường tiền tệ. Do đó, chỉ một sự khác biệt nhỏ về lãi suất có thể đẩy dòng vốn nhàn rỗi trong xã hội đầu tư theo những chiều hướng khác nhau. Đó cũng là lý do, động lực để các nhà đầu tư hoặc người gửi tiền chuyển vốn từ ngân hàng này sang ngân hàng khác.
Thực tế hiện nay ở nước ta các ngân hàng chủ yếu cạnh tranh bằng hình thức lãi suất,chưa phổ biến hình thức cạnh tranh bằng dịch vụ.Do vậy việc xác định một lãi suất hợp lý, có tính cạnh tranh là một vấn đề vô cùng quan trọng, phải được nghiên cứu, cân nhắc, tính toán tỷ mỷ và toàn diện. Tuy nhiên, ngân hàng phải tính toán sao cho lãi suất vừa có tính cạnh tranh, vừa phải bảo đảm được chi phí đầu vào thấp nhất và kinh doanh có lãi.
- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng:
. Mỗi NHTM có chiến lược kinh doanh riêng ,tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động của bản thân ngân hàng và điều kiện môi trường kinh doanh . Có hệ thống chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ giúp ngân hàng đạt được các mục tiêu đề ra về chi phí cũng như về lợi nhuận. Đó là chiến lược về sản phẩm dịch vụ, chiến lược giá - lãi suất, chiến lược phân phối, chiến lược phát triển nhân sự, chiến lược khuyếch trương giao tiếp... có tác động mạnh đến việc huy động vốn. Hệ thống chiến lược kinh doanh của ngân hàng là thực tiễn sinh động để đánh giá năng lực và trình độ quản lý hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tạo được niềm tin đối với khách hàng. Qua đó, thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng.
Uy tín và vị thế của ngân hàng:
Uy tín là nguồn lực mà không phải bất kỳ ngân hàng nào cũng có được ,nó được tạo dựng lâu dài qua quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng,mỗi ngân hàng sẽ tạo nên hình ảnh riêng của mình trong lòng khách hàng
Thông thường, khách hàng lựa chọn những ngân hàng có uy tín cao và vị thế lớn trên thị trường để giao dịch, vay mượn, thanh toán... Uy tín và vị thế của ngân hàng có ý nghĩa lớn trong việc lựa chọn của khách hàng, thể hiện cụ thể ở năng lực tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh, quá trình lịch sử, chất lượng Marketing... Vì vậy, các ngân hàng thông qua hoạt động của mình bằng chất lượng dịch vụ, công nghệ hiện đại và phong cách làm việc văn minh, lịch sự... thỏa mãn tốt nhất mọi yêu cầu của khách hàng, là thiết thực nâng cao uy tín và vị thế của mình trên thị trường.
- Các hình thức huy động và dịch vụ kèm theo:
Các hình thức huy động vốn và các dịch vụ cung cấp có liên quan như: giao dịch tại nhà rút tiền tự động, tư vấn kinh doanh…là nhân tố ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn của ngân hàng.Có các._. hình thức và kì hạn huy động vốn phong phú ,linh hoạt, thuận tiện sẽ giúp ngân hàng có sức thu hút khách hàng mới và duy trì khách hàng hiện có .Khi các hình thức huy động vốn trở nên đa dạng ,hấp dẫn sẽ làm cho số lượng tiền gửi tăng lên ,chi phí huy động giảm xuống ,đồng thời giúp ngân hàng có thể sử dụng vốn một cách linh hoạt ,an toàn và hiệu quả hơn.
Các dịch vụ ngân hàng tuy chỉ là sản phẩm phụ trong hoạt động ngân hàng nhưng sau khi các yếu tố chính được xem xét thì ngân hàng nào có dịch vụ đa dạng ,chất lượng dịch vụ cao đáp ứng được những nhu cầu của khách hàng thì sẽ có lợi thế trong việc thu hút khách hàng đến với ngân hàng.Nhất là trong nền kinh tế thị trường ,có rất nhiều ngân hàng cạnh tranh trên thị trường ,khách hàng có điều kiện thuận lợi để tìm một ngân hàng phục vụ mình tốt nhất.Do đó dịch vụ ngân hàng chính là một yếu tố góp phần thu hút khách hàng có hiệu quả .
- Mạng lưới hướng dẫn kinh doanh của ngân hàng
Tổ chức mạng lưới hoạt động rộng, hợp lý trên địa bàn dân cư giúp ngân hàng có nhiều cơ hội để thu hút vốn hơn, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí để thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, việc mở rộng chi nhánh cần phù hợp với điều kiện và năng lực của ngân hàng. Yếu tố địa điểm cũng tác động đến tâm lý của khách hàng, một ngân hàng nằm ở vị trí thuận lợi như khu vực trung tâm, khu đông dân cư, đi lại thuận tiện... giúp ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng hơn.
- Cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ nhân viên:
Có thể nói, tất cả khách hàng đều muốn giao dịch với ngân hàng có địa điểm đẹp, cơ sở vật chất hiện đại, cán bộ nhân viên phục vụ tận tình và lịch thiệp. Một ngân hàng được trang bị công nghệ hiện đại nhất định sẽ rút ngắn được rất nhiều thời gian xử lý công việc, bảo đảm được sự chính xác cao trong các giao dịch kinh tế .Hơn nữa ,cơ sở vật chất ,trình độ công nghệ hiện đại ,đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ chuyên môn cao là điều kiện cần thiết để có thể giải quyết công việc nhanh chóng ,khoa học …Từ đó nâng cao hơn chất lượng dịch vụ ngân hàng cung ứng ra thị trường đó là điều khách hàng rất quan tâm.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN QUẬN ĐỐNG ĐA
I. Khái quát về hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quận Đống Đa
1.Sự hình thành chi nhánh NHNo & PTNT Quận Đống Đa
Ngày 26/3/1988,Hội đồng Bộ trưởng có Nghị định số 53/HĐBT tách hệ thống ngân hàng thành hai cấp là ngân hàng Nhà nước và hệ thống ngân hàng thương mại chuyên doanh.
Ngân hàng Phát triển nông nghiệp Việt Nam được thành lập theo quyết định số59/NH-QD ngày 1/7/1988 của Tổng giám đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam( nay là thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).Đến ngày 22/11/1997 theo quyết định số 390/1997/QĐ_NHNNcủa thống đốc NHNNViệt Nam đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (viết tắt là NHNo&PTNT Việt Nam),với số vốn điều lệ là2200 tỷ đồng và thời hạn hoạt động là 99 năm.
Để đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH của cả nước và phát huy thế mạnh của kinh tế Thủ đô, năm 2000 chi nhánh NHNo & PTNT Quận Đống Đa được thành lập. Tuy mới hoạt động được gần 4 năm nhưng cán bộ nhân viên đã cố gắng phấn đấu vượt lên mọi khó khăn, bỡ ngỡ và đạt được những kết quả đáng khích lệ.
2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHNo & PTNT Quận Đống Đa.
Là một đơn vị hoạt động kinh doanh trên một địa bàn đã có các Ngân hàng bạn hoạt động lâu năm, được khách hàng tín nhiệm. Do đó, phải xây dựng bộ máy sao cho gọn nhẹ, cán bộ nhân viên có khả năng với phong cách làm việc văn minh, lịch sự để hoàn thành nhiệm vụ NHNo & PTNT Thành phố giao, kinh doanh có hiệu quả,. Nhận thức được điều đó, bước đầu chi nhánh xây dựng bộ máy và phân công nhiệm vụ như sau: toàn chi nhánh có 35 cán bộ nhân viên với 2 phòng nghiệp vụ và 3 phòng giao dịch.
Lãnh đạo: giám đốc và phó giám đốc với nhiệm vụ:
Xây dựng chương trình, kế hoạch và điều hành hoạt động kinh doanh của chi nhánh theo sự chỉ đạo của Ngành, Thành phố, Cấp uỷ và chính quyền cơ sở.
Kịp thời phổ biến và kiểm tra việc thực hiện chế độ chính sách, thông tư chỉ thị và nghị định của ngành đến với cán bộ nhân viên.
Chăm lo bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ và đời sống của cán bộ nhân viên trong chi nhánh.
Phòng kinh doanh: 7 người với nhiệm vụ:
Xây dựng chiến lược khách hàng, đề xuất chính sách và có kế hoạch từng bước mở rộng quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp, hộ sản xuất trên địa bàn.
Tiếp nhận, thẩm định và trực tiếp cho vay các dự án, chương trình vay vốn của các doanh nghiệp theo quy định.
Thường xuyên kiểm tra, phân tích hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp vay vốn, phân loại nợ… để tìm biện pháp bảo đảm thu hồi nợ đúng thời hạn.
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh ; tổng hợp ,phân tích ,đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm, hàng quý, hàng tháng.
Tổng hợp ,phân tích các thông tin nhằm phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng.
Thực hiện công tác thông tin, tiếp thị, quảng cáo.
Chấp hành chế độ báo cáo thống kê ;kiểm tra nghiệp vụ chuyên đề theo quy dịnh.
Tổ chức triển khai thực hiện các phong trào thi đua của NHNo&PTNT Việt Nam và của chi nhánh.
Thực hiện các nhiệm vụ khác được lãnh đạo chi nhánh giao.
Phòng kế toán – ngân quỹ : 7 người.
Là đầu nối giao dịch với khách hàng về các dịch vụ thanh toán, thu nhận – chi trả tiết kiệm, thu- chi tiền mặt… bảo đảm an toàn, chính xác, kịp thời; quản lý và lưu trữ hồ sơ chứng từ.
Kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chế độ, chính sách và tuân thủ nguyên tắc, chế độ, thủ tục kế toán theo quy định của ngành và của nhà nước.
Thực hiện nghiêm và đầy đủ chế độ kho quỹ theo quy định của ngành. Nâng cao nghiệp vụ để phát hiện và thu giữ bạc giả báo cáo lãnh đạo, đảm bảo an toàn kho quỹ.
Lập báo cáo theo định kỳ về các mặt công tác kế toán thống kê, ngân quỹ…
Thực hiện việc sửa chữa, mua sắm tài sản cố định .
Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của lãnh đạo.
Tổ bảo vệ có 4 người với nhiệm vụ:
Có nhiệm vụ bảo đảm an toàn tuyệt đối về tài sản của ngân hàng và khách hàng, đặc biệt là an toàn kho quỹ của chi nhánh.
Ba phòng giao dịch bố trí ở các địa bàn:
Phòng giao dịch số 24:5 người, tại 1A2 – phố Nguyên Hồng.
Phòng giao dịch số 25:5 người, tại 158 – phố Thái Thịnh.
Phòng giao dịch số 26:5 người, tại 37- phố Nguyễn Thượng Hiền.
3. Hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT Quận Đống Đa (2001-2003)
Cũng như các hoạt động kinh doanh của các chi nhánh Quận – Huyện khác, NHNo & PTNT Quận Đống Đa hoạt động kinh doanh trên các lĩnh vực tiền tệ: huy động vốn, tín dụng và thanh toán đối với các tổ chức kinh tế, dân cư; và thực hiện các dịch vụ khác như: mua bán ngoại tệ, chuyển tiền… của một NHTM.
Là một đơn vị mới thành lập, hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, ngân hàng thực hiện phương châm phát huy truyền thống, mở rộng hợp tác, từng bước phát triển và bám sát mục tiêu kinh doanh, thực hiện tốt chính sách khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ và phong cách phục vụ. Kết quả đạt được về các mặt công tác những năm qua như sau:
3.1. Hoạt động huy động vốn.
Bảng 1: Tình hình nguồn vốn kinh doanh 2001-2003
đơn vị: triệuđồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
So sánh(%)
Số tiền
Số tiền
Số tiền
2002/2001
2003/2002
1.Tiền gửi TCKT
45.271
54.136
383.358
-46,6
+608,1
VND
43.138
22.767
383.136
-47,2
+1582,8
USD
2,133
1.396
222
-34,5
-84,1
2.Tiền gửi tiết kiệm
45.578
95.027
158.551
+108,4
+66,8
VND
11.735
42.878
109.662
+256,3
+155,7
USD
33.843
52.149
48.889
+54,0
-6,2
3.Kỳ phiếu
244.151
289.810
25.727
+18,7
-91,1
VND
244.151
280.355
16.599
+14,8
-94,0
USD
-
9.455
9.128
-
-3,3
Tổng cộng
335.000
439.000
567.636
+31,1
+29,3
Tr.đó USD quy đổi
35.976
63.000
58.058
+75,1
-7,9
(Nguồn số liệu: Phòng kế toán NHNo & PTNT Quận Đống Đa ).
Qua bảng số liệu ta thấy, tổng nguồn vốn của chi nhánh tăng khá và liên tục qua các năm.
Năm 2002 đạt 439 tỷ, tăng 31.1%(+104 tỷ) so với năm 2001
Năm 2003 đạt 567 tỷ, tăng 29.3%(+128 tỷ) so với năm 2002.
. Trong đó:
Tiền gửi tiết kiệm: 158,551 tỷ, tăng 66,8%(+63.5 tỷ) so với năm 2002, chiếm tỷ trọng 27.9% tổng nguồn vốn .
Kỳ phiếu: 25.7 tỷ, giảm 91,1%(-264,1 tỷ) so với năm 2002, chiếm tỷ trọng 4,5% nguồn vốn.
Nguồn vốn ngoại tệ(quy đổi ra VNĐ) cũng đạt kết quả tốt.
Năm 2002: 63 tỷ, tăng 75.1%(+ 27.1 tỷ) so với năm 2001
Năm 2003: 58 tỷ, giảm 7,9%(-5 tỷ) so với năm 2002, chiếm tỷ trọng 10.2% tổng nguồn vốn, góp phần chủ động giải quyết yêu cầu vốn ngoại tệ của các doang nghiệp sản xuất-kinh doanh xuất nhập khẩu.
Điều đó nói lên tiềm năng vốn nhàn rỗi trong dân cư là khả quan, cần có biện pháp thích hợp và tổ chức mạng lưới rộng hơn để huy động được nguồn vốn này. Đối với Ngân hàng, vốn là cơ sở và điều kiện trước hết để mở rộng đầu tư tín dụng, phát triển kinh doanh, nâng cao vị thế trên địa bàn.
3.2.Hoạt động sử dụng vốn.
Bảng 2: Doanh số cho vay 2001-2003.
đơn vị: triệuđồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
So sánh(%)
Số tiền
Số tiền
Số tiền
2002/2001
2003/2002
1.DN Nhà nước
77.900
88.100
83.200
+13,0
-6,6
2.DN ngoài QD
85.800
55.400
66.300
-35,4
+19,7
3.Hộ SX&TD
6.300
8.500
15.500
+34,9
+82,3
Tổng cộng
170.000
152.000
165.000
-10,5
+8,5
(Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh NHNo & PTNT Quận Đống Đa ).
Số liệu trên cho thấy, đồng thời với việc huy động vốn, phát triển các loại hình dịch vụ, chi nhánh đã bước đầu xây dựng được mối quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp và hộ sản xuất trên địa bàn.
Doanh số cho vay:
Năm 2002 đạt 152 tỷ, giảm 10.5%(-18 tỷ) so với năm 2001.
Năm 2003 đạt 165 tỷ, tăng 8,5%(+13 tỷ) so với năm 2002.
Song đáng chú ý là việc cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ sản xuất – tiêu dùng được quan tâm hơn. Thể hiện ở tỷ trọng cho vay:
Tỷ trọng cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh từ 36.4%(năm 2002) tăng lên 40,1%(năm 2003).
Tỷ trọng cho vay hộ sản xuất tiêu dùng từ 5.6%(năm 2002)tăng lên 9,4%(năm 2003).
Tỷ trọng cho vay doanh nghiệp Nhà nước từ 57.9%(năm 2002)giảm xuống còn 50.4%(năm 2003).
Việc thu hồi nợ được đôn đốc, theo dõi và nhắc nhở thường xuyên đối với các đơn vị vay vốn nhất là nợ đến hạn thu hồi. Tổng thu nợ năm 2002: 152 tỷ, năm 2003: 163 tỷ. Mặt khác chi nhánh cũng quan tâm thu hồi nợ quá hạn và đã thu hồi được156 triệu nợ quá hạn.
Bảng 3a: Dư nợ theo thành phần kinh tế (2001-2003)
đơn vị: triệuđồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
So sánh(%)
Số tiền
Số tiền
Số tiền
2002/2001
2003/2002
1.DN Nhà nước
15.535
34.752
31.991
+123,7
-7,9
2.DN ngoài QD
30.014
34.423
41.631
+14,6
+20,9
3.Hộ SX&TD
8.728
13.828
27.831
+58,4
+101,3
Tổng cộng
54.277
83.003
101.453
+52,9
+22,2
Nợ quá hạn
655
278
2.982
-57,5
+972,6
(Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh NHNo & PTNT Quận Đống Đa ).
Bảng 3a: Dư nợ theo thời hạn (2001-2003)
đơn vị: triệuđồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
So sánh(%)
Số tiền
Số tiền
Số tiền
2002/2001
2003/2002
1.Dư nợ ngắn hạn
35.405
61.900
57.182
+74,8
-7,6
2.Dư nợ trung hạn
18.872
21.103
44.271
+11,8
+109,7
3.Dư nợ dài hạn
-
-
-
-
-
Tổng cộng
54.277
83.003
101.453
+52,9
+22,2
(Nguồn số liệu: Phòng kinh doang NHNo & PTNT Quận Đống Đa ).
Qua bảng số liệu ta thấy, công tác tín dụng của chi nhánh cũng đạt được kết quả đáng khích lệ, tăng liên tục qua các năm : dư nợ tín dụng năm 2003 chiếm 17.8% tổng nguồn. điều đó thể hiện sự cố gắng mở rộng tín dụng, giúp các doanh nghiệp phát triển sản xuất làm ra nhiều sản phẩm phục vụ đời sống và xuất khẩu. Chất lượng tín dụng tốt, cho vay đúng mục đích, theo tiến độ thực hiện kế hoạch và dự án, tạo điều kiện giúp doanh nghiệp trả nợ đúng thời hạn.
Tổng dư nợ năm 2002 đạt 83 tỷ, tăng 52.9%(+28.8 tỷ) so với năm 2001
Tổng dư nợ năm 2003 đạt 101,4 tỷ, tăng 22,2%(+18 tỷ) so với năm 2002
Tương ứng, tốc độ tăng nguồn vốn là 31.1% năm 2002 và 29,3% năm 2003. Trong đó, dư nợ năm 2003:
Doanh nghiệp nhà nước: đạt 32 tỷ, giảm 7,9%(-3 tỷ) so với năm 2002.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh: 41.6 tỷ, tăng 20.9%(+7.2 tỷ) so với năm 2002.
Hộ sản xuất và tiêu dùng: 27.8 tỷ, tăng 101.3%(+14 tỷ) so với năm 2002.
Nợ quá hạn: năm 2002:278 triệu, chiếm tỷ lệ 0.33% tổng dư nợ,năm 2003 :2.982 triệu, chiếm tỷ lệ 2,93% tổng dư nợ.
Về cơ cấu dư nợ năm 2003:
Doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng 31.5%.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 41%.
Hộ sản xuất và tiêu dùng chiếm tỷ trọng 27,4%.
3.3. Hoạt động kinh doanh khác.
Công tác kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế:
Về kinh doanh ngoại tệ:
Là chi nhánh mới hoạt động nhưng bằng những cố gắng, nỗ lực vươn lên của bản thân chi nhánh; cộng với sự chỉ đạo có hiệu quả của NHNo & PTNT Việt Nam và NHNo & PTNT Hà Nội, hoạt động kinh doanh mua bán ngoại tệ đạt được kết quả như sau:
Bảng 4: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ (2002-2003)
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Doanh số mua
+USD
+EUR
5.667.400
104.000
3.800.000
Doanh số bán
+USD
+EUR
5.619.320
219.897
3.278.000
(Nguồn số liệu: Báo cáo kết quả kinh doanh NHNo & PTNT Quận Đống Đa ).
+ Doanh số mua ngoại tệ năm 2003 giảm 34.2% so với năm 2002
+ Doanh số bán ngoại tệ năm 2003 giảm 43.9% so với năm 2002
Đây là vấn đề mà ngân hàng cần quan tâm bởi thông qua mua-bán ngoại tệ ngân hàng có thể xây dựng mối quan hệ tốt với khách hàng, tạo niềm tin với khách hàng. Từ đó, có nguồn ngoại tệ ngày càng nhiều phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đồng thời phục vụ tốt hơn đối với nhu cầu về ngoại tệ phục vụ cho sản xuất và xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
Về thanh toán quốc tế:
Là một dịch vụ mới mẻ nhưng công tác thanh toán quốc tế được thực hiện tương đối đều đặn, chính xác và an toàn; bảo đảm không có sai sót, nhầm lẫm ảnh hưởng đến kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của chi nhánh. Kết quả đạt được:
Bảng 5: Hoạt động thanh toán quốc tế( 2002-2003).
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
Mở,thanh toán L/C
+USD
+EUR
102
4.679.886
357.292
36
2.259.000
73.000
Thanh toán TTR
+USD
+EUR
+JPY
+CNY
133
4.010.603
44.435
82
1.019.000
151.000
2.198.000
311.500
(Nguồn số liệu: Báo cáo kết quả kinh doanh NHNo & PTNT Quận Đống Đa ).
Qua số liệu ta thấy, chủng loại ngoại tệ giao dịch qua chi nhánh đã tăng lên dần đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của dân cư và các doanh nghiệp ,tổng thu về phí dịch vụ năm 2002: 238 triệu, năm 2003:175 triệu.
- Về nghiệp vụ bảo lãnh:
Nghiệp vụ bảo lãnh mà chi nhánh khai thác là bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng và bảo lãnh bảo hành…
Năm 2003, thực hiện:
+Bảo lãnh dự thầu: 60 món, số tiền 4.500 triệuđồng và số dư 2.234 triệu đồng.
+Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: 35 món, số tiền 6.000 triệu đồng, số dư 2.790 triệu đồng.
+Bảo lãnh bảo hành: 5 món, số tiền 224 triệu đồng và số dư 217 triệu đồng.
Số phí thu được từ nghiệp vụ bảo lãnh: 80 triệu đồng.
Hoạt động bảo lãnh đạt kết quả khá tốt, các khoản bảo lãnh bảo đảm chất lượng, vừa phục vụ tốt yêu cầu của khách hàng, vừa đem lại thu nhập cho chi nhánh.
- Công tác thanh toán qua Ngân hàng, kế toán ngân quỹ:
Về thanh toán qua Ngân hàng:
Trong chi nhánh, cán bộ công nhân viên luôn thực hiện phương châm”bảo đảm nguyên tắc tận tình, phục vụ hoà nhã, lịch sự” để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Lắng nghe ý kiến khách hàng để nghiên cứu, đơn giản và hợp lý hoá thủ tục giấy tờ…tạo thuận lợi cho khách hàng. Hơn nữa, chi nhánh được trang bị hệ thống thanh toán điện tử nhanh chóng, kịp thời và chính xác, rút ngắn được nhiều thời gian luân chuyển giấy tờ thanh toán giữa các đơn vị khách hàng trong thành phố cũng như ngoài thành phố.
Bảng 6: Công tác thanh toán qua Ngân hàng (2002-2003).
đơn vị: triệuđồng
Phương thức thanh toán
Năm 2002
Năm 2003
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
Thanh toán bù trừ
+Phí
4.284
926.730
13
47.843
1.252.280
17
Thanh toán & CTDT
+Đi
PHí
+Đến
5.040
2.268
2.772
298.193
218.550
76
79.643
47.690
324.290
225.636
91
98.654
(Nguồn số liệu: Phòng kinh doang NHNo & PTNT Quận Đống Đa ).
Tổng doang số thanh toán năm 2003 tăng 28.7%(+351.647triệu) so với năm 2002. Công tác thanh toán của chi nhánh ngày càng phát triển cả về quy mô và doanh số, đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng cả về chuyển khoản và tiền mặt, góp phần vào tốc độ tăng trưởng chung của đơn vị.
Về kế toán ngân quỹ:
Với hoạt động ngày càng mở rộng và phát triển, chất lượng phục vụ tốt, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao và chi tiêu và thu nộp tiền mặt của các đơn vị. Do đó, lượng thu-chi nhánh tiền mặt tăng lên đáng kể:
Doanh số thu tiền mặt năm 2003: 585 tỷ, tăng 25.8%(+120 tỷ) so với năm2002.
Doanh số chi tiền mặt năm 2003: 292 tỷ, tăng 28.6%(+65 tỷ)so với năm 2002.
Cán bộ công nhân viên chi nhánh luôn được giáo dục, rèn luyện và giữ được phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm với công việc. Do đó ngày càng tạo được sự tín nhiệm với khách hàng. Cụ thể: năm 2002, chị em làm công tác thu ngân đã trả lại số tiền thừa là 29.280.000 đồng Năm 2003: trả lại tiền thừa 21.450.000 đồng.
Đồng thời, còn phát hiện và thu hồi được số tiền giả trong năm 2002: 1.180.000 đồng, năm 2003 là 1.370.000 đồng. Đó thật sự là những việc làm rất đáng quý, là điểm sáng được khách hàng tin yêu.
3.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh :
Bảng 8: kết quả hoạt động kinh doanh 2000 - 2002
đơn vị: triệuđồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
So sánh(%)
Số tiền
Số tiền
Số tiền
2002/2001
2003/2002
1.Tổng nguồn vốn
335.000
439.000
567.600
+31,1
+29,3
2.Tổng dư nợ
54.277
83.003
101.453
+52,9
+22,2
3.Nợ quá hạn
655
278
2.982
-57,5
+972,6
4.Lợi nhuận
+1.200
+4.606
+5.706
+283,8
+23,8
( Nguồn số liệu: Báo cáo kết quả kinh doanh NHNo & PTNT Quận Đống Đa).
Qua bảng số liệu ta thấy, trong 3 năm hoạt động kinh doanh đựơc sự chỉ đạo chặt chẽ và giúp đỡ của NHNo & PTNT Hà Nội, Đảng và chính quyền cơ sở ; cộng với sự phấn đấu vươn lên của tập thể cán bộ công nhân viên, kết quả đạt được về các mặt công tác là tương đối toàn diện. Cụ thể, năm 2003:
Tổng nguồn vốn kinh doanh đạt:567,6 tỷ, tăng 29,3% so với năm 2002, gấp 5.06 lần năm 2000.
Tổng dư nợ đặt:101,4 tỷ, tăng 22.2% so với năm 2002, gấp 6.2 lần năm 2000.
Lợi nhuận ( quỹ TN) : 5.7 tỷ, tăng 23.8%.
Kinh doanh ngoại tệ ( USD và EUR):
Doanh số mua: 3.8 triệu USD, giảm 34.2% so với năm 2002.
Doanh số bán: 3.3 triệu USD, giảm 43,9% so với năm 2002.
Thanh toán quốc tế : thực hiện giao dịch trên 100 món / năm.
Công tác thanh toán qua ngân hàng : thực hiện gần 10.000 món/ năm, với doanh số tăng 28.7% so với năm 2002.
Doanh số thu-chi tiền mặt: khối lượng thu-chi tiền mặt ngày càng lớn.
Tổng thu tiền mặt : 585 tỷ, tăng 25,8% so với năm 2002.
Tổng chi tiền mặt : 292 tỷ, tăng 28.6% so với năm 2002.
Điều đáng mừng là năm đầu thành lập (2000) thu nhập không đủ chi nhánh trả lãi tiền gửi, lỗ… đã vươn lên bảo đảm tự trang trải được các khoản chi trả lãi tiền gửi, trả lương… trở thành chi nhánh hoạt động kinh doanh có lãi và lãi năm sau cao hơn năm trước. Nét son đánh dấu sự trưởng thành, bước phát triển mới – hoạt động kinh doanh đa năng, với những sản phẩm dịch vụ mới nhiều tiện ích hơn; góp phần phục vụ ngày càng tốt các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế và đời sống nhân dân.
II . Thực trạng công tác huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quận Đống Đa
1. Thực trạng công tác huy động vốn của chi nhánh NHNo & PTNT Quận Đống Đa những năm gần đây
Là một quận đông dân ( gần 40 vạn người ) chỉ sau quận Hoàn Kiếm, lại có khu công nghiệp nổi tiếng được hình thành từ rất sớm 1958-1960, nơi có các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh lớn như : công ty cơ khí Hà Nội, cao su Sao vàng, Thuốc lá Thăng Long… và cùng nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ khác. Do vậy, để có thể xây dựng được quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp, chi nhánh NHNo & PTNT Quận Đống Đa đặt nghiệp vụ nguồn vốn mà chủ yếu là công tác huy động vốn là khâu đột phá mở đường. Đồng thời với việc thực hiện các hình thức huy động truyền thống, chi nhánh đã có những giải pháp đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, lãi xuất, khuyến mãi, mở rộng mạng lưới phòng giao dịch… kết quả đạt được thể hiện qua bảng cơ cấu huy động vốn dưới đây:
Bảng 9 : Cơ cấu huy động vốn năm 2000-2002
đơn vị: triệuđồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
1.Tiền gửi TCKT
45.271
13,5
54.163
12,3
383.358
67,5
2.TG tiết kiệm
45.578
13,6
95.027
21,6
158.551
27,9
3.Kỳ phiếu NH
244.151
72,9
289.810
66,1
25.727
4,5
Tổng cộng
335.000
100
439.000
100
567.636
100
(Nguồn số liệu: Phòng kế toán NHNo & PTNT Quận Đống Đa).
Bảng trên cho thấy:
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế: năm 2002 : 54.163 triệu, chiếm tỷ trọng 12.3%, đến năm 2003 tăng lên 383.358 triệu chiếm tỷ trọng 67,5% so với tổng nguồn tức là khối lượng vốn đã tăng gấp 6,4 lần năm 2001.
Tiền gửi tiết kiệm: tăng liên tục và khá nhanh. Năm 2001: 45.578 triệu, chiếm tỷ trọng 13.6% so với tổng nguồn. Năm 2002: 95.027 triệu, năm 2003 tăng lên 158.551 triệu, tức là khối lượng vốn tăng gấp 3.5 lần năm 2001.
Kỳ phiếu ngân hàng: Giảm nhiều do năm qua có sự cạnh tranh quyết liệt của các ngân hàng bạn trong việc huy động loại hình này.Các NHTM liên tục gia tăng lãi suất huy động của loại hình chứng chỉ tiền gửi đã làm cho lãi suất huy động loại hình này tăng lên rất cao,đã làm giảm lượng vốn huy động được từ loại hình này của chi nhánh. Năm 2002: 289.810 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 66.1% so với tổng nguồn và tăng 18.7% so với năm 2001; năm 2003: 25.727 triệu đồng,chiếm tỷ trọng 4,5% so với tổng nguồn và giảm 91,1% so với năm 2002. Dưới đây đi sâu nhằm phân tích các hình thức huy động vốn để tìm ra những chiến lược thích hợp, nhằm phát huy tối đa khả năng huy động vốn của chi nhánh đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phầnn kinh tế cũng như của dân cư trong xã hội.
1.1. Thực trạng huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
Hình thức tiền gửi của các tổ chức kinh tế: gồm hai tài khoản là tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Loại vốn này chiếm tỷ trọng không lớn nhưng tương đối ổn định trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng. do đó, các ngân hàng rất quan tâm khai thác loại tiền gửi này.
Nguồn vốn tiền gửi của các tổ chức kinh tế chẳng những giúp ngân hàng tăng nguồn vốn huy động , mà còn tạo điều kiện giúp doanh nghiệp mở rộng các giao dịch kinh tế qua ngân hàng với các sản phẩm, dịch vụ có tiện ích cao, nhanh chóng, chính xác và an toàn. Qua đó, giúp ngân hàng nắm chắc hơn những biến động về tình hình tài chính của doanh nghiệp, kịp thời đưa ra những quyết định đúng đắn với các dự án đầu tư nhằm làm cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng có hiệu quả. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng còn góp phần làm giảm lãi suất huy động bình quân của ngân hàng vì hình thức tiền gửi không kỳ hạn chỉ được hưởng lãi suất thấp hơn các loại tiền gửi khác.
Bảng 10: Cơ cấu tiền gửi của các tổ chức kinh tế 2001 – 2003.
đơn vị: triệuđồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
So sánh(%)
Số tiền
Số tiền
Số tiền
2002/2001
2003/2002
Tiền gửi không kỳ hạn
25.471
22.317
35.250
-12,38
+57,9
Tiền gửi có kỳ hạn
19.800
31.846
348.288
+60,84
+993,6
Tổng cộng
45.271
54.163
383.538
+19,64
+608,1
(Nguồn số liệu: Phòng kế toán NHNo & PTNT Quận Đống Đa).
Qua bảng ta thấy: tiền gửi của tổ chức kinh tế tăng tương đối nhanh.
Năm 2002: 54.136 triệu, tăng 19.64%(+8.892 triệu) so với năm 2001
Năm 2003: 383.538 triệu, tăng 608,1%(+329.375 triệu)so với năm 2002
Do doanh nghiệp đã bán được hàng và thu được tiền nhưng chưa đến chu kỳ mua vật tư, hàng hoá để sản xuất; do người bán thực hiện phương thức bán hàng trả chậm đối với các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp gửi các khoản tiền tạm tời nhàn rỗi chờ thanh toán vào Ngân hàng để hưởng lãi và đảm bảo an toàn tài sản.Cơ cấu tiền gửi tổ chức kinh tế:
Tiền gửi không kỳ hạn năm 2001: 25.471 triệu, tỷ lệ 56%. Năm 2002: 22.317 triệu, tỷ lệ 41%.Năm 2003:348.288 triệu, tỷ lệ 90,8%.
1.2. Thực trạng huy động tiền gửi tiết kiệm:
Là hình thức huy động vốn được sử dụng rộng rãi, phổ biến và có số lượng khách hàng lớn nhất ở nước ta, do thủ tục đơn giản, thuận tiện, với nhiều loại kỳ hạn phù hợp với tính chất là những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, để dành của dân cư. Được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây:
Bảng 11: Cơ cấu tiền gửi tiết kiệm năm 2000-2002.
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
So sánh(%)
Số tiền
Số tiền
Số tiền
2002/2001
2003/2002
1.Tkiệm không KH
3.354
4.310
7.520
+28,5
+74,5
VND
1.399
2.394
5.377
+71,1
+124,6
USD
1.955
1.916
2.143
-2,0
+11,8
2.Tgửi Tkiệm <12 tháng
22.385
50.540
84.654
+125,7
+67,5
VND
7.336
33.668
58.278
+358,9
+73,1
USD
15.049
16.872
26.367
+12,1
+56,3
2.1Tkiệm 3 tháng
-
10.500
15.450
-
+47,1
VND
-
10.500
14.220
-
+35,4
USD
-
-
1.230
-
-
2.2Tkiệm 6 tháng
22.385
40.040
42.828
+78,8
+6,9
VND
7.36
23.168
17.692
+215,8
-23,6
USD
15.049
16.872
25.136
+12.1
+49,0
2.3Tkiệm > 12 tháng
19.838
40.177
66.377
+102.5
+65,2
VND
3.000
6.816
45.998
+127.2
+574,8
USD
16.838
33.361
20.379
+98.1
-38,9
Tổng cộng
45.578
95.027
158.551
+108.5
+66,8
Tr.đó USD quy đổi
33.843
52.149
48.889
+54.1
-6.2
(Nguồn số liệu :Phòng kế toán NHNo & PTNT Quận Đống Đa ).
Qua bảng số liệu ta thấy:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn năm 2002: 4.310 triệu, tăng 28.5% so với năm 2001; năm 2003 đạt :7520 triệu, tăng74,5% so với năm 2002.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn<12 tháng :năm 2002: 50.540 triệu, tăng 125.7% so với năm 2001; năm 2003 đạt :84.654 triệu, tăng 67,5% so với năm 2002.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn>12 tháng :năm 2002: 40.177 triệu, tăng 102.5% so với năm 2001; năm 2003 đạt: 42.828 triệu tăng 6,9% so với năm 2002.
Tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tuy có giảm so với năm trước nhưng vẫn còn khá cao và chiếm tỷ trọng không nhỏ; năm 2002(USD quy đổi): 52.1 tỷ, tăng 54.1% so với năm 2001, chiếm tỷ trọng 54.9% nguồn vốn huy động tiết kiệm; năm 2003 đạt 48,9 tỷ giảm 6,2% so với năm 2002, chiếm tỷ trọng 30,8% nguồn vốn huy động tiết kiệm.
Cơ cấu tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: năm 2001chiếm tỷ lệ: 7,3%; năm 2002: 4,5%;năm 2003: 4,7%.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn < 12T năm 2001 chiếm tỷ lệ: 49,2%; năm 2002: 53%; năm 2003: 53,4% .
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn > 12T: năm 2001 chiếm tỷ lệ 43,5%; năm 2002: 42,3%;năm 2003: 42,9%.
Biểu đồ minh hoạ
Biểu đồ 1. Tỷ lệ các loại tiền gửi tiết kiệm năm 2001
Biểu đồ 2.Tỷ lệ cácloại tiền gửi tiết kiệm năm 2002
Biểu đồ 3: Tỷ lệ các loại tiền gửi tiết kiệm năm 2003.
Điều đó thể hiện:
Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống và thu nhập của các tầng lớp dân cư được nâng lên rõ rệt. Người gửi có thể dễ dàng thay đổi kỳ hạn sao cho có lợi nhất đối với những khoảng tiền tạm thời nhàn rỗi khi người dân chưa đủ điều kiện mua sắm tiện nghi đắt tiền, có giá trị.
Tiền gửi tiết kiệm trên 12 tháng có khối lượng vốn khá và cũng chiếm tỷ lệ tương đối lớn là cơ sở để Ngân hàng thực hiện cho vay các dự án dài hạn hơn, đáp ứng nhu cầu vay vốn trung – dài hạn của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trên địa bàn.
Qua đó cho thấy khả năng huy động vốn từ tầng lớp dân cư của chi nhánh còn rất tiềm tàng nhất là đối với địa bàn đông dân cư như quận Đống Đa
Đạt được như trên là do có các phương thức huy động vốn nội tệ và ngoại tệ , kỳ hạn thích hợp và cơ chế lãi suất hợp lý, thường xuyên bám sát thi trường và điều chỉnh kịp thời, linh hoạt; vừa có tính cạnh tranh vừa đảm bảo hoạt động có hiệu quả.
1.3. Thực trạng huy động qua phát hành kỳ phiếu Ngân hàng.
Kỳ phiếu ngân hàng được sử dụng để giải quyết khi có yêu cầu đầu tư vào các dự án lớn, các dự án chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi, phát triển làng nghề truyền thống. Thông qua bảng số liệu dưới đây:
Bảng 12: Kỳ phiếu ngân hàng so với nguồn vốn huy động năm
2001 –2003.
đơn vị: triệuđồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
So sánh(%)
Số tiền
Số tiền
Số tiền
2002/2001
2003/2002
Kỳ phiếu Ngân hàng
244.151
289.810
25.727
+18,7
-91,1
Nguồn vốn huy động
335.000
439.000
567.636
+31,1
+29,3
(Nguồn số liệu: Phòng kế toán NHNo & PTNT Quận Đống Đa).
Kỳ phiếu ngân hàng là hình thức huy động vốn luôn có khối lượng lớn, do lãi suất huy động kỳ phiếu có sức hấp dẫn khá cao, lại được tuyên truyền quảng cáo khá rầm rộ trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhờ vậy đã thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Tuy nhiên cũng chính vì vậy mà các NHTM cũng cạnh tranh với nhau gay gắt để có được nguồn vốn này.Các NHTM lớn sẽ có nhiều lợi thế trong việc huy động nguồn vốn này.Cũng chính vì lí do này mà lượng vốn chi nhánh huy động được qua hình thức này trong năm 2003 đã giảm rất nhiều. Năm 2002: 289.810 triệu tăng 18,7% so với năm2001 và chiếm tỷ lệ 66%; năm 2003 giảm xuống còn 25.727 triệu và chiếm tỷ lệ 4,5% . Biểu đồ minh hoạ:
Biểu đồ 4: Kỳ phiếu ngân hàng so với nguồn vốn huy động 2000 – 2002.
2.Mối quan hệ giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn:
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng không chỉ đơn giản là huy động vốn mà cái đích phải đạt tới là sử dụng nguồn vốn huy động ngày càng lớn vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng – Nhà nước trong sự nghiệp CNH – HĐH, thông qua các kế hoạch hàng năm và 5 năm.
Điều đó nói lên yêu cầu vốn của các doanh nghiệp là rất lớn, chẳng những vốn cho sản xuất được thưòng xuyên, liên tục mà còn cần vốn trung – dài hạn để mua sắm thêm máy móc, thiết bị, trang bị thêm dây chuyền công nghệ mới, mở rộng sản xuất …Ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi của xã hội không chỉ vì lợi ích của ban thân ngân hàng mà quan trọng hơn là thông qua công tác tín dụng, thực hiện vai trò “bà đỡ” đối với các doanh nghiệp, góp phần đắc lực trong việc phát triển kinh tế – xã hội.
Hơn nữa, cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác trong nền kinh tế, hoạt động kinh doanh là phải đảm bảo bù đắp được chi phí và có lãi. Do đó, huy động vốn phải gắn kết được với sử dụng vốn một cách chặt chẽ và hiệu quả nhất. Bởi vì n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3742.doc