Chương 1
Lí luận chung về cho vay tài trợ giải quyết việc làm
1.1. Giải quyết việc làm, sự cần thiết của chương trình cho vay tài trợ giải quyết việc làm (CVTTGQVL)
1.1.1. Lý luận chung về lao động, việc làm và thất nghiệp
Từ xa xưa, loài người đã tách khỏi thế giới loài vật khi biết tìm lửa để sưởi ấm và nấu chín thức ăn, biết nuôi trồng để có thức ăn dự trữ,... Và cho tới tận bây giờ lao động vẫn là ... và nghĩa vụ của mỗi con người ở độ tuổi lao động bởi lao động giúp con người tồn tại v
55 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng công tác cho vay hỗ trợ giải quyết việc làm ở kho bạc Nhà nước Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à phát triển.
Lịch sử loài người đã ghi nhận tính xã hội hoá cao của lao động kéo theo đó là tính xã hội hoá cao của việc làm. Do đó, phải có sự nhận thức đúng đắn về vấn đề việc làm.
Trên thế giới có rất nhiều quan niệm khác nhau về việc làm.
- Theo tiến sĩ Sonhin và PTS.G.Rin Xốp (người Nga) thì: "Việc làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong khu vực xã hội hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh tế phụ của các nông trang viên".
- Hay theo Ghi-Hân-Tô ở Viện phát triển Hải ngoại Luân Đôn định nghĩa: "Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì quan hệ cách kiếm sống của con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế".
Hai quan điểm trên ngoài tính tích cực đã bộc lộ sự bất hợp lý. Quan điểm thứ nhất công nhận học tập cũng là lao động nhưng những người lao động lại không tạo ra được thu nhập để nuôi sống được bản thân thì chưa được gọi là lao động. Còn quan điểm 2 lại làm mọi người lẫn lộn giữa việc làm hợp pháp và không hợp pháp. Khi mà tệ nạn xã hội còn là vấn đề bức bách trong xã hội hiện đại thì khó mà thừa nhận quan niệm này.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, quan niệm về việc làm cũng thay đổi một cách căn bản. Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 (1983) tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra khái niệm: "Người có việc làm là những người làm một việc gì đó có được trả công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật lao động".
Trên cơ sở vận dụng khái niệm đúng đắn trên và nghiên cứu cụ thể điều kiện ở Việt Nam, trong chương 2 điều 13 của "Bộ Luật lao động" của nước ta đã ghi rõ "Việc làm là mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập mà không bị pháp luật ngăn cấm".
Hàng ngày có 1 số người mất việc, bỏ việc, song cũng có 1 số người tìm được việc làm, sự biến đổi lên xuống tự nhiên đó quyết định tới tỷ lệ lưu lượng lao động có việc làm.
Nhưng có phải cứ không có việc làm là thất nghiệp. Ta cần phải xem xét kỹ lưỡng về vấn đề này qua sơ đồ sau của tổ chức lao động quốc tế ILO:
Cơ cấu về lực lượng lao động
E
U
N
N
Dân số trong tuổi lao động qui định
- Chủ động tìm việc
- Sẵn sàng tìm việc
Không chủ động tìm việc
Muốn làm việc
Không muốn làm việc
Không có việc làm
Có việc làm
Lực lượng lao động
Không thuộc lực lượng lao động
E: Người có việc làm N: Người không tham gia hoạt động kinh tế
U: Người thất nghiệp
Theo sơ đồ trên ta có 1 số khái niệm như sau:
- Thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có sức lao động chưa có việc làm nhưng chưa tìm được việc làm.
Người cần giải quyết việc làm là người có sức lao động, có ... làm việc, có khả năng lao động nhưng không có việc làm, không có vốn đầu tư để tạo việc làm.
Ta có thể thấy rõ khái niệm thất nghiệp trong sơ đồ các luồng lưu thông của thị trường lao động sau:
Mất việc
Không thuộc lực lượng lao động
Tìm được việc
Người có việc
Thất nghiệp
Tham gia LV
Về hưu, tạm ngừng làm việc
Tái nhập hoặc nhập mới
Không hứng thú làm việc
Theo sơ đồ trên thì một người có thể được coi là người có việc, thất nghiệp hoặc không thuộc lực lượng lao động. Cần phải phân định rõ ranh giới giữa những khái niệm đó để thực hiện chương trình CVTTGQVL một cách có hiệu quả.
Với mục đích phân tích sâu sắc hơn thực trạng thất nghiệp, từ đó tìm ra phương hướng giải quyết giảm thất nghiệp, tăng việc làm ta cần hiểu rõ nguồn gốc của thất nghiệp. Muốn vậy ta nghiên cứu 4 loại thất nghiệp:
+ Thất nghiệm tạm thời: Là loại thất nghiệp nảy sinh khi người lao động luôn không hài lòng với công việc mình đang làm mà muốn tìm kiếm một công việc hoặc nơi làm việc khác hơn.
+ Thất nghiệp cơ cấu: Xảy ra khi cơ cấu sản xuất có sự thay đổi, sự mất cân đối cung cầu giữa các loại lao động, khả năng điều chỉnh cung của thị trường lao động không theo kịp nhu cầu. Loại thất nghiệp này trở nên trầm trọng khi nó biến động mạnh và kéo dài.
+ Thất nghiệp thiếu cầu: (Thất nghiệp kiểu Keynes): Do sự suy giảm của tổng cầu kéo theo mức cầu chung về lao động giảm xuống, tiền lương và giá cả chưa điều chỉnh kịp để phục hồi mức hữu nghiệp toàn phần, khoảng cách giữa đường cầu lao động mới và đường cầu lao động cũ là thất nghiệp thiếu cầu. Nó gắn liền với thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại thất nghiệp này là tình trạng thất nghiệp xảy ra tràn lan khắp mọi nơi, mọi ngành.
+ Thất nghiệp lý thuyết cổ điển: Loại thất nghiệp này xảy ra khi có sự tác động của yếu tố ngoài thị trường (ví dụ: ... khoán chi, tinh giảm biên chế), làm cho thị trường lao động không cân bằng. Khi tiền lương tối thiểu qui định cao hơn mức cân bằng của thị trường lao động, khoảng cách từ đường cầu lao động tới đường cung lao động là thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển.
1.1.2. Sự cần thiết và cấp thiết của chương trình CVTTGQVL.
Cho vay tài trợ là một phạm trù kinh tế để chỉ các khoản cho vay mà người đi vay được hưởng những ưu đãi nào đó nhưng thông thường nhất là lãi suất nhẹ và thời hạn cho vay dài để trợ giúp phát triển kinh tế.
1.1.2.2. Tính cấp thiết của vấn đề giải quyết việc làm trong xã hội:
Không chỉ cần thiết trên mặt lý luận và trong thực tế giải quyết việc làm (GQVL) là 1 vấn đề cấp thiết đối với mọi quốc gia nói chung và các nước đang phát triển nói riêng, nó là mục tiêu cơ bản của quản lý kinh tế vĩ mô.
Do đổi mới cơ chế quản lý, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể về vấn đề GQVL góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội, đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và có những bước phát triển với tốc độ khá nhanh.
Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 9-10% năm 1989-1990 xuống còn 6,08% năm 1994; 5,885 năm 1996 và 6,01% năm 1997. Từ năm 1991-1997 đã có trên 7,2 triệu người được GQVL hoặc hỗ trợ ổn định việc làm.
Trong vấn đề GQVL thì vai trò của Nhà nước bằng cơ chế, chính sách, bằng nguồn lực tài chính tập trung của mình là vô cùng cần thiết. Những năm qua trong quá trình đổi mới Chính phủ đã đưa ra chương trình cho vay từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm theo Nghị quyết 120/HĐBT. Qua 9 năm thực hiện chương trình đã đạt được nhiều kết quả đáng kể. Tuy vậy, vấn đề GQVL vẫn là 1 bức xúc của Nhà nước và của xã hội bởi những lý do sau:
Biểu 1: Dân số và nguồn lao động 1996 - 2000
Năm
Khu vực
1996
1997
1998
1999
2000
Dân số cả nước
75.602
77.190
78.789
80.420
82.078
- Tổng số trong độ tuổi lao động
41.253
42.478
43.733
45.069
46.377
% so với dân số
54,56
55,03
55,51
56
56,5
- Chia theo nam, nữ
+Nam
20,445
21.065
21.704
22.362
23.044,5
% so với tổng số
49,56
49,59
49,62
49,65
49,69
+ Nữ
20.808
21.413,27
22.036,12
22.677,1
23.332
% so với tổng số
50,44
50,41
50,38
50,35
50,31
- Chia theo thành thị, nông thôn
+ Thành thị
9.282
9.812,93
10.374,24
10.967,65
11.545
% so với tổng số
22,5
23,1
23,74
24,35
25
+ Nông thôn
31.971
32.665,3
33.365,6
34.071,23
34.781,53
% so với tổng số
67,75
76,9
76,28
75,65
75
Từ biểu sau ta có thể rút ra kết luận: Nước ta dân số thuộc loại đông (trên 80 triệu người). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn cao. Mỗi năm gia tăng khoảng 1,4 triệu người, chủ yếu ở nông thôn. Tính đến năm 2000 có khoảng trên 40 triệu người trong lực lượng lao động, số lao động mới tăng thêm khoảng trên 4 triệu người do phần lớn lực lượng lao động ở Việt Nam là lao động trẻ. Mặc dù số lượng lao động của Việt Nam khá lớn nhưng nguồn lao động này chưa được sử dụng có hiệu quả. Thất nghiệp ở nước ta nghiêm trọng về mức độ và phức tạp ở biểu hiện. Theo kết quả điều tra lao động và việc làm cả nước của Bộ Lao động thương binh & xã hội ngày 1/7/1998, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị trong cả nước có xu hướng tăng lên qua các năm 1996, 1997 và 1998 (năm 1998 là 6,85% so với 6,01% năm 1997 và 5,88% năm 1996). Trong số 61 tỉnh, thành phố, 4 tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp ở mức báo động trên 8% là Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình và Hà Tây. Tính trong 4 năm (1997-2000) trong cả nước có khoảng 8 triệu người cần GQVL.
Hai là, chất lượng lao động thấp, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý.
Hiện trạng nước ta vẫn tồn tại là thất nghiệp không phải do thiếu công việc mà là do chất lượng nguồn lao động nước ta quá thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Vì vậy, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực có ý nghĩa vô cùng quan trọng để GQVL hiện nay.
Về trình độ học vấn: Theo kết quả điều tra của Bộ LĐTB & XH toàn quốc có khoảng 32,06% lực lượng lao động tốt nghiệp cấp II; 13,4% tốt nghiệp cấp III và còn 26,7% chưa tốt nghiệp cấp I và chưa biết chữ. ở nông thôn tỷ lệ trên còn thấp hơn khoảng 29,2%.
- Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Trình độ tay nghề của lực lượng lao động nước ta hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế và lại càng khó khăn để có thể đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH-HĐH đất nước. Mới có khoảng 16% lực lượng lao động qua đào tạo trong khi đó tỷ lệ này ở các nước khoảng 40-50%.
- Cơ cấu đào tạo ở nước ta lại càng mất cân đối. Nhìn chung ở các nước thì cứ 1 trình độ đại học có 5 trung học và 10 công nhân lành nghề. Nhưng ở nước ta lại 1 đại học có 1,6 trung học và 3,6 công nhân lành nghề (trong tổng số lao động kỹ thuật). Đây chính là nguyên nhân đưa đến tình trạng lao động thừa về số lượng và thiếu về chất lượng.
Ba là, những bất hợp lý trong phân bố lao động theo ngành và lãnh thổ:
Trước hết cơ cấu lao động nước ta còn vô cùng lạc hầu: lao động công nghiệp xây dựng chiếm trên 10%, lao động dịch vụ thương mại khoảng 20% và lao động nông nghiệp xấp xỉ 70%. Tuy lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhưng nông nghiệp nước ta lại bị hạn chế bởi diện tích đất canh tác ít, năng suất lao động thấp, khả năng tích luỹ để đầu tư phát triển ít,... Ngoài ra lực lượng lao động của nước ta phân bố chưa đồng đều theo lãnh thổ: lao động kỹ thuật, tay nghề cao trong nông nghiệp, lâm nghiệm, thuỷ sản rất thấp và tập trung ở những vùng nông thôn. Lao động có kỹ thuật chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn (xem biểu 1). Tình trạng di dân tự do tìm việc làm ngày càng tăng đã thành 1 vấn đề bức xúc của xã hội nhất là vấn đề lao động nông thôn tràn vào các đô thị lớn tìm kiếm việc làm gây ra rất nhiều tệ nạn xã hội nhức nhối. Đây là nguyên nhân mà tỷ lệ thất nghiệp cao ở các thành thị của nước ta.
Bốn là, sự tác động của các nhân tố bên ngoài đến lao động và việc làm.
* Tác động trong nước:
Nhân tố thứ nhất là sự xuất hiện nhu cầu việc làm đối với những người ở ngoài độ tuổi lao động. Nhu cầu trên ngày càng cao do kinh tế thị trường với sự điều tiết của Nhà nước, thị trường lao động sẽ phát triển nhanh, việc quản lý lao động của các ngành công nghiệp sẽ từng bước được nới lỏng, xuất hiện hiện tượng những người về hưu trước hạn lại đi làm trở lại. Có 2 trường hợp: những người vừa làm chính vừa làm những công việc thêm hoặc những người đã nghỉ hưu lại đi làm.
Như vậy, họ sẽ lấy mất phần công việc của những người đang trong lực lượng lao động. Do vậy, Nhà nước không những tạo cơ hội tìm việc cho người đến tuổi lao động mà còn phải GQVL cho cả những người ngoài độ tuổi lao động.
Thứ hai: tác động của vấn đề cải cách các doanh nghiệp Nhà nước. Thực hiện giảm biên chế, tổ chức lại cơ cấu lao động và tiền vốn, thực hiện "khoán chi" làm tăng thất nghiệp. Năm 1990 toàn quốc có 12.000 DNNN mà đến 1999 còn 5.750 DNNN. Tương ứng số công nhân viên chức giảm xuống còn khoảng 3 triệu người. Nếu hệ số giảm biên chế là 0,2 (sau khi đã trừ số về hưu trước hạn) thì giai đoạn 2000-2015 cần phải sắp xếp việc làm cho khoảng 60 vạn lao động. Có nghĩa bình quân mỗi năm phải sắp xếp việc làm cho hơn 4 vạn người của các ngành công hữu đã giảm. Đây là vấn đề gây sức ép vô cùng lớn đến vấn đề GQVL.
Ngoài ra trong tương lai sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ dẫn đến tình trạng máy móc làm việc thay con người. Lượng lao động thừa ra cũng sẽ gây 1 ảnh hưởng không nhỏ tới việc GQVL.
Nhân tố không thể thiếu tác động tới lao động và việc làm chính là mặt trái của cơ chế thị trường. Trong môi trường cạnh tranh sẽ có 2 loại doanh nghiệp: loại doanh nghiệp không thể đứng vững sẽ bị phá sản, giải thể dẫn tới tình trạng toàn bộ lao động bị đẩy ra ngoài xã hội trở thành gánh nặng thất nghiệp. Còn loại doanh nghiệp có thể chiến thắng trong cạnh tranh sẽ tìm mọi cách nâng cao năng suất lao động bằng cách sàng lọc tinh giảm lao động. Điều đó đồng nghĩa với việc 1 bộ phận lao động yếu kém và thừa của những doanh nghiệp đó sẽ trở thành thất nghiệp.
Và nhân tố cuối cùng không thể bỏ qua là sự mai một của các làng nghề truyền thống và quá trình đô thị hoá tác động không ít tới tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam. Do đó ngoài vụ mùa nông dân vẫn chơi dài và tình trạng thiếu đất trồng trọt trong khi đời sống vô cùng thiếu thốn. Đây cũng là nguyên nhân có sự di dân tự do từ nông thôn ra thành thị. Nhà nước cần sớm có biện pháp bảo tồn và khôi phục những ngành nghề thủ công nghiệp truyền thống để tạo cho những người thất nghiệp tạm thời ở nông thôn 1 lối thoát về vấn đề việc làm
* Tác động của thế giới:
Tác động của tình trạng khủng hoảng tài chính, kinh tế khu vực, kinh tế thế giới làm cho tình trạng rút vốn đầu tư nước ngoài ồ ạt làm kinh tế trong nước lâm vào giai đoạn khó khăn và xảy ra tình trạng mất việc hàng loạt do rút hợp đồng gia công chế biến do sự giảm sút của thị trường tiêu thụ nước ngoài.
Thêm vào đó, sự cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế làm giảm lượng nhân công xuất khẩu lao động của nước ta trong thời gian qua. Trong khi đó số nhân công xuất khẩu lao động hết hạn đã về nước gây 1 sự dư thừa lao động.
1.1.2.1. Sự cần thiết của chương trình CVTTGQVL
Theo kinh tế học công cộng thì thất nghiệp là 1 trong những thất bại tất yếu của nền kinh tế thị trường, hơn nữa thất nghiệp là vấn đề của toàn xã hội do đó chỉ có sự vận động tự do của thị trường thì không thể giải quyết nổi vấn đề này mà cần có bàn tay hữu hình của Nhà nước can thiệp. Chương trình CVTTGQVL của Nhà nước giữ 1 vai trò quan trọng đối với nền kinh tế xã hội được thể hiện trên 1 số khía cạnh sau:
- Đối với xã hội: CVTTGQVL phản ánh khả năng sử dụng công cụ tài chính một cách linh hoạt, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn quá độ ở nước ta hiện nay. Đồng thời nó phản ánh rõ nét sự can thiệp của Nhà nước ta vào quá trình phát triển kinh tế. Thêm vào đó, CVTTGQVL tạo điều kiện tốt cho việc thu hút lao động, nhờ vậy tình trạng thiếu việc làm sẽ được giải quyết góp phần thắt chặt các tệ nạn xã hội đang có nguy cơ phát triển.
Ngoài ra, CVTTGQVL sẽ kéo gần khoảng cách giàu nghèo trong xã hội, công bằng xã hội giữa những người lao động sẽ được đảm bảo. Người lao động được khuyến khích lao động họ sẽ cố gắng lao động tạo của cải cho xã hội. Công bằng xã hội chính là mục tiêu của Nhà nước XHCN.
- Đối với nền kinh tế:
CVTTGQVL đóng vai trò quan trọng, nó giúp Đảng và Nhà nước ta hoàn thiện, khắc phục được những ưu, nhược điểm ở các vùng kinh tế khác nhau, qua đó tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển cân đối và ổn định.
CVTTGQVL là 1 đòn bẩy khá công hiệu để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh giữa vừa và nhỏ phát triển. Thực tế ở các nước chứng minh rằng sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ vừa có khả năng giải quyết việc làm tốt mà không đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn. Đó là loại hình hoạt động rất đa dạng, linh hoạt thích nghi cao, con đường phát triển là từ thấp đến cao phù hợp với khả năng tích luỹ và huy động vốn trong dân. Khi nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, khu vực Nhà nước đang sắp xếp lại lao động thì ... là loại hình khá hiệu quả để thu hút lao động.
CVTTGQVL theo dự án nhỏ còn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Đây là 1 trong những mục tiêu chiến lược ở công cuộc cải cách và đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
- Trên giác độ tài chính:
ý nghĩa to lớn nhất của việc tạo lập quĩ CVTTGQVL là khơi dậy được các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, khuyến khích dân tự đầu tư vào sản xuất kinh doanh và thu hút nước ngoài. Thực tế đã chứng minh nếu ngân sách Nhà nước đầu tư 1 thì dân đầu tư gấp 2-3 lần.
Hơn nữa, trên giác độ quản lý tiền tệ, nhờ có dự án nhỏ mà đã thúc đẩy tiền nhàn rỗi trong dân đang nằm dưới dạng cất trữ chuyển thành tiền trong lưu thông, đầu tư vào sản xuất làm cho công tác quản lý tiền tệ của Nhà nước được tốt hơn.
- Xét trên giác độ bồi dưỡng và phát triển nguồn thu cho ngân sách Nhà nước thì CVTTGQVL là 1 phương pháp khá tốt vì nó khai thác được tiềm năng sẵn có từ mỗi địa phương vì có dự án được thẩm định chắc chắn. Mặt khác ngân sách Nhà nước có hạn nên cho vay có hoàn trả là phương pháp tốt hơn là cấp phát không hoàn trả.
Tóm lại, xét trên mọi giác độ thì CVTTGQVL là hết sức quan trọng, cần thiết và cấp thiết trong sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
1.2. Quĩ quốc gia hỗ trợ giải quyết việc làm và quĩ giải quyết việc làm địa phương
1.2.1. Chủ trương, phương hướng, biện pháp của chương trình CVGQVL
Chương trình CVQGVL là 1 chương trình lớn và lâu dài của đất nước ta nó thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc tạo điều kiện về vốn để người lao động phát triển sản xuất, phát huy được tiềm năng về lao động, tay nghề truyền thống và máy móc thiết bị, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh,... để họ ổn định việc làm; trong việc tạo chỗ làm mới thu hút lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp và từng bước đưa nền kinh tế nước ta phát triển 1 cách bền vững. Đảng và Nhà nước đã xác định:
1. Chủ trương của chương trình CVQGVL là: "Tích cực giải quyết vấn đề lao động, việc làm: nghĩa là kết hợp chương trình quỹ quốc gia GQVL với từng chương trình, dự án phát triển kinh tế để tạo ra nhiều chỗ làm mới đặc biệt là dự án đầu tư bằng vốn ngân sách, và đầu tư của nước ngoài. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, các làng nghề truyền thống; phát triển các ngành nghề mới ở nông thôn để GQVL tại chỗ. Hoàn thiện cơ chế quản lý và tăng quĩ quốc gia hỗ trợ việc làm".
Đảm bảo việc làm cho dân là mục tiêu xã hội hàng đầu. GQVL, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc, và có việc làm (đặc biệt là thanh niên, lao động nữ, lao động là người tàn tật) là trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp, của Nhà nước và toàn xã hội.
2. Phương hướng của chương trình CVQGVL như sau:
Về cơ bản là phải gắn GQVL với nhiệm vụ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, phát huy tiềm năng của cách thành phần kinh tế, gắn lao động với đất đai, tài nguyên của đất nước; kết hợp giữa GQVL tại chỗ là chính với mở rộng hoạt động để phát triển việc làm ngoài nước.
Phương hướng cụ thể hoá như sau:
Trước hết ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật, các chủ trương chính sách đồng bộ nhằm thúc đẩy nền kinh tế hướng về nhập khẩu, phát triển bền vững, phát triển các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm. Chú trọng phát triển doanh nghiệp nhỏ và công nghệ sử dụng nhiều lao động. Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, nông nghiệp để thu hút nhiều lao động vào làm việc. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ kiểm soát chỉ tiêu sử dụng lao động; các kế hoạch kinh tế - xã hội, các chương trình dự án kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với GQVL. Đó là hướng giải quyết việc làm cơ bản và quan trọng nhất.
Thêm nữa phải duy trì đảm bảo việc làm cho người lao động, chống sa thải công nhân hàng loạt. Từng bước xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
Phương hướng cuối cùng là tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để GQVL cho người thấp nghiệp, người thiếu việc làm và những đối tượng yếu thế trong thị trường lao động.
3. Biện pháp: Để thực hiện chủ trương và phương hướng trên, Đảng và Nhà nước đã xác định biện pháp cho quá trình GQVL như sau:
- Lập quĩ quốc gia về GQVL từ các nguồn: trích một tỷ lệ nhất định trong ngân sách Nhà nước; 1 phần từ nguồn thu do đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, từ sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế hoặc Chính phủ cho GQVL.
Quĩ sẽ có được sử dụng để: cho vay với lãi suất nâng đỡ hoặc bảo tồn giá trị cho vay đối với hộ tư nhân, hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp tạo được chỗ làm việc mới hoặc thu hút thêm lao động, trợ giúp cho các chương trình, dự án tạo việc làm; các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm, trung tâm áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ sử dụng nhiều lao động.
- Xây dựng chương trình việc làm gắn với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm và 5 năm trong đó cần xác định rõ mục tiêu, nội dung dự án đầu tư, hiệu quả kinh tế, các điều kiện thực hiện.
- Phát triển các trung tâm dạy ngh và dịch vụ việc làm ở 1 số ngành, tổ chức xã hội và địa phương có yêu cầu lớn về dạy nghề, trước hết là cho thanh niên đến tuổi lao động. Đây là 1 biện pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng của lao động ở Việt Nam. Khắc phục tình trạng thừa về số lượng thiếu về chất lượng của vấn đề lao động ở nước ta trong suốt thời gian qua.
1.2.2. Sự hình thành quĩ quốc gia hỗ trợ GQVL:
Với Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11/04/1992 và quyết định 259/TC ngày 13/07/1992 của Chủ tịch HĐBT về việc quản lý và sử dụng quỹ sắp xếp lao động và GQVL trong ngân sách Nhà nước năm 1992, Đảng và Nhà nước đã khẳng định: GQVL là 1 trong những chủ trương lớn và quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
Cũng Quyết định này ngay 6 tháng cuối năm đầu tiên thực hiện chương trình, Chính phủ đã phân bổ 830 tỷ đồng cho quỹ QGHTGQVL sắp xếp lao động và giải quyết việc làm trong ngân sách Nhà nước năm 1992 (trong đó 250 tỷ đồng được dành cho vay theo các dự án nhỏ. Hàng năm, quĩ quốc gia về GQVL được tiếp tục bổ xung từ ngân sách Nhà nước trên cơ sở Bộ LĐTB-XH cùng Bộ Tài chính và UBKH Nhà nước tính toán lại để HĐBT trình quốc hội thông qua phần vốn mới tăng thêm theo nhu cầu của năm kế hoạch. Nguồn vốn còn được huy động tham gia từ ngân sách địa phương, từ sự giúp đỡ quốc tế và khả năng sẵn có trong các đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội và người lao động. Đó là 1 tiềm lực lớn phục vụ cho chương trình.
Đứng ở góc độ quản lý tài chính Nhà nước, việc tạo lập quĩ quốc gia về GQVL cũng là 1 khía cạnh thực hiện phân phối nguồn lực tài chính tập trung của Nhà nước, tham gia vai trò điều chỉnh nền kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy sản xuất; phát triển tăng trưởng kinh tế. Đây là 1 khía cạnh của sự phản ánh hiện thực về chế độ ưu việt của Đảng và Nhà nước ta với phương châm: xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người lao động cần việc làm là ... tất yếu phát triển xã hội.; Nhà nước ngoài việc chi cho đầu tư phát triển tạo nhiều chỗ làm việc mới thu hút lao động (dù khả năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp) trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế cũng chỉ thu hút được 1 lực lượng lao động xã hội còn nhỏ nhoi soi với số lao động chưa có việc làm và thiếu việc làm; để lãng phí phần nguồn lực to lớn là sức lao động trong xã hội mà do thiếu vốn, thiếu việc làm gây nên; gắn liền với thất nghiệp nảy sinh nhiều tiêu cực xã hội buộc Nhà nước phải chi thêm ngân sách Nhà nước để khắc phục.
Vì những lý do trên Nhà nước phải dành ra số vốn rất lớn từ ngân sách Nhà nước tạo nên quĩ quốc gia về QGVL nhằm hỗ trợ vốn cho các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế và người lao động chủ động tạo việc làm mới thu hút lao động, phát triển sản xuất hàng hoá, tăng sản phẩm xã hội ngay tại mỗi cơ sở có ý nghĩa kinh tế xã hội rất lớn lao.
1.2.3. Quản lý, vận động và bảo toàn vốn quĩ:
Quĩ quốc gia hỗ trợ việc làm từ ngân sách Nhà nước được tập trung quản lý thống nhất ở TW và hàng năm phân bổ cho các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội TW để thực hiện chương trình theo kế hoạch. Việc cho vay thực hiện chương trình theo kế hoạch. Việc cho vay thực hiện thống nhất qua ... Nhà nước thuộc Bộ Tài chính trên cơ sở các chương trình dự án nhỏ tạo việc làm được duyệt.
Quĩ được sử dụng trên nguyên tắc bảo tồn và tăng lên, cho vay với lãi suất ưu đãi trên cơ sở bù đắp chi phí cho vay và từng bước bảo toàn giá trị vốn vay quĩ QGHTVL được trích từ quĩ ngân sách Nhà nước thực hiện cho vay các dự án nhỏ GQVL với tính chất Nhà nước hỗ trợ vốn cho các đối tượng dự án thực hiện chương trình mục tiêu này để ổn định việc làm, tạo chỗ làm mới như chủ trương và phương hướng của Nghị quyết 120/HĐBT; nó vừa có tính chất kinh tế là phát triển sản xuất tăng thu nhập cho người lao động vừa có ý nghĩa về mặt xã hội là GQVL, hạn chế và hạ thấp tỷ lệ lao động thất nghiệp,... không hề mang tính chất trợ cấp xã hội. Do đó ngân sách Nhà nước chỉ dành ra tạo lập quỹ chư skhông chi thẳng cho các đối tượng dự án thuộc loại này. Để sử dụng có hiệu quả Nhà nước thiết lập các thể chế quản lý, phân cấp và uỷ nhiệm quyền hạn tới các cấp. Cụ thể: ở TW có ban quản lý điều hành gồm đại diện các bộ: lao động thương binh xã hội, tổ chức (có sự tham gia của ... Nhà nước TW); Bộ Kế hoạch và đầu tư; ở tỉnh, huyện có ban chỉ đạo 120 với thành phần đại diện các ngành như ban quản lý điều hành TW.
Hình thức cấp phát của quĩ là cho vay có hoàn trả. Do vậy sau những thời hạn vay nhất định, quĩ quốc gia hỗ trợ việc làm sẽ quay vòng được vốn để phát huy được hiệu quả như mục tiêu đã đề ra. Nếu như quĩ vận động theo hình thức cấp phát không hoàn lại thì với nguồn ngân sách hạn hẹp sẽ không đáp ứng đủ hết nhu cầu vốn cho những đối tượng vay vốn của quĩ. Mặt khác nếu không phải hoàn vốn thì người sử dụng vốn vay sẽ không có trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn vốn đó dẫn đến sự bất hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn vay.
Nhưng khác với các tổ chức tài chính, tín dụng cho vay với mục đích kinh doanh thuần tuý kiếm lời, quĩ CVHTVL hoạt động với mục đích hỗ trợ là chính. Vì vậy lãi suất cho vay của quĩ chỉ mang tính chất bù đắp chi phí và từng bước bảo toàn giá trị vốn vay trong điều kiện có lạm phát. Nó thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc trích 1 phần quĩ tài chính tập trung trong tay Nhà nước cho hỗ trợ vốn phát triển kinh tế xã hội và chương trình mục tiêu kinh tế quốc gia.
1.2.4. Cơ cấu điều hành quỹ QGHTVL
a. Cấp TW có Ban quản lý chương trình gồm thành phần:
- Bộ Lao động thương bình và xã hội (trưởng ban)
- Bộ Kế hoạch và đầu tư
- Bộ Tài chính (có ... Nhà nước tham gia).
Nhiệm vụ của ban quản lý chương trình: tham mưu cho lãnh đạo liên bộ các vấn đề:
+ Nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách sử dụng và điều hành quĩ QGHTVL.
+ Tiếp nhận báo cáo, tổng hợp các dự án GQVL do UBND tỉnh thành phố hoặc cơ quan TW của các đoàn thể, tổ chức quần chúng.
+ Cân đối nguồn vốn và xác định số vốn vay đối với các dự án đủ điều kiện để Bộ trưởng Bộ Lao động thương bình và xã hội ra quyết định.
+ Kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các dự án đã được giải quyết vay vốn và việc cho vay của hệ thống kho bạc. Định kỳ báo cáo kết quả với lãnh đạo liên Bộ và Chính phủ, báo cáo liên Bộ ra quyết định sử lý các trường hợp vi phạm.
b. Cấp tỉnh, thành phố (gọi chung là tỉnh) có ban chỉ đạo giúp Chủ tịch UBND.
Thành phần gồm:
- Sở Lao động thương bình và xã hội (cơ quan thường trực)
- Sở Kế hoạch và đầu tư
- Sở Tài chính vật giá
- Kho bạc Nhà nước tỉnh.
Nhiệm vụ:
+ Tham mưu cho lãnh đạo liên ngành (Sở) trình UBND tỉnh về kế hoạch và thực hiện chương trình GQVL của địa phương.
+ Tiếp nhận báo cáo, tổng hợp các dự án GQVL do UBND quận, huyện, thị xã gửi đến; kiểm tra, thẩm định, trình chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định cho vay các dự án có đủ điều kiện.
+ Kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các dự án được giải quyết vay vốn và việc cho vay của kho bạc Nhà nước trong địa phương. Định kỳ báo cáo kết quả với lãnh đạo liên ngành và UBND tỉnh ra quyết định xử lý các trường hợp vi phạm.
c. Cấp quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là huyện) có ban chỉ đạo giúp Chủ tịch UBND huyện.
Thành phần ban chỉ đạo:
- Phòng Lao động thương binh và xã hội (thường trực)
- Phòng Kế hoạch và đầu tư
- Phòng Tài chính thương mại
- Kho bạc Nhà nước huyện.
Nhiệm vụ:
+ Tham mưu và giúp việc cho Chủ tịch UBND huyện xây dựng kế hoạch và thực hiện cho vay GQVL tại địa phương.
+ Tiếp nhận, kiểm tra, thẩm định các dự án nhỏ vay vốn GQVL trong địa phương, tập hợp trình chủ tịch UBND huyện gửi ban chỉ đạo tỉnh trình Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định cho vay.
+ Kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện cho vay, thu nợ báo cáo theo định kỳ cho ban chỉ đạo tỉnh về tình hình, diễn biến của công tác cho vay, thu nợ dự án nhỏ GQVL.
1.2.5. Quĩ QGVL địa phương.
Theo Thông tư số 13/1999/TT-LT LĐTBXH-BTC-BKHĐT ngày 08/05/1999 xác định như sau:
Quĩ QGVL địa phương là 1 bộ phận của quốc gia hỗ trợ việc làm, được trích từ ngân sách địa phương hàng năm (ngân sách tỉnh) và các nguồn vốn khác dành cho lĩnh vực việc làm. Quĩ được quản lý tập trung qua kho bạc Nhà nước.
Hàng năm UBND tỉnh căn cứ vào khả năng của ngân sách địa phương và nhu cầu GQVL tại địa phương, bố trí 1 phần kinh phí trong dự toán ngân sách địa phương để lập quĩ QGVL, trình HĐND tỉnh quyết định.
Quĩ QGVL địa phương được sử dụng như sau: Trước hết dành khoảng 80-85% nguồn quỹ để làm vốn cho vay GQVL. Sau đó căn cứ chỉ tiêu kế hoạch bổ sung vốn vay GQVL trong năm được duyệt hàng quí, Sở Tài chính - vật giá chuyển vốn cho kho bạc Nhà nước tỉnh bằng hình thức lãnh chi tiền để làm nguồn vốn cho vay.
Còn lại 15-20% nguồn của quĩ GQVL địa phương được dùng để hỗ trợ cơ sở vật chất các trung tâm dịch vụ việc làm, các dự án đào tạo nghề, khuyến nông - lâm - ngư, quản lý chương trình từ cơ sở đến tỉnh.
Trách nhiệm của kho bạc Nhà nước địa phương trong việc quản lý và sử dụng quĩ GQVL địa phương được xác định như sau:
Trước hết kho bạc phải phối hợp với cơ quan Lao động - thương bình và xã hội, các tổ chức đoàn thể, hội quần chúng kiểm tra, thẩm định các dự án vay vốn, tổ chức cấp phát tiền vay và thu hồi nợ khi đến hạn; chịu trách nhiệm chính về điều kiện vay, mức vay và mục đích sử dụng vốn.
Thêm nữa kho bạc sẽ phối hợp với cơ quan Lao động - thương binh và xã hội và các cơ quan liên quan trong việc xử lý các dự án bị rủi ro bất khả khá._.ng và nợ quá hạn trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Ngoài ra kho bạc phải thực hiện phân phối tiền theo lãi suất quy định; phối hợp với Sở Tài chính - vật giá kiểm tra, tổng hợp quyết toán việc sử dụng kinh phí từ lãi của các cơ quan quản lý chương trình tại địa phương.
Cuối cùng hàng tháng, quí kho bạc sẽ báo cáo tình hình cho vay, thu nợ với Ban chỉ đạo giải quyết việc làm địa phương và kho bạc Nhà nước cấp trên.
1.3. Nội dung công tác cho vay từ quĩ quốc gia hỗ trợ việc làm
1.3.1. Cơ chế cho vay hỗ trợ giải quyết việc làm
Quĩ quốc gia hỗ trợ việc làm được thành lập với mục đích tạo việc làm mới và tăng thêm việc làm cho người lao động, trợ giúp người thất nghiệp, người thiếu việc làm tự tạo việc làm; người sử dụng lao động có điều kiện bố trí việc làm để tránh cho nhiều người lao động khỏi bị mất việc làm; tạo ra sản phẩm cho xã hội và có thu nhập phục vụ cho đời sống của người lao động. Cơ chế của quĩ được xác định theo những Thông tư, Nghị định và đặc biệt là Quyết định số 48/1999/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính ngày 11/05/1999 như sau:
- Đối tượng vay vốn gồm:
+ Hộ gia đình (kể cả hộ gia đình lực lượng vũ trang ở các làng, quân nhân, hộ gia đình công nhân nghỉ việc dài ngày), thành viên của các tổ chức đoàn thể, hội quần chúng có nhu cầu vay vốn tự tạo việc làm.
+ Tổ hợp sản xuất, hợp tác xã, doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty; cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người tàn tật (gọi chung là cơ sở sản xuất kinh doanh) có dự án tạo việc làm mới, thu hút thêm lao động.
Trong các đối tượng kể trên, ưu tiên cho lao động nữ mất việc làm được vay.
- Nguyên tắc cho vay: gồm 3 nguyên tắc:
+ Các đối tượng vay vốn phải sử dụng tiền vay đúng mục đích được duyệt, có hiệu quả, đảm bảo tạo việc làm ổn định cho người lao động.
+ Phải hoàn trả đầy đủ cả tiền gốc và lãi theo đúng thời hạn qui định.
+ Vốn vay phải có vật tư, máy móc, thiết bị, cây, con giống,... tương đương đảm bảo,...
- Điều kiện cho vay:
+ Phải có dự án vay vốn tạo việc làm, đảm bảo thu hút thêm lao động hoặc tăng thêm việc làm cho người lao động, được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
+ Nếu là cá nhân, hộ gia đình phải có hộ khẩu thường trú tại địa phương nơi thực hiện dự án; nếu là cơ sở sản xuất kinh doanh dự án vay vốn phải phù hợp với ngành nghề kinh doanh ghi trong giấy phép kinh doanh. Cơ sở sản xuất kinh doanh phải thế chấp, cầm cố tài sản khi vay vốn, hoặc tổ chức, cá nhân bảo lãnh bằng tài sản hoặc bằng tín chấp.
- Nội dung sử dụng vốn vay:
+ Mua sắm máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, đánh bắt thuỷ, hải sản để mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh.
+ Bổ sung vốn mua nguyên vật liệu, cây, con giống; các chi phí chăm sóc cây trồng, vật nuôi đến khi thu hoạch.
- Nguồn vốn cho vay: gồm:
+ Vốn ngân sách Nhà nước cấp mới hàng năm: gồm ngân sách TW và ngân sách địa phương.
+ Vốn viện trợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế dành cho vay hỗ trợ việc làm.
+ Vốn thu hồi từ các dự án đã cho vay.
+ Các nguồn vốn khác.
- Mức vốn cho vay: có 3 loại:
+ Đối với dự án của hộ gia đình, mức cho vay tối đa không qua 10 triệu đồng, ít nhất phải tạo ra 1 chỗ làm việc mới hoặc tăng thêm thời gian làm việc tương ứng với 1 lao động. Còn đối với dự án có nhiều hộ, mức cho vay phụ thuộc vào số hộ thực hiện dự án, nhưng mức vay của mỗi hộ tối đa không quá 10 triệu đồng.
+ Đối với dự án của cơ sở sản xuất kinh doanh, mức cho vay tối đa không quá 300 triệu đồng và không quá 10 triệu đồng trên 1 chỗ làm việc mới.
- Thời hạn cho vay: Việc xác định thời hạn cho vay được căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành, nghề hoặc chu kỳ sinh trưởng của từng loại cây, con giống, phù hợp với từng dự án vay vốn: gồm 3 loại sau:
+ Thời hạn cho vay 12 tháng: áp dụng đối với các dự án chăn nuôi tiểu gia súc, gia cầm; nuôi trồng thuỷ, hải sản; trồng cây lương thực, cây hoa màu.
+ Thời hạn cho vay 24 tháng: áp dụng đối với các dự án chăn nuôi đại gia súc lấy thịt, con đặc sản; trồng cây công nghiệp ngắn ngày, cây dược liệu, cây cảnh, sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
+ Thời hạn cho vay 36 tháng: áp dụng đối với các dự án mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải thuỷ, bộ vừa và nhỏ, cư ngụ đánh bắt thuỷ, hải sản; chăn nuôi đại gia súc để sinh sản, lấy sữa, lấy long, lấy sừng; trồng cây ăn quả lâu năm, cây công nghiệp dài ngày.
Ngoài thời hạn cho vay trên, nếu dự án có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài hơn, hoặc ngắn hơn thời hạn được vay và thực hiện đúng dự án được duyệt, có thể xem xét điều chỉnh kỳ hạn nợ, hoặc cho gia hạn nợ, cho vay tiếp đến khi thu hoạch.
- Lãi suất cho vay: được quy định với nguyên tắc: thấp hơn lãi suất ngân hàng thương mại. Mức cụ thể từng thời kỳ do Bộ Tài chính qui định sau khi thống nhất với Bộ Lao động. Thương binh xã hội, Bộ Kế hoạch đầu tư.
Lãi suất cho vay được tính trên vốn và thời hạn vay thực tế, không nhập lãi vào vốn vay. Hiện nay lãi suất cho vay được qui định là 0,6%/tháng. Ngoài mức lãi suất cho vay theo qui định, đối tượng vay không phải trả bất cứ 1 khoản phí nào khác.
1.3.2. Các nghiệp vụ cụ thể về cho vay hỗ trợ GQVL
1.3.2.1. Thẩm định dự án, cho vay và thu hồi nợ
- Xây dựng dự án:
Các đối tượng vay vốn phải lập dự án (theo mẫu 1a, 1b kèm theo luận văn này). Dự án đó phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi thực hiện dự án và một đối tượng theo quyết định chỉ được vay theo 1 kênh nhất định.
- Thẩm định dự án: được ghi vào phiếu thẩm định dự án (mẫu 2a, 2b).
Tất cả các dự án vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm phải được kho bạc Nhà nước nơi trực tiếp cho vay kiểm tra, thẩm định trước khi trình cấp có thẩm quyền ra quyết định duyệt cho vay.
Kho bạc Nhà nước tham gia thẩm định dự án theo nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa cơ quan trong khâu thẩm định về mục tiêu, đối tượng cho vay, điều kiện cho vay, mức vay và mục đích sử dụng tiền vay. Trường hợp kho bạc Nhà nước không nhất trí với cơ quan chủ trì thì bảo lưu ý kiến để trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Sau khi dự án được duyệt, kho bạc Nhà nước tổ chức cấp phát tiền vay kịp thời đến từng đối tượng vay vốn, không phải thẩm định lại dự án.
- Thủ tục cho vay:
Khi nhận được quyết định duyệt cho vay của cấp có thẩm quyền, kho bạc Nhà nước hướng dẫn bên vay làm thủ tục thế chấp, cầm cố tài sản hoặc bảo lãnh vay vốn, sau đó làm thủ tục phát tiền vay.
Việc cho vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về số lao động (số hộ) được vay, số tiền vay, lãi suất,... và những cam kết khác được các bên thoả thuận.
Đối với dự án có nhiều hộ vay do UBND xã, huyện hoặc tổ chức đoàn thể, hộ quần chúng xây dựng, kho bạc Nhà nước có thể uỷ thác cho vay thông qua chủ dự án. Chủ dự án trực tiếp ký hợp đồng tín dụng với kho bạc Nhà nước, chịu trách nhiệm nhận vốn uỷ thác, phát tiền vay cho các hộ và thu hồi nợ khi đến hạn để hoàn trả cho kho bạc Nhà nước.
- Phát tiền vay:
Căn cứ hợp đồng tín dụng, kho bạc Nhà nước thực hiện phát tiền vay trực tiếp đến từng đối tượng vay vốn bằng tiền mặt, hoặc chuyển khoản thanh toán cho các đơn vị cung cấp vật tư, thiết bị, cây, con giống,...
Các dự án kho bạc Nhà nước uỷ thác cho vay, chủ dự án sau khi phát tiền vay cho các hộ phải gửi cho kho bạc Nhà nước danh sách các hộ vay vốn, ghi đầy đủ số tiền, thời hạn, lãi suất cho vay và chịu trách nhiệm về việc ký nhận của từng hộ.
Các dự án đến hạn trả nợ được cấp có thẩm quyền duyệt cho vay lại, bên vay chưa phải trả nợ gốc nhưng phải hoàn trả đủ số tiền lãi trong thời hạn đã vay, sau đó cùng đại diện kho bạc Nhà nước lập lại hợp đồng tín dụng.
- Gia hạn nợ:
Đến hạn nhưng bên vay không trả được nợ do nguyên nhân khách quan, nếu bên vay có nhu cầu gia hạn nợ phải làm đơn giải trình rõ nguyên nhân và biện pháp khắc phục, cam kết việc trả nợ và các tài liệu kèm theo, gửi đến kho bạc Nhà nước nơi cho vay để xem xét giải quyết. (Đơn xin gia hạn nợ được lập theo mẫu số 08/CT120 kèm theo luận văn này).
Căn cứ đơn xin gia hạn nợ, kho bạc Nhà nước tiến hành kiểm tra và giải quyết gia hạn nợ. Thời gian gia hạn nợ tối đa không quá 06 tháng.
- Cho vay lại:
Dự án có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài hơn thời hạn được vay, đã sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả; chủ dự án có nhu cầu vay thêm 1 thời hạn để duy trì sản xuất, ổn định việc làm cho người lao động thì trước khi đến hạn trả nợ phải có báo cáo kết quả sử dụng vốn vay và đơn đề nghị vay lại. Qui trình thẩm định và thẩm quyền cho vay lại thực hiện như đối với dự án vay lần đầu, nhưng không phải lập lại dự án.
Dự án được duyệt vay lại chưa phải trả nợ gốc trước khi làm thủ tục vay lại nhưng trong quá trình sử dụng vốn, các thủ tục duyệt cho vay lại phải hoàn chỉnh trước ngày đến hạn nợ.
Đối với các đối tượng có nhu cầu vay thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, thu hút thêm lao động thì chủ dự án phải có tài liệu chứng minh và gửi đến các cơ quan có liên quan để giải quyết theo trình tự duyệt vay lần đầu.
- Thu hồi và sử dụng vốn thu hồi:
Kho bạc Nhà nước tiến hành thu hồi nợ đến hạn; chủ dự án có thể trả vốn trước hạn. Trước khi đến hạn trả nợ 30 ngày, kho bạc Nhà nước phải gửi thông báo thu nợ cho từng đối tượng vay để chủ động trả nợ theo mẫu 10/CT120 kèm theo luận văn này.
Vốn thu hồi được dùng để cho vay quay vòng các dự án khác do địa phương, các tổ chức đoàn thể, hội quần chúng quản lý.
UBND tỉnh, cơ quan TW, tổ chức đoàn thể, hội quần chúng phải có kế hoạch sử dụng vốn và duyệt các dự án phù hợp với số vốn thu hồi hàng tháng, quí, không để tồn đọng ở kho bạc.
Trường hợp cần thiết phải điều chỉnh nguồn vốn cho vay giữa các địa phương, các tổ chức đoàn thể, hội quần chúngh oặc thu về kho bạc Nhà nước TW, liên Bộ sẽ có văn bản.
- Chi trả thù lao uỷ thác cho vay:
Các dự án cho nhiều hộ vay, nếu chủ dự án có đủ điều kiện và được kho bạc Nhà nước uỷ thác cho vay; ngay sau khi chủ dự án hoàn trả đầy đủ tiền gốc và lãi được kho bạc Nhà nước cho hỗ trợ một khoản phí thù lao, mức chi bằng 10% (mười phần trăm) tính trên tổng số lãi thu được từ dự án uỷ thác. Nguồn kinh phí này được lấy từ số lãi để lại cho kho bạc Nhà nước theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính.
Các ấn chỉ về thủ tục cho vay, thế chấp, cầm cố tài sản, hoặc bảo lãnh vay vốn do kho bạc Nhà nước ấn hành được cung cấp đầy đủ và kịp thời cho các đối tượng vay vốn, nhưng không được thu tiền của bên vay.
1.3.2.2. Về thấp chấp, cầm cố tài sản
- Tài sản thế chấp, cầm cố:
+ Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, kể cả tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng.
+ Các cơ sở sản xuất kinh doanh như: nhà xưởng, nhà kho, cửa hàng, khách sạn,... và các máy móc, thiết bị gắn liền với nhà xưởng.
+ Quyền sử dụng đất theo quy định hiện hành của pháp luật:
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất ở có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp có quyền thế chấp giá trị quyền sử dụng đất để vay vốn. Tài sản gắn liền trên đất như nhà ở, vườn cây, công trình xây dựng,... thuộc tài sản thế chấp hay không là do hai bên thoả thuận ghi trong hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản.
Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, có quyền thế chấp giá trị quyền sử dụng đất để vay vốn.
Tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước cho thuê đất, đã trả trước tiền thuê đất cho nhiều năm hoặc cả thời gian thuê (nếu thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất là 5 năm), có quyền thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê trong thời hạn thuê để vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
+ Các giấy tờ có giá như: công trái, trái phiếu, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi,... do Chính phủ, Ngân hàng hoặc doanh nghiệp phát hành.
- Điều kiện tài sản thế chấp, cầm cố:
+ Phải là các tài sản được phép giao dịch, chuyển nhượng hoặc mua bán và không bị ràng buộc bởi các khoản vay nợ, thế chấp, cầm cố khác.
+ Phải có đầy đủ giấy tờ hợp pháp, hợp lệ (bản gốc). Riêng nhà ở được xây dựng trên đất ở thuộc khu dân cư nông thôn, nếu chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải có giấy xác nhận quyền sử dụng đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tại địa phương.
+ Tài sản dùng để thế chấp, cầm cố phải nằm trên cùng địa danh hành chính tỉnh, thành phố với kho bạc Nhà nước trực tiếp cho vay.
+ Riêng tài sản cầm cố là các giấy tờ có giá như: công trái, trái phiếu, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi,... do Chính phủ, Ngân hàng hoặc doanh nghiệp phát hành phải đang còn thời hạn hiệu lực thanh toán và phù hợp với htời hạn vay vốn, không phân biệt địa bàn phát hành các chứng chỉ đó.
- Định giá tài sản thế chấp, cầm cố:
+ Tuỳ theo tính chất và đặc điểm của từng loại tài sản thế chấp, cầm cố, kho bạc Nhà nước phải tổ chức đánh giá, kiểm định về số lượng, chất lượng và giá trị tài sản. Giá trị tài sản thế chấp, cầm cố được định giá phải phù hợp với giá trị còn lại của tài sản và giá cả thị trường tại địa phương ở thời điểm thế chấp, cầm cố.
+ Khi định giá tài sản thế chấp, cầm cố phải có đại diện cơ quan tài chính - vật giá đồng cấp; trường hợp cần thiết có thể thuê cơ quan chuyên ngành am hiểm về tính năng và tác dụng của tài sản để định giá, tuỳ theo tính chất và đặc điểm của từng loại tài sản.
+ Căn cứ để định giá tài sản thế chấp, cầm cố:
Đối với nhà ở, công trình xây dựng, căn cứ theo đơn giá xây dựng cơ bản của Nhà nước quy định cụ thể cho từng loại nhà ở, công trình xây dựng trừ giá trị khấu hao trong thời gian sử dụng; hoặc biên bản đánh giá lại của Hội đồng định giá tài sản Nhà nước.
Đối với đất ở, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng, nuôi trồng thuỷ, hải sản, làm muối,... thì căn cứ theo giá của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định trên cơ sở khung giá đất do Chính phủ ban hành.
Đối với các tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất thì căn cứ theo giá giao đất của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định trên cơ sở khung giá đất do Chính phủ ban hành.
Đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước cho thuê đất đã trả trước tiền thuê đất cho nhiều năm hoặc cả thời gian thuê, thì căn cứ vào tiền thuê đất đã trả trước trong thời hạn còn lại ít nhất là 05 năm cộng với giá trị tài sản gắn liền với đất thuê.
Đối với các máy móc, thiết bị, dây truyền sản xuất,... gắn liền với đất đai, nhà xưởng, căn cứ để định giá là giá trị thường theo thoả thuận của hai bên, nhưng không được cao hơn giá trị còn lại ghi trên sổ sách kế toán theo chế độ kế toán do Bộ Tài chính ban hành.
Đối với các giấy tờ có giá như: công trái, trái phiếu, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi,... do Chính phủ, Ngân hàng hoặc doanh nghiệp phát hành,... được căn cứ theo mệnh giá ghi trên giấy tờ và giá cả của giấy tờ đó trên thị trường để định giá.
+ Kết quả định giá tài sản thế chấp, cầm cố phải được lập thành biên bản để làm cơ sở cho việc ký kết văn bản thế chấp, cầm cố tài sản.
- Mức vốn cho vay trên giá trị tài sản thế chấp, cầm cố:
Khi xác định mức cho vay cụ thể đối với từng đối tượng, kho bạc Nhà nước phải căn cứ vào giá trị tài sản thế chấp, cầm cố đã được định giá; số tiền cho vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản thế chấp, cầm cố đã được xác định. Riêng tài sản cầm cố là các giấy tờ có giá như: công trái, trái phiếu, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi,... thì số tiền cho vay tối đa bằng 80% giá trị tài sản.
- Thủ tục thế chấp, cầm cố tài sản:
+ Trước khi làm thủ tục thế chấp, cầm cố tài sản, bên có tài sản thế chấp, cầm cố phải gửi đến kho bạc Nhà nước nơi cho vay danh mục các tài sản dùng để thế chấp, cầm cố, kèm theo các giấy tờ có liên quan về tài sản thế chấp, cầm cố. Nếu tài sản thế chấp, cầm cố thuộc sở hữu chung, phải có thêm thủ tục sau:
Tài sản thế chấp, cầm cố thuộc sở hữu của nhiều người (từ 2 người trở lên), khi đem thế chấp, cầm cố phải có ý kiến chấp thuận của những người đồng sở hữu trên danh mục tài sản đồng ý giao cho người đại diện ký văn bản thế chấp, cầm cố.
Tài sản thế chấp, cầm cố thuộc sở hữu tập thể, công ty liên doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,... khi đem thế chấp, cầm cố phải có nghị quyết bằng văn bản của Đại hội đại biểu các thành viên, hoặc ý kiến chấp thuận của các thành viên trong Hội đồng quản trị theo quy định của điều lệ trên danh mục tài sản thế chấp, cầm cố đồng ý giao cho người đại diện ký văn bản thế chấp, cầm cố.
Tài sản thế chấp, cầm cố thuộc sở hữu Nhà nước phải có ý kiến chấp thuận của cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp trên danh mục tài sản thế chấp, cầm cố. Đối với các tài sản khác như dây truyền sản xuất đồng bộ, cơ sở hạ tầng quan trọng,... phải có thêm văn bản của cơ quan quản lý có thẩm quyền cho phép dùng để thế chấp, cầm cố.
+ Việc thế chấp, cầm cố tài sản phải được lập thành văn bản theo hình thức hợp đồng, ghi rõ số lượng, chất lượng, giá trị tài sản, thời hạn thế chấp, cầm cố, phương thức xử lý tài sản thế chấp, cầm cố và những cam kết khác được các bên thoả thuận. Đồng thời, phải có chứng nhận của cơ quan công chức Nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân tại địa phương.
+ Các dự án đến hạn trả nợ được cấp có thẩm quyền duyệt cho vay lại, kho bạc Nhà nước cùng với bên có tài sản thế chấp, cầm cố phải tiến hành định giá lại tài sản thế chấp, cầm cố, sau đó hai bên ký hợp đồng bổ sung thế chấp, cầm cố tài sản.
- Quyền hạn và nghĩa vụ của bên thế chấp, cầm cố tài sản:
+ Quyền hạn của bên thế chấp, cầm cố tài sản:
Được giữ lại tài sản thế chấp, cầm cố để khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, trừ tài sản là các giấy tờ có giá theo đúng quy định.
Được nhận lại các giấy tờ có liên quan về tài sản thế chấp, cầm cố và các tài sản giao cho kho bạc Nhà nước quản lý (nếu có) khi đã thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cả tiền gốc và lãi.
+ Nghĩa vụ của bên thế chấp, cầm cố tài sản:
Giao bản gốc giấy tờ về tài sản thế chấp, cầm cố và các giấy tờ liên quan khác cho kho bạc Nhà nước;
Lấy chứng nhận của cơ quan công chứng Nhà nước, hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân tại địa phương đối với hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản;
Chịu mọi chi phí phát sinh về kiểm định, định giá, công chứng hoặc chứng thực hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản và các chi phí về xử lý tài sản thế chấp, cầm cố;
Bảo quản, duy trì nguyên hình dạng; không được bán, tặng, trao đổi, cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp, cầm cố. Nếu do việc sử dụng tài sản thế chấp, cầm cố có nguy cơ bị mất giá trị, hoặc giảm sút giá trị thì phải bồi thường hoặc thay thế bằng tài sản khác có giá trị tương ứng.
Tạo thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát tài sản thế chấp, cầm cố của cán bộ kho bạc Nhà nước kể từ khi nhận tiền vay cho đến khi hoàn trả hết nợ.
- Quyền hạn và nghĩa vụ của kho bạc Nhà nước:
+ Quyền hạn của kho bạc Nhà nước:
Được quyền kiểm tra, giám sát tài sản thế chấp, cầm cố kể từ khi cho vay cho đến khi thu hồi đầy đủ nợ vay;
Được quyền đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát mại tài sản thế chấp, cầm cố để thu hồi nợ khi bên vay vi phạm các quy định về vay vốn quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm;
Được quyền chuyển hồ sơ thế chấp, cầm cố tài sản sang cơ quan pháp luật để xử lý theo luật định, nếu bên có tài sản thế chấp, cầm cố vi phạm các cam kết về thế chấp, cầm cố tài sản.
+ Nghĩa vụ của kho bạc Nhà nước:
Giữ gìn, bảo quản các giấy tờ có liên quan về tài sản thế chấp, cầm cố và các tài sản nhận cầm cố (nếu có) theo chế độ bảo quản chứng từ có giá; nếu làm hư hỏng, mất mát thì phải bồi thường;
Không được sử dụng, khai thác công dụng của tài sản nhận cầm cố (nếu có) trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản;
Hoàn trả đầy đủ các giấy tờ có liên quan về tài sản thế chấp, cầm cố và các tài sản nhận cầm cố (nếu có) cho bên thế chấp, cầm cố khi đã thu hồi đầy đủ nợ vay.
1.3.2.3. Về bảo lãnh vay vốn
- Bảo lãnh bằng tài sản:
+ Việc bảo lãnh bằng tài sản được áp dụng đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, khi vay vốn không có hoặc không có đủ tài sản thế chấp, cầm cố cho khoản vốn vay. Đến hạn, nếu bên vay không trả nợ thì bên bảo lãnh phải trả thay như trách nhiệm của bên vay đối với kho bạc Nhà nước.
+ Bên bảo lãnh có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, khi đứng ra bảo lãnh phải dùng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình để thế chấp, cầm cố thay cho bên vay vốn. Tài sản dùng để thế chấp, cầm cố và thủ tục thế chấp, cầm cố đối với bên bảo lãnh thực hiện theo các quy định ở phần II, mục B thể lệ này.
- Bảo lãnh bằng tín chấp:
+ Các đối tượng vay vốn là hộ gia đình, thành viên của tổ chức công đoàn thể, hội quần chúng khi vay vốn không phải thế chấp, cầm cố tài sản, nhưng phải được người thứ ba đứng ra bảo lãnh bắng tín chấp.
+ Người có thẩm quyền ký bảo lãnh bằng tín chấp phải là Thủ trưởng cơ quan tổ chức đoàn thể, hội quần chúng cấp quận, huyện trở lên; hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp phường, xã trở lên.
+ Bên bảo lãnh có trách nhiệm đôn đốc bên vay hoàn trả đầy đủ nợ vay (cả tiền gốc và lãi) đúng hạn cho kho bạc Nhà nước. Đến hạn, nếu bên vay không trả được nợ thì bên bảo lãnh có trách nhiệm cùng bên vay tìm nguồn để trả nợ cho kho bạc Nhà nước.
1.3.2.4. Về kiểm tra và xử lý
- Kiểm tra:
+ Các đối tượng vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm phải chịu sự kiểm tra, giám sát của kho bạc Nhà nước về mục đích, hiệu quả sử dụng vốn vay, bảo quản và sử dụng tài sản thế chấp, cầm cố và tình hình tạo việc làm cho người lao động, kể từ khi nhận tiền vay cho đến khi hoàn trả hết nợ.
+ Kho bạc Nhà nước khi kiểm tra nếu phát hiện bên vay vi phạm nguyên tắc về vay vốn, được quyền đình chỉ việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn, chuyển nợ quá hạn, hoặc đề nghị phát mại tài sản thế chấp, cầm cố để thu nợ, trường hợp nghiêm trọng đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Chuyển nợ quá hạn:
+ Đến hạn nhưng bên vay chưa hoàn trả hết nợ (kể cả dự án hết hạn khoanh nợ) nếu không được giải quyết cho gia hạn nợ hoặc cho vay lại, thì kho bạc Nhà nước chủ động chuyển số nợ gốc còn thiếu sang tài khoản nợ quá hạn và bên vay phải chịu lãi suất phạt quá hạn.
+ Trường hợp chưa đến hạn trả, nhưng bên vay do vi phạm nguyên tắc sử dụng vốn vay bị xử lý thu hồi nợ trước hạn; sau 30 ngày kể từ ngày xử lý thu nợ trước hạn, nếu bên vay chưa trả được nợ thì kho bạc Nhà nước chủ động chuyển số nợ gốc đó sang tài khoản nợ quá hạn và bên vay phải chịu lãi suất phạt quá hạn.
- Xử lý tài sản thế chấp, cầm cố:
+ Sau 03 tháng kể từ ngày chuyển sang nợ quá hạn, nếu bên vay không trả được nợ, kho bạc Nhà nước có quyền chuyển sồ sơ cho vay đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề nghị phát mại tài sản thế chấp, cầm cố để thu hồi vốn, kho bạc Nhà nước không tự tổ chức phát mại tài sản thế chấp, cầm cố.
+ Số tiền thu được từ phát mại tài sản thế chấp, cầm cố sau khi thanh toán các chi phí về phát mại tài sản theo quy định của pháp luật, được ưu tiên thanh toán cho khoản nợ vay (tiền gốc và lãi); số còn lại trả cho bên có tài sản thế chấp, cầm cố; nếu không đủ thanh toán cho khoản nợ vay, thì yêu cầu bên vay tìm nguồn khác để trả số nợ còn thiếu trong một thời gian nhất định.
+ Đối với tài sản thế chấp, cầm cố đã được bảo hiểm, nếu tài sản bị rủi ro bất khả kháng thì khoản tiền bồi thường của cơ quan bảo hiểm sẽ được dùng trả nợ cho kho bạc Nhà nước.
Chương II
Thực trạng công tác cho vay hỗ trợ giải quyết việc làm ở kho bạc nhà nước thanh xuân
2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội của quận Thanh Xuân
2.1.1. Đặc điểm địa lý:
Quận Thanh Xuân được hình thành từ tháng 01 năm 1997 theo Nghị định 74 của Chính phủ
Quận nằm ở ven đô thuộc phía Tây Nam thành phố Hà Nội:
Phía Bắc giáp quận Đống Đa và Cầu Giấy.
Phía Đông giáp quận Hai Bà Trưng.
Phía Nam giáp huyện Thanh Trì.
Phía Tây giáp huyện Từ Liêm và thị xã Hà Đông (Hà Tây).
Diện tích tự nhiên của quận Thanh Xuân là 913,2 ha. Quận có 11 đơn vị hành chính cấp phường: Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân nam, Nhân Chính, Thượng Đình, Hạ Đình, Kim Giang, Khương Trung, Khương Mai, Phương Liệt, Khương Đình.
Quận Thanh Xuân được thành lập trên cơ sở tách 5 phường từ quận Đống Đa và 2 xã thuộc huyện Thanh Trì và Từ Liêm.
Do đặc điểm địa lý trên nên cơ cấu kinh tế của quận rất phức tạp: tồn tại cả công nghiệp và nông nghiệp. Quận có 2 khu công nghiệp lớn là Thượng Đình và Giáp Bát nhưng tại 3 phường: Nhân Chính - Khương Đình - Hạ Đình vẫn sản xuất nông nghiệp với tổng số xã viên Hợp tác xã là 1.000 người. Do đó vấn đề thu hẹp đất canh tác và chuyển đổi môi trường công việc của bộ phận dân cư làm nông nghiệp rất phức tạp và gặp nhiều khó khăn.
Quận Thanh Xuân được hình thành trong quá trình đô thị hoá và phát triển của thành phố Hà Nội do đó dân cư của quận chủ yếu sống trong các khu tập thể cao tầng, làng xã và các phố mới thành lập; lối sống xen kẽ thành thị với phong tục tập quán văn hoá làng xã rất phức tạp, do quá trình đô thị hoá mà diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Thêm vào đó do ảnh hưởng lối sống thành thị, các làng nghề truyền thống trước đây của quận đang dần bị mai một. Đây là những khó khăn về vấn đề giải quyết việc làm rất bức xúc của quận Thanh Xuân.
2.1.2. Tình hình kinh tế
Sau 4 năm hoạt động, cơ cấu kinh tế của quận tiếp tục được chuyển dịch theo Nghị quyết Đại hội Đảng Bộ quận lần thứ nhất là: Công nghiệp - Thương mại - Dịch vụ - Nông nghiệp. Quan hệ sản xuất XHCN được tăng cường. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế phát triển cả về số lượng và qui mô. Tình hình sản xuất công nghiệp năm 2000 trên địa bàn quận được duy trì ổn định và có bước tăng trưởng, đặc biệt sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh đã có bước tăng trưởng cao. Bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả ổn định, có 1 số doanh nghiệp tổ chức lại sản xuất, đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh và nhiều doanh nghiệp mới thành lập đã hoạt động có hiệu quả.
Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn năm 2000 đạt 2330 tỷ bằng 110,9% tăng 10,9% so với năm 1999. Trong đó giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 60,943 tỷ đồng, tăng 49,2% so với năm 1999 vượt chỉ tiêu đặt ra 29,2% (kế hoạch 20%). Có 13 ngành có nhịp độ tăng so với năm trước. Ví dụ: sản xuất thực phẩm đồ uống tăng 4,9%; sản xuất máy thiết bị điện tăng 174%.
Thực hiện Nghị định 02/2000/NĐ-CP của Chính phủ, UBND quận đã cấp, đổi và gia hạn giấy phép kinh doanh cho 1486 hộ sản xuất kinh doanh, tổng số hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn là 3732 hộ.
Gồm: 1902 hộ kinh doanh thương mại = 50,09%
375 hộ sản xuất = 10,05%
1455 hộ kinh doanh dịch vụ = 38,99%.
Đến nay địa bàn quận có 206 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đăng ký hoạt động với số vốn đăng ký là 154,83 tỷ đồng: gồm: Công ty TNHH: 166; Doanh nghiệp tư nhân: 28; Công ty cổ phần 12.
Về nông nghiệp: UBND quận chỉ đạo các HTX nông nghiệp triển khai các hoạt động sản xuất nông nghiệp theo hướng dẫn của Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn. Có chính sách hỗ trợ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và thực hiện chuyển đổi giống cây trồng vật nuôi có giá trị cao. Năm 2000 giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 2,83 tỷ đồng bằng 102% kế hoạch năm, vượt 2% so với kế hoạch đề ra.
Quận tiếp tục đẩy mạnh quản lý thị trường; hướng dẫn các cơ sở, tư nhân chấp hành qui định của pháp luật trong sản xuất kinh doanh và tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, làm hàng giả, trốn thuế. Thực hiện chấn chỉnh hoạt động kinh doanh tại các chợ. Kết quả là đã phát hiện 114 vụ vi phạm xử lý thu nợ ngân sách 562.493.420đ.
Tuy vậy, tình hình kinh tế ở quận cũng còn một số mặt hạn chế sau: kinh tế trên địa bàn tuy có phát triển nhưng chưa ổn định và vững chắc nhiều doanh nghiệp Nhà nước ... về vốn đầu tư, đổi mới công nghệ, tiếp cận thị trường, ổn định việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, thực hiện chủ trương cổ phần hoá. Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, kinh doanh cá thể đa số sản xuất kinh doanh qui mô nhỏ, trang bị kỹ thuật lạc hậu, trình độ công nghệ thấp. Các HTX nông nghiệp còn lúng túng trong việc phát triển sản xuất kinh doanh sau khi chuyển đổi.
2.1.3. Tình hình dân số - lao động quận Thanh Xuân
Quận Thanh Xuân là 1 quận ven nội nên dân cư rất đông đúc trên 3 vạn nhân khẩu. Theo kết quả điều tra lao động việc làm tại thời điểm 31/1/1999, tổng số người trong độ tuổi lao động là 92.353 người trên 137.559 nhân khẩu, trong đó có 85.939 người có khả năng lao động; Tỷ lệ tăng nguồn lao động hàng năm của quận vào khoảng từ 2500 đến 3000 người. Tính đến năm 2000 số người trong độ tuổi lao động của quận khoảng 95.400 người = 68%/tổng số dân.
Tuy dân cư ở quận Thanh Xuân đông đúc nhưng theo kết quả điều tra dân số quận Thanh Xuân ngày 1/4/1997 cho thấy số lao động chưa qua đào tạo của quận chiếm tỷ lệ cao. Cụ thể:
+ Số lao động chưa qua đào tạo: 54.263 người (59,2%)
+ Số lao động đã qua đào tạo: 37.457 người (40,8%)
Trong đó:
- Công nhân kỹ thuật: 7.682 người (8,4%)
- Trung học chuyên nghiệp: 10.866 người (11,8%)
- Đại học, cao đẳng: 18.831 người (20,5%)
- Trên đại học: 78 người (0,1%)
Số liệu trên cho thấy chất lượng lao động thấp ở quận Thanh Xuân đã ảnh hưởng đến vấn đề cung cầu lao động trên thị trường; không đáp ứng về kỹ thuật đòi hỏi ngày càng phát triển dẫn đến tình trạng lao động không có việc làm và thiếu việc làm ngày càng có xu hướng gia tăng. Tình hình này cũng là do công tác dạy nghề ở quận nói riêng và thành phố nói chung còn gặp nhiều khó khăn như: không có cơ sở dạy nghề, hoặc có song do cơ sở vật chất nghèo nàn, qui trình đào tạo chưa phù hợp,...
Tình trạng số lượng và chất lượng lao động ở quận Thanh Xuân đã ảnh hưởng mạnh đến tỷ lệ thất nghiệp của quận. Theo điều tra dân số quận Thanh Xuân ngày 1/4/1997, tỷ lệ thất nghiệp năm 1997 là 4,12% = 3.776 người/91.720 người trong độ tuổi lao động. Còn theo kết quả điều tra thống kê lao động việc làm tại thời điểm 31/12/1999 thì tỉ lệ thất nghiệp tại quận Thanh Xuân là 6,5% = 6.031 người. Như vậy, hàng năm tỷ lệ thất nghiệp có hướng gia tăng, trung bình mỗi năm từ 1% đến 1,2%.
Nhìn chung so với tỉ lệ thất nghiệp của TP. Hà Nội (năm 1999 là 10,31% và năm 2000 là 7,95%) thì tỷ lệ thất nghiệp của quận Thanh Xuân chưa phải là cao. Tuy vậy nó ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình kinh tế xã hội của quận, nhất là trong điều kiện quận mới thành lập bước đầu còn nhiều khó khă, thiếu thốn. Vì vậy quận Thanh Xuân để đặt vấn đề tạo việc làm cho lao động hiện nay là vấn đề bức xúc hàng đầu cần g._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0028.doc