Thực trạng công tác giám sát đối với Ngân hàng thương mại cổ phần tại bảo hiểm tiền gửi Việt Nam - Chi nhánh khu vực Hà Nội

LỜI NÓI ĐẦU CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI 1. Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm tiền gửi Trong hoạt động kinh tế, tín dụng là một trong những hoạt động phát triển khá mạnh mẽ. Mặc dù hoạt động tín dụng đem lại lợi nhuận cao nhưng những “ rủi ro tín dụng” như rủi ro mất khả năng thanh toán, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái… có thể xảy ra bất cứ lúc nào, gây tổn thất cho các tổ chức tín dụng như mất mát, thiệt hại về

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng công tác giám sát đối với Ngân hàng thương mại cổ phần tại bảo hiểm tiền gửi Việt Nam - Chi nhánh khu vực Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tài sản, thu nhập…hay nguy cơ khách hàng rút tiền hàng loạt, nguy cơ về đạo đức xuất phát từ ngay trong những người quản lý tín dụng làm cho quỹ tín dụng bị thua lỗ, thậm chí bị phá sản. Rủi ro tín dụng xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân: - Do môi trường kinh tế chưa ổn định làm cho một số doanh nghiệp không đứng vững trên thị trường. - Do quản lý Nhà nước còn sơ hở, tạo điều kiện cho một số cá nhân, doanh nghiệp có hành vi lừa đảo. - Do trình độ quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp còn hạn chế… Cùng với những nguyên nhân trên, khách hàng cũng góp phần tạo ra những rủi ro tín dụng. Chẳng hạn sử dụng vốn vay sai mục đích, sản xuất kinh doanh thua lỗ, hoặc người vay cố tình không trả nợ; hoặc tài sản thế chấp, giấy tờ pháp lý của khách hàng không đảm bảo. Bản thân các tổ chức tín dụng cũng gây ra những rủi ro như: Không chấp hành nghiêm túc các thể lệ tín dụng và vi phạm quá trình xét duyệt cho vay; Qúa chú trọng về lợi nhuận, đặt tiêu chuẩn lợi nhuận lên trên các nguyên tắc, điều kịên tín dụng; Việc xem xét cho vay không chuẩn xác như cho vay sai mục đích, chẳng hạn để “ đánh quả” hoặc để đầu cơ tích trữ hàng hoá chờ giá tăng, cho vay không có biện pháp đảm bảo thích hợp. Ngoài ra còn có nguyên nhân khác tác động đến rủi ro tín dụng như có sự thay đổi, điều chỉnh về chính trị, chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước, thay đổi địa giới hành chính của các địa phương… Những rủi ro tín dụng xảy ra có thể để lại hậu quả khôn lường. - Đối với nền kinh tế: Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng có liên quan trực tiếp đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các tổ chức, các doanh nghiệp, người gửi tiền. Nếu có rủi ro gây thiệt hại lớn hoặc làm phá sản một vài tổ chức tín dụng sẽ tạo ra tâm lý không an tâm đối với nhân dân, họ đưa nhau rút tiền làm phá sản hàng loạt ngân hàng và tổ chức tín dụng, làm cho nhiều doanh nghiệp mất vốn và ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung. - Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Rủi ro tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của họ như: Giảm lợi nhuận, thua lỗ hoặc mất khả năng chi trả. - Đối với khách hàng: Có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong sản xuất kinh doanh… Để đối phó với những rủi ro tổn thất không lường trước được do các rủi ro gây ra, có rất nhiều biện pháp khác nhau nhưng biện pháp tốt nhất là bảo hiểm, nghĩa là chuyển những rủi ro mà mình có thể gặp phải cho các tổ chức bảo hiểm. 2. Tác dụng của Bảo hiểm tiền gửi Bảo hiểm là một phần quan trọng trong chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức tín dụng cũng như cá nhân. Không chỉ góp phần ổn định tài chính cho người tham gia bảo hiểm mà nó còn tạo ra sự yên tâm cho cả khách hàng và nhà bảo hiểm. Bảo hiểm tiền gửi cũng là một hình thức bảo hiểm nên nó cũng nét chung của bảo hiểm. Song với tư cách là một loại hình bảo hiểm cho một lĩnh vực riêng - lĩnh vực kinh doanh tiền tệ - nên Bảo hiểm tiền gửi cũng bộc lộ những nét tác dụng rất riêng biệt. Trước hết, Bảo hiểm tiền gửi góp phần ổn định tài chính cho người gửi tiền trước tổn thất do rủi ro gây ra. Rủi ro xảy ra với ngân hàng chủ yếu gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán, phá sản. Khi gửi tiền vào ngân hàng, các cá nhân không chỉ hy vọng vào khoản tiền thu được trong tương lai mà còn nhằm mục đích dự trữ tài chính cho các dự định trong tương lai. Khi ngân hàng mất khả năng thanh toán đồng nghĩa với việc mất tiền gửi và khi đó cuộc sống của hộ sẽ khó khăn. Bảo hiểm tiền gửi sẽ trợ cấp, bồi thường cho người gửi tiền và ổn định hoạt động cho các tổ chức tín dụng. Thứ hai, Bảo hiểm tiền gửi góp phần bảo đảm hoạt động một cách trôi chảy cho các tổ chức tín dụng. Do các nguyên nhân chủ quan và khách quan rủi ro tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng như làm giảm lợi nhuận, thua lỗ, mất khả năng chi trả cho người gửi tiền. Tham gia Bảo hiểm tiền gửi, ngân hàng và các tổ chức tín dụng sẽ có sự hỗ trợ để bảo đảm khả năng thanh toán và do vậy sẽ tạo ra sự yên tâm cho khách hàng và từ đó tạo động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh của tổ chức này. Thứ ba, Bảo hiểm tiền gửi còn góp phần tạo ra sự ổn định về kinh tế và xã hội; phát triển nền kinh tế. Ngân hàng và tổ chức tín dụng được coi là một trung gian tài chính, một kênh cung cấp vốn cho các hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy, sự đổ vỡ của các ngân hàng sẽ gây ra tình trạng mất ổn định về kinh tế, là nhân tố dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong nước cũng như khu vực. Nó còn là nguyên nhân của hàng loạt vấn đề xã hội như mất việc làm,…Thông qua việc bảo vệ cho hệ thống tài chính và sự đảm bảo cho các cá nhân, việc ra đời của Bảo hiểm tiền gửi là một yêu cầu khách quan, có tác dụng đặc biệt quan trọng. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM 1. Qúa trình hình thành và phát triển Sau một thời gian dài nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm bởi chế độ “ tự cung, tự cấp”, Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thấy những hạn chế của chế độ này. Để đưa đất nước phát triển theo kịp nhịp độ phát triển của thế giới, tại đại hội đảng lần thứ VI đã chuyển đổi nền kinh tế từ “ tự cung, tự cấp” sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCH. Cùng với sự chuyển đổi đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đã bắt đầu triển khai kế hoạch đổi mới. Trong giai đoạn này ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và niềm tin của dân chúng đã bị giảm sút, đặc biệt là sau một loạt hợp tác xã tín dụng nông thôn và quỹ tín dụng trên toàn quốc bị đổ vỡ dây chuyền trong thập niên 80 -90 của thế kỷ 20. Để lấy lại niềm tin của quần chúng nhân dân, đề án thí điểm thành lập quỹ tín dụng nhân dân theo quy định số 390/QĐ-TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ. Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của quỹ tín dụng nhân dân đối với khoản tiền gửi có kỳ hạn được ban hành kèm theo quyết định số 101/TCQĐ-BH của Bộ tài chính ngày 1/2/1994. Theo quy định này Bảo Việt đã triển khai nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi – Đây là sự khởi đầu hoạt động của bảo hiểm tiền gửi công khai tại Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam do Bảo Việt thực hiện phát triển chậm và bộc lộ những hạn chế sau: - Phí đóng bảo hiểm tiền gửi cho Bảo Việt chỉ có tác dụng để trả tiền gửi cho người gửi khi quỹ tín dụng bị giải thể hoặc phá sản. Nhưng khi quỹ có nguy cơ mất khả năng thanh toán thì lại không được hỗ trợ để hoạt động như bình thường. Nguyên nhân là do Bảo Việt không quản lý, giám sát rủi ro thường xuyên. Bên cạnh đó, phí đóng góp lại trở thành nguồn tài chính của Bảo Việt mà không còn là tài sản chung của hệ thống tín dụng nhân dân nữa. Theo cơ chế này thì nguồn vốn đóng góp hàng tỉ đồng để mua bảo hiểm hàng năm đã “ không cánh mà bay”. Chỉ khi nào tổ chức tín dụng bị xoá sổ thì người gửi tiền mới được đền bù. - Tỷ lệ phí 0.165% số dư tiền gửi có kỳ hạn của mỗi quý là qúa cao chính vì vậy đã khiến cho các quỹ tín dụng không muốn tham gia. Hoạt động ngân hàng trong quy luật phát triển của kinh tế thị trường (tính cạnh tranh cao…), lại gắn với những yếu tố rủi ro cao điều đó đặt ra yêu cầu cần phải có hệ thống bảo hiểm tiền gửi nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương năm 1997 tuy không ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế, nhưng đã để lại cho Việt Nam nhiều bài học về quản lý đối với lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Cùng với chính sách mở cửa, quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới, sự tác động đối với thị trường huy động vốn và tiêu thụ vốn trong nước cũng chịu sự tác động trực tiếp. Trước những thực trạng đó, ngày 1/9/1999 Chính phủ Nước CHXHCH Việt Nam, Ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi. Ngày 9/11/1999 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg thành lập bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Ngày 7/7/2000 Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chính thức khai trương đi vào hoạt động. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là tổ chức nhà nước, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, có tài sản và con dấu riêng. Hoạt động theo điều lệ do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Chế độ tiền gửi do Thủ tướng Chính phủ quy định trên cơ sở đề nghị của ban tổ chức và ý kiến của ngân hàng Nhà nước. Vốn điều lệ của công ty là 1000 tỷ đồng do ngân sách nhà nước cung cấp với nguồn vốn bổ sung từ phí bảo hiểm hàng năm và các nguồn vốn khác. Phí bảo hiểm được tính theo quý và được nộp vào cuối tháng của quý với tỷ lệ là 0.15%/ năm. Nguồn vốn hình thành từ quỹ này tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ sử dụng cho việc hỗ trợ khi có tổ chức tín dụng nào gặp khó khăn, khi có sự kiện bảo hiẻm nào xảy ra và phần vốn nhàn rỗi được mang đi đầu tư theo luật định. Như vậy, sự ra đời của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là một bước tiến có ý nghĩa quyết định trong nỗ lực của Chính phủ của ngành Ngân hàng nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý thể chế để bảo đảm cho hoạt động tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam có một môi trường minh bạch an toàn, hiệu quả theo gần những nguyên tắc và thông lệ quốc tế. Năm năm qua mặc dù phải vừa làm vừa học hỏi kinh nghiệm để xây dựng và trưởng thành nhưng Bảo hiểm tiền gửi đã có một vai trò quan trọng đem lại niềm tin cho công chúng rộng rãi về những khoản tiền gửi của mình được bảo hiểm tại tổ chức tín dụng Việt Nam. Đồng thời cũng giúp cho Tổ chức tín dụng Việt Nam có thêm một chỗ dựa quan trọng nhằm triển khai các hoạt động của mình một cách an toàn hơn, hiệu quả hơn, mặc dù chưa phải đã làm được nhiều trong việc giải quyết các tổ chức tín dụng gặp khó khăn nhưng mà chỉ riêng việc Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chi trả kịp thời cho những Quỹ tín dụng nhân dân bị thanh lý, bị rút giấy phép đã đem lại sự ổn định về chính trị xã hội, niềm tin của người dân đối với hoạt động tiền tệ tín dụng ở Việt Nam. Đẩy lùi dần tâm lý lo ngại về hoạt động thiếu an toàn, thiếu bền vững của Tổ chức tín dụng và do đó tăng cường hơn nữa việc huy động các nguồn lực trong xã hội vào các kênh tiền tệ, tài chính ngân hàng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội và cải thiện đời sống của nhân dân. Bảo hiển tiền gửi Việt Nam cũng đã hình thành được một mạng lưới tổ chức các định, thiết chế hoạt động và đã vươn lên, sử dụng tốt các nguồn lực tài chính hiện có, bảo tồn được vốn nhà nước giao, bảo tồn được quỹ đóng góp bảo hiểm của các tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm, chi trả và góp phần thanh lý tốt các Tổ chức tín dụng bị thanh lý, đồng thời giám sát, kiểm tra tạo thêm một kênh thông tin phối hợp với Ngân hàng Nhà Nước ở TW cũng như các chi nhánh địa phương để làm cho hoạt động tiền tệ, tín dụng trở nên an toàn.Hơn nữa,Bảo hiểm tiền gửi đã mở rộng mạng lưới hoạt động của mình tới các khu vực trong phạm vi cả nước, đó là thành lập 6 chi nhánh BHTG khu vực gồm: Chi nhánh tại TP.HCM, chi nhánh khu vực Hà Nội, chi nhánh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long( tại Cần Thơ, chi nhánh khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (tại Nha Trang), chi nhánh khu vực Đông Bắc Bộ ( tại Hải Phòng ) và chi nhánh khu vực Bắc Trung Bộ ( tại Nghệ An). Đây là những địa bàn kinh tế trọng điểm của đất nước, đồng thời là nơi tập trung nhiều tổ chức tài chính và TCTD. 2.Nội dung hoạt động chính Thu phí bảo hiểm tiền gửi của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định; Chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền trong phạm vi mức bảo hiểm tối đa theo quy định; Theo dõi giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định tại Nghị định của Chính phủ về bảo hiềm tiền gửi và các quy định về an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; Hỗ trợ cho các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi có nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt; Tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản; Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chủ trương, chính sách về bảo hiểm tiền gửi; Tuyên truyền về bảo hiểm tiền gửi đối với công chúng; tổ chức tập huấn, đào tạo và tư vấn về nghiệp vụ liên quan đến bảo hiểm tiền gửi; Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước nhằm tăng cường năng lực hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; Thực hiện các nhiệm vụ khác khi được Thủ tướng Chính phủ giao 3. Các quy định của Chính Phủ về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 3.1 Đối tượng và phạm vi bảo hiểm Đối tượng tham gia bảo hiểm là các tổ chức tín dụng ( bao gồm ngân hàng, quỹ tín dụng…) trong đó các công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm cho trách nhiệm các Tổ chức tín dụng với khoản tiền gửi của các cá nhân, tổ chức. Mặc dù nhận bảo hiểm cho trách nhiệm của các Tổ chức tín dụng với các khoản tiền gửi, song không phải tất cả các loại tiền gửi hoặc tất cả các đối tượng , các rủi ro xảy ra đều được công ty bảo hiểm thanh toán. Mà thông thường công ty bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm trong các trường hợp thuộc phạm vi của mình. Cụ thể như sau: Trong bảo hiểm tiền gửi, các rủi ro sau được bảo hiểm: Thứ nhất, đó là sự phá sản của Tổ chức tín dụng. Đây là trường hợp nghiêm trọng nhất và đáng lo ngại nhất. Khi một Tổ chức tín dụng bị đặt trong tình trạng phá sản có nghĩa là tổ chức đó không có khả năng trả nợ một cách đầy đủ hoặc không thể tiếp tục hoạt động kinh doanh của mình do bị thiếu vốn. Trong trường hợp này, các công ty bảo hiểm sẽ đứng ra trả lại tiền gửi cho khách hàng theo quy định của pháp luật; mặt khác các tài sản, công việc kinh doanh của các Tổ chức tín dụng sẽ được bàn giao cho ban thanh lý các tài sản và thực hiện việc thanh lý theo quy định. Thứ hai, sự giải thể bắt buộc của tổ chức tín dụng. Sự giải thể có thể là bắt buộc hoặc tự nguyện do bị đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản. Sự giải thể bắt buộc xảy ra khi các Tổ chức tín dụng không tuân theo các quy tắc, luật lệ do Nhà nước đặt ra hoặc các Tổ chức tín dụng từ chối thanh toán hoặc chỉ có cách giải thể các chủ nợ mới thu hồi được tiền nên họ đề nghị Toà án ra lệnh tuyên bố giải thể. Còn sự giải thể tự nguyện xảy ra khi Tổ chức tín dụng bị đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản. Tình trạng này là tình trạng Tổ chức tín dụng thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc gặp khó khăn sau khi áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết của Nhà nước mà đại diện là Toà án, các cổ đông của Tổ chức tín dụng quyết định tuyên bố giải thể. Sau khi phân chia tài sản, các khoản tiền gửi có kỳ hạn mà Tổ chức tín dụng không thanh toán hết thì tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm bồi thường cho người gửi tiền. Thứ ba, Phải chấp hành lệnh thanh lý vì một lý do khác với việc phá sản hay mất khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng. Trường hợp này xảy ra khi cơ quan có thẩm quyền xét thấy quỹ mặc dù vẫn có khả năng thanh toán nhưng đúng mục đích đã đề ra, không muốn toà án can thiệp mà quyết định thanh lý quỹ không cho hoạt động tiếp. Trong trường hợp này, bảo hiểm sẽ giải quyết bồi thường cho những người gửi tiền có kỳ hạn nhưng sẽ được thế quyền để được hưởng số tiền thanh lý tài sản hay đòi nợ. Thứ tư, là do không thể thực hiện việc thanh toán cho người gửi tiền. Vì một lý do nào đó mà Tổ chức tín dụng cố ý không thanh toán nợ và chủ nợ đệ đơn lên toà án để có lệnh bắt buộc Tổ chức tín dụng phải tuyên bố phá sản hay thanh lý để trả nợ cho các chủ nợ. Họ cho rằng có như vậy họ mới thu hồi được các khoản nợ của mình. Lệnh của toà án được áp dụng khi: - Tổ chức tín dụng không có phương án hoà giải hoặc có phương án tổ chức lại hoạt động kinh doanh của mình theo yêu cầu của toà án. - Không tham gia Hội nghị chủ nợ để trình bày các phương án hoà giải và trình bày các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh. - Có tham gia hội nghị chủ nợ để trình bày các phương án nhưng trong qúa trình tổ chức lại kinh doanh, Tổ chức tín dụng đã vi phạm nghiêm trọng những thoả thuận tại hội nghị và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản. - Hết thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh mà tổ chức tín dụng vẫn kinh doanh không hiệu quả. Tuy nhiên trong Bảo hiểm tiền gửi cũng có những rủi ro loại trừ. Những rủi ro loại trừ (không thuộc phạm vi bảo hiểm) là những rủi ro gây ra sụư phá sản, thanh lý hay giải thể một Tổ chức tín dụng trong các trường hợp: - Vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ tín dụng, thanh toán đã nêu trong pháp lệnh ngân hàng của tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng có điều lệ và quy chế hoạt động riêng nhưng cũng phải tuân thủ các quy định hiện hành khác của Nhà nước. Nếu tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quuy định về tiền tệ, tín dụng, thanh toán của ngân hàng dẫn đến phá sản thì bảo hiểm không bồi thường. - Giải thể tự nguyện vì nguyên nhân: + Do cổ đông nhận thức thấy mục tiêu khi thành lập tổ chức tín dụng không đạt được. + Do cổ đông muốn thu hồi lại vốn hoặc có nhu cầu cải tổ lại cơ cấu của tổ chức tín dụng. - Ngừng hoạt động do những nguyên nhân: Tổ chức tín dụng ngừng hoạt động vì chiến tranh, đình công, bạo loạn dân sự, nội chiến. Đây là những rủi ro loại trừ không thông thường, không liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ. Khi tổ chức tín dụng bị phá sản, thanh lý, giải thể do các rủi ro này bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm bồi thường cho những người gửi tiền. Các quy định của Chính phủ về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam * Căn cứ vào nghị định 89/NĐ-CP ngày 1/9/1999 thì đối tượng tham gia Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam với hình thức bắt buộc là tất cả các tổ chức tín dụng và tại công văn số 109/2005 – NĐ-CP được bổ sung, sửa đổi một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP. Hiện nay ở Việt Nam, các tổ chức tín dụng được phân làm hai loại là tổ chức tín dụng ngân hàng và tổ chức tín dụng phí ngân hàng. Các tổ chức tín dụng ngân hàng được phân theo các hình thức sau: - Theo hình thức sở hữu: + Ngân hàng thương mại quốc doanh + Ngân hàng thương mại + Ngân hàng liên doanh + Ngân hàng nước ngoài - Theo hình thức hoạt động có: + Ngân hàng công thương + Ngân hàng ngoại thương + Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn + Ngân hàng Đầu tư & phát triển + Ngân hàng chính sách Các quỹ tín dụng nhân dân gồm có: + Quỹ tín dụng nhân dân trung ương + Quỹ tín dụng nhân dân khu vực + Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm có: + Các công ty tài chính + Các công ty thuê tài chính + Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác Như vậy,, tổ chức tín dụng cũng như các tổ chức không phải là tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của luật tín dụng, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và có nhận tiền gửi bằng tiền Việt Nam đều là đối tượng tham gia của Bảo hiểm tiền gửi. * Điều 3 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ về Bảo hiểm tiền gửi quy định: Tiền gửi được bảo hiểm là đồng Việt Nam của các cá nhân tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. * Thông tư số 03/2000/TT-NHNN ngày 26/3/2000 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện nghị định số 89/1999/NĐ-CP, hướng dẫn cụ thể hơn về đối tượng tiền gửi được bảo hiểm gồm: - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn bao gồm cả tiền gửi trên tài khoản các nhân. - Tiền mua các chứng chỉ tiền gửi và các trái phiếu ghi danh cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không bảo hiểm đối với các loại chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu vô danh do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành. Mặc dù, đối tượng được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của những người gửi tiền gửi tại tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi, trừ những trường hợp sau: - Tiền gửi của người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần, có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó; - Tiền gửi của người gửi tiền là thành viên của hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc ( phó giám đốc ) của tổ chức tham gia bảo hiểm; - Tiền gửi dùng để đảm bảo nghĩa vụ của người gửi tiền; - Tiền mua các giấy tờ có giá, trừ một số giấy tờ có giá theo hướng dẫn của ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 3.2 Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm Số tiền bảo hiểm (STBH) là số dư tiền gửi trong báo cáo số dư tiền gửi mỗi quý của tổ chức tín dụng. Phí bảo hiểm là một trong những công cụ nhạy cảm của chính sách Bảo hiểm tiền gửi ở mỗi quốc gia. Tuỳ theo mục tiêu thiết lập hệ thống Bảo hiểm tiền gửi là hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận hay phi lợi nhuận mà định ra các mức phí khác nhau. Nó có thể cao hơn, thấp hơn, thậm chí bằng chi phí và tổn thất mà Bảo hiểm tiền gửi phải bỏ ra. Tuy nhiên, cơ chế xác định phí công bằng luôn là cơ sở quan trọng để Bảo hiểm tiền gửi hoạt động có hiệu quả và phát triển bền vững. Một số hệ thống Bảo hiểm tiền gửi trên thế giới mà tiêu biểu là Mỹ, Canada, Nhật, Đài Loan… đã vận dụng thành công phương pháp định phí bảo hiểm dựa trên thông tin thị trường và thông tin đối kháng. Để phân tích ngwofi ta đã sử dụng mô hình “ quyền chọn của Merton” hay mô hình “ tổn thất dự kiến” Phí bảo hiểm chính là nguồn thu quan trọng góp phần bảo đảm cho sự tồn tại của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Do vậy, định phí chính xác phải đi đôi với thu phí có hiệu quả. Thông thường phí bảo hiểm là số tiền tổ chức tín dụng phải trả cho công ty bảo hiểm để công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm số dư tiền gửi của tổ chức tại thời điểm cuối mỗi quý. Phí bảo hiểm mà tổ chức tín dụng trả cho người bảo hiểm theo từng quý được tính theo công thức: P = m x R/365 x G Trong đó: P - Phí bảo hiểm theo quý; m - Số dư tiền gửi; R - Tỷ lệ phí bảo hiểm; G - Số ngày của một quý; 365 - Số ngày trong năm; Ở đây, công ty bảo hiểm nhận các khoản tiền gửi. Do đó để thuận tiện cho việc tính phí bảo hiểm, khi báo cáo số dư tiền gửi, các tổ chức tín dụng phải phân loại; - Những khoản tiền gửi không kỳ hạn; - Những khoản tiền gửi có kỳ hạn; Trên cơ sở phân loại, cuối mỗi quý, tổ chức tín dụng có thể tính phí bảo hiểm và trả cho người bảo hiểm. Quy định của Chính phủ - Số tiền bảo hiểm Theo điều 4 của nghị định 109/2005/NĐ-CP thì số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi abo gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền (một cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật) tại một tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi thuộc các đối tượng tham gia theo quy định ở trên, tối đa là 50 triệu đồng. So với mức tiền gửi được bảo hiểm của nghị định 89 thì mức tiền gửi được bảo hiểm tối đa đã tăng thêm 20 triệu tức gần 20%. Điều chỉnh này tăng niềm tin của khách hàng, giúp Tổ chức tín dụng huy động được nhiều hơn nguồn vốn nhàn rỗi trong cư dân. - Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là khoản tiền mà tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi có nghĩa vụ nộp cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng. Theo quy định phí bảo hiểm được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi. Hiện nay, trên thế giới tồn tại hai hệ thống tính phí: hệ thống quy định mức phí thống nhất và hệ thống quy định mức phí phân biệt. Mức phí thống nhất được quy định theo một tỷ lệ % thống nhất, áp dụng chung cho một ngân hàng và nó được tính dựa trên % tổng số tiền gửi được bảo hiểm. Còn mức phí phân biệt được xác định riêng cho từng ngân hàng, tuỳ thuộc khả năng thanh toán, khả năng cạnh tranh, và mức ổn định của mỗi ngân hàng. Theo quy định ở Việt Nam, tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi phải nộp phí theo mức 15%/năm tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi theo quy định. Như vậy là ở Việt Nam hệ thống tính phí áp dụng là hệ thống tính phí thống nhất. Song trước yêu cầu đặt ra của xã hội, các Tổ chức tín dụng, năm 2005 việc tính phí được điều chỉnh: mức phí được áp dụng vẫn là 15% tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm nhưng tuỳ theo loại hình tổ chức tham gia bảo hiểm hoặc trên cơ sở đánh giá, xếp loại của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, được Thủ tướng Chính phủ quyết định dựa trên cơ sở đề nghị của Bảo hiểm tiền gửi và ý kiến của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính. Phí bảo hiểm được nộp bốn lần trong năm tài chính, phí phạt với các trường hợp nộp chậm là 0.1% số tiền nộp chậm trên ngày. Nếu tình trạng kéo dài quá 30 ngày, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể yêu cầu ngân hàng Nhà nước, Tổ chức tín dụng hoặc kho bạc nơi Tổ chức tín dụng lập tài khoản chuyển nộp khoản phí nôp chậm và các khoản phạt. Qúa thời hạn 3 tháng mà tổ chức này vẫn không nộp phí, Bảo hiểm tiền gửi sẽ chấm dứt việc bảo hiểm và ra thông báo cho công chúng. Lúc này trách nhiệm của Bảo hiểm tiền gửi sẽ được bảo tồn trong thời hạn 6 tháng. Công thức tính phí đóng bảo hiểm tiền gửi hàng năm là: P = r x D Trong đó: P - mức phí bảo hiểm tiền gửi hàng năm mà một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cần đóng. r - tỷ lệ bảo hiểm tiền gửi áp dụng đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi D - số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi Ngoài ra, còn tính phí bảo hểm mà Quỹ tín dụng trả cho người gửi tiền tại tổchức tín dụng bị phá sản theo từng quý theo công thức: P = m x R/360 x 90 Trong đó: P - Phí bảo hiểm theo quý m - số dư tiền gửi R - Tỷ lệ phí bảo hiểm 90 - Số ngày của một quý 360 - Số ngày trong năm 3.3 Công tác chi trả tiền gửi được bảo hiểm Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm, tổ chức tín dụng phải thông báo cho công ty bảo hiểm biết kèm theo các giấy tờ: - Giấy yêu cầu bồi thường - Giấy chứng nhận tham gia bảo hiểm - Báo cáo thực trạng đến ngày xảy ra rủi ro - Lệnh của toà án, tuyên bố phá sản, quyết định giải thể hay thanh lý. - Bản kê danh sách những người gửi tiền chưa được thanh toán tính đến ngày xảy ra rủi ro - Bản kê khai chi tiết dư nợ cho vay tính đến ngày xảy ra rủi ro. Sau khi xem xét các chứng từ có liên quan tới việc trả tiền bồi thường cho quỹ tín dụng và người gửi tiền gửi đến và nếu thuộc phạm vi bảo hiểm thì bảo hiểm sẽ trả tiền bồi thường cho người gửi tiền. Số tiền bồi thường cao nhất của bảo hiểm là số dư tiền gửi thực tế (chỉ tính gốc không tính lãi) vào thời điểm quỹ tín dụng xảy ra rủi ro nhưng không vượt quá số tiền ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Quy định của Chính phủ Bảo hiểm tiền gửi sẽ tiến hành chi trả tiền gửi được bảo hiểm với giới hạn tối đa là 50 triệu đồng/cá nhân bao gôồ cả gốc và lãi. Số tiền chi trả căn cứ trên chứng từ hợp lệ và danh sách tiền gửi do tổ chức bảo hiểm và tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lập. Trong trường hợp số tiền gửi bao gồm cả gốc và lãi vượt quá mức trách nhiệm của công ty bảo hiểm thì phần vượt quá sẽ được thanh toán khi Tổ chức tín dụng tiến hành thanh lý tài sản. Sau khi tiến hành bồi thường, Bảo hiểm tiền gửi trở thành chủ nợ của tổ chức tham gia bảo hiểm bị phá sản dựa trên cơ sở số tiền đã chi trả cho người gửi tiền. Do đó Bảo hiểm tiền gửi được tham gia vào quy trình quản lý và thanh lý tài sản của tổ chức bị phá sản. 4. Các hoạt động chính của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam Tuỳ thuộc vào mục đích và mô hình tổ chức của Bảo hiểm tiền gửi ở mỗi quốc gia mà tổ chức này có những nghiệp vụ cụ thể nhất định. Song nhìn chung các tổ chức bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đều tổ chức thực hiện một số nghiệp vụ chính sau: 4.1 Nghiệp vụ kiểm tra khách hàng Trên cơ sở quy định tại nghị định số 89/1999/NĐ, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có quyền kiểm tra tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi thực hiện các quy định về Bảo hiểm tiền gửi và quy định bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng. Nội dung kiểm tra việc chấp hành các quy định Bảo hiểm tiền gửi bao gồm: Kiểm tra việc niêm yết chứng nhận Bảo hiểm tiền gửi, kiểm tra tính đầy đủ trong nộp phí, chấp hành thời hạn nộp phí và nộp phạt(nếu có), kiểm tra việc cung cấp thông tin cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Nội dung kiểm tra này được thực hiện căn cứ vào các chỉ tiêu an toàn mà hệ thống ngân hàng Việt Nam đặt ra. Công tác kiểm tra tuân thủ quy định an toàn tập trung vào các tiêu chí: Tuân thủ quy định giới hạn huy động vốn theo địa bàn, tuân thủ quy định về chế độ hạch toán kinh tế và chứng từ kế toán, quy định bảo đảm vốn điều lệ, quy định bảo đảm an toàn trong cho vay, quy định về tính pháp lý của hồ sơ vay vốn, khả năng tạo lợi nhuận ,trích lập các quỹ, quy định về quản trị điều hành. 4.2 Nghiệp vụ giám sát tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi Nghiệp vụ giám sát tổ chức tham gia BHTG được tiến hành trên cơ sở thông tin thu thập được để nắm bắt tình hình hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG. Các nguồn thông tin chủ yếu mà BHTGVN có được bao gồm: các loại báo cáo nhận được từ khách hàng, thông tin truy cập từ Ngân hàng Nhà nước. Kết quả của công tác giám sát phản ánh tình hình nộp phí bảo hiểm, tình hình tuân thủ một số chỉ tiêu về an toàn trong hoạt động ngân hàng. Hàng quý, các chi nhánh khu vực của Bảo hiểm tiền gửi có báo cáo gửi về phản ánh tình hình hoạt động, tình hình tuân thủ các quy định an toàn của tất cả các khách hàng thuộc chi nhánh mình quản lý dựa trên cơ sở từ các thông tin tổng hợp. Đồng thời chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi có thông báo, cảnh báo, nhắc nhở khách hàng tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động và quy định về Bảo hiểm tiền gửi. 4.3 Nghiệp vụ chi trả tiền gửi và theo dõi sau chi trả Khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản hoặc bị đình chỉ hoạt động và mất khả năng thanh toán, tổ chức tham gia BHTG làm thủ tục trình BHTGVN để được chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức đó. Theo đó, BHTGVN (Hội sở chính hoặc chi nhánh khu vực theo địa bàn phụ trách) thành lập đoàn chi trả tiến hành tổ chức chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền ngay tại địa bàn của tổ chức tham gia BHTG đó một cách nhanh gọn và thuận lợi. Người được chi trả có thể trực tiếp đến nhận tiền mặt tại địa bàn chi trả tiền bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG vào thời gian được công bố hoặc có thể đề nghị chuyển tiền qua ngân hàng hoặc bưu điện đến một địa điểm khác. Quy trình và thủ tục chi trả được quy định cụ thể ở các văn bản do Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ban hành. Công tác theo dõi, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi sau khi trả được tiến hành dưới hình thức nắm thông tin về hoạt động ._.của hội đồng thanh lý thông qua chi nhánh ngân hàng Nhà nước tỉnh để đốc thúc việc thu hồi trong thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm được chi trả, giám sát việc thực hiện thanh toán cho các chủ nợ để đảm bảo trả nốt phần tiền ửi của người gửi tiền trên hạn mức chi trả. 4.4 Nghiệp vụ cho vay hỗ trợ khách hàng Cho vay hỗ trợ là hình thức hỗ trợ tài chính, theo đó Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam giao cho quỹ tín dụng sử dụng một khoản tiền trong thời gian nhất định với các ưu đãi đảm bảo về lãi suất và điều kiện vay vốn để sử dụng vào mục đích chi trả tiền gửi được Bảo hiểm theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi dưới các hình thức cho vay, bảo lãnh, mua lại nợ và các hình thức khác phù hợp với quy định của pháp luật. Nhưng tổ chức bảo hiểm tiền gửi chỉ xem xét, quyết định việc hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi sau khi ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định rằng việc giải thể, phá sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng, sâu rộng đến sự an toàn của hệ thống tài chính, ngân hàng và sự ổn định chính trị, kinh tế - xã hội. Việc thực hiện hỗ trợ tài chính được coi là việc tổ chức bảo hiểm áp dụng biện pháp đặc biệt về tài sản để phục hồi hoạt động kinh doanh của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Khoản hỗ trợ tài chính này sẽ được ưu tiên hoàn trả trước tất cả các khoản nợ khác của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Điều kiện vay vốn Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam xem xét và quyết định cho vay khi Quỹ tín dụng có đủ các điều kiện sau: - Là quỹ tín dụng đang được Ngân hàng Nhà nước xếp loại A, thực sự có nguy cơ gặp khó khăn tạm thời về khả năng chi trả vì lý do khách quan nhưng chưa đến mức đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt. - Có phương án vay vốn khả thi đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong thời hạn cam kết. - Tình hình hoạt động kinh doanh năm thực hiện hành đến thời điểm đề nghị vay vốn không có các biểu hiện sút giảm theo chiều hướng xấum trích lập đầy đủ quỹ dự phòng để xử lý rủi ro theo quy định. - Chấp hành đúng các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi. - Vốn điều lệ thực có lớn hơn hoặc bằng mức vốn tối thiểu theo quy định của pháp luật, hàng năm trích lập đầy đủ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. - Đã hoàn trả hết nợ (cả gốc và lãi) của khoản vay phát sinh trước đó (nếu có) cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. - Có khả năng cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin cần thiết liên quan đến tình hình thực hiện phương án vay vốn cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. - Việc tiếp tục hoạt động của Quỹ tín dụng có vai trò quan trọng với sự bảo đảm an toàn hệ thống, sự ổn định chính trị, kinh tế - xã hội. - Chấp nhận các quy định của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam về cho vay hỗ trợ. Nguyên tắc cho vay - Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chỉ xem xét quyết định cho vay 1lần/năm đối với các Quỹ tín dụng đáp ứng đủ các điều kiện quy định. - Khoản cho vay hỗ trợ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đối với Quỹ tín dụng được coi là khoản cho vay đặc biệt của Nhà nước nhằm hỗ trợ chi trả tiền gửi của dân chúng và phục hồi hoạt động kinh doanh của Quỹ tín dụng. - Quỹ tín dụng vay vốn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phải đảm bảo: + Sử dụng vốn vay để chi trả tiền gửi được bảo hiểm + Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đầy đủ và đúng hạn Lãi suất cho vay Lãi suất cho vay áp dụng theo mức lãi xuất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng tại thời điểm vay vốn. Lãi suất quá hạn bằng 15% mức lãi suất cho vay. Thời hạn cho vay, định kỳ trả nợ gốc và lãi vốn vay Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và Quỹ tín dụng căn cứ vào kế hoạch kinh doanh và khả năng trả nợ của Quỹ tín dụng để thoả thuận về thời hạn cho vay và việc trả nợ gốc, lãi vốn theo nguyên tắc: - Thời hạn cho vay tối đa là 6 tháng - Các kỳ hạn trả nợ gốc, các kỳ hạn trả lãi vốn vay cùng với trả nợ gốc hoặc theo kỳ hạn riêng nhưng không quá thời hạn cho vay. 4.5 Nghiệp vụ tuyên truyền, quảng cáo Hoạt động tuyên truyền đã được tiến hành với mục đích phổ cập thông tin về hoạt động BHTG tới toàn thể công chúng. Các vấn đề về quyền lợi và trách nhiệm của người gửi tiền, tổ chức tham gia BHTG, tổ chức BHTG, mục đích vai trò của hoạt động này đã được BHTGVN tuyên truyền tới công chúng trên các phương tiện thông tin đại chúng, ấn phẩm, hội thảo… Đến nay, tại tất cả các tỉnh và thành phố, BHTGVN đã tổ chức hội thảo về BHTG với thành viên tham gia là đại diện các tổ chức tham gia BHTG, các cơ quan chính quyền địa phương liên quan, các cơ quan thông tấn báo chí và chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh và thành phố. Cùng với BHTGVN, các tổ chức tham gia BHTG cũng bắt đầu quảng cáo về hoạt động BHTG tới công chúng. Một trang Web về BHTGVN cũng được thành lập trên mạng internet để quảng bá về hoạt động này và trao đổi thông tin với cộng đồng được hiệu quả hơn. CHƯƠNG II. NỘI DUNG VỀ CÔNG TÁC GIÁM SÁT CỦA BẢO HIỂM TIÊN GỬI VIỆT NAM Vài nét về công tác giám sát của Bảo hiểm tiền gửi Khái niệm Giám sát là việc ghi nhận lại tiến độ thực hiện công việc, thu nhập, phân tích và luận giải các thông tin, nhằm đưa ra các lựa chọn trong việc xử lý những vấn đề đã xác định hoặc dự tính; Là quá trình kiểm tra thường xuyên các hoạt động nhằm đối chiếu với các mục tiêu, điều kiện và kế hoạch đặt ra để từ đó đưa ra định hướng và điều chỉnh hoạt động. Có nhiều hình thức giám sát khác nhau, tuỳ thuộc chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị để áp dụng cho thích hợp. - Giám sát thông qua Kiểm toán - Giám sát thông qua hội thảo và họp trao đổi. - Giám sát thông qua thực địa - Giám sát từ xa Là việc gián tiếp kiểm tra, thông qua tổng hợp, tính toán, phân tích chỉ tiêu dựa trên báo cáo của Tổ chức tín dụng nhằm đánh giá tình hình hoạt động của từng Tổ chức tín dụng riêng biệt. Từ đó xác định những Tổ chức tín dụng có vi phạm để cảnh báo kịp thời và đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp. Hiện tại, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đang sử dụng phương pháp giám sát này là chủ yếu. Mục đích, yêu cầu của công tác giám sát Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng. Phát hiện sớm và có biện pháp ngăn chặn kịp thời vi phạm pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi và an toàn trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi. 3. Đối tượng giám sát: là các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi. II. Sự cần thiết khách quan của công tác giám sát đối với Ngân hàng thương mại cổ phần Trong nền kinh tế thị trường, tài chính tiền tệ là lĩnh vực hết sức nhạy cảm đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu xây dựng được một thể chế đủ mạnh, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế để từng bước đáp ứng sự vững chắc nhu cầu vốn của một nền kinh tế đang phát triển với nhịp độ cao trong thời gian dài. Mặt khác, khi hệ thống pháp luật và thể chế thị trường tại Việt Nam chưa ổn định và hoàn thiện, năng lực tài chính của các ngân hàng còn yếu, chất lượng tín dụng kém nên tiềm ẩn không ít rủi ro: rủi ro lãi suất, rủi ro hệ thống, rủi ro đạo đức… Việc phát sinh và tồn tại rủi ro đi cùng với hoạt động bảo hiểm tiền gửi mang tính khách quan, phản ánh mặt hạn chế của hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Một trong những các rủi ro phát sinh cùng với hoạt động bảo hiểm tiền gửi là rủi ro đạo đức. Rủi ro đạo đức của hoạt động bảo hiểm tiền gửi là loại rủi ro liên quan tới việc phát sinh các cư xử thiếu đạo đức trong việc tiếp cận, sử dụng các dịnh vụ ngân hàng làm ảnh hưởng không tốt tới hoạt động Bảo hiểm tiền gửi và đe doạ tính an toàn của hệ thống ngân hàng. Cư xử thiếu đạo đức do cơ chế Bảo hiểm tiền gửi tạo nên là hiện tượng bất cẩn trong việc tiếp cận, thực hiện các dịch vụ ngân hàng của các đối tượng thụ hưởng chính sách bảo hiểm tiền gửi, gây ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi và ảnh hưởng tới sự an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Các đối tượng thụ hưởng chính sách bảo hiểm tiền gửi bao gồm đối tượng trực tiếp và đối tượng thụ hưởng gián tiếp. Đối tượng thụ hưởng trực tiếp của chính sách Bảo hiểm tiền gửi bao gồm người gửi tiền thuộc đối tượng Bảo hiểm tiền gửi. Đối tượng thụ hưởng gián tiếp của chính sách Bảo hiểm tiền gửi bao gồm chủ ngân hàng, người điều hành ngân hàng, các nhà thanh tra, kiểm soát, người đi vay vốn từ ngân hàng và rộng hơn là toàn thể cộng đồng dân cư của quốc gia. Một biểu hiện của cư xử thiếu đạo đức có thể thấy khi người gửi tiền được bảo hiểm, sẽ ít quan tâm tới việc thu thập thông tin để kiểm soát hoạt động của ngân hàng mà họ gửi tiền nhờ vậy, một số ngân hàng yếu kém có thể huy động tiền gửi với mức lãi suất không đủ cao so với mức độ rủi ro mà ngân hàng đó có thể gây nên. Mặt khác, cư xử thiếu đạo đức cũng có thể phát sinh do hiện tượng các ngân hàng khi là thành viên tham gia bảo hiểm tiền gửi, họ cho rằng việc đổ vỡ ngân hàng dường như không thể xảy ra và vì vậy, họ có thể có các biểu hiện chấp nhận rủi ro cao hơn trong hoạt động, giảm vốn và dự trữ, và vì vậy, vô hình dung đã làm cho mình trở nên khó khăn hơn trong việc giải quyết các vấn đề về thanh khoản, đặc biệt là trong các tình huống có khủng hoảng xảy ra. Nhiều đối tượng khác cũng có ảnh hưởng gián tiếp của Bảo hiểm tiền gửi và do đó, có thể có liên quan tới rủi ro đạo đức. Ví dụ, hợp đồng bảo hiểm tiền gửi có tác dụng giảm nỗi sợ hãi về đổ vỡ ngân hàng và các tổ chức tài chính của những đối tác, mặc dầu những đối tác này không phải là thành viên tham gia trực tiếp trong hợp đồng bảo hiểm tiền gửi, có thể thay đổi cách cư xử của họ trong việc tiếp cận dịch vụ ngân hàng theo xu hướng không có lợi cho hoạt động của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, những bất ổn trong hệ thống tài chính quốc tế cũng có tác động rất lớn và dễ làm tổn thương các ngân hàng thương mại Cổ phần Việt Nam còn nhỏ bé. Đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực giai đoạn 1997-1998, hệ thống các tổ chức kinh doanh tiền tệ trong nướccó nhiều dấu hiệu kém lành mạnh, lòng tin của người dân vào các tổ chức tín dụng bị suy giảm nặng nề, hoạt động vốn của các ngân hàng gặp không ít khó khăn. Như vậy, để đối phó với những rủi ro, tác hại không lường trước được do rủi ro trên gây ra, có nhiều biện pháp khác nhau nhưng biện pháp tốt nhất là bảo hiểm, nghĩa là chuyển những rủi ro mà mình có thể gặp phải cho các tổ chức bảo hiểm. Ở đây, các ngân hàng thương mại cổ phần sẽ chuyển giao rủi ro mà họ có thể gặp phải sang cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Nhưng hệ thống Bảo hiểm tiền gửi được triển khai có thể đưa đến tình trạng một số ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ sẽ có một sức ỳ nhất định vì họ cho rằng đứng đàng sau sự đổ vỡ của Ngân hàng mfinh là tổ chức Bảo hiểm tiền gửi với trách nhiệm thay thế họ trả tiền cho những người gửi tiền. Chính điều đó đã thúc đẩy và dẫn đến những hiện tượng các ngân hàng thương mại cổ phần sẽ lợi dụng sự đảm bảo của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi, để cố ý tạo ra những nguy cơ: Ngân hàng sử dụng vốn vay sai mục đích hay người vay cố tình không trả nợ, tài sản thế chấp, giấy tờ pháp lý …Không chấp hành nghiêm túc các hệ thống tín dụng, các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động ngân hàng, việc nộp phí, vi phạm quy trình xét duyệt cho vay, quá chú trọng về lợi nhuận, tăng lãi suất … như vậy, bảo hiểm tiền gửi sẽ tạo ra một tâm lý chủ quan cho các ngân hàng thương mại cổ phần, đồng thời cũng gây ra những hậu quả lớn không chỉ đối với bản thân các Ngân hàng thương mại cổ phần mà còn gây tác động xấu đến tổn thất cho nhà bảo hiểm. Nhằm đối phó với các vấn đề trên, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi phải tăng cường giám sát nhằm sớm có biện pháp ngăn ngừa, cảnh cáo và tác động kịp thời đối với các ngân hàng thương mại cổ phần có những sai phạm, giúp ngân hàng thương mại cổ phần tìm ra những yếu kém và khắc phục những yếu kém. Do đó, công tác giám sát là hoạt thực sự cần thiết đối với các ngân hàng thương mại cổ phần và có vai trò rất quan trọng trong sự thành công của hoạt động Bảo hiểm tiền gửi. Nội dung giám sát đối với các Ngân hàng thương mại cổ phần Giám sát về việc chấp hành các quy định của pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi Cơ sở pháp lý của việc nộp phí bảo hiểm tiền gửi - Nghị đjnh số 89/NĐ-CP ngày 10 tháng 09 năm 1999 của Chính Phủ về bảo hiểm tiền gửi - Thông tư số 03/200/TT-NHNN5 ngày 16 tháng 03 năm 2000 của Ngân hàng Nhà nước, hướng dẫn thi hành “ Nghị định số 89/NĐ-CP ngày 01tháng 09 năm 1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi. - Quyết định số 1077/200/QĐ-NHNN ngày 27 tháng 08 năm 2001 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi bổ sung một số nội dung tại “ Thông tư số 03/2000/ TT-NHNN5 ngày 16 tháng 03 năm 2000 của NHNN” 1.2 Cách tính phí BHTG phải nộp mỗi kỳ đối với Ngân hàng thương mại cổ phần Các loại tiền gửi được bảo hiểm Tiền được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của các cá nhân ( bao gồm người cư trú và người không cư trú) gồm: -Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn - Tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn bao gồm cả tiền gửi trên tài khoản cá nhân - Tìên mua các chứng chỉ tiền gửi, các trái phiếu ghi danh do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không bảo hiểm đối với các loại chứng chỉ tiển gửi trái phiếu vô danh do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành. Cơ sở tính phí Phí bảo hiểm tiền gửi được tính và nộp vào bốn kỳ trong một năm theo các quý và được nộp vào tài khoản của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chậm nhất vào ngày 20 tháng đầu tiên của quý thu phí bảo hiểm tiền gửi. Cơ sở tính phí bảo hiểm tiền gửi là số dư các loại tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm của quý trước sát với quý thu phí bảo hiểm tiền gửi. Đối với tổ chức được cấp giấy phép thành lập và hoạt động hoặc giấy phép mở chi nhánh sau ngày Thông tư này có hiệu lực thì việc nộp phí bảo hiểm tiền gửi kỳ đầu được thực hiện theo hướng dẫn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tại Công văn 652/CV-BHTG8, ngày 12/12/2003 của Tổng giám đốc bảo hiểm tiền gửi. * Số phí Bảo hiểm tiền gửi phải nộp cho mỗi quý tính bằng công thức sau đây: (S0 + S1)/2 + S1 + S2 x 0.15 P = 3 100 x 4 Trong đó: - P là số phí bảo hiểm tiền gửi phải nộp trong kỳ; - S0 là số dư tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm đầu tháng thứ nhất của quý trước sát với quý thu phí BHTG. - S1, S2 là số dư tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm ở cuối các tháng thứ nhất, thứ hai, thứ ba của quý trước sát với quý thu phí BHTG. - 0.15/100 x 4 là tỷ lệ phí phải nộp cho một quý trong năm. Số phí bảo hiểm tiền gửi phải nộp được tính làm tròn đến đơn vị nghìn đồng. Đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có số phí bảo hiểm tiền gửi bình quân phải nộp tính được cho một quý nhỏ hơn 500.000đ thì việc nộp phí bảo hiểm tiền gửi được thực hiện theo hướng của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tại công văn số 220/CV- BHTG ngày 6/9/2001 và công văn số 22/CV- BHTG, ngày 5/2/2002. Đối chiếu với số phí phải nộp (đã tính toán ở trên) với số phí thực nộp của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo báo cáo của phòng kế toán để xác định số phí nộp thừa, thiếu và có biện pháp xử lý phù hợp. Giám sát việc chấp hành thời hạn nộp phí của Ngân hàng thương mại cổ phẩn khi tham gia bảo hiểm tiền gửi - Nếu ngân hàng thương mại cổ phần tham gia bảo hiểm tiền gửi nộp phí theo định kỳ Quý thì số phí được nộp vào tài khoản của BHTGVN chậm nhất vào ngày 20 tháng đầu tiên của quý thu phí BHTG. - Nếu Ngân hàng thương mại cổ phần tham gia bảo hiểm tiền gửi nộp phí 1 năm 2 lần thì số phí được nộp vào tài khoản của BHTGVN chậm nhất vào ngày 20 tháng 1 và ngày 20 tháng 7 hàng năm. - Nếu Ngân hàng thương mại cổ phần tham gia bảo hiểm tiền gửi nộp phí 1 năm 1 lần thì số phí được nộp vào tài khoản của BHTGVN chậm nhất vào ngày 20 tháng 1 hàng năm. Giám sát việc nộp các thông tin báo cáo theo quy định + Hồ sơ pháp lý: giám sát việc có thay đổi đối tượng hoạt động, nội dung kinh doanh, hội đồng quản trị …có phù hợp với quy định của pháp luật không. + Báo cáo tài chính Giám sát về an toàn trong hoạt động Ngân hàng Cơ cấu tài sản nợ, tài sản có Cơ cấu tài sản nợ * Vốn huy động - Từ khách hàng ( thị trường 1) - Từ các tổ chức tín dụng (thị trường 2) * Vốn vay - Vay từ Ngân hàng nhà nước - Vay từ các tổ chức tín dụng khác - Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu * Vốn và các quỹ * Tài sản nợ khác * Lãi, lỗ trong kinh doanh Trong cơ cấu tài sản nợ, căn cứ bảng cân đối tài khoản kế toán và báo cáo thống kê liên quan đến tách một số chỉ tiêu sau: - Các loại tiền gửi thuộc đối tượng - Các khoản nợ Chính phủ, nợ NHNN và các tổ chức tín dụng khác. - Các khoản BHTGVN hỗ trợ dưới các hình thức: + Cho vay hỗ trợ để chi trả tiền gửi được bảo hiểm + Thực hiện nghĩa vụ trả thay bảo lãnh cho các khoản vay đặc biệt để có nguồn chi trả tiền gửi được bảo hiểm. Đánh giá cơ cấu và diễn biến tài sản nợ Cơ cấu ổn định và có chiều hướng tăng trưởng là điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần. Khi đánh giá nội dung này cần chú ý một số vấn đề sau: - Tỷ trọng vốn huy động ở thị trường 1 so với tổng số vốn huy động. Nếu vốn huy động chủ yếu ở thị trường 1 thì trong hoạt động sẽ nhiều thuận lợi, ít bị ảnh hưởng bởi những biến động bất thường trong quan hệ cung cầu tiền tệ hơn là dựa vào nguồn vốn huy động ở thị trường 2. Chi phí cũng thấp hơn tương đối so với dựa vào nguồn vốn thị trường 2. - Tỷ trọng vốn huy động bằng VND so với tổng vốn huy động. Nếu vốn huy động bằng đòng VND chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn huy động, ngân hàng sẽ tránh được rủi ro tỷ giá hối đoái. - Tỷ trọng tiền gửi thanh toán so với tổng vốn huy động. Nếu tỷ lệ này cao, ngân hàng sẽ dễ gặp phải rủi ro thanh khoản hơn, yêu cầu về dự trữ để đảm bảo htnh toán cũng cao hơn. - Tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm so với tổng vốn huy động. Nếu tỷ lệ này cao, ngân hàng có thể ít gặp phải rủi ro thanh khoản hơn, yêu cầu về dự trữ để đảm bảo thanh toán cũng thấp hơn. - Mối tương quan giữa vốn huy động có kỳ hạn và không kỳ hạn. Nguồn vốn có kỳ hạn thường có nhiều ưu điểm hơn nguồn vốn không kỳ hạn. Nếu nguồn vốn có kỳ hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn thì cơ cấu càng ổn định. Tuy nhiên, cần phải xem xét đến các yếu tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn như lãi suất, sự biến động của thị trường. - Nguyên nhân tăng, giảm nguồn vốn: nếu nguồn vốn huy động tăng vào loại có lãi suất cao sẽ bất lợi cho hoạt động kinh doanh. - Uy tín của Ngân hàng thương mại cổ phần tham gia bảo hiểm tiền gửi phụ thuộc vào nhiều yếu tố: số lượng chi nhánh và nơi đặt các địa điểm chi nhánh, sự đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp, uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế… - Những biến động không bình thường về huy động vốn, đặc biệt là tiền gửi bằng VND: sự biến động không bình thường này được thể hiện thông qua sự tăng, giảm đột biến của tổng tiền gửi, tổng tiền vay. Tài sản có Cơ cấu tài sản có * Tài sản có nội bảng - Cho vay; cho vay các tổ chức kinh tế, cho vay cá nhân, cho vay các tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra, có thể sử dụng nhiều hình thức phân loại khác nhau: theo thời gian, mục đích sử dụng, loại bảo hiểm… - Đầu tư: góp vốn mua cổ phần, hùn vốn - Vốn khả dụng - Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác - Tài sản cố định - Tài sản khác * Tài sản có ngoại bảng - Bảo lãnh, cho vay vốn - Bảo lãnh thanh toán - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng - Bảo lãnh dự thầu - Các hình thức cam kết bảo lãnh khác cho tổ chức, cá nhân: cam kết giao dịch hối đoái, tài trợ khác, cho thuê tài chính. Ngoài ra, có thể sử dụng nhiều hình thức phân loại khác nhau: theo phương thức phát hành: bảo lãnh trực tiếp, bảo lãnh gián tiếp, bảo lãnh được xác nhận, đồng bảo lãnh, theo hình thức sử dụng: bảo lãnh có điều kiện và bảo lãnh vô điều kiện. Đánh giá diễn biến và cơ cấu tài sản có Khi đánh giá nội dung này cần chú ý xem xét các tiêu chí sử dụng: - Tỷ lệ tài sản có sinh lời/tổng tài sản có: tỷ lệ nàycao phản ánh chất lượng quản lý và hiệu suất sử dụng vốn. - Tỷ lệ thanh khoản của tài sản = (dự trữ sơ cấp + dự trữ thứ cấp/tổng tài sản.) Tỷ lệ này cao phản ánh đảm bảo khả năng thanh khoản nhưng tính sinh lời thấp - Tỷ lệ cho vay ngắn hạn/ tổng tài sản so với tỷ lệ cho vay trung, dài hạn/ tổng tài sản. Ngoài ra, cần quan tâm đến một số nhân tố tác động đến cơ cấu đầu tư như sau: - Ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động chủ yếu ở thị trường 1 hay 2. - Khối lượng vốn đầu tư vào các lĩnh vực kinh tê - Ngoài việc đánh giá về cơ cấu đầu tư, vấn đề cần xem xét diễn biến của cơ cấu đấu tư và những biến động bất thường về chuyển dịch cơ cấu đầu tư của các Ngân hàng thương mại cổ phần trong từng thời kỳ cũng cần phải được quan tâm kịp thời, và trong một chừng mực nhất định nào đó khả năng rủi ro lớn cũng có thể xảy ra - Sự mất cân đối lớn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn; + Huy động vốn quá lớn trong khi cho vay không lớn dẫn đến ứ đọng vốn, vốn “ đóng băng” trong Ngân hàng thương mại cổ phần + Huy động vốn ít trong khi cho vay nhiều dẫn đến nguy cơ mất khả năng chi trả - Những biến động bất thường trong sử dụng vốn Các chỉ tiêu và phương pháp giám sát Vốn tự có - Vốn tự có của Ngân hàng thương mại cổ phần bao gồm: Vốn điều lệ ( vốn đã được cấp, vốn góp) và các quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ - Căn cứ đánh giá: Nghị định 82/1998/NĐ-CP ngày 3/10/98 của Chính phủ về việc ban hành danh mục mức vốn pháp định của các Ngân hàng thương mại cổ phần Đây là chỉ tiêu phản ánh số vốn điều lệ của các Ngân hàng thương mại đang hạch toán trên bảng cân đối tài khoản kế toán có đáp ứng yêu cầu tối thiểu về vốn điều lệ so với vốn pháp định do nhà nước quy định hay không? - Khi giám sát cần lưu ý những biến động tăng, giảm về vốn điều lệ không bình thường và được chuyển nhượng cổ phần phát sinh trong kỳ. - yêu cầu: Duy trì vốn điều lệ thực có không thấp hơn số vốn điều lệ đã được Thống đốc ngân hàng nhà nước chuẩn y. STT Ngân hàng thương mại cổ phần Mứcvốn pháp định Đơn vị 1 Ngân hàng TMCP đô thị + Tại TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh + Tại các tỉnh, TP khác 70 tỷ 50 tỷ VNĐ VNĐ 2 Ngân hàng TMCP nông thôn 5 tỷ VNĐ Chất lượng tài sản có Chất lượng tín dụng - Tính toán các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng Xem xét diễn biến của Tổng dư nợ * Tổng dư nợ: là số Tài sản Có của các Ngân hàng thương mại cổ phần đang quản lý dưới các hình thức cho vay, cho thuê, đầu tư chứng khoán hoặc đang quản lý các tài sản thu nợ, nợ chờ xử lý, nợ khoanh đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân… Nếu một Ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động chủ yếu là cho vay, cho thuê thì tổng dư nợ chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tài sản Có. Khi giám sát cần quan tâm đến mối tương quan của tốc độ tăng dư nợ cho vay với tốc độ tăng các khoản tiền gửi của khách hàng, nếu tốc độ tăng dư nợ cho vay lớn hơn tốc độ tăng tiền gửi thì điều này cho thấy: + Có thể ngân hàng phải đi vay để cho vay, mà thông thường nguồn vốn đi vay có chi phí cao hơn vốn huy động của dân cư, dẫn đến khả năng sinh lời sẽ kém. + Có thể ngân hàng đang bị chịu sức ép về mặt cho vay do đã cam kết từ trước mà việc thu hồi các khoản nợ cũ không đúng hạn, vì thế ngân hàng phải đi vay để cho vay. + Có thể ngân hàng không đủ uy tín để huy động vốn của dân cư, trong khi đó để tồn tại và duy trì các hoạt động ngân hàng phải chấp nhận các chi phí cao hơn để có nguồn vốn huy động; + Có thể ngân hàng đang điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn, ngân hàng rút vốn đang sử dụng dưới dạng tiền gửi ở các tổ chức tín dụng hoặc ở nước ngoài để đầu tư trong nước. * Nợ quá hạn - Khái niệm: Nợ quá hạn là các khoản nợ trong hạn đã quá thời hạn trả nợ, được chuyển sang hạch toán trên tài khoản nợ quá hạn. - Tính toán các chỉ tiêu + Nợ quá hạn đến 180 ngày/tổng dư nợ + Nợ quá hạn từ 181-360 ngày/tổng dư nợ * Nợ khó đòi - Khái niệm: Là các khoản nợ được hạch toán trên tài khoản nợ khó đòi, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ trong hạn và quá hạn đến 360 ngày nhưng đã có cơ sở xác định được là không có khả năng thu hồi (trước kia: nợ khó đòi là nợ đã quá hạn hơn 1 kỳ gia hạn nợ) - Tính toán chỉ tiêu: Nợ khó đòi/tổng dư nợ * Nợ chờ xử lý - Khái niệm: Là các khoản nợ đã quá hạn chờ xử lý có tài sản xiết nợ, gán nợ làm đảm bảo, hoặc các khoản nợ có tài sản thế chấp liên quan đến vụ án đang chờ xét xử. - Tính toán các chỉ tiêu: Nợ chờ xử lý/Tổng dư nợ * Nợ khoanh - Khái niệm: Là các khoản nợ đã quá hạn trả và đã được Chính phủ chấp thuận cho các khoản nợ quá hạn này không phải trả lãi để chờ xử lý. - Tính toán các chỉ tiêu: Nợ khoanh/ Tổng dư nợ * Nợ xấu - Khái niệm: bao gồm các khoản nợ quá hạn; nợ khó đòi; nợ chờ xử lý; nợ cho vay được khoanh thể hiện trên bảng cân đối tài khoản kế toán hàng tháng và khoản nợ được chuyển cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản để xử lý thu hồi vốn cho các Ngân hàng thương mại cổ phần. - Chỉ tiêu tính toán: Nợ xấu/ Tổng dư nợ Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng - Diễn biến và mức độ biến động so với kỳ trước, tỷ lệ tăng giảm, nguyên nhân tăng giảm các chỉ tiêu. - Nợ quá hạn so với tổng dư nợ phải đảm bảo nhỏ hơn hoặc bằng 5% Chất lượng tíndụng được đánh giá tốt nếu tỷ lệ này nhỏ hơn hoặc bằng 5% và không có nợ khó đòi - Nợ xấu so với tổng dư nợ phải đảm bảo nhỏ hơn hoặc bằng 10%; hoặc so với vốn tự có phải đảm bảo nhỏ hơn hoặc bằng 10%. Tại Quyết định khoản 1071/2002/QĐ-NHNN ngày 2/10/2002 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều khoản của “ Quy chế kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam” ban hành kèm theo Quyết định số 215/1998/QĐ-NHNN5 ngày 23/6/1998 quy định: Tổ chức tín dụng cổ phàn có thể bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt khi lâm vào một hoặc một số trường hợp sau đây: Có nguy cơ mất khả năng chi trả, được biểu hiện: ba lần trong một tháng không đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả tối thiểu bằng 1 giữa tài sản “ Có” có thể thanh toán ngay so với các loạ tài sản “ Nợ” phải thanh toán ngay. Có nguy cơ mất khả năng thanh toán,được biểu hiện: Liên tục trong ba tháng liên tiếp không duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tài sản “ Có”, kể cả các cam kết ngoại bảng, được điều chỉnh theo mức độ rủi ro. Các khoản nợ xấu (bao gồm: các khoản nợ quá hạn, nợ chờ xử lý, nợ cho vay được khoanh được thể hiện trên bảng cân đối kế toán hàng tháng, nợ chuyển cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản để xử lý thu hồi vốn cho tổ chức tín dụng cổ phần, chiếm từ 10% trở lên so với tổng dư nợ cho vay hoặc từ 100% tổng dư nợ trở lên. Số lỗ luỹ kế và số tiền chưa trích lập đủ dự phòng rủi ro theo quy định, lớn hơn 50% tổng vốn tự có. Trích lập dự phòng rủi ro * Cơ sở pháp lý cho việc giám sát trích lập dự phòng rủi ro của Ngân hàng thương mại cổ phần - Quyết định số 488/200/QĐ-NHNN5 ngày 27 tháng 11 năm 200 ban hành Quyết định về việc phân loại tài sản “ Có”, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng. - Điều 82-Luật các tổ chức tín dụng * Nội dung giám sát phần trích lập dự phòng rủi ro - Khái niệm về dự phòng rủi ro + Dự phòng rủi ro là dự phòng hạch toán vào chi phí hoạt động của các Ngân hàng thương mại cổ phần thông qua việc trích lập dự phòng cho phần giá trị tài sản “ Có” có khả năng khong thể thu hồi được. + Việc phân loại tài sản “ Có”, mức trích, phương pháp lập khoản dự phòng và việc sử dụng khoản dự phòng để xử lý các rủi ro trong hoạt động ngân hàng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định sau khi thống nhất với Bộ trưởng bộ tài chính. + Trong trường hợp Ngân hàng thương mại cổ phần thu hồi được vốn đã được xử lý bằng khoản dự phòng rủi ro, số tiền thu hồi này được coi là doanh thu của Ngân hàng thương mại cổ phần. - Tính toán mức phải trích dự phòng rủi ro - Phân loại các khoản tài sản phải trích dự phòng rủi ro và không phải trích Tài sản “ Có” không phải phân loại và trích lập dự phòng rủi ro - Những khoản cho vay bằng nguồn vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư theo từng hiệp định đã ký kết với các tổ chức nước ngoài, đã được trích dự phòng rủi ro theo yêu cầu của hiệp định và rủi ro xảy ra sẽ được tổ chức nước ngoài có trách nhiệm xử lý. - Những khoản không phải trích lập dự phòng rủi ro thuộc Tài sản nhóm 1 gồm: + Những khoản cho vay chưa đến hạn trả nợ ( kể cả kỳ hạn nợ gia hạn) + Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy có giá ngắn hạn khác chưa đến hạn thanh toán. + Những khoản cho thuê tài chính chưa đến hạn trả tiền thuê. Tài sản “ Có” phải phân loại và trích lập dự phòng rủi ro - Tài sản Có nhóm 2 phải trích 20% bao gồm: + Những khoản cho vay có bảo đảm bằng tài sản quá hạn trả nợ dưới 181 ngày; những khoản cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ dưới 91 ngày. + Số tiền trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi được trong thời gian dưới 61 ngày. + Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuế trong thời gian dưới 181 ngày. - Tài sản Có nhóm 3 phải trích lập 50% gồm: + Những khoản cho vay có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 181 ngày đến dưới 361ngày; những khoản cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đã qúa hạn trả nợ từ 91 ngày đến dưới 181 ngày. + Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã quá hạn thanh toán từ 31 ngày đến 61 ngày. + Số tiền trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa đủ thu hồi được trong thời gian từ 61 ngày đến dưới 181 ngày. + Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuế từ 181 ngày đến dưới 261ngày. - Tài sản Có nhóm 4 phải trích lập 100% gồm: + Những khoản cho vay có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 361 ngày trở lên; những khoản cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 181 ngày trở lên. + Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã quá hạn thanh toán từ 61 ngày trở lên. + Số tiền trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa đủ thu hồi dược từ 181 ngày trở lên. + Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuê từ 361 ngày trở lên. - Tài sản Có của các dịch vụ thanh toán phải trích 20% (nhóm 5) gồm: Các khoản thanh toán hộ khách hàng, tổ chức tín dụng khác(không bảo gồm những khoản ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32309.doc
Tài liệu liên quan