Mục lục
Đề mục Trang
Mục lục............................................................................................................1
Lời cảm ơn.......................................................................................................2
Lời nói đầu.......................................................................................................3
Phần I: tổng quan về bảo hộ lao động lao động...........................5
I. Một số khái niệm cơ bản về BHLĐ.................
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1548 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng công tác bảo hộ lao động tại Công ty cơ khí và xây lắp số 7, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
................................5
II. Mục đích, ý nghĩa, tính chất của công tác BHLĐ.........................14
III. Nội dung của công tác BHLĐ......................................................20
Phần II: Thực trạng công tác BHLĐ tại doanh nghiệp................23
Chương I: Khái quát chung về doanh nghiệp...................................23
Chương II: Những nội dung về kỹ thuật an toàn...............................34
Chương III: Những nội dung về vệ sinh lao động..............................44
Chương IV: Các nội dung thực hiện chính sách BHLĐ......................52
Chương V: Tình hình tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.............56
Phần III: Nhận xét và kiến nghị...........................................................60
I. Nhận xét chung về công tác BHLĐ tại công ty...............................60
II. Một số ý kiến đóng góp..................................................................60
Phần IV: Kết luận chung.......................................................................62
Tài liệu tham khảo.........................................................................................63
Lời cảm ơn
Nhằm tăng cường kiến thức thực tế, vận dụng những kiến thức đã học để tìm hiểu tình hình thực hiện các hoạt động của công tác bảo hộ lao động tại cơ sở sản xuất, giúp sinh viên làm quen với công việc khi ra trường. Khoa Bảo hộ lao động Trường Đại học Công Đoàn đã tổ chức cho các sinh viên đi thực tập tại các cơ sở sản xuất.
Qua ba tháng thực tập tại Công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 (Km14 - Quốc lộ 1A - Thanh Trì - Hà Nội) tôi đã học hỏi và tiếp thu được nhiều kiến thức về công tác bảo hộ lao động. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên trong công ty đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành tốt đợt thực tập tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Trường Đại học Công Đoàn, đặc biệt là các thầy cô ở Khoa Bảo hộ lao động đã dạy dỗ và cung cấp cho chúng em những kiến thức quý báu.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Phan Hạnh Dung - Giảng viên Khoa Bảo hộ lao động - Trường Đại học Công Đoàn đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình hoàn thành bản báo cáo này.
Sinh viên thực hiện
Ngô Văn Hạnh
Lời Mở đầu
Trong công cuộc xây dựng đất nước con người là vốn quý nhất, cho nên Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm chăm sóc tới con người lao động. Như Bác Hồ đã dạy: “ Mỗi người lao động bất kỳ nam hay nữ đều rất quý báu, chẳng những quý cho gia đình các cô, các chú mà còn quý cho Đảng, cho Chính phủ và cho nhân dân nữa. Nếu để xảy ra tai nạn là thiệt chung cho bản thân gia đình, cho Chính phủ và nhân dân. Vì vậy chúng ta phải hết sức bảo vệ an toàn lao động, hết sức bảo vệ tính mệnh của người công nhân...”.Thực hiện theo lời Bác, việc đảm bảo an toàn trong lao động sản xuất đã và đang được Đảng, Nhà nước, cùng các Bộ, các cấp, các ngành quan tâm hàng đầu.
Bảo hộ lao động là chính sách kinh tế - xã hội lớn của Đảng, Nhà nước và có vị trí quan trọng nên ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, năm 1947 Bác Hồ đã ký sắc lệnh 29/ SL về lao động. Bác căn dặn lao động phải đi đôi với bảo hộ lao động, phải đảm bảo an toàn lao động vì con người là vốn quý.
Ngày nay công nghiệp đang trên đà phát triển mạnh, công nghiệp phát triển mạnh gắn liền với việc tăng về số lượng cũng như chủng loại các máy móc, thiết bị. Khi sản xuất phát triển, công nghiệp hoá tăng lên thì cũng làm xuất hiện nhiều yếu tố nguy hiểm, độc hại và tác hại của các yếu tố đó cũng tăng lên. Việc loại trừ và hạn chế bớt các yếu tố nguy hiểm, độc hại là yêu cầu quan trọng và rất cần thiết đối với sức khoẻ người lao động, với sản xuất và với môi trường chung của toàn xã hội.
Vì vậy Bảo hộ lao động ngày càng được quan tâm và chú trọng nhiều hơn vì nếu làm tốt công tác Bảo hộ lao động sẽ giúp người lao động luôn được thoải mái, khoẻ mạnh và tránh được các tai nạn lao động, do đó lao động đạt hiệu quả cao, sản xuất phát triển làm cho sinh hoạt xã hội vui tươi, lành mạnh, mức sống của người lao động được nâng cao.
Như vậy lợi ích và tầm quan trọng của công tác Bảo hộ lao động thực sự đóng vai trò to lớn trong lao động sản xuất và trong công cuộc xây dựng đất nước ngày một phát triển, văn minh và giàu đẹp hơn.
Phần i : Tổng quan về Bảo hộ lao động:
I. Một số khái niệm cơ bản về Bảo hộ lao động (BHLĐ):
I.1. Lý do nẩy sinh vấn đề bảo hộ lao động :
Xã hội loài người tồn tại và ngày càng phát triển là do con người có lao động. Nhờ có lao động con người tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Càng ngày con người càng có nhiều kiến thức, có nhiều kỹ năng, có nhiều khả năng sáng tạo, cho nên lao động ngày càng có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn. Và xã hội loài người ngày càng phát triển nhanh chóng.
Khi lao động con người phải sử dụng các phương tiện nguyên vật liệu, môi trường khác nhau và tất nhiên là sẽ gặp phải, sẽ nẩy sinh các yếu tố làm nguy hại tới cơ thể, sức khỏe, tính mạng người lao động. Do vậy để người lao động làm việc được an toàn, trong các điều kiện vệ sinh, trong các điều kiện ngày càng được cải thiện thì phải thực hiện các biện pháp bảo hộ lao động.
Như vậy bảo hộ lao động là vấn đề tất nhiên, nẩy sinh khách quan theo với đà phát triển của xã hội loài người. Nhưng do nhiều lý do khác nhau mà vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức. Từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai, xã hội loài người trải qua những biến đổi chính trị sâu sắc, một loạt nước có chế độ chính trị mới ra đời - chế độ xã hội chủ nghĩa, vai trò của người lao động được dần dần xác lập đầy đủ hơn thì công tác bảo hộ lao động ngày càng được chú ý và do vậy đã đạt được nhiều thành tựu.
Tuy nhiên cho đến nay tai nạn lao động xảy ra vẫn còn rất nhiều. Do vậy vấn đề bảo hộ lao động cần được quan tâm đầy đủ ở ngay bản thân người lao động, ở những người tổ chức và sử dụng lao động, ở chính phủ và các tổ chức xã hội. Vậy bảo hộ lao động là gì ?
I.2. Bảo hộ lao động (BHLĐ):
BHLĐ mà nội dung chủ yếu là công tác an toàn và vệ sinh lao động, là các hoạt động đồng bộ trên các mặt luật pháp, tổ chức hành chính, kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật nhằm cải thiện điều kiện lao động(ĐKLĐ), ngăn ngừa tai nạn lao động(TNLĐ) và bệnh nghề nghiệp(BNN), đảm bảo an toàn, bảo vệ sức khoẻ người lao động.
Hoạt động Bảo hộ lao động gắn liền với lao động sản xuất và công tác của con người. Nó phát triển phụ thuộc vào trình độ kinh tế, khoa học, công nghệ và yêu cầu phát triển xã hội của mỗi nước. Bảo hộ lao động là yêu cầu tất yếu khách quan để bảo vệ người lao động, yếu tố chủ yếu và năng động nhất của lực lượng sản xuất xã hội.
Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) đã coi việc cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động là một trong những quan tâm và hoạt động chủ yếu của mình. ILO đã có hàng chục công ước và kiến nghị đề cập đến vấn đề này, trong đó công ước 115 ra đời năm 1981 đề cập đầy đủ và tổng quát về vấn đề an toàn và vệ sinh lao động.
Trong công tác Bảo hộ lao động, nội dung chủ yếu là an toàn lao động và vệ sinh lao động. Bởi vậy ở nước ta cho đến nay từ "Bảo hộ lao động" được dùng phổ biến với cách hiểu như đã định nghĩa ở trên đây, và khi nói đến An toàn và vệ sinh lao động, chúng ta hiểu đó là nói đến nội dung chủ yếu nhất của công tác Bảo hộ lao động.
I.3. Điều kiện lao động(ĐKLĐ):
ĐKLĐ được hiểu là tổng thể các yếu tố về tự nhiên, xã hội, kinh tế, kỹ thuật được biểu hiện thông qua các công cụ và phương tiện lao động, đối tượng lao động, quá trình công nghệ, môi trường lao động và sự sắp xếp, bố trí chúng trong không gian và thời gian, sự tác động qua lại của chúng trong mối quan hệ với người lao động tại chỗ làm việc, tạo nên một điều kiện nhất định cho con người trong quá trình lao động. Tình trạng tâm sinh lý của con người trong khi lao động tại chỗ làm việc cũng được coi như yếu tố gắn liền với điều kiện lao động.
Đối tượng lao động của con người rất đa dạng, phong phú, từ những loại rất đơn giản, không gây nên ảnh hưởng hoặc tác hại xấu gì đối với con người, đến những loại rất phức tạp, độc hại, nguy hiểm, thậm chí rất nguy hiểm đến tính mạng con người ( như dòng điện, hoá chất, vật liệu phóng xạ, vật liệu nổ, .v.v...). Rất nhiều đối tượng sản xuất, khi đã tạo thành sản phẩm thì tính chất nguy hiểm, độc hại đã bớt đi, có lợi cho non người, song cũng không ít đối tượng lao động vẫn giữ nguyên, thậm chí còn làm tăng hoặc lưu giữ tiềm tàng tính chất nguy hiểm, độc hại đó.
Quá trình công nghệ trong sản xuất có thể hết sức thủ công, thô sơ, do đó mà người lao động phải làm việc nặng nhọc, phải thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với các yếu tố độc hại, nguy hiểm dễ gây nên tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Quá trình công nghệ cũng có thể rất hiên đại, có trình độ cơ khí hoá, tự động hoá cao có ý nghĩa giảm nhẹ nặng nhọc bảo vệ sức khoẻ, tính mạng người lao động.
Môi trường lao động là nơi mà ở đó con người trực tiếp làm việc. Tại đây thường xuất hiện rất nhiều yếu tố, có thể rất tiện nghi, thuận lợi cho người lao động, song cũng có thể rất xấu, khắc nghiệt đối với con người (ví dụ như nhiệt độ cao hoặc quá thấp, độ ẩm lớn, nồng độ bụi lớn và hơi khí độc cao, độ ồn lớn, ánh sáng thiếu.v.v..). Các yếu tố xuất hiện trong môi trường lao động là do quá trình hoạt động của các máy móc, thiết bị, do tác động và sự thay đổi của đối tượng lao động, do tác động của con người trong khi thực hiện quá trình công nghệ gây ra, đồng thời cũng còn do các yếu tố của điều kiện khí hậu, thiên nhiên gây nên.
Tình trạng tâm sinh lý của người lao động trong khi làm việc là yếu tố chủ quan rất quan trọng, đôi khi lại chíng là nguyên nhân xảy ra sự cố dẫn đến tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho chính bản thân họ và người khác.
Tổng hoà các biểu hiện đó tạo nên một điều kiện lao động cụ thể, có thể rất tiện nghi thuận lợi, song cũng có thể rất xấu và là nguyên nhân của các tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Đánh giá điều kiện lao động của bất kỳ một cơ sở, một ngành nào là phải nhìn tổng thể tất cả các biểu hiện nói trên, không thể chỉ nhìn một mặt nào đó rồi vội vàng kết luận điều kiện lao động ở đó là tốt hay xấu. Đánh giá đúng thực trạng điều kiện lao động và thường xuyên chăm lo cải thiện nó là nội dung quan trọng nhất trong công tác bảo hộ lao động.
I.4. Tai nạn lao động (TNLĐ):
TNLĐ là tai nạn xảy ra do tác động một cách đột ngột của các yếu tố nguy hiểm, độc hại, bất thường trong lao động, công tác gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây tử vong xảy ra trong quá trình lao động gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động (trong thời gian làm việc, chuẩn bị trước khi làm việc hoặc thu dọn sau khi làm việc).
Khi người lao động bị nhiễm độc đột ngột với sự xâm nhập vào cơ thể một lượng lớn các chất độc, có thể gây chết người ngay tức khắc hoặc huỷ hoại chức năng nào đó của cơ thể người lao động thì gọi là nhiễm độc cấp tính và cũng được coi là tai nạn lao động.
Mọi người lao động không phân biệt lao động trí óc hay chân tay, người làm công tác quản lý gián tiếp hay trực tiếp lao động (kể cả người nước ngoài), không phân biệt trong quốc doanh hay ngoài quốc doanh nếu để xảy ra tai nạn trong các trường hợp sau thì đều được coi là tai nạn lao động:
Xảy ra ở trong hay ngoài địa phận làm việc của đơn vị nếu người đó đang tiến hành công việc theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
Xảy ra trong những thời gian sau đây: làm việc, chuẩn bị hoặc đang thu dọn dụng cụ, máy móc trước hoặc sau khi làm việc; thực hiện các sinh hoạt cần thiết trong một ca làm việc như nghỉ giải lao, ăn cơm giữa ca, ăn bồi dưỡng, cho con bú, làm vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa chân tay, đi từ nhà tới nơi làm việc hoặc ngược lại (ở một địa điểm và thời gian hợp lý).
Theo qui đinh của nhiều nước, người ta phân ra tai nạn lao động chết người, tai nạn lao động nặng, tai nạn lao động nhẹ. Việc phân loại tai nạn lao động nặng hay nhẹ có thể căn cứ vào số ngày phải nghỉ việc để điều trị thương tích do tai nạn lao động hoặc theo loại lao động.
Tai nạn lao động được chia thành 3 loại:
- Tai nạn lao động chết người: người bị tai nạn chết ngay tại nơi xảy ra tai nạn; chết trên đường đi cấp cứu; chết trong thời gian cấp cứu; chết trong thời gian đang điều trị; chết do tái phát của chính vết thương do tai nạn lao động gây ra.
- Tai nạn lao động nặng: người bị tai nạn ít nhất một trong những chấn thương được quy định tại Phụ lục số 1 của Thông tư số 03/1998/ TTLT/ BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN.
- Tai nạn lao động nhẹ: là những tai nạn lao động không thuộc 2 loại tai nạn lao động nói trên.
Để đánh giá tình hình tai nạn lao động, người ta sử dụng "hệ số tần suất tai nạn lao động K ":
n x 1000
K = --------------
N
Trong đó:
n: Số tai nạn lao động
N: Tổng số người lao động
K được tính cho 1 đơn vị, 1 địa phương, 1 ngành hoặc chung cả nước nếu n và N được tính cho 1 đơn vị, 1 địa phương, 1 ngành hoặc chung cả nước tương ứng.
K là hệ số tần suất tai nạn lao động chết người nếu n là hệ số tai nạn lao động chết người.
I.5. Bệnh nghề nghiệp (BNN):
BNN là bệnh mang tính chất đặc trưng nghề nghiệp hoặc liên quan đến nghề nghiệp do tác hại thường xuyên và kéo dài của điều kiện lao động xấu.
Từ khi có lao động con người dã chịu ảnh hưởng của nghề nghiệp và bị bệnh nghề nghiệp. Trước Công nguyên, Hypporat đã phát hiện bệnh nhiễm độc chì. Thế kỉ I, Pline đã phát hiện những ảnh hưởng xấu của bụi đối với cơ thể. Thế kỉ II, Galilen đã tả những bệnh mà công nhân mỏ mắc phải. Những năm sau đó đã phát hiện được bệnh nhiễm độc thuỷ ngân và các bệnh nghề nghiệp khác.
Công nhân có thể bị bệnh nghề nghiệp phải được hưởng chế độ bảo hiểm nên mỗi quốc gia đã qui định những bệnh nghề nghiệp có ở nước mình và ban hành chế độ bảo hiểm bệnh nghề nghiệp . Vào thế kỷ XIX, thế kỷ XX, các nước Đức, Anh, Pháp, ý, v.v.. đã lần lượt qui định bệnh nghề nghiệp của nước mình.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) hiện nay xếp bệnh nghề nghiệp thành 29 nhóm gồm hàng trăm bệnh nghề nghiệp khác nhau.
ở Việt Nam, từ năm 1976 nhà nước đã qui định 8 bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm và năm 1981 đã công nhận thêm 8 bệnh nghề nghiệp, đến nay đã có 21 bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm:
01. Bệnh bụi phổi do Silic
02. Bệnh bụi phổi do Amiăng
03. Bệnh bụi phổi bông
04. Bệnh nhiễm độc chì và các hợp chất chì
05. Bệnh nhiễm độc Benzen và các đồng đẳng của Benzen
06. Bệnh nhiễm độc thuỷ ngân và các hợp chất của thuỷ ngân
07. Bệnh nhiễm độc Mangan và các hợp chất của Mangan
08. Bệnh nhiễm độc TNT (Trinitrotoluen)
09. Bệnh nhiễm độc các tia phóng xạ và tia X
10. Bệnh điếc nghề nghiệp do tiếng ồn
11. Bệnh rung chuyển nghề nghiệp
12. Bệnh xạm da nghề nghiệp
13. Bệnh loét da, loét vách ngăn mũi, viêm da, chàm tiếp xúc
14. Bệnh lao nghề nghiệp
15. Bệnh viem gan do virus nghề nghiệp
16. Bệnh do Leptospira nghề nghiệp
17. Bệnh nhiễm độc Asen và các hợp chất Asen nghề nghiệp
18. Bệnh nhiễm độc Nicotin nghề nghiệp
19. Bệnh nhiễm độchoá chất trừ sâu nghề nghiệp
20. Bệnh giảm áp nghề nghiệp
21. Bệnh viêm phế quản mãn tính nghề nghiệp
I.6. Một số khái niệm khác:
a. Yếu tố nguy hiểm và có hại là các yếu tố phát sinh trong quá trình lao động mà có thể gây ra tai nạn cho người lao động hoặc làm ảnh hưởng tới sức khoẻ người lao động.
Trong điều kiện lao động cụ thể, bao giờ cũng xuất hiện những yếu tố vật chất có ảnh hưởng xấu, có hại và nguy hiểm có nguy cơ gây tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Các yếu tố nguy hiểm và có hại phát sinh trong quá trình sản xuất thường đa dạng và nhiều loại. Đó có thể là:
- Các yếu tố vật lý: như nhiệt độ, độ ẩm, các bức xạ có hại (ion hoá và không ion hoá), bụi, tiếng ồn, rung, thiếu ánh sáng.
- Các yếu tố hoá học: như các chất độc, các loại hơi, khí, bụi độc, các chất phóng xạ.
- Các yếu tố sinh vật, vi sinh vật: các vi khuẩn, siêu vi khuẩn, nấm mốc, các loại ký sinh trùng, các loại côn trùng, rắn...
- Các yếu tố bất lợi về tư thế lao động, không tiện nghi do không gian nhà xưởng chật hẹp, mất vệ sinh, các yếu tố không thuận lợi về tâm lý.
Trong lao động sản xuất có nhiều yếu tố nguy hiểm gây chấn thương:
- Các cơ cấu, bộ phận truyền động và chuyển động của thiết bị sản xuất: trục quay, gá quay,...
- Các mảnh dụng cụ, vật liệu văng bắn ra: các phoi kim loại, mảnh dụng cụ văng bắn trong quá trình gia công kim loại như cắt, phay, tiện,...
- Nguy hiểm điện: điện giật và bỏng điện.
- Các yếu tố nhiệt: ngộn lửa hàn, kim loại nóng chảy, chất lỏng nóng có thể gây bỏng.
- Các chất độc công nghiệp : khí ôxít các-bon, clo, sunfuarơ, các kim loại như chì, thủy ngân, crôm, axen,...
- Các chất lỏng hoạt tính: axit sunfuaric, axit nitơric, kiềm mạnh như xút ăn da có thể gây bỏng hóa chất.
- Bụi công nghiệp: bụi đá, bụi kim loại gây chấn thương mắt, gây ảnh hưởng tới cơ quan hô hấp.
- Nguy hiểm cháy, nổ như: nổ chai ôxi, gas, axêtylen, nồi hơi, thiết bị áp lực,...
- Bức xạ: bức xạ tia X, tia tử ngoại, bức xạ hạt nhân và đồng vị.
- Các yếu tố nguy hiểm khác: các yếu tố bất lợi như vật rơi, hố sâu,v.v...
b. Vùng nguy hiểm là khoảng không gian xác định trong đó các yếu tố nguy hiểm, có hại có thể tác động lên con người gây ra tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp.
Vùng nguy hiểm có thể cố định hoặc thay đổi, yếu tố nguy hiểm, có hại có thể xuất hiện bất ngờ, thường xuyên hoặc theo chu kỳ.
- Ví dụ về vùng nguy hiểm:
+ Vùng giữa khuôn và đầu búa máy, máy dập.
+ Vùng giữa các trục cán, giữa vành tiếp xúc của bánh răng.
+ Khoảng không gian dưới đường dây điện cao thế trần.
+ Khoảng không gian phía dưới vật nặng khi cần trục đang cẩu.
+ Vùng nguy hiểm có thể là nơi có hơi khí độc, bụi độc, bụi gây nổ.
v.v...
c. Bảo vệ sức khoẻ : Tổng hợp các biện pháp của Nhà nước và xã hội để giữ gin và nâng cao sức khoẻ phòng ngừa, điều trị bệnh tật và thương tật, kéo dài tuổi thọ của con người. Bảo vệ sức khoẻ gắn chặt với sự phát triển toàn diện của xã hội, chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội của một nước. Công tác bảo vệ sức khoẻ đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành: kinh tế, nông nghiệp, công nghiệp, thể dục thể thao, giáo dục, y tế .v.v.. và nhất là đòi hỏi sự tham gia tích cực của nhân dân vào các phong trào, các chương trình sức khoẻ, thực hiện luật bảo vệ sức khoẻ.
d. Bảo vệ môi trường: tập hợp các biện pháp giữ gìn, sử dụng hoặc phục hồi một cách hợp lý sinh giới (vi sinh vật, thực vật, động vật) và môi sinh ( đất, nước, không khí, khí hậu, .v.v..) nghiên cứu thử nghiệm thiết bị sử dụng tài nguyên thiên nhiên, áp dụng công nghệ ít có hoặc không có phế liệu ... nhằm tạo ra một không gian tối ưu cho cuộc sống của con người. Ngoài ra, môi trường còn gồm các điều kiện tinh thần, văn hoá khiến cho đời sống được thoải mái. Từ thế kỷ XX sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp, sự hình thành các thành phố lớn, sự tăng nhanh về dân số kèm theo nhiều yếu tố tiêu cực khác ( khai thác, đốt phá rừng, săn bắn bừa bãi, gây ô nhiễm, chiến tranh với sự huỷ diệt trên qui mô khủng khiếp) đã làm tăng dữ dội tác động tiêu cực của con người với thiên nhiên. Tài nguyên có nguy sơ suy kiệt, sinh thái môi trường biến đổi lớn tới mức không thể phục hồi lại được. Bảo vệ môi trường địa lý là vấn đề trước mắt và cũng là lâu dài mà toàn thể cộng đồng cần phải giải quyết trên qui mô toàn cầu, nhằm sử dụng hợp lý thiên nhiên, hoàn thiện trang thiết bị, làm giảm nguồn gây ô nhiễm môi trường bảo vệ các danh lam thắng cảnh, các công trình văn hoá và bảo vệ các nguồn tài nguyên mà thiên nhiên đã ban tặng (như tài nguyên thuỷ sản, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản v.v...).
ii. Mục đích, ý nghĩa, tính chất của công tác BHLĐ:
II.1. Mục đích, ý nghĩa của công tác Bảo hộ lao động:
a. Mục đích công tác bảo hộ lao động:
Công tác bảo hộ lao động là công tác lớn, phức tạp, rất phong phú. Mục đích là: Nghiên cứu và tổ chức, thực hiện các biện pháp về tổ chức và kỹ thuật nhằm:
Đề phòng ngăn ngừa hạn chế, tiến tới loại trừ chấn thương, làm cho mọi người lao động (kể cả lao động chân tay, lao động trí óc hay lao động nghiệp vụ...) không bị tai nạn lao động, đảm bảo sự khỏe mạnh và toàn vẹn thân thể của người lao động.
Đề phòng hạn chế tiến tới loại trừ dần các tác hại nghề nghiệp, đảm bảo cho người lao động không bị tai nạn lao động và mắc bệnh nghề nghiệp.
Cải thiện điều kiện làm việc, giảm nhẹ lao động nặng nhọc.
Để người lao động được nhanh chóng phục hồi sức khoẻ sau khi lao động, sản xuất nhất là lao động ở những nơi độc hại và nguy hiểm.
Như vậy mục đích của công tác bảo hộ lao động là rất lớn, đòi hỏi phải có sự quyết tâm cao, phải có sự quan tâm đóng góp của các cấp, các ngành và phải giành nhiều công sức mới dần dần đáp ứng được.
Mục tiêu của công tác BHLĐ là thông qua các biện pháp về khoa học kỹ thuật, tổ chức, hành chính, kinh tế - xã hội để loại trừ các yếu tố nguy hiểm và có hại phát sinh trong sản xuất. Để từ đó tạo nên một điều kiện lao động tiện nghi, thuận lợi, ngày càng được cải thiện tốt hơn để ngăn ngừa TNLĐ và BNN, hạn chế ốm đau, chăm sóc sức khoẻ người lao động, trực tiếp góp phần bảo vệ và phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động.
b. ý nghĩa công tác bảo hộ lao động:
Bảo hộ lao động đem lại quyền lợi thiết thực cho người lao động, bảo vệ người lao động. Do vậy người lao động phấn khởi tin vào người sử dụng lao động, họ sẽ ra sức lao động tốt để hoàn thành nhiệm vụ, kế hoạch lao động, sản xuất. Nếu các xí nghiệp, nơi sản xuất đều làm tốt công tác bảo hộ lao động thì người lao động sẽ hăng hái thực hiện các nhiệm vụ của người lao động, của người dân, từ đó góp phần làm cho nhà nước, chế dộ vững mạnh về mặt kinh tế, nếu làm tốt công tác bảo hộ lao động thì người lao động sẽ tích cực làm việc, khắc phục khó khăn để hoàn thành tốt các nhiệm vụ từ đó góp phần làm cho năng suất lao động tăng lên. Khi người lao động được bảo vệ, chăm sóc, luôn phát huy được trí tuệ, tăng cường được thể lực thì họ sẽ hăng hái thực hiện các sáng kiến cải tiến, do vậy hiệu quả lao động tăng lên.
Mặt khác khi làm tốt công tác bảo hộ lao động thì người lao động được khoẻ mạnh, cơ thể không bị tổn hại, không bị tai nạn, như vậy giờ công ngày công có ích sẽ tăng lên. Và khi người lao động được khoẻ mạnh thì việc xử lý chấn thương, bệnh tật sẽ giảm nhiều, kinh phí chữa trị cũng giảm theo, như vậy sẽ tiết kiệm được cho xí nghiệp, cho người sử dụng lao động những kinh phí không nhỏ.
Công tác bảo hộ lao động có tác động trực tiếp bảo vệ con người. Nếu làm đầy đủ các biện pháp ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp thì người lao động sẽ khoẻ mạnh, thân thể được bảo vệ, chấn thương bệnh tật không xảy ra thì cuộc sống đời người của người lao động được ổn định, dễ có điều kiện được phát triển tốt đẹp, từ đó xã hội cũng được ổn định và phát triển thuận lợi.
Qua đó ta thấy rằng công tác bảo hộ lao động có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội lớn lao, chúng ta phải thấu hiểu để có ý thức đầy đủ khi thực hiện các qui định về bảo hộ lao động. Có nhận thức đúng như vậy thì mới đặt nhiệm vụ BHLĐ đúng vị trí và đúng tầm quan trọng của nó, mới đảm bảo cho sự phát triển đồng bộ của công tác BHLĐ với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Như vậy công tác Bảo hộ lao động có ý nghĩa hết sức quan trọng trong lao động sản xuất vì nó trực tiếp bảo vệ người lao động, phát triển sản xuất làm tăng năng suất lao động do đó nâng cao thu nhập cho cơ sở sản xuất, cho chính bản thân người lao động cũng như gia đình họ, từ đó góp phần xây dựng đất nước ngày thêm văn minh, giàu đẹp.
II.2. Tính chất của công tác Bảo hộ lao động:
Để đạt được mục tiêu về kinh tế - xã hội nhất thiết công tác BHLĐ phải mang đầy đủ các tính chất : tính pháp lý, tính khoa học và kỹ thuật, tính quần chúng.
a- Tính pháp lý: được thể hiện ở chỗ muốn cho các giải pháp KHKT, các biện pháp về tổ chức xã hội về BHLĐ được thực hiện thì phải thể chế hoá chúng thành những luật lệ, chế độ chính sách, tiêu chuẩn quy định, hướng dẫn để buộc mọi cấp quản lý, mọi tổ chức và cá nhân phải nghiêm túc thực hiện. Đồng thời phải tiến hành thanh tra, kiểm tra một cách thường xuyên, khen thưởng và xử phạt nghiêm minh và kịp thời thì công tác BHLĐ mới được tôn trọng và có hiệu quả thiết thực.
Trong quá trình lao động có nhiều nguyên nhân làm cho người lao động có thể bị tai nạn như bị chấn thương, dập thương, ngạt, ngất làm cho người lao động có thể bị hủy hoại một hoặc nhiều bộ phận của cơ thể, làm mất khả năng lao động tạm thời có khi vĩnh viễn. Để bảo vệ thân thể, tính mạng người lao động trong quá trình lao động Quốc hội nước ta đã thông qua Bộ luật lao động ngày 23/06/1994 và Chủ tịch hội đồng nhà nước đã ban hành "Pháp lệnh về bảo hộ lao động" ngày 10/09/1991. Trong điều 7 của Bộ luật lao động nêu: " Người lao động được bảo hộ lao động, làm việc trong những điều kiện bảo đảm về an toàn lao động, vệ sinh lao động ...". Điều 3 của Pháp lệnh Bảo hộ lao động nêu: " Mọi người lao động có quyền được bảo đảm điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh và có nghĩa vụ thực hiện những qui định về an toàn lao động, vệ sinh lao động ". Điều 4 của pháp lệnh nêu: "Người sử dụng lao động có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh và không ngừng cải thiện điều kiện lao động của người lao động".
Như vậy nhà nước ta đã qui định những nguyên tắc, những nội dung cơ bản của công tác bảo hộ lao động thành pháp luật buộc các ngành, các cấp, mọi người sử dụng lao động phải thi hành triệt để. Như vậy công tác Bảo hộ lao động mang tính chất pháp lệnh, nghĩa là bắt buộc mọi người, mọi đối tượng phải thực hiện để bảo vệ thân thể, tính mạng người lao động.
Ngoài những điều quan trọng được ghi trong Hiến pháp (điều 58 và điều 100) nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong luật lao động, trong pháp lệnh bảo hộ lao động còn có nhiều văn bản qui phạm, qui trình, qui tắc khác (các thông tư, thông tri, nghị định, chỉ thị ...). Những văn bản này đều là những văn bản pháp qui, bắt buộc phải thực hiện. Tất nhiên việc qui định các điều trong các văn bản pháp qui phải xuất phát phù hợp với khả năng thực tế để có khả năng thực hiện được.
Cùng với việc xây dựng, ban hành luật lệ bảo hộ lao động, nhà nước ta còn qui định chế độ kiểm tra, giám sát. Bộ Lao động - Thương binh xã hội và các cơ quan quản lý nhà nước về lao động - thương binh xã hội ở các địa phương thực hiện chức năng thanh tra Nhà nước về an toàn lao động. Bộ Y tế và các cơ quan quản lý nhà nước về y tế ở các địa phương thực hiện chức năng thanh tra Nhà nước về vệ sinh lao động.
Ngoài việc kiểm tra của các cơ quan chính quyền, còn có sự giám sát của đông đảo quần chúng lao động, của các tổ chức công đoàn đã kịp thời ngăn chặn mọi hiện tượng vi phạm luật lệ.
b- Tính khoa học và kỹ thuật:
Một trong những nguyên nhân căn bản gây ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là phải lao động trong những điều kiện các yêu cầu khoa học kỹ thuật không được đảm bảo (như thiết bị không đạt yêu cầu cơ học, sức bền, những hệ thống bảo hiểm không đạt qui cách v.v...) và trong những điều kiện vệ sinh nơi làm việc không đảm bảo (như quá nóng, quá lạnh, thiếu dưỡng khí, thiếu ánh sáng v.v..).
Muốn bảo hộ lao động, sản xuất được an toàn thì phải cải tiến thiết bị, máy móc công cụ, phương pháp sản xuất. Việc cải tiến, áp dụng thành tựu khoa học mới, cơ khí hoá, tự động hoá các quá trình lao động là công trình nghiên cứu tinh vi về khoa học và kĩ thuật, là quá trình nghiên cứu, lao động để chinh phục và cải tạo thiên nhiên.
Một loạt nguyên nhân căn bản gây ra tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp nữa là do thiếu hiểu biết về khoa học (như bố trí nơi làm việc tồi tàn, kém về mặt thẩm mỹ làm cho người lao động buồn chán và do vậy không thích thú khi làm việc, dễ chểnh mảng dẫn đến dễ bị tai nạn lao động).
Như vậy để lao động được an toàn, không bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp thì phải thực hiện rất nhiều biện pháp khoa học và kỹ thuật, và phải có đầy đủ các kiến thức về tâm lý lao động, thẩm mỹ công nghiệp, xã hội học lao động.
Công tác bảo hộ lao đông là một công tác khoa học và kỹ thuật đòi hỏi phải có tổ chức, có cán bộ chuyên trách đi sâu, nghiên cứu, hướng dẫn, đòi hỏi phải không ngừng nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho người lao động.
Nói BHLĐ mang tính khoa học kỹ thuật là vì mọi hoạt động của nó để loại trừ các yếu tố nguy hiểm và có hại, phòng chống tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đều xuất phát từ những cơ sở khoa học và bằng các biện pháp khoa học kỹ thuật. Từ các hoạt động điều tra, khảo sát, phân tích điều kiện lao động, đánh giá ảnh hưởng các yếu tố nguy hiểm và có hại cho con người cho đến các giải pháp xử lý ô nhiễm, các giải pháp đảm bảo an toàn,vệ sinh... đều là những hoạt động khoa học sử dụng các dụng cụ, phương tiện khoa học và do các cán bộ KHKT thực hiện.
Cần chống khuynh hướng làm công tác bảo hộ lao đông chỉ chú ý đến mặt thực hiện chế độ chính sách như chế độ trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân, bồi dưỡng hiện vật v.v... mà không chú ý đầy đủ đến vấn đề cơ bản là cải tiến thiết bị, công cụ, phương pháp sản xuất.
c- Tính quần chúng rộng rãi:
Công tác bảo hộ lao động là công tác quần chúng. Bảo hộ lao động có liên quan đến tất cả mọi người tham gia lao động, sản xuất. Bảo hộ lao động là quyền lợi của mọi người lao động cũng như là nghĩa vụ của từng người lao động. Bởi vì nếu các điều kiện để sản xuất an toàn đã được đảm bảo nhưng người lao động thiếu ý thức chấp hành, làm bừa, làm ẩu thì cũng có thể xảy ra tai nạn lao động. Vậy muốn làm tốt công tác bảo hộ lao động thì phải phổ biến kiến thức, phải giáo dục vận động mọi người tự chấp hành nghiêm chỉnh và cũng nhắc nhở, giám sát người khác thực hiện, phải tổ chức cho người lao động được tham gia ý kiến rộng rãi và thường xuyên về các vấn đề cải thiện thiết bị, máy móc, phương pháp làm việc và điều kiện làm việc.
Tất cả mọi người từ người sử dụng lao động đến người lao động đều là đối tượng cần được bảo vệ, đồng thời họ cũng là chủ thể phải tham gia vào việc bảo vệ người khác.
Mọi hoạt đồng của công tác bảo hộ lao động chỉ có kết quả khi các cấp quản lý, mọi người sử dụng lao động, cùng đông đảo cán bộ KHKT và người lao động tự giác và tích cực tham gia thực hiện các luật lệ, chế độ, tiêu chuẩn và các biện pháp để cải thiện điều kiện làm việc._., phòng chống tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. BHLĐ là hoạt động hướng về cơ sở và vì con người, trước hết là người lao động.
III. Nội dung của công tác BHLĐ :
Công tác BHLĐ có nội dung chủ yếu là công tác an toàn- vệ sinh lao động, các hoạt động đồng bộ trên các mặt luật pháp, tổ chức hành chính, kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật nhằm cải thiện điều kiện lao động, ngăn ngừa tai nạn lao động, giảm tỷ lệ mắc BNN bảo đảm an toàn, bảo vệ sức khoẻ người lao động.
Nội dung công tác bảo hộ lao động nêu ở đây là về các phạm vi nghiên cứu, các lĩnh vực chủ yếu phải giải quyết. Có thể chia thành 3 nội dung lớn là: Kỹ thuật an toàn, vệ sinh lao động, luật lệ bảo hộ lao động.
Những nội dung này có liên quan chặt chẽ với nhau và hỗ trợ cho nhau làm cho công tác bảo hộ lao động được hoàn thiện.
III.1. Nội dung kỹ thuật an toàn:
Trong khi lao động sản xuất luôn luôn phát sinh các yếu tố nguy hiểm dẫn đến thiếu an toàn gây nên tai nạn lao động. Tai nạn lao động xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể do máy móc, thiết bị, do điện, do các chất hoá học v.v...Do đó, biện pháp khắc phục rất đa dạng, phức tạp. Nghiên cứu mọi khả năng gây ra tai nạn và tìm biện pháp kỹ thuật nhằm hạn chế và loại trừ những khả năng trên, đó là nhiệm vụ của kỹ thuật an toàn. Đây là một nội dung chủ yếu của công tác bảo hộ lao động. Nội dung này rất phong phú, phức tạp, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc và song song với việc nghiên cứu kỹ thuật sản xuất, phương pháp sản xuất. Cụ thể nội dung kỹ thuật an toàn là:
Nghiên cứu và đưa vào sử dụng các thiết bị an toàn như: Thiết bị che chắn, thiết bị phòng tai nạn điện, tín hiệu v.v...
Nghiên cứu cải tiến phương pháp sản xuất cơ khí hoá, tự động hoá các quá trình sản xuất nặng nhọc và nguy hiểm.
Nghiên cứu chế độ kiểm tra, nghiệm thu và sửa chữa máy móc,thiết bị.
Nghiên cứu xây dựng qui tắc an toàn, qui trình vận hành, bảo quản cho từng loại máy, từng loại lao động và việc tổ chức huấn luyện cho người lao động.
III.2. Nội dung vệ sinh lao động:
Trong sản xuất ngoài những yếu tố nguy hiểm gây ra tai nạn lao động còn có các yếu tố độc hại gây nên bệnh nghề nghiệp làm tổn hại sức khoẻ người lao động. Do phải tiếp xúc với các chất độc kỹ nghệ hoặc các chất độc dễ bị nhiễm trùng, do công việc quá nặng nhọc hoặc công việc đòi hỏi những tư thế gò bó bắt buộc không phù hợp với sự phát triển của cơ thể ( như cúi lom khom, đứng quá lâu, v.v...), do làm việc ở những nơi mà điều kiện vật lý không bình thường (quá nóng, quá lạnh, áp suất cao, v.v...) làm cho sức khoẻ bị tổn hại dần dần có thể dẫn đến bị bệnh nghề nghiệp. Nghiên cứu những nhân tố phát sinh ra bệnh nghề nghiệp và tìm biện pháp để hạn chế và loại trừ nó là nhiệm vụ của vệ sinh lao động. Đó cũng là một nội dung nghiên cứu khoa học có liên quan tới kỹ thuật an toàn và kỹ thuật sản xuất.
Nội dung chủ yếu của vệ sinh lao động gồm những vấn đề sau đây:
Nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn vệ sinh trong lao động bảo đảm vệ sinh an toàn trong khi sản xuất.
Nghiên cứu qui định các chế độ làm việc, nghỉ ngơi bồi dưỡng, khám sức khoẻ v.v... để phù hợp với những ngành nghề nặng nhọc,độc hại gây tổn hại nhiều tới sức khoẻ người lao động.
Nghiên cứu các biện pháp bao che, cách ly các nguồn phát sinh ra các chất độc, bụi, nóng, tiếng ồn, rung, v.v...
Nghiên cứu các biện pháp thông gió tự nhiên hoặc nhân tạo làm cho không khí được lưu thông và trong sạch.
Nghiên cứu các biện pháp chiếu sáng tự nhiên và nhân tạo để nơi làm việc có đầy đủ ánh sáng.
Nghiên cứu chế tạo và sử dụng các dụng cụ phòng hộ cá nhân.
Nghiên cứu các biện pháp vệ sinh cá nhân.
III.3. Nội dung luật lệ bảo hộ lao động:
Luật lệ bảo hộ lao động là những quy định cụ thể để thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đồng thời còn là cơ sở pháp lý để bảo đảm an toàn lao động trong lao động sản xuất. Luật lệ bảo hộ lao động xây dựng lên phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế, trình độ khoa học kỹ thuật thực tế của từng thời kỳ và cần căn cứ vào yêu cầu của quần chúng. Vì vậy luật lệ không thể hoàn chỉnh được một lần, một thời điểm mà phải được sửa đổi, bổ xung dần cho thích hợp với từng giai đoạn.
Những nội dung chính của công tác luật lệ bảo hộ lao động là:
Quy định giờ làm việc, giờ nghỉ, ngày nghỉ, v.v...để đảm bảo sản xuất và bảo đảm sức khoẻ lâu dài cho người lao động và cũng tạo điều kiện cho người lao động có điều kiện tham gia các sinh hoạt chính trị, văn hoá, xã hội.
Quy định việc theo dõi và chăm sóc sức khoẻ của người lao động như khám tuyển trước khi nhận vào làm việc, khám định kỳ nhằm sử dụng lao động hợp lý và kịp thời phát hiện các triệu chứng bệnh nghề nghiệp để có biện pháp đề phòng hoặc điều trị.
Quy định các chế độ đối với lao động nữ, các chế độ bồi dưỡng sức khoẻ cho người lao động ở những nơi phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại (như những nơi quá nóng, quá lạnh, có chất độc hại, có áp lực cao, v.v...) hoặc phải làm đêm, làm thêm giờ.
Quy định những tiêu chuẩn về kỹ thuật an toàn, vệ sinh lao động, trang bị phòng hộ cho từng ngành nghề, từng loại công việc để tránh tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
v.v...
Phần ii: Thực trạng công tác BHLĐ
tại công ty cơ khí và xây lắp số 7 (coma 7)
Chương I
Khái quát chung về doanh nghiệp
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 ( comma 7 ) :
Công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 (tên giao dịch quốc tế là Construction Machinery Company No 7 - COMA7) với diện tích 46.200 m2 có địa điểm đặt tại Km 14 - Quốc lộ 1A - Thanh Trì - Hà Nội là một trong số 23 thành viên của Tổng Công ty cơ khí xây dựng thuộc Bộ Xây dựng. Ra đời và hoạt động sau nhiều năm, Công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 đã từng bước khẳng định vị thế vững chắc của mình trong ngành Cơ khí xây dựng. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty có thể được khái quát như sau:
Trước tháng 12 năm 1986:
Nhà máy cơ khí xây dựng Liên Ninh ( nay là Công ty cơ khí và xây lắp số 7) được thành lập ngày 01/08/1966 theo quyết định của Bộ Kiến trúc với cơ sở ban đầu là một phân xưởng Nguội tách ra từ Nhà máy cơ khí kiến trúc Gia Lâm.
Thời gian đầu số cán bộ, công nhân viên có khoảng trên 60 người, trang thiết bị máy móc còn rất ít và lạc hậu, phần lớn là sản xuất thủ công.
Trong giai đoạn này, nền kinh tế của nước ta quản lý theo cơ chế tập trung, bao cấp. Do vậy, đầu vào cũng như đầu ra của Nhà máy do Liên hiệp các Xí nghiệp Cơ khí Xây dựng (nay là Tổng công ty Cơ khí Xây dựng) bao tiêu.
Với những sản phẩm cơ khí chủ yếu là thiết bị, máy móc phục vụ cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng như máy làm gạch, ngói, bi đạn,... Nhà máy đã cung cấp cho phần lớn các đơn vị sản xuất gạch, ngói, xi măng... khu vực miền Bắc thời kỳ đó.
Sản xuất phát triển, số lượng công nhân cũng tăng dần theo thời gian, có thời điểm lên tới hơn 500 lao động (1977- 1978).
Sau tháng 12 năm 1986
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12 năm 1986) đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, tạo lên sự chuyển biến lớn về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội... Đất nước ta bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Nhà máy cơ khí xây dựng Liên Ninh cũng như các doanh nghiệp khác đứng trước thời cơ mới, thách thức mới. Yêu cầu của cơ chế quản lý đòi hỏi Nhà máy phải có sự chuyển đổi phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường.
Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn như trang thiết bị, máy móc quá cũ và lạc hậu, đội ngũ cán bộ quản lý chưa kịp thích ứng với cơ chế thị trường, sản phẩm không còn được bao tiêu như trước,...nhưng với quyết tâm đưa đơn vị đi lên của tập thể cán bộ, công nhân viên và ban lãnh đạo, nhà máy đã dần tìm được chỗ đứng trên thị trường. Sản phẩm được khách hàng tín nhiệm và đánh giá cao.
Ngày 02/01/1996 nhà máy cơ khí xây dựng Liên Ninh được đổi tên thành công ty cơ khí xây dựng Liên Ninh theo quyết định số 06/ BXD của Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Ngành nghề kinh doanh của Công ty chủ yếu vẫn là:
Sản xuất thiết bị máy móc cho ngành xây dựng, vật liệu xây dựng và công trình đô thị.
Chế tạo sản phẩm kết cấu thép, thiết bị phi tiêu chuẩn.
Sản xuất phụ tùng, phụ kiện bằng kim loại.
Sản xuất vật liệu xây dựng.
Kinh doanh vật liệu xây dựng.
v.v...
Với những mặt hàng là sản phẩm cơ khí truyền thống, Công ty đã cung cấp một khối lượng lớn bi đạn, gầu tải, băng tải... đặc biệt là kết cấu thép phi tiêu chuẩn cho các đơn vị trong và ngoài ngành. Tiêu biểu như:
Tham gia dựng cột đường dây tải điện 500 KV Bắc - Nam (1993).
Cung cấp sản phẩm thép kết cấu cho Nhà máy xi măng Bút Sơn (1996) với tổng khối lượng hơn 1000 tấn, đạt doanh thu 3,5 tỷ đồng.
Cung cấp bi cầu thép hợp kim, đạn thép hợp kim, phụ tùng thép hợp kim như ghi lò, tấm lót,... cho các Nhà máy xi măng Nghi Sơn, Hoàng Thạch (1997), Bỉm Sơn (1998) với tổng khối lượng từ 1000 đến 2000 tấn, đạt doanh thu 2,5 tỷ đồng.
Cung cấp kết cấu thép phi tiêu chuẩn cho nhà máy bia Tiger - Hà Tây, Công ty kính nổi Đáp Cầu VFG (1998-1999) với tổng khối lượng khoảng 1000 tấn, đạt doanh thu 1,3 tỷ đồng.
Cung cấp kết cấu thép cho Xưởng chế tạo vỏ nhôm - Nhà máy đóng tầu Sông Cấm (2000-2001), tổng khối lượng 1200 tấn doanh thu 1,2 tỷ đồng.
Dựng cột truyền hình Buôn Mê Thuột do đài truyền hình Việt Nam đặt (tháng 4 năm 2001), tổng khối lượng 1800 tấn, doanh thu khoảng 2 tỷ đồng.
Ngoài ra, Công ty cũng đi sâu nghiên cứu sản xuất và cung cấp các phụ tùng thay thế cho các thiết bị làm gạch lò tuy-nen nhập ngoại cho các xí nghiệp gạch trung ương và địa phương.
Bằng sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết của tập thể cán bộ, công nhân viên, năm 1999 và 2000, Công ty đã thu được các kết quả sản xuất kinh doanh sau đây:
Tổng doanh thu năm 1999 đạt 16,3 tỷ đồng, năm 2000 đạt 18,2 tỷ đồng.
Tổng các khoản nộp ngân sách năm 1999 là 125 triệu đồng, năm 2000 là 218 triệu đồng.
Thu nhập bình quân của người lao động năm 1999 là 650.000đ/người/ tháng, năm 2000 là 720.000đ/ người/ tháng.
Năng suất lao động bình quân một công nhân viên chức(CNVC) tính theo doanh thu năm 1999 đạt 4.370.000đ/người/năm, năm 2000 đạt 5.748.000đ/ người/năm.
Ngày 01/11/2000 theo quyết định số 1567/ BXD của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, công ty Cơ khí Xây dựng Liên Ninh một lần nữa lại được đổi tên thành Công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 có bổ xung thêm một số ngành nghề kinh doanh. Cụ thể là:
Thi công lắp đặt các thiết bị cho ngành xây dựng và các ngành kinh tế kỹ thuật khác trong và ngoài nước.
Thi công xây dựng công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông (cầu, đường) thuỷ lợi, công trình hạ tầng đô thị và khu công nghiệp, công trình đường dây điện, trạm biến thế điện, điện lạnh, hệ thống kỹ thuật cơ điện công trình.
Gia công lắp đặt khung nhôm kính, lắp đặt thiết bị, lập dự án đầu tư, thiết kế công trình xây dựng.
Tư vấn xây dựng công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị, khu công nghiệp.
Kinh doanh phát triển nhà và công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị.
Xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ, xuất khẩu lao động và chuyên gia kỹ thuật.
Sản xuất và kinh doanh vật tư thiết bị và vật liệu xây dựng.
.v.v...
II. Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
II.1. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2002
Năm 2002 là năm có nhiều khó khăn trở ngại do phải cạnh tranh quyết liệt trên thương trường, là năm nhu cầu về vốn để đáp ứng việc áp dụng công nghệ mới, đầu tư phát triển, chăm lo mọi mặt đời sống CBCNV, các quan hệ giao dịch, tham gia phát triển kinh tế trên địa bàn,... là rất lớn và bức xúc nhiều khi tưởng chừng không thể vượt qua nổi, nhưng đồng thời cũng là năm thứ hai của thiên niên kỷ mới, năm đánh dấu nền kinh tế đất nước nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 nói riêng có nhiều phát triển lớn mạnh. Trên cơ sở những định hướng đúng đắn của ban chấp hành Đảng uỷ Công ty nhiệm kỳ lần thứ XVIII, Nghị quyết Đại hội CNVC năm 2002 và đặc biệt là sự chỉ đạo của Tổng Công ty Cơ khí Xây dựng, Công ty đã tiếp tục thực hiện tốt mô hình cơ cấu tổ chức mới thực hiện từ năm 2001.
Các đơn vị thành viên của Công ty (Xí nghiệp, Đội công trình trực thuộc) đã có nhiều cố gắng, chủ động tìm việc làm và hạch toán kinh tế theo đúng quy chế tài chính của Công ty phù hợp với quy định của Nhà nước.
Cả năm 2002, 100% CBCNVC - lao động trong Công ty có đủ việc làm, thu nhập ổn định, nhận lương đúng kỳ hạn.
Năm 2002 là năm Công ty đã thể hiện quyết tâm cao trong mở rộng đa dạng hơn ngành sản phẩm. Đã mở rộng thị trường và tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh sang nhiều lĩnh vực kinh tế. Công ty đã tham gia dự thầu và nhận thầu thi công nhiều công trình như: kết cấu thép nhà máy xi măng Bỉm Sơn, nhiệt điện Phả Lại, lọc bụi Thổ Nhĩ Kỳ, chế tạo cơ khí trong nước và xuất khẩu sang Nhật (bích neo tầu), các hạng mục giàn không gian Trung tâm triển lãm Giảng Võ, triển lãm Vân Hồ, khu trung tâm thương mại Quy Nhơn,... Ngoài ra Công ty còn tham gia xây lắp các nhà xưởng sản xuất trong công nghiệp thực phẩm, nhà máy kính Thanh Trì; xây dựng các nhà điều hành sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp như: Chi nhánh điện Tĩnh Gia -Thanh Hoá, nhà truyền thống huyện Thanh Trì -Hà Nội, nhà điều dưỡng phục hồi chức năng lao động - Công ty Điện lực I-Sầm Sơn - Thanh Hoá, khu hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây; xây dựng các đường giao thông nông thôn các tỉnh phía Bắc như: đường Phù Lưu - Tuyên Quang; xây dựng các cầu giao thông các tỉnh miền Trung như cầu Đồng Điềm - Hà Tĩnh; xây lắp các đường điện trung hạ thế của dự án năng lượng nông thôn: Yên Bái, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Thái Bình, Thanh Hoá.
Với những cố gắng, nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên chức trong năm 2002 Công ty đã đạt được những chỉ tiêu chính như sau: ( Bảng 1)
Bảng 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2002
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị
Thực hiện năm 2001
Thực hiện năm 2002
% năm 2002 so với năm 2001
1
Giá trị sản lượng
Triệu đồng
30.950
52.780
171
2
Doanh thu
Triệu đồng
32.334
50.267
155
3
Tổng khối lượng
Tấn
2.340
2.450
105
4
Nộp ngân sách
Triệu đồng
233
422,8
181
5
Lợi nhuận
Triệu đồng
200
450
225
6
Lao động
Người
380
506
133
7
Thu nhập bình quân
Nghìn đồng
800
880
110
II.2. Công tác đầu tư để phát triển năng lực:
Để mở rộng thị trường, tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trong nhiều lĩnh vực thì phải trang bị cho mình đủ năng lực vì vậy năm 2002 Công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 đã chú trọng công tác đầu tư. Để sản xuất kinh doanh hàng hoá, Công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 đã đầu tư dây truyền sơn tĩnh điện và trang trí vân gỗ, vân đá trên nhôm với giá trị 25 tỷ đồng. Đây là mặt hàng mới nhất và cũng là dây truyền đầu tiên có ở Việt Nam. Đây cũng là mũi nhọn sản xuất hàng hoá của Công ty trong những năm tới. Hiện nay dây truyền hoạt động ổn định, chất lượng đạt tiêu chuẩn.
Đặc biệt để nâng cao tiềm lực sản xuất và tiếp thị, Công ty đã mạnh dạn đầu tư xây dựng Nhà điều hành sản xuất kinh doanh và cho thuê COMA 7, tạo điều kiện cho Công ty có trụ sở làm việc đồng thời mở đầu cho việc đi sâu vào lĩnh vực kinh doanh cho thuê văn phòng làm việc. Hiện tại về cơ bản Nhà điều hành này đã được đưa vào sử dụng.
Công ty đã được Tổng công ty điều động các thiết bị thuê mua tài chính như cổng trục 32/5 tấn (móc chính 32 tấn, móc phụ 5 tấn); Ccông ty đã mạnh dạn đầu tư các máy tiện hiện đại điều khiển tự động (CNC), máy phay toạ độ (CNC) và các loại máy tiện ren vít nằm ngang hiện đại khác. Tạo một bước đột phá mới cho Xí nghiệp Cơ khí và Cơ điện công trình trong lĩnh vực chế tạo các mặt hàng cơ khí nhất là việc gia công đạt chất lượng cao quả cầu giàn không gian.
Để nâng cao năng lực trong xây lắp, Công ty cũng đầu tư xây dựng trạm trộn bê tông 60m3/ h, xe chở bê tông thương phẩm, v.v...
Đầu tư về con người đã được Công ty chú trọng, đặc biệt trong năm 2002 đã tuyển thêm 23 kỹ sư xây dựng, kỹ sư cầu đường, kỹ sư cơ khí, cử nhân kinh tế, 77 công nhân lành nghề, đã nâng cao tay nghề cho 47 công nhân các nghề. Một số công nhân có tay nghề cao, đạo đức tốt đã được cử đi học đại học tại chức.
Trong thời gian tới phát huy những kết quả đã đạt được trong hoạt động sản xuất kinh doanh và công tác đầu tư, Công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 tiếp tục thực hiện những định hướng chiến lược mà lãnh đạo Tổng Công ty Cơ khí Xây dựng đã vạch ra, góp phần vào thành công chung của Tổng Công ty Cơ khí Xây dựng, đưa Công ty COMA 7 ngày càng phát triển mạnh mẽ.
iii. cơ cấu Tổ CHứC CủA CÔNG TY COMA 7:
Hiện nay tổng số cán bộ, công nhân viên toàn Công ty trong biên chế là 506 người. Trong đó có 398 nam, 108 nữ, hợp đồng theo thời vụ 169 người, tổng số kỹ sư và cử nhân trong toàn Công ty là 82 người. Cơ cấu tổ chức lao động sản xuất của Công ty COMA 7 bao gồm khối phòng ban và khối sản xuất:
Khối phòng ban nghiệp vụ bao gồm phòng kế hoạch, phòng kỹ thuật, phòng cung tiêu, phòng tài chính kế toán, phòng tổ chức lao động tiền lương, phòng tổ chức hành chính và phòng bảo vệ.
Khối sản xuất có các xí nghiệp và các đội sản xuất trực thuộc: Xí nghiệp Đúc và kinh doanh vật tư thiết bị, Xí nghiệp Cơ khí và cơ điện công trình, Xí nghiệp chế tạo Kết cấu thép và Xây lắp, Xí nghiệp Xây dựng và trang trí nội thất, Xí nghiệp Xây dựng và trang trí trên nhôm, Đội Xây lắp và chế tạo Kết cấu thép số 1, Đội Xây dựng số 2, Đội kinh doanh vật tư thiết bị...
iv. mặt bằng nhà xưởng:
Công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 nằm trên khu đất rộng 46.200 m2.
Trong đó: Diện tích xây dựng nhà xưởng là 4.942 m2, diện tích nhà kho là 864 m2, đường bê tông công nghiệp 323 m2, nhà hành chính 120 m2, sân bê tông 2.044 m2, hồ nước rộng 5.760 m2.
Toàn bộ mặt bằng trong các xí nghiệp, xưởng được bê tông hoá dày 20cm.
Trong khuôn viên Công ty tất cả những khoảng đất trống xung quanh nhà xưởng đều được trồng cây xanh và vườn hoa để cải thiện môi trường đảm bảo “ xanh - sạch - đẹp”.
Trong khuôn viên Công ty được đầu tư xây dựng sân quần vợt, sân bóng chuyền và một số sân cầu lông trị giá 100 triệu đồng để phục vụ CBCNV- lao động hoạt động thể thao, rèn luyện sức khoẻ sau giờ làm việc.
Công ty có nhà ăn ca khang trang, sạch sẽ để phục vụ cán bộ, công nhân viên (CBCNV).
Thường xuyên đôn đốc (có thưởng phạt) việc quy hoạch sắp xếp hợp lý, gọn gàng mặt bằng sản xuất nhà xưởng; chú trọng công tác vệ sinh công nghiệp.
Hệ thống đèn chiếu sáng nhà xưởng, đèn chiếu sáng cục bộ cho từng vị trí làm việc, từng máy công cụ được quan tâm đảm bảo đủ ánh sáng cho công nhân làm việc.
Công ty đầu tư xây dựng lại hệ thống thoát nước (cống rãnh, mương tiêu chảy) trị giá 200 triệu đồng để giảm thiểu ô nhiễm môi trường lao động và môi trường Khu tập thể của CBCNV - lao động Công ty.
v. trang thiết bị, dây truyền công nghệ và quy trình sản xuất của công ty coma 7:
V.1. Những máy móc, thiết bị chủ yếu của công ty COMA 7:
Các máy móc, thiết bị của công ty được trang bị chủ yếu là do Liên Xô cũ giúp đỡ, sản xuất trước năm 70. Hiện nay các thiết bị này vẫn đang hoạt động, giá trị sử dụng vẫn còn 50-60%. Ngoài ra công ty cũng trang bị thêm các thiết bị hiện đại như cầu trục 5 tấn., máy cắt plasma, máy hàn TIG, thiết bị dây truyền sơn sản phẩm v.v...
Trang thiết bị chính của công ty như sau:
- Máy công cụ: 25 máy tiện các loại; 14 máy phay, bào, doa các loại; 7 máy khoan các loại; 12 máy mài các loại
- Trang thiết bị gia công nóng: Lò nấu thép bằng dòng điện hồ quang, công suất 1,5 tấn/mẻ; lò nấu thép bằng dòng trung tần, công suất 500 kg/nồi; 5 máy làm khuôn bằng khí nén; 2 máy quay sạch vật đúc; 2 máy trộn cát; máy nén khí 2 cái; 2 lò rèn thủ công; 2 lò tôi, ram phản xạ...
- Trang thiết bị sản xuất kết cấu thép: 2 máy lốc tôn, 14 máy hàn cắt, 1 máy hàn tự động, v.v...
- Ngoài ra công ty còn có các thiết bị khác như dùng để nâng các vật nặng có: 5 cẩu trục 5 tấn, 1 cổng trục 10 tấn và 1 cổng trục 32/5 tấn, các xe chuyên dụng để di chuyển các vật nặng mà không dùng cẩu trục được, v.v...
V.2. Mô tả sơ lược về qui trình sản xuất:
Nhiệm vụ chính của công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 là chế tạo và lắp đặt các thiết bị xây dựng cho các doanh nghiệp, công ty của trung ương, địa phương và các thành phần kinh tế khác. Ngoài ra, công ty còn nhận sửa chữa các phụ tùng và sản xuất vật liệu theo đơn đặt hàng.
a) Sản xuất các thiết bị vật liệu xây dựng (VLXD):
Các công đoạn chính của quá trình sản xuất thiết bị VLXD như sau:
Nguyên liệu được tạo phôi sản phẩm tại các phân xưởng: cơ khí, đúc, rèn.
Phân xưởng kết cấu thép, cơ khí sử dụng các phôi rèn, phôi đúc...để gia công thành các chi tiết cơ khí, kết cấu khung bệ của các bộ phận máy móc.
Phân xưởng đưa vào lắp ráp hoàn thiện thiết bị.
Kiểm tra sản phẩm, sửa chỉnh, làm sạch, sơn thiết bị, xuất xưởng.
b) Các nguyên công chính trong qua trình sản xuất thép đúc:
Nguyên liệu nấu thép là sắt thép thu gom, gang phế thải, gang thỏi,v.v... được đập nhỏ rồi đưa vào lò nấu hồ quang hoặc lò trung tần nấu chảy thành nước thép lỏng. Sau đó nước thép lỏng được rót vào khuôn đúc để tạo thành sản phẩm.
c) Qui trình sản xuất kết cấu thép:
Nguyên liệu chính là các loại thép hình, tôn được pha trên các máy cưa đột liên hợp, sau khi cắt được đưa sang uốn, khoan lỗ, đột trên máy uốn máy khoan. Các chi tiết dạng thanh tấm được hàn bằng máy hàn một chiều, máy hàn tự động,... tạo thành các khung giàn kết cấu máy. Khung giàn kết cấu máy được đưa sang phân xưởng lắp ráp để tổ hợp và sơn.
chương II
những nội dung về kỹ thuật an toàn
i. Kỹ thuật an toàn điện tại nơi sản xuất:
I.1. Những nguyên nhân chủ yếu gây ra tai nạn về điện:
Những tác dụng của dòng điện nên cơ thể con người dù là kích thích hay gây chấn thương thì đều rất nguy hiểm và đáng sợ. Trong lao động sản xuất con người thường xuyên phải dùng các máy móc, thiết bị có sử dụng đến điện. Do vậy, nguy cơ xảy ra tai nạn về điện có thể xảy ra bất cứ lúc nào nếu người lao động lơ là, không cảnh giác, làm việc không cẩn thận để chạm phải dây điện trần hoặc chạm phải các thiết bị bị rò điện ra vỏ,... từ đó có thể xảy ra tai nạn về điện.
Các nguyên nhân chủ yếu gây ra tai nạn điện trong lao động sản xuất là:
Lớp bọc cách điện dây dẫn, các bộ phận mang điện bị hư hỏng hoặc không đảm bảo yêu cầu cách điện.
Việc che chắn, bao che các bộ phận mang điện không được thực hiện theo quy định (ví dụ: thiếu nắp cầu dao, cầu chì v.v...).
Vi phạm hành lang an toàn lưới điện, đặc biệt là điện cao thế.
Không thực hiện nối đất, nối không bảo vệ hoặc có nhưng không đạt yêu cầu kỹ thuật (dây nối không, nối đất quá lớn).
Không thực hiện đúng các quy trình, quy phạm an toàn khi vận hành máy có động cơ điện, khi sửa chữa điện.
Người lao động không được hướng dẫn kỹ thuật an toàn điện.
Làm vệc khi chưa đủ các điều kiện an toàn, các hư hỏng về điện không được sửa chữa kịp thời.
Thiếu các biển báo an toàn điện.
Không sử dụng hoặc sử dụng các PTBVCN, dụng cụ cần tay không đạt yêu cầu chất lượng.
I.2. Thực trạng an toàn điện tại công ty COMA 7:
Nhìn chung, công tác kỹ thuật an toàn điện tại công ty tương đối tốt. Các dây dẫn điện trên không đều được nối đất chống sét có hiệu quả, các cáp ngầm được sử dụng đúng tiêu chuẩn và chôn đúng qui cách. Tại các tủ điện tổng, tủ điện trung tâm ở các tổ, phân xưởng đều có lắp đặt các thiết bị điều khiển, cơ cấu an toàn như: cầu dao, cầu chì, rơle, aptomát v.v... để đóng ngắt và bảo vệ các thiết bị điện khi có sự cố về điện xảy ra. Các thiết bị này được kiểm tra thường xuyên. Riêng đối với công nhân điện và công nhân vận hành máy thường xuyên tiếp xúc với điện, ngoài những kiến thức về an toàn điện mà đã được học như những công nhân khác thì khi cần thiết những công nhân này còn được trang bị các phương tiện bảo vệ như: sào cách điện, bút thử điện, găng tay, ủng cách điện, kìm cách điện, dây an toàn...
Để đảm bảo an toàn cho hệ thống chống sét và đảm bảo cho các dây trung tính có điện trở đủ để bảo vệ an toàn cho thiết bị, hàng năm công ty đã mời trung tâm kiểm định kỹ thuật an toàn của bộ xây dựng về kiểm định các thiết bị này. Theo báo cáo kết quả kiểm định năm 2001 về bảo vệ nối dây trung tính (bảo vệ nối không), kết quả kiểm tra 92 thiết bị điện của 3 xí nghiệp (tủ điện, tủ điều khiển, cầu dao, các máy công cụ...) cho thấy công ty đã thực hiện sơ đồ nối không theo TCVN 4756-89 (có danh sách thiết bị kèm theo), các trị số đo đều đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.
Để đảm bảo công tác an toàn điện hàng năm công ty tổ chức tập huấn an toàn điện, các biện pháp sơ cứu cấp cứu, để tránh xảy ra các tai nạn đáng tiếc về điện.
Các qui tắc an toàn lao động cho thợ điện đều được đưa vào trong chương trình tập huấn.
Việc đấu tắt điện trong xí nghiệp tuân thủ các qui phạm an toàn lao động QPVN 13-87 và tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 4756-89.
Các cầu dao điện được lắp chắc chắn tại các vị trí thuận lợi đảm bảo cho thao tác của công nhân, phần lớn có lắp đậy hoặc bao che bảo vệ, các đầu dây ra và vào cầu dao đều được bắt bằng đai ốc, không đấu kiểu xoắn đầu dây vào bu lông, dây chảy cầu chì đúng các thông số kỹ thuật. Những nơi có nhiều cầu dao thì được đặt cách nhau đều được ghi rõ tên từng cầu dao cho từng thiết bị tương ứng.
Tất cả các máy đều đã được nối đất hoặc nối không, các mối nối dây điện được bọc cách điện đảm bảo an toàn.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đã trình bày ở trên, vấn đề an toàn về sử dụng điện tại công ty vẫn còn một số tồn tại sau đây:
Tại một số vị trí trong các nhà xưởng, các dây dẫn điện còn nằm loằng ngoằng trên mặt đất.
Một số đoạn dây dẫn đã cũ nên vỏ bọc cách điện bằng cao su của chúng đã bị ôxy hoá nên rất giòn làm xuất hiện vết nứt trên bề mặt. Đây là một trong những yếu tố có thể gây nguy hiểm cho công nhân vì không thể chắc chắn rằng điện không thể truyền qua các vết nứt của lớp vỏ bọc cách điện này.
Có một số cầu dao(11 cái), cầu chì (1 cái) không có lắp đậy.
Một số thiết bị không có phích cắm mà cắm trực tiếp bằng dây.
Biển báo nguy hiểm về điện quá mờ cần phải được thay thế.
Tuy đã được học an toàn lao động trước khi vào làm việc, thế nhưng việc tuân thủ các qui tắc an toàn của công nhân đôi khi vẫn còn bị lơ là, chủ quan. Mặc dù chưa có tai nạn về điện đáng tiếc xảy ra tại công ty, nhưng cần phải đề cao và thực hiện nghiêm ngặt các quy định an toàn về điện vì đã có trường hợp công nhân đấu nối điện cao áp mà không đóng cắt điện tổng, do là điện cao thế nên dẫn đến chập điện làm nổ 2 áptômát. May là các thiết bị bảo vệ đã tác động kịp thời cắt nguồn điện, nên tai nạn về điện không xảy ra, thế nhưng thiệt hại về kinh tế là không thể tránh khỏi.
I.3. Các biện pháp an toàn khi sử dụng điện:
I.3.1. Các biện pháp tổ chức:
- Yêu cầu đối với nhân viên phục vụ điện:
Những người từ 18 tuổi trở lên, đã qua kiểm tra sức khoẻ y tế mới được làm nhiệm vụ điện. Những người này phải có hiểu biết về kỹ thuật điện, hiểu rõ thiết bị, sơ đồ và những bộ phận có khả năng gây ra nguy hiểm, biết và có khả năng ứng dụng các quy phạm về kỹ thuật an toàn điện, biết cấp cứu người bị điện giật.
- Tổ chức làm việc:
Khi công nhân làm việc, sửa chữa điện phải có phiếu giao nhiệm vụ. Phải làm 2 phiếu giao nhiệm vụ, một bản lưu lại ở bộ phận giao việc, một bản giao cho tổ công nhân thi hành. Trước khi làm việc người chỉ huy phải hướng dẫn trực tiếp người thi hành về nơi làm việc, nội dung công việc, những chỗ có điện nguy hiểm, chỗ cần nối đất, chỗ cần che chắn v.v...Nếu có chỗ nào chưa hiểu thì người thi hành phải hỏi lại người chỉ huy ngay để được hiểu rõ, sau mới ký vào phiếu giao nhiệm vụ.
Trong quá trình làm việc bắt buộc mọi người phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn điện (như cấm uống rượu, bia trước và trong khi làm việc; khi có mưa giông, nước chảy thành dòng thì không được tiến hành bất kỳ công việc gì trên đường dây và trên thiết bị điện ngoài trời v.v...).
- Kiểm tra trong thời gian làm việc:
Tất cả các công việc cần tiếp xúc với mạng điện, cần trèo cao hoặc trong phòng kín cần có ít nhất hai người. Một người thực hiện công việc, một người theo dõi và kiểm tra. Thông thường người theo dõi là người lãnh đạo công việc. Tuy nhiên khi công việc quá phức tạp, cần có thợ bậc cao tiến hành thì chính người phụ trách đảm nhiệm công việc, còn việc theo dõi thì uỷ nhiệm cho ngưòi khác trong tổ. Trong thời gian làm việc, người theo dõi phải được giải phóng hoàn toàn khỏi công việc khác mà chỉ chuyên trách đảm bảo các nguyên tắc an toàn cho người thao tác (hoặc tổ thao tác).
I.3.2. Các biện pháp kỹ thuật::
- Đề phòng tiếp xúc với các bộ phận mang điện:
Cách điện là biện pháp an toàn quan trọng để bảo vệ không cho dòng điện rò ra vỏ máy gây nguy hiểm cho người sử dụng. Cách điện được đặc trưng bởi điện trở cách điện.Trước khi sử dụng thiết bị phải kiểm tra cách điện giữa các pha với nhau, giữa pha và vỏ. Nếu khi kiểm tra thấy điện trở cách điện nhỏ hơn trị số quy định thì tuyệt đối không được đóng điện để sử dụng mà phải sấy hoặc sửa chữa lại. ở những nơi có điện nguy hiểm, để đề phòng người tiếp xúc và điện phải có tấm rào chắn, rào che, biển báo ...
- Đề phòng điện rò ra các bộ phận bình thường không có điện:
Muốn đề phòng điện rò ra các bộ phận bình thường không có điện thì phải thực hiện nối đất, nối dây trung tính, nối đất lặp lại để bảo vệ.
+ Nối đất bảo vệ: Nối đất bảo vệ nhằm bảo vệ an toàn cho người khi chạm phải các thiết bị điên trong trường hợp cách điện của thiết bị đã bị hư hỏng khiến cho vỏ cũng xuất hiện điện áp.
+ Bảo vệ nối dây trung tính: Trong lưới điện hạn áp ba pha bốn dây có dây trung tính nối đất (lưới 380/220V) bảo vệ nối đất như trên sẽ không đảm bảo an toàn khi xảy ra chạm vỏ một pha. Vì nếu chỉ nối đất bảo vệ thì khi xảy ra sự cố chạm vỏ một pha dòng điện ngắn mạch không lớn (do điện áp lưới không lớn) nên có thể không làm cháy cầu chì và như vậy tình trạng ngắn mạch chạm đất sẽ kéo dài, trên vỏ thiết bị điện cũng sẽ tồn tại điện áp kéo dài nên rất nguy hiểm.Vì vậy, để cầu chì và các thiết bị bảo vệ khác tác động kịp thời thì phải tăng trị số dòng điện ngắn mạch bằng cách nối vỏ thiết bị điện với dây trung tính. Đó là nguyên lý của bảo vệ nối dây trung tính.
+ Nối đất lặp lại: Dây trung tính không những chỉ được nối đất ở nguồn trung cấp (có trị số điện trở nối đất là 4 ôm) mà còn được nối đất lặp lại tại các nơi khác trong lưới điện. Những chỗ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34528.doc