Thực trạng cổ phần hoá ở tổng Công ty Sông Đà, kinh nghiệm và giải pháp

Lời mở đầu Tính cấp thiết của đề tài: Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế, một trong những chủ trương hết sức quan trọng của Đảng và Nhà nước là tập trung đổi mới toàn diện hoạt động của các DNNN nhằm góp phần nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Để tạo ra các doanh nghiệp có quy mô lớn, có sức mạnh và phạm vi hoạt động rộng khắp không chỉ ở trong nước mà còn đủ sức chiếm lĩnh thị trường bên ngoài, thì CPH là một trong những giải pháp quan trọng và cần thiết tro

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng cổ phần hoá ở tổng Công ty Sông Đà, kinh nghiệm và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng quá trình đổi mới hệ thống DNNN ở Việt Nam. Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tổng công ty Sông Đà đã triển khai đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp thành viên, trong đó có biện pháp CPH. Việc CPH ở tổng công ty Sông Đà bước đầu đã thu được những kết quả quan trọng trong sự phát triển của tổng công ty. Điều đó đã khẳng định được bước đi đúng đắn của công tác đổi mới doanh nghiệp ở tổng công ty Sông Đà. Tuy nhiên, khi thực hiện chủ trương, chính sách về CPH của Đảng và Nhà nước vẫn còn không ít những tồn tại, vướng mắc đã làm cho công tác CPH của tổng công ty còn chậm. Thực tế, về phía Nhà nước và tổng công ty Sông Đà cần có những chính sách và giải pháp phù hợp để tháo gỡ kịp thời những tồn tại, nhằm đẩy nhanh tiến độ CPH. Vì vậy, học viên đã chọn đề tài: "Thực trạng CPH ở tổng công ty Sông Đà, kinh nghiệm và giải pháp" làm nội dung nghiên cứu. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn lấy thực trạng CPH ở tổng công ty Sông Đà trong thời gian qua làm đối tượng nghiên cứu. - Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề cụ thể trong thực hiện CPH ở tổng công ty Sông Đà từ khi triển khai đến 31/12/2003. Mục đích nghiên cứu: - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về CPH DNNN và rút ra những kinh nghiệm thực tiễn ở một số nước. - Làm rõ thực trạng CPH ở tổng công ty Sông Đà, từ đó đánh giá kết quả và rút ra một số bài học kinh nghiệm. - Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ cổ phần ở tổng công ty Sông Đà và để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên sau CPH. 4. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic, phương pháp thống kê, phân tích để làm rõ đối tượng nghiên cứu là thực trạng CPH ở tổng công ty Sông Đà trong thời gian qua. 5. Kết cấu của luận văn: Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo; nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và kinh nghiệm ở một số nước. Chương II: Thực trạng cổ phần hoá ở tổng công ty Sông Đà Chương III: Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh thực hiện cổ phần hoá ở tổng công ty Sông Đà. Chương 1 Cơ sở lý luận về Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và kinh nghiệm ở một số nước Trong mấy thập kỷ qua, làn sóng cải cách DNNN đã diễn ra ở nhiều nước trên thế giới với sự đa dạng về nội dung, trong đó có vấn đề CPH. Thực tế, CPH DNNN là xu thế chung nhằm khắc phục những yếu kém của hệ thống DNNN. Vì vậy, để thực hiện CPH DNNN ở nước ta, cần phải làm rõ cơ sở lý luận và tham khảo những kinh nghiệm về CPH DNNN ở một số nước trên thế giới. 1.1- Cơ sở lý luận về Cổ phần hoá DOANH NGHIệP Nhà nước Khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và sự hình thành các công ty cổ phần 1.1.1.1- Khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước CPH là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu thành CTCP, tức là doanh nghiệp có nhiều chủ đồng sở hữu. Do vậy, CPH có thể diễn ra tại các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty liên doanh và cả các DNNN. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về CPH đối với DNNN. Thực tế cho thấy trong CPH, tuỳ theo thể chế chính trị của mỗi nước mà mục tiêu CPH DNNN đặt ra có khác nhau. Nhìn chung, tình hình phổ biến ở nhiều nước, CPH DNNN là quá trình chuyển đổi DNNN thành CTCP theo đúng các quy định hiện hành của Nhà nước, trong đó Nhà nước vẫn có thể giữ tư cách là một cổ đông, tức là Nhà nước vẫn có thể là chủ sở hữu một phần giá trị tài sản của doanh nghiệp. CPH DNNN không chỉ là quá trình chuyển sở hữu Nhà nước sang sở hữu của các cổ đông, mà còn là hình thức thu hút thêm vốn thông qua bán cổ phiếu khi trở thành CTCP. Vì vậy, CPH là một trong những giải pháp đổi mới, sắp xếp lại DNNN để nâng cao hiệu quả hoạt động. ở nhiều nước, CPH DNNN không có nghĩa là xoá bỏ hoàn toàn sở hữu Nhà nước trong các doanh nghiệp mà chỉ giảm tỷ trọng sở hữu về vốn của Nhà nước trong các doanh nghiệp đó. Xét ở mức độ pháp lý, CPH là việc biến doanh nghiệp một chủ thành doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, nghĩa là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang đa sở hữu thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho những chủ sở hữu khác. 1.1.1.2- Sự hình thành công ty cổ phần Mấy thập kỷ qua, hệ thống DNNN được mở rộng ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở các nước đang phát triển nhằm đảm bảo những mục tiêu kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, sự yếu kém của hệ thống DNNN ngày càng thế hiện rõ. Thực tế cho thấy, nhiều DNNN đã trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Vì để ổn định hoạt động của các doanh nghiệp này, Nhà nước phải sử dụng ngân sách trợ cấp trực tiếp và còn áp dụng các biện pháp trợ cấp gián tiếp như hỗ trợ vốn và ưu đãi tín dụng cho các DNNN dẫn đến tình trạng ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt. Điều này đã trở nên phổ biến ở nhiều nước. Đặc biệt, ở các nước đang phát triển, thâm hụt của các DNNN tính trung bình khoảng 4% GDP vào giữa những năm 1970, tăng hơn 2,5% GDP so với thời kỳ cuối những năm 1960. Do vậy, phần của DNNN trong tổng thiếu hụt ngân sách Nhà nước là đáng kể. Ví dụ, ở Bôlivia, năm 1980 trợ cấp cho các DNNN cộng dồn lại chiếm 25% thiếu hụt ngân sách và bằng 9,2% GDP. ở Mêhicô, từ 1977 - 1982, trợ cấp cho các DNNN sau khi trừ thuế chiếm gần 1/3 thiếu hụt ngân sách Nhà nước. ở Malaixia, từ năm 1980 đến 1989, số nợ của DNNN đã tăng lên gần 5 lần. Mặc dù Nhà nước trợ cấp nhiều như vậy, nhưng hoạt động của các DNNN vẫn không hiệu quả. Do vậy, ở Malaixia vẫn còn 20 - 25% DNNN thuộc loại yếu kém. ở Thái Lan, 57 DNNN sử dụng 250.000 lao động, nhưng 11 doanh nghiệp bị thua lỗ. Trong 5 năm (1982 - 1986), số lợi nhuận mà các doanh nghiệp này thu được là 55,7 tỷ Baht (tương đương với 2,2 tỷ USD), nhưng lại nợ nước ngoài tới 16,2 tỷ USD. ở các nước Đông Âu, khu vực DNNN đồ sộ nên các khoản trợ cấp qua ngân sách Nhà nước hoặc qua tín dụng ưu đãi lại càng lớn. ở BaLan, mặc dù đã tiến hành cải cách kinh tế được nhiều năm, nhưng khoản trợ cấp này vẫn chiếm 5,5% GDP năm 1988, tăng lên 9,2% GDP vào năm 1989. Sự thiếu hụt ngân sách Nhà nước khiến các chính phủ phải huy động và vay nợ từ bên ngoài, làm tăng sự phụ thuộc vào các nguồn tín dụng của các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)... Vì thế, các tổ chức này đã đưa ra nhiều biện pháp áp đặt, gây sức ép buộc các DNNN ở các nước vay nợ phải tổ chức lại sản xuất có hiệu quả, trong đó có chuyển một số DNNN sang CTCP. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, trong khi các DNNN đang bộc lộ nhiều yếu kém, thì CTCP ra đời có một vai trò và sức hấp dẫn to lớn. Cụ thể: - CTCP làm cho qui mô sản xuất được mở rộng một cách nhanh chóng, vì sự sớm ra đời các doanh nghiệp lớn cần một lượng vốn mà không một chủ thể riêng lẻ nào có thể thực hiện được. Thực tế, một khoản đầu tư vốn riêng lẻ ban đầu không đủ để hình thành một doanh nghiệp lớn trong một thời gian ngắn. Bởi vì, việc tích tụ dựa vào tích luỹ của mỗi cá nhân diễn ra vô cùng chậm chạp. Trong khi đó, việc tập trung vốn của CTCP thông qua phát hành cổ phiếu để huy động vốn trong xã hội có thể diễn ra rất nhanh. Về điểm này trong bộ "Tư bản", C. Mác đã nhận xét: Nếu cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho một số tư bản riêng lẻ lớn lên tới mức có thể đảm đương được việc xây dựng đường sắt, thì có lẽ đến ngày nay (giữa thế kỷ XIX - chú dẫn của tác giả luận văn) thế giới vẫn chưa có đường sắt. Ngược lại, qua các CTCP, sự tập trung đã thực hiện được việc đó trong "nháy mắt". - Thu hút rộng rãi nguồn vốn xã hội vào mở rộng sản xuất kinh doanh. ở CTCP, giá trị một cổ phiếu (mệnh giá cổ phiếu) thường được qui định ở mức thấp nhất, chẳng hạn mức tối thiểu của một cổ phiếu ở Pháp là 3 Frăng, ở Mỹ là 1-5 USD, ở Đức là 1-7 DM, ở Nhật là 100 yên. Vì thế, cách huy động vốn của CTCP không chỉ thu hút được vốn từ các nhà đầu tư lớn, mà còn tạo ra cơ hội để người lao động, kể cả người nghèo đều có thể mua được cổ phiếu. CTCP có quan hệ trực tiếp với sự phát triển của hệ thống tín dụng, ngân hàng. C. Mác chỉ ra rằng quan hệ tín dụng là cơ sở của quan hệ cổ phần. Sự phát triển của CTCP là sự phát triển đầy đủ của chế độ tín dụng và tiền vốn đã trở thành máu của nền kinh tế - xã hội. Do vậy, so với tiền gửi vào các quỹ tín dụng và các ngân hàng, thì đầu tư vào CTCP thường có sức hấp dẫn hơn. Bởi vì, người mua cổ phiếu không chỉ mong đợi thu được một khoản lợi tức bằng mức gửi vào ngân hàng, mà còn hy vọng vào tương lai CTCP làm ăn phát đạt và đưa lại thu nhập cao hơn. Người mua cổ phiếu là người tìm kiếm tương lai ở các CTCP. Đồng thời, chính CTCP là một hình thức thu hút vốn trong xã hội hấp dẫn. Việc khơi thông nguồn vốn qua CTCP là sự phản ánh tính chất xã hội hoá các yếu tố sản xuất. Đây là một đặc trưng của nền kinh tế hàng hoá phát triển dựa trên cơ sở thu hút và sử dụng nguồn lực đa dạng trong xã hội cho đầu tư kinh doanh. - Do được hình thành trên cơ sở xã hội hoá, CTCP lại đẩy nhanh xã hội hoá sản xuất, thu hút đông đảo lực lượng xã hội tham gia vào quản lý, đồng thời vẫn đề cao vai trò, chức năng quản lý chuyên nghiệp. CTCP trở nên phổ biến với mọi người không kể đó là người lao động hay nhà tư bản. Điều đó chứng tỏ hình thức này có cơ chế nội tại của nó, có thế mới tạo điều kiện cho các quan hệ sở hữu xâm nhập vào nhau. Việc tập trung vốn như vậy tạo cơ sở để tăng quy mô tập trung về nguồn tư liệu sản xuất và sức lao động. CTCP không chỉ giúp việc chuyển hoá quỹ tiêu dùng thành quỹ sản xuất trong phạm vi toàn xã hội, mà còn góp phần giảm bớt lượng dự trữ tiền mặt trong xã hội. Do vậy, nó đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, nâng cao hiệu quả vận động nguồn vốn trong xã hội. Từ phương thức hoạt động của CTCP cho thấy, cách thức tổ chức của CTCP đã tạo điều kiện tập hợp nhiều lực lượng xã hội vào hoạt động quản lý kinh tế. Bằng việc mua cổ phiếu ở CTCP, người lao động tham gia vào quản lý công ty. Trong CTCP, do chức năng của vốn tách rời quyền sở hữu vốn đã cho phép sử dụng các nhà quản lý chuyên nghiệp. Hội đồng quản trị với tư cách đại diện chủ sở hữu, có thể thuê giám đốc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, giám đốc được coi là một nghề. Điều đó cho phép phát huy được tính chủ động sáng tạo của chủ thể quản lý - một yếu tố không thể thiếu được cho một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường. - Hoạt động của CTCP khơi nguồn vốn đầu tư gắn chặt với sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Lợi nhuận và thua lỗ là hai vấn đề liên quan trực tiếp đến quyết định đầu tư. Do mục đích của các cổ đông muốn thu được lợi tức cổ phần cao hơn mức lãi suất trên thị trường vốn, nên họ chỉ muốn mua cổ phiếu ở các công ty có tương lai phát đạt. Như vậy, cổ phiếu là một công cụ tài chính quan trọng định hướng đầu tư của xã hội vào các ngành, lĩnh vực kinh tế có tương lai. Điều này càng trở nên có ý nghĩa với các nước muốn đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá trong sự kết hợp vai trò của cơ chế thị trường với điều tiết của Nhà nước. Tất nhiên để có sự chuyển dịch và lưu thông nguồn vốn xã hội qua các CTCP, cần phải có sự ra đời và phát triển thị trường chứng khoán. Thông qua thị trường này, con người có điều kiện tiếp cận thông tin, lựa chọn và quyết định đầu tư vào cổ phiếu ở các doanh nghiệp mà mình mong muốn nhất. - CTCP tạo ra cơ chế phân bố rủi ro đặc thù, đồng thời tạo ra khả năng tồn tại lâu bền cho doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của mỗi doanh nghiệp có thể gặp rủi ro, bị phá sản. Nếu ai dùng toàn bộ nguồn vốn của mình đầu tư vào một doanh nghiệp thì mức độ rủi ro sẽ lớn hơn so với đầu tư vào nhiều doanh nghiệp. Cách thức huy động vốn của CTCP tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tài chính mua cổ phiếu ở nhiều công ty, rải vốn ra nhiều ngành để giảm bớt tổn thất nếu một công ty nào đó bị phá sản. Mặt khác, vốn tự có của các CTCP là vốn của nhiều cổ đông khác nhau, nên nếu công ty bị phá sản thì đây là hình thức san sẻ rủi ro cho nhiều cổ đông. Vì thế, CTCP có vai trò tạo ra cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù mà các loại hình doanh nghiệp khác không thể có được. - Tạo điều kiện ra đời thị trường chứng khoán vì CTCP đòi hỏi phải phát hành, mua bán cổ phiếu và trái phiếu. Cổ phiếu và trái phiếu đã trở thành hàng hoá. Việc mua bán hàng hoá này tất yếu phải cần có thị trường. Khi CTCP trở thành hiện tượng kinh tế phổ biến, các CTCP không chỉ phát hành cổ phiếu, trái phiếu mà trong xã hội còn tồn tại cả việc mua đi bán lại cổ phiếu, trái phiếu như một hiện tượng kinh tế bình thường thì khi đó thị trường chứng khoán ra đời. Đây là sự phát triển mới của thị trường vốn. Điều đó cho thấy, CTCP là hình thức biểu hiện mới của sự xã hội hoá về mặt quan hệ sở hữu. Theo cách nói của C.Mác, vốn của CTCP là "tư bản xã hội", tư bản tự nó vốn dựa trên phương thức sản xuất xã hội và đòi hỏi phải có sự tập trung về tư liệu sản xuất, sức lao động. Như vậy, CTCP ra đời và phát triển hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan. Nó là kết quả tất yếu của quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu tập trung vốn lớn trong một khoảng thời gian ngắn với sự hạn chế của mỗi nguồn vốn riêng lẻ. CTCP ra đời có nguyên nhân sâu xa từ sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội, được tác động trực tiếp bởi cạnh tranh và sự phát triển của các quan hệ tín dụng, ngân hàng. Từ góc độ hiệu quả kinh tế, so với các doanh nghiệp bình thường khác, CTCP có sức sống mạnh hơn, hiệu quả cao hơn rõ rệt. Điều cần nhấn mạnh là CTCP thích ứng được với yêu cầu tái sản xuất mở rộng, có lợi cho việc tập trung nguồn vốn trong xã hội đáp ứng yêu cầu kinh doanh hiện đại. Do vậy, ở hầu hết các nước tư bản, ngân hàng tuy nhiều nhưng không thay thế được CTCP. Nhìn chung, việc thực hiện giải pháp CPH đối với các DNNN không chỉ là một giải pháp cần thiết xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, giảm bớt gánh nặng của ngân sách Nhà nước cho doanh nghiệp, mà còn đáp ứng yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế thị trường. Việc tiến hành chuyển các DNNN sang CTCP suy cho cùng là do tính xã hội hoá của sản xuất trong nền kinh tế thị trường quyết định, chứ không phải là bộc phát do ý muốn bất kỳ của cá nhân hay tổ chức nào. Vì vậy, mấy thập kỷ gần đây, quá trình CPH DNNN trở thành một hiện tượng kinh tế có tính chất toàn cầu. Dưới ảnh hưởng của quá trình CPH DNNN ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển và yêu cầu đòi hỏi thích ứng với các vấn đề tăng trưởng kinh tế, ở các nước đang phát triển trào lưu CPH DNNN đang diễn ra rộng rãi. Cổ phần hóa trở thành một trong những nội dung chủ yếu của công cuộc cải cách kinh tế ở nhiều nước đang phát triển. Thực tế, CPH DNNN ở các nước tư bản chủ nghĩa nhằm thu hẹp sự can thiệp trực tiếp và kém hiệu quả của Nhà nước vào nền kinh tế, trao lại quyền đó cho thị trường và khu vực kinh tế tư nhân. Đối với một số nước theo CNXH, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang kinh tế thị trường, CPH DNNN là việc mở rộng xã hội hoá về sở hữu tư liệu sản xuất và thu hút các nguồn lực của xã hội cho đầu tư phát triển. ở Trung quốc, Việt Nam thì mục đích cổ phần hoá DNNN là góp phần thúc đẩy kinh tế Nhà nước phát triển nhằm giải quyết những yêu cầu đặt ra về kinh tế, chính trị, xã hội. 1.1.2- Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 1.1.2.1- Sự cần thiết phải thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Thực tế, sự tồn tại DNNN là một tất yếu khách quan và có tính chất phổ biến ở các nước trên thế giới. Trước đổi mới (1986) ở Việt Nam, quá trình xây dựng và phát triển kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung nên nhiều DNNN đã được thành lập ở tất cả các nghành, các lĩnh vực của nền kinh tế với quy mô khác nhau. Thực tế, việc tuyệt đối hoá kinh tế Nhà nước, coi nó đồng nhất với DNNN nên một thời gian dài, nước ta đã phát triển hệ thống DNNN với số lượng lớn và tràn lan. Trong quản lý kinh tế, Nhà nước giao chỉ tiêu sản xuất và cung ứng vật tư thiết bị cho doanh nghiệp. Sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra dù tốt hay xấu đều nằm trong kế hoạch tiêu thụ theo mức giá mà Nhà nước quy định. Trong quá trình hoạt động, DNNN đã bộc lộ những yếu kém bất cập do cách quản lý, điều hành trên dẫn đến hậu quả nhiều DNNN kinh doanh thua lỗ kéo dài, sản xuất đình trệ, đời sống người lao động hết sức khó khăn. Nhìn vào thực trạng DNNN ở nước ta còn bộc lộ rất nhiều vấn đề yếu kém, đó là: - DNNN chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp trên cả nước, là nơi tập trung hầu hết các nguồn lực chủ yếu như vốn, lao động và tài nguyên nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN rất thấp. - Do số lượng DNNN lớn, ngân sách Nhà nước có hạn dẫn đến việc đầu tư dàn trải, vốn kinh doanh của các doanh nghiệp bị hạn chế nên quy mô của hầu hết các doanh nghiệp đều nhỏ. Điều đó gây nhiều khó khăn cho quá trình hoạt động của các DNNN. Quy mô của các doanh nghiệp nhỏ (dưới 1 tỷ đồng) chiếm 68%. Thực tế này đã khiến hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp rất thấp. Tài sản cố định trong các DNNN chiếm từ 70 - 80% trong tài sản cố định toàn xã hội nhưng chỉ cung cấp được 44% tổng sản phẩm xã hội. - Về công nghệ: Các DNNN ở nước ta thường nhận chuyển giao công nghệ từ bên ngoài và nhập phải những công nghệ lạc hậu hơn so với thế giới từ 10 đến 20 năm. Theo báo cáo của Bộ tài chính, nửa đầu những năm 1990, các DNNN Việt Nam chủ yếu trong tình trạng trang thiết bị lạc hậu từ 3 - 5 thế hệ. Do vậy năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thấp, dẫn đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp còn yếu cả trên thị trường trong nước và quốc tế. - Hầu hết các DNNN được thành lập và hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phụ thuộc vào sự bao cấp của Nhà nước nên khi chuyển sang cơ chế thị trường, các DNNN đã bộc lộ rõ những yếu kém. Do nhiều năm hoạt động trong sự bao cấp của Nhà nước nên không thích ứng kịp với những thay đổi nhanh của nền kinh tế do tác động của cơ chế thị trường. - Chế độ phân phối không dựa theo lao động mà mang nặng chủ nghĩa bình quân nên không kích thích được tính tự giác của người lao động. Do vậy, tình trạng khá phổ biến ở các DNNN là trì trệ, hiệu quả kinh doanh thấp kém hoặc thua lỗ kéo dài. - Quản lý kinh tế theo kiểu hành chính từ trên xuống với nhiều cấp trung gian đã phát sinh tình trạng tập trung quan liêu, cơ chế kinh tế cứng nhắc, thiếu khả năng thích ứng với cơ chế thị trường. Nguồn tài chính được sử dụng theo kế hoạch được duyệt, không có sự chuyển đổi linh hoạt, hợp lý làm cho việc sử dụng nguồn tài chính của doanh nghiệp nhiều khi không phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh và giá thành luôn phải cộng thêm nhiều chi phí. Thực tế, ở nhiều DNNN luôn có tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư. - Tính chủ động trong quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN bị gò bó bởi nhiều qui chế liên quan đến quyền sở hữu của Nhà nước, gây ra những yếu tố cản trở hoạt động có hiệu quả của DNNN. Ngay việc lựa chọn giám đốc DNNN cũng được quyết định từ cơ quan cấp trên nên xuất hiện xu hướng các nhà quản lý cố gắng thiết lập quan hệ thân thiện với cấp trên để được bổ nhiệm vào những cương vị quan trọng ở các DNNN có vị trí "béo bở" hơn là tìm cách nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, các DNNN thường bị một hệ thống các chủ thể cấp trên điều tiết vừa thiếu thống nhất, vừa không rõ ràng về trách nhiệm. Sự can thiệp và điều tiết như vậy làm cho các DNNN mất đi tính năng động, tự chủ trong kinh doanh. - Tình trạng độc quyền của các DNNN trên thị trường được sự bảo hộ của Nhà nước đã đánh mất động lực cạnh tranh nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Điều đó đã dẫn đến tình trạng xã hội phải chấp nhận tiêu dùng các hàng hoá và dịch vụ với chất lượng ít được cải tiến, giá cả không hợp lý. - Do thành lập từ nguồn vốn của Nhà nước, DNNN còn được nhận các khoản trợ cấp từ ngân sách hoặc được sử dụng các nguồn vốn nội bộ với lãi suất thấp hoặc được ưu tiên sử dụng các nguồn tài chính vay của nước ngoài. Tình trạng đó đã làm mất đi yếu tố kích thích phải tự nâng cao hiệu quả để tồn tại trong cạnh tranh. - Trong hoạt động kinh tế, các DNNN cố gắng tránh sự thẩm xét của các cơ quan cấp trên, tránh sự xung đột nội bộ hoặc những đổi mới về tổ chức quản lý, nghĩa là chỉ để doanh nghiệp hoạt động thuận lợi. Đồng thời, tình trạng khá phổ biến ở nhiều DNNN là việc mua sắm thiết bị không tính toán, biên chế lao động phình to, chi phí cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quá mức so với nguồn thu từ kinh doanh. Đó là chưa kể các khoản chi phí cho những cuộc kiểm tra, thanh tra của các cơ quan cấp trên như Bộ chủ quản, Thanh tra Nhà nước... Như vậy, hầu hết các DNNN ở Việt Nam trong tình trạng nhỏ bé về quy mô, lạc hậu về công nghệ và yếu kém về tổ chức quản lý, hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả. Vì vậy; đổi mới, sắp xếp lại hệ thống DNNN như một tất yếu đặt ra. Trong đó, trọng tâm nhất là vấn đề CPH. 1.1.2.2- Tác dụng của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước CPH có vai trò to lớn góp phần đổi mới hệ thống DNNN, nhất là ở nước ta hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tác dụng của CPH thể hiện ở một số khía cạnh sau đây: * Đối với Nhà nước: - Sở hữu Nhà nước bước đầu được cấu trúc lại theo yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường. Qua bán cổ phiếu, Nhà nước đã huy động được một lượng vốn quan trọng từ người lao động trong doanh nghiệp và trong dân cư vào đầu tư phát triển. Đồng thời, CPH DNNN còn góp phần thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán về cơ bản, có 5 chủ thể lớn. Đó là người mua chứng khoán; người bán chứng khoán; người môi giới chứng khoán; người điều hoà thị trường chứng khoán; người tổ chức hoạt động mua - bán chứng khoán. Trong 5 chủ thể trên, chủ thể thứ nhất và chủ thể thứ hai mang tính quyết định bởi lẽ nó là nhân tố ban đầu tạo ra thị trường chứng khoán. Thực tế, không thể có nền kinh tế thị trường thực sự khi trong nền kinh tế không có các CTCP và thị trường chứng khoán. Do vậy, quá trình CPH DNNN sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển đổi và nâng cao sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, CPH DNNN còn nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt nam trong khu vực và thế giới. - Làm tốt công tác CPH, vốn và tài sản Nhà nước không chỉ được bảo toàn mà còn tăng lên đáng kể. Do chuyển sang CTCP, các doanh nghiệp hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Trên cơ sở ấy, CPH DNNN góp thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển. - Việc CPH DNNN đã thúc đẩy quá trình thay đổi phương thức quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp từ trực tiếp sang gián tiếp thông qua các công cụ luật pháp, chính sách. Các cơ quan quản lý Nhà nước không còn vướng nhiều vào quản lý những vấn đề cụ thể của doanh nghiệp như vốn, lao động...Điều đó sẽ nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế. * Đối với doanh nghiệp sau CPH: - Các doanh nghiệp CPH sẽ huy động được lượng vốn lớn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thay đổi phương thức quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh để không ngừng phát triển. Khi kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp lại có điều kiện gọi thêm vốn cổ phần để mở rộng quy mô hoạt động. Đồng thời, còn tạo thêm được việc làm thúc đẩy người lao động mới gia nhập công ty cũng sẵn sàng bỏ vốn đầu tư dưới hình thức cổ phần. - Nâng cao tính tự chủ trong doanh nghiệp. Khi DNNN chuyển sang CTCP, bộ máy quản lý công ty được bố trí tinh giản, gọn nhẹ, giám đốc điều hành do Hội đồng quản trị thuê, Hội đồng quản trị trong CTCP do Đại hội cổ đông bầu ra, thực sự là đại diện cho cổ đông. Nó khác với bộ máy quản lý trong DNNN trước đây là do Nhà nước bổ nhiệm. Mọi hoạt động trong CTCP được tiến hành theo điều lệ và quy định chặt chẽ của công ty. Đây là cơ chế cho phép phát huy tốt vai trò, năng lực của người quản lý và tạo điều kiện áp dụng những thành tựu mới trong sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tăng lên rõ rệt. Thực tế, nhiều DNNN sau CPH đều có chuyển biến tích cực, kể cả một số doanh nghiệp trước CPH sản xuất kinh doanh bị thua lỗ. * Đối với người lao động - Phát huy được vai trò làm chủ của người lao động trong các hoạt động quản lý và sản xuất kinh doanh. Trở thành cổ đông, quyền lợi của người lao động gắn chặt với sự phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, CPH DNNN khắc phục được những hiện tượng tiêu cực, vô trách nhiệm, lãng phí là căn bệnh hết sức nghiêm trọng trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. - Thu nhập của người lao động tăng lên. Do chuyển sang CTCP, doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả nên tiền lương và lợi tức cổ phần ngày càng tăng. 1.1.2.3- Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Bước vào thời kỳ đổi mới (1986 – nay), Đảng và Nhà nước ta chủ trương đưa đất nước bước vào công cuộc đổi mới. Theo tinh thần của Đại hội Đảng lần VI (1986), Đảng và Nhà nước đã xác định việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế Nhà nước nắm những nghành, những khâu then chốt, nắm các doanh nghiệp trọng yếu để đưa nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Kinh tế Nhà nước bao gồm các DNNN, các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như đất đai, rừng biển, hệ thống tài chính, ngân hàng và các nguồn tài nguyên của đất nước….Kinh tế Nhà nước, một thành phần kinh tế do nhiều bộ phận hợp thành, trong đó DNNN là một bộ phận nòng cốt, chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Để kinh tế Nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo và nòng cốt trong sự phát triển của nền kinh tế, việc củng cố sắp xếp lại hệ thống DNNN càng trở nên cấp bách. Trong thực tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, CPH DNNN là vấn đề mới mẻ chưa có tiền lệ trong công cuộc cách mạng XHCN ở nước ta. Trong những năm 1990, Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá 7 (tháng 11/1991) chủ trương: “Chuyển một số DNNN có điều kiện thành CTCP và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới. Phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp”. Xuất phát từ những yêu cầu cấp bách từ thực tế đổi mới, sắp xếp hệ thống DNNN, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX đã nhấn mạnh trong 5 năm (2001-2005): “ ...Đẩy mạnh CPH nhưng DNNN không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN” Đó là sự thể hiện một cách đầy đủ nhất mục tiêu và là quan điểm của Đảng ta về CPH một bộ phận DNNN. Bên cạnh đó, Nghị quyết còn qui định cụ thể: “ Đối với doanh nghiệp qui mô nhỏ có vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng, Nhà nước không nắm giữ và không CPH được, tuỳ thực tế của từng doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức: giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê” Thực ra, trước khi thực hiện CPH, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều biện pháp nhằm cải tiến cơ chế quản lý với DNNN. Những biện pháp đó được quy định trong quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng nhằm nâng cao tính tự chủ của DNNN trong sản xuất kinh doanh. Từ những năm 90, nhiều chính sách và biện pháp đã được ban hành để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN và giải quyết các vấn đề pháp lý nảy sinh trong quá trình đổi mới, sắp xếp hệ thống DNNN, nhất là trong quá trình CPH. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện CPH DNNN đó là quyết định số 143-HĐBT ngày 10/05/1990, thông báo 63/TB-TW của Bộ chính trị. Để cụ thể hoá các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ (khi đó là HĐBT) đã có quyết định 2002/HĐBT ngày 8/6/1992 về việc: “tiếp tục thí điểm chuyển một phần DNNN thành CTCP”, và chỉ thị 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH DNNN. Về phía Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số 36/TC-CN ngày 7/5/1993 hướng dẫn những vấn đề về tài chính trong việc thực hiện thí điểm CPH DNNN. Tuy nhiên, CPH DNNN ở Việt Nam thực sự bắt đầu từ năm 1992. Để chương trình CPH DNNN được triển khai đúng theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, dựa trên cơ sở đánh giá tình hình triển khai CPH và kết quả hoạt động bước đầu của các CTCP, Nghị định 28/CP (7/5/1996) đã qui định về việc chuyển một bộ phận DNNN thành CTCP. Các Bộ, ngành chức năng tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định trên. Khung khổ pháp lý này là sự đúc kết những kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình thí điểm CPH để mở rộng chương trình CPH về phạm vi và đối tượng. Đến Nghị định 25/CP ngày 26/3/1997 đã sửa đổi một số điều trong Nghị định 28/CP về việc xác định rõ hơn mục tiêu, đối tượng, phương pháp định giá doanh nghiệp khi CPH; hình thức CPH; chính sách ưu đãi với doanh nghiệp CPH và người lao động. Đến Hội nghị lần 4 Ban chấp hành TW khoá VIII (12/1997) đã chỉ rõ định hướng và giải pháp CPH với việc phân định loại doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh; xác định danh mục loại doanh nghiệp cần giữ 100% vốn Nhà nước; loại doanh nghiệp Nhà nước chỉ cần nắm tỷ lệ cổ phần chi phối; loại doanh nghiệp Nhà nước chỉ cần giữ tỷ lệ cổ phần ở mức thấp…Quán triệt chủ trương của Đảng, ngày 29/6/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP thay cho Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 và Nghị định 25/CP ngày 26/3/1997. Trong đó, đặc biệt xác định rõ đối tượng doanh nghiệp CPH; về thầm quyền quyết định CPH; về chính sách ưu đãi cho người lao động; về việc xác định giá trị doanh nghiệp. Đồng thời, Văn phòng Chính phủ cũng ra văn bản số 3395/VPCP - ĐMDN ngày 29/8/1998 về việc hướng dẫn quy trình và phương án mẫu CPH. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện CPH DNNN, vẫn còn những vướng mắc nảy sinh về cơ chế chính sách. Vì vậy, ngày 19/6/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định 64/NĐ-CP về việc chuyển DNNN thành CTCP thay thế Nghị định 44/1998/NĐ-CP với một số điểm mới sau: Xoá bỏ hạn mức quy định được mua cổ phần đối với các nhà đầu tư trong nước (cá nhân, pháp nhân), trình tự các bước tiến hành CPH... Thực hiện Nghị định này sẽ khai thác tối đa tiềm năng của các nhà đầu tư và tăng khả năng huy động vốn của doanh nghiệp; xoá bỏ hạn chế số lượng cổ phiếu được mua đối với cán bộ lãnh đạo chủ ._.chốt của doanh nghiệp CPH; dành 10% giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để bán với giá ưu đãi (giảm 30%) cho những người sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản… Như vậy, tinh thần Nghị định 64/NĐ-CP thông thoáng hơn, trao quyền nhiều hơn cho các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Thực tế, việc ban hành Nghị định 64/NĐ-CP và các Nghị định khác như Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 của Chính phủ về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước; Nghị định số 69/2002/NĐ - CP ngày 12/7/2002 của Chính phủ về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với các doanh nghiệp Nhà nước sẽ góp phần đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN. Việc ban hành các nghị định, thông tư, quyết định trên đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp khi thực hiện CPH vì đã kế thừa nhiều mặt tích cực của nghị định 28/NĐ-CP, nghị định 44/NĐ - CP, đồng thời có nhiều bổ sung sửa đổi và phát triển thêm nhiều điểm mới tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho thực hiện CPH DNNN. Bên cạnh những quy định phát sinh từ thực hiện CPH, Nhà nước còn có các quy phạm cho từng lĩnh vực pháp luật có liên quan trực tiếp khác như luật doanh nghiệp, luật chứng khoán… Điều đó cho thấy, các chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp CPH ngày càng được quan tâm sâu sắc. Đặc biệt từ khi Bộ Tài chính đã ban hành văn bản số 11712TC/TCDN ngày 10/11/2003 hướng dẫn cụ thể quy trình và các bước tiến hành CPH DNNN làm cho quá trình CPH DNNN được thực hiện hết sức rõ ràng và thuận lợi hơn. Tóm lại, để thực hiện chủ trương đổi mới, xắp xếp DNNN, một trong những vấn đề trọng tâm là công tác CPH nên Đảng và Nhà nước thường xuyên có những quy định mới sửa đổi, bổ sung kịp thời những vướng mắc trong quá trình thực hiện CPH. Về cơ bản, những chính sách mới này đã tạo nên động lực để đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN thông qua việc: Hỗ trợ các doanh nghiệp lành mạnh hóa tình hình tài chính; giải quyết tồn tại về công nợ, về lao động; hỗ trợ doanh nghiệp ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh sau CPH; thực hiện công khai hóa các hoạt động định giá, bán cổ phần; đồng thời tạo điều kiện để người lao động gắn bó với doanh nghiệp . 1.2- Kinh nghiệm thực tiễn về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở một số nước Quá trình CPH DNNN ở nước ta diễn ra trong bối cảnh ở nhiều nước trên thế giới đã và đang có trào lưu biến đổi tương quan giữa Nhà nước và thị trường theo hướng ưu tiên thị trường trong các hoạt động kinh tế. Dưới đây là tình hình CPH DNNN của một số nước trên thế giới: 1.2.1- Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu. Từ những năm đầu của thập kỷ 1990, các nước thuộc Liên Xô (cũ) và Đông Âu đã triển khai rộng rãi CPH DNNN. Giải pháp này nhằm chuyển DNNN từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, thực hiện cam kết chuyển sang hệ thống chính trị dựa trên chế độ đa sở hữu DNNN. CPH ở các nước này diễn ra theo phương pháp khác nhau, nhưng nhìn chung có những vấn đề sau: - Chính phủ cũng như các doanh nghiệp ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu đều thấy rằng CPH DNNN là một trong những nội dung hết sức quan trọng trong quá trình cải cách kinh tế của quốc gia và là xu thế chung của nhiều nước trên thế giới. Do đó, Chính phủ đã có những chính sách thích hợp tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình CPH. - Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu cho thành lập cơ quan chuyên trách CPH. Đây là cơ quan thay mặt chính phủ trực tiếp tổ chức, chỉ đạo tiến hành CPH và quản lý phần vốn của Nhà nước khi chuyển DNNN thành CTCP. Ví dụ ở Hunggari, cơ quan chuyên trách CPH DNNN có nhiệm vụ: + Chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc tiến hành CPH. + Thẩm tra giá trị doanh nghiệp để đưa ra đấu thầu và tổ chức việc đấu thầu các doanh nghiệp thực hiện CPH. + Giải quyết các hậu quả sau khi thực hiện CPH. + Đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại hầu hết CTCP, cử người tham gia Hội đồng quản trị và ban kiểm soát CTCP. + Thu toàn bộ số tiền bán cổ phần, lợi tức cổ phần của Nhà nước trong các CTCP. Số tiền này được sử dụng một phần trả nợ Chính phủ và các khoản khác theo chế độ qui định, trong đó có quỹ giải quyết hậu quả sau khi CPH ở các doanh nghiệp có tranh chấp, số còn lại nộp vào ngân sách Nhà nước. Chính phủ còn qui định quyền hạn của các cấp trong CPH. Tổng giám đốc công ty được quyết định CPH đối với các doanh nghiệp từ 250 triệu đến dưới 500 triệu Foring (tương đương 47 đến dưới 95 tỷ đồng VN). Hội đồng quản trị công ty được quyết định CPH đối với các doanh nghiệp từ 500 triệu Foring trở lên (tương đương 95 tỷ đồng VN trở lên), còn các doanh nghiệp đặc biệt quan trọng (quốc phòng, an ninh, điện nguyên tử,...) thì do Chính phủ quyết định. ở các nước Đông Âu khác, cơ quan này cũng có quyền lực lớn trong chuyên trách việc quản lý tài sản Nhà nước, chống sự vụ lợi khi CPH, đảm bảo các điều kiện cho việc mua bán cổ phần, xác định đối tượng và tỷ lệ bán cổ phần... Thực tiễn ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu còn quy định các bước tiến hành CPH. Các bước đó bao gồm: xác định danh sách các DNNN có đủ điều kiện để CPH (kinh doanh có lãi, không nằm trong diện Nhà nước nắm 100% vốn...); xác định giá trị thực tế tài sản doanh nghiệp (bước này thường liên quan đến các yếu tố như thị trường, không gian, thời gian và quan hệ cung - cầu...); tuyên truyền quảng cáo, hoàn thiện chính sách để mọi người thấy được thực chất hoạt động của doanh nghiệp và có quyết định mua cổ phiếu; lựa chọn phương thức bán cổ phiếu (bán rộng rãi cho công chúng hay cho các đối tượng đã xác định, bán theo giá ưu đãi cho công nhân viên làm tại doanh nghiệp...); giải quyết các vấn đề xã hội sau khi CPH. Trong thực tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường tự do, CPH DNNN ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu dẫn đến tình trạng tư nhân hoá diễn ra nhanh chóng trong nền kinh tế. Đồng thời, xuất hiện hiện tượng đầu cơ, trục lợi, tham nhũng làm thất thoát và gây nhiều thiệt hại về tiền vốn, tài sản của Nhà nước. Tình trạng thất nghiệp gia tăng, một bộ phận cư dân đã bị đẩy khỏi guồng máy hoạt động xã hội. Ví dụ, năm 1990 ở Liên Xô (cũ) có 9 triệu người thất nghiệp dẫn đến đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn. 1.2.2- Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Trung Quốc Trước kia ở Trung Quốc cũng như các nước XHCN khác không phát triển loại hình CTCP vì coi đó là một phương thức kinh doanh của CNTB. Đầu những năm 1980, đứng trước tình trạng các DNNN hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung tỏ ra kém hiệu quả, thậm chí ngày càng bị thua lỗ nghiêm trọng. Vì vậy, các nhà khoa học và quản lý kinh tế của Trung Quốc đã có ý tưởng thực hiện CPH DNNN. Họ nêu quan điểm: Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phải là nền sản xuất lớn xã hội hoá. Sau khi đã thiết lập được chế độ công hữu về tư liệu sản xuất vẫn phải sử dụng các hình thức tổ chức sản xuất lớn có tính xã hội hoá như CTCP, tập đoàn xí nghiệp để phục vụ cho nền kinh tế XHCN. Họ cho rằng, CTCP với tính chất là một hình thức xã hội hoá sản xuất, phù hợp với bản chất của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Quan điểm này được Đảng, Nhà nước Trung Quốc ủng hộ và trở thành cơ sở để triển khai CPH DNNN. Tuy nhiên, trong khi tiến hành CPH, nhiều người Trung Quốc vẫn hoài nghi về tính chất XHCN của CPH, cho rằng CPH DNNN là bước lùi, phân tán tài sản Nhà nước, là tư hữu hoá... Chẳng hạn, ở Chư Thành, tỉnh Đông Sơn, từ năm 1993, chính quyền đã đem các xí nghiệp công thương thuộc quốc hữu và tập thể cỡ nhỏ bán hết cho công nhân viên chức, sau đó tập hợp lại, tổ chức thành 210 xí nghiệp hợp tác cổ phần. Thời gian đầu, việc làm này bị rất nhiều người phản đối. Trước tình hình trên, quan điểm của Đảng cộng sản Trung Quốc là không thể vội vàng, hấp tấp tiến hành CPH, mà phải làm cho toàn Đảng, toàn dân thật sự thông suốt và tin tưởng ở hình thức này, phải thấy “CPH là sự lựa chọn tốt nhất của DNNN”. Trong triển khai CPH, Trung Quốc luôn khẳng định đây là con đường tìm kiếm một cơ chế kinh doanh có hiệu quả, không phải là tìm kiếm các hình thức sở hữu khác nhau. Trong chế độ sở hữu, kinh tế Nhà nước là chủ đạo, kinh tế công cộng (bao gồm kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác) là chủ thể. Chủ đạo là định tính, chủ thể là định lượng, CPH DNNN phải tuyệt đối không làm tổn hại đến nguyên tắc đó. Điều tối kỵ trong CPH là khi đánh giá và kiểm kê, làm thất thoát tiền vốn và tài sản của Nhà nước hoặc sử dụng chúng vào những hoạt động phi pháp nhằm thu lợi bất chính. Trong thời kỳ đầu tiến hành CPH, do chưa có một cơ quan thích hợp chuyên trách việc theo dõi và đôn đốc CPH, nên thực tế diễn ra ở các doanh nghiệp rất khác nhau. Có nơi lẫn lộn giữa CTCP với công ty hợp doanh, có nơi xác định chỉ bán cổ phiếu cho công nhân viên trong doanh nghiệp, có nơi lại mở rộng bán cổ phiếu cho bất cứ ai có tiền muốn mua cổ phiếu. Để giải quyết vướng mắc trên, Trung Quốc đã thành lập một cơ quan chuyên trách quản lý, điều hành quá trình CPH. Cơ quan này thuộc Hội đồng Chính phủ, có nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi và giám sát quá trình tiến hành CPH theo đúng quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do vậy, từ năm 1986, Trung Quốc đã tiến hành CPH một cách khá thuận lợi, không bị “trượt” ra khỏi phương hướng đã được xác định. Trung Quốc còn quyết định thành lập “Uỷ ban quản lý tài sản Nhà nước” để đảm bảo quản lý tất cả tài sản Nhà nước khỏi bị mất mát, hao hụt dưới hình thức nào. Uỷ ban này trực thuộc Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc, độc lập với Chính phủ và phải thật sự là đại biểu chân chính cho lợi ích quốc gia. Nó có nhiệm vụ hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các quy định về bảo vệ tài sản quốc gia trong tất cả các DNNN được CPH. Trung quốc phê phán quan điểm nhấn mạnh một chiều đến những hư hao và cường điệu tính lạc hậu của tài sản cố định, mượn nó để “hùa nhau” thanh lý, chia chác, “đục nước béo cò”. Một xu hướng khá phổ biến là tính giá trị doanh nghiệp thấp hơn thực tế và không tính phần tăng giá do lạm phát đã làm thất thoát vốn Nhà nước khi doanh nghiệp chuyển sang CTCP. Theo thống kê từ năm 1991 đến tháng 6/1994, do tính giá trị thấp hơn thực tế đã làm thất thoát 80 tỷ đồng nhân dân tệ vốn của Nhà nước. Trước tình hình đó, Trung Quốc rất coi trọng kiện toàn bộ máy quản lý tài sản Nhà nước và kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh để tạo bước tiến vững chắc cho CPH. Trung Quốc cho rằng, CTCP do Nhà nước nắm cổ phần chi phối là hình thức hợp lý để chắp nối mối quan hệ giữa Chính phủ và doanh nghiệp, giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân. Đó cũng là hình thức tổ chức có thể đưa các DNNN tham gia cạnh tranh quốc tế có hiệu quả, là đội quân chủ lực của Nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia trên thị trường quốc tế. Trung Quốc áp dụng hình thức này trong các nghành kinh tế quan trọng, những doanh nghiệp lớn, trụ cột của nghành. Đây là nơi không thể để chủ đầu tư nước ngoài nắm cổ phần chi phối. Trung Quốc còn qui định rõ loại DNNN cần CPH. Các doanh nghiệp hoạt động trong các nghành quốc phòng, dầu mỏ, năng lượng nguyên tử, hàng không, cấp nước, điện lực, bưu chính, đường sắt, tiền tệ, in giấy bạc thì Nhà nước cần phải nắm giữ, không đưa ra CPH. Các doanh nghiệp hoạt động trong các nghành khác đều được CPH, trong đó tùy tính chất ngành nghề và mức độ phân bổ sở hữu cổ phần, mà quyết định tỷ lệ cổ phần của Nhà nước. Trong công việc, Nhà nước có thể nắm giữ 25 đến 30% cổ phần của nghành này. Đến nay, nhiều doanh nghiệp chuyển sang CTCP đã sản xuất kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn vốn và đảm bảo lợi tức cổ phần cao hơn lãi suất cho vay từ 5-10%. Việc thực hiện CPH đã giảm được tình trạng thua lỗ của các DNNN, đem lại lợi ích cho chính khu vực kinh tế Nhà nước. Năm 1996, trong khi 23% các DNNN làm ăn thua lỗ, thì các CTCP lại sản xuất kinh doanh thu lãi lớn, mà đa số trong các công ty đó là do cổ phần của Nhà nước đóng vai trò chi phối. Tuy nhiên, việc tiến hành CPH DNNN ở Trung Quốc cũng đứng trước những phức tạp và khó khăn cần giải quyết. Đó là: + Thực hiện CPH có làm tăng thêm vai trò “chủ thể” của kinh tế XHCN và vai trò “chủ đạo” của kinh tế Nhà nước hay không, mấu chốt là ai khống chế được cổ phiếu? Để khống chế được cổ phiếu trong các CTCP, Nhà nước và tập thể phải có thực lực và phương pháp kinh doanh thích hợp. Đó thực sự là vấn đề không đơn giản. + Việc thực hiện CPH như thế nào không phải là dễ dàng. Nói cho cùng cũng là cách mới mẻ chưa từng có trong lịch sử xây dựng XHCN, khác với các quá trình CPH ở các nước tư bản hay Đông Âu và Liên Xô (cũ) sau này. Trung Quốc đã cho rằng: Không nên coi CPH là “thần dược” trị được bách bệnh, không nên làm theo kiểu phong trào như “hợp tác hoá” trước kia. + Một khó khăn lớn nhất và phức tạp nhất trong việc thực hiện CPH DNNN là vấn đề giải quyết gánh nặng về phúc lợi xã hội của các DNNN. Trong cơ chế kế hoạch hoá trước kia, các DNNN ở Trung Quốc như những xã hội thu nhỏ. Họ không chỉ sản xuất các sản phẩm để bán, mà còn đảm nhận các chức năng xã hội không chỉ cho các công nhân viên đang làm việc mà còn cho cả những người đã nghỉ hưu. Trong quá trình cải cách DNNN, gánh nặng đó không giảm mà lại tăng lên. Chẳng hạn, tỉ lệ các quỹ phúc lợi xã hội và bảo hiểm lao động trong các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước đã tăng 14,3% năm 1978 lên 41,5% trong quỹ lương năm 1994, trong khi lợi nhuận của các DNNN giảm từ khoảng 15% vào năm 1978 xuống khoảng 8% vào năm 1996. Năm 1998 trên 50% DNNN làm ăn thua lỗ. Do trách nhiệm về phúc lợi xã hội và các hạn chế về sa thải lao động dư thừa, các doanh nghiệp thua lỗ rất khó khăn trong việc chuyển đổi tình trạng tài chính của mình như chuyển sang CTCP. 1.2.3- Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hàn Quốc Với mục tiêu cải cách DNNN và tư nhân hoá để tăng thu nhập của Nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm sự can thiệp của Chính phủ trong nền kinh tế và xúc tiến mở rộng sở hữu cổ phần, tạo cơ hội cạnh tranh trước các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và nước ngoài. Việc tiến hành CPH DNNN ở Hàn Quốc gắn với công cuộc cải cách DNNN gồm nhiều đợt thực hiện. Ngay từ năm 1983 đến 1992, Hàn Quốc đã xã hội hoá chương trình CPH, trong đó phương thức “bán rẻ” và “thanh toán dần” được áp dụng nhằm giúp người có thu nhập thấp có thể mua cổ phần. Trong thời gian này, 49% cổ phần đã được bán rộng rãi cho công chúng. Từ năm 1988-1992, Chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành CPH DNNN có vị trí thiết yếu trong nền kinh tế mà Nhà nước nắm độc quyền như công ty quặng và sắt thép Pohang; công ty độc quyền thuốc lá, nhân sâm Ginseng; công ty điện Triều tiên; công ty viễn thông Triều Tiên theo phương thức bán một phần hoặc bán toàn bộ tài sản cho khu vực tư nhân. Chính sách cơ cấu lại các DNNN ở Hàn Quốc được thực hiện dựa vào việc phân chia các DNNN thành 3 nhóm để áp dụng CPH cho phù hợp: Nhóm 1: Gồm các DNNN hoạt động trong những lĩnh vực sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc thương mại. Các doanh nghiệp này được tư nhân hoá hoàn toàn. Nhóm 2: Gồm các DNNN hoạt động vì lợi ích công và có tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc thương mại. Các DNNN này được cơ cấu lại toàn bộ, trong đó có cả việc tư nhân hoá những tài sản được sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc thương mại. Nhóm 3: Gồm các DNNN chủ yếu thực hiện các chức năng công ích và không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh có nguyên tắc thương mại. Các DNNN này được duy trì hiện trạng cho đến khi hoạt động của doanh nghiệp còn cần thiết cho xã hội. Trong giai đoạn đầu việc bán cổ phần ra ngoài cần phải có thị trường. Chính phủ Hàn Quốc muốn bán các DNNN qui mô lớn cho các doanh nghiệp tư nhân hay tập đoàn tư nhân lớn của nước ngoài chứ không phải là tập đoàn trong nước có khả năng tài chính. Nguyên nhân là do Chính phủ Hàn Quốc không muốn tập trung quyền lực vào các tập đoàn này. Thực tế, người dân Hàn Quốc lại không muốn các doanh nghiệp này được bán cho người nước ngoài. Tuy nhiên, đến năm 1998, Chính phủ Hàn Quốc lại cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được mua đứt các doanh nghiệp trong lĩnh vực chế tạo. 1.2.4- Bài học kinh nghiệm về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước với Việt Nam Nghiên cứu thực tiễn về CPH DNNN của một số nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo với Việt Nam trong quá trình thực hiện CPH DNNN hiện nay. Đó là: - Nhìn chung, DNNN luôn giữ một vai trò to lớn trong việc điều tiết nền kinh tế của không ít các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, do sự xơ cứng của cơ chế quản lý, nhất là ở các nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung nên hoạt động của DNNN ngày càng trở nên kém hiệu quả. Do đó, CPH DNNN là xu thế tất yếu đối với các quốc gia. Nó có thể huy động được các nguồn lực của xã hội vào sản xuất kinh doanh; đồng thời cũng là một cách đào thải những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và phát triển những doanh nghiệp mạnh dưới sự giám sát của các cổ đông. - Nhà nước cũng như các DNNN đều phải thấy rằng CPH DNNN là một trong những nội dung quan trọng của cải cách kinh tế ở mỗi quốc gia. Do đó, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách thích hợp tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình CPH. Vì vậy, cơ cấu của các DNNN phải có thay đổi thích hợp trong tiến trình CPH. - Cần xác định đúng mục tiêu, phương thức CPH DNNN là nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN; xoá bỏ hoàn toàn cơ chế bao cấp của Nhà nước đối với DNNN; giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước; thúc đẩy đổi mới công nghệ, tăng sức cạnh tranh của DNNN và nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá. - Về phương thức CPH, các nội dung cần được thực hiện một cách đồng bộ gồm: + Tạo lập cơ sở pháp lý, xây dựng chương trình kế hoạch và thiết lập hệ thống tổ chức CPH từ cấp Trung ương đến địa phương và doanh nghiệp + Phân loại các DNNN theo qui mô, nghành và theo kết quả hoạt động làm cơ sở cho việc xác định trình tự các DNNN cần CPH trong từng giai đoạn. - Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ các điều kiện cần thiết để đẩy nhanh tiến trình CPH + Hoàn thiện môi trường pháp luật để chuyển DNNN thành CTCP. Trước hết, cần hoàn thiện các luật như luật doanh nghiệp, luật DNNN, luật phá sản, luật đầu tư, luật lao động. Đồng thời, phải có các văn bản dưới luật (Nghị định, thông tư, quyết định...) của các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền trong việc hướng dẫn thực hiện CPH. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích trong DNNN thực hiện CPH. + Nhà nước phải thiết lập cơ quan quản lý toàn bộ quá trình CPH ở cấp Nhà nước, tỉnh, thành phố với nhiệm vụ xác định mục tiêu, hình thức, phương pháp CPH, tổ chức chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và đánh giá tiến trình CPH. Nhà nước cũng cần xây dựng qui chế và tiến trình CPH DNNN, đặc biệt cần có những qui định đánh giá đúng giá trị doanh nghiệp trước khi CPH để không gây thất thoát tài sản của Nhà nước. - Nhà nước cũng cần quan tâm đến lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp sau CPH như việc làm, thu nhập và thực hiện dân chủ hoá trong quản lý. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Vai trò của tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp sau CPH cũng cần được tăng cường để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong từng thời kỳ phát triển. ở nước ta, quá trình CPH DNNN diễn ra trong bối cảnh trên thế giới đã và đang có trào lưu biến đổi tương quan giữa Nhà nước và thị trường theo hướng ưu tiên thị trường trong các hoạt động kinh tế. Trong trào lưu này, ở một số nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc, Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu trong quá trình CPH DNNN. Do đó, kinh nghiệm thực tiễn ở các nước này đều là bài học cho quá trình thực hiện CPH DNNN với Việt Nam hiện nay. Việt Nam đang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc cơ cấu lại nền kinh tế, tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế được bình đẳng trong kinh doanh và phát triển là sự cần thiết phù hợp với qui luật khách quan. Chương 2 Thực trạng Cổ PHần hoá ở tổng công ty sông đà 2.1- Khái quát về sự hình thành và phát triển của tổng công ty Sông Đà. Tổng công ty Sông Đà là doanh nghiệp Nhà nước, thuộc Bộ Xây dựng. Tiền thân của nó là Ban chỉ huy công trường thuỷ điện Thác Bà được thành lập ngày 01/6/1961 theo Quyết định số 214/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trải qua hơn 40 năm hình thành và phát triển, tổng công ty có nhiều tên gọi khác nhau như: Công ty xây dựng thủy điện Sông Đà, Tổng công ty xây dựng thủy điện Sông Đà, Tổng công ty xây dựng Sông Đà (theo Quyết định số 966 BXD TCLĐ ngày 15/11/1995 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng) và đổi tên thành Tổng công ty Sông Đà (theo Quyết định 285/BXD - TCLĐ ngày 11/3/2002 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng) với tên giao dịch quốc tế là Song Da Corporation. Lĩnh vực kinh doanh chính của Tổng công ty là xây dựng công trình thủy điện, hạ tầng cơ sở, xây dựng công nghiệp, dân dụng, đường dây và trạm, các công trình giao thông, sản xuất vật liệu xây dựng, thép, xi măng, các khu công nghiệp và đô thị, tư vấn xây dựng, xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị, công nghệ xây dựng cùng nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Hiện nay, tổng công ty Sông Đà có hơn 30.000 cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề, trong đó có hơn 5.000 cán bộ kỹ thuật, kỹ sư các ngành nghề với bề dày kinh nghiệm trong thiết kế, thi công và điều hành sản xuất, đặc biệt là thi công các công trình thủy điện. Tổng công ty Sông Đà đã có nhiều đóng góp vào quá trình xây dựng đất nước, được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới. Qua các công trình xây dựng lớn, tổng công ty Sông Đà đã tạo ra một cuộc cách mạng thực sự về kỹ thuật công nghệ, đặc biệt là sự thay đổi đồng bộ hàng loạt máy móc thiết bị thi công hiện đại với công nghệ sản xuất tiên tiến. Tổng công ty Sông Đà đã và đang tham ra xây dựng hầu hết các công trình thủy điện lớn của đất nước như nhà máy thủy điện Thác Bà - công suất 108 MW, thủy điện Hòa Bình - công suất 1.920 MW, thuỷ điện Yaly - công suất 1410 MW, đặc biệt là công trình thuỷ điện Sơn La với công suất 2.950 MW là công trình thuỷ điện lớn nhất từ trước tới nay trên cả nước… Bên cạnh đó, tổng công ty Sông Đà đã chuyển dần từ làm thuê sang tự đầu tư nhiều công trình thuỷ điện vừa và nhỏ như nhà máy thủy điện Cần Đơn theo phương thức xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (viết tắt theo tiếng Anh là BOT) trong nước, thủy điện Ryninh II, thủy điện Nà Lơi, thủy điện Nậm Mu theo phương thức xây dựng - kinh doanh (viết tắt theo tiếng Anh là BO). Thực hiện mục tiêu đa dạng ngành nghề kinh doanh, tổng công ty đã và đang thực hiện nhiều hợp đồng lớn thuộc lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp, xây dựng và cải tạo các công trình giao thông quan trọng như quốc lộ 1A, quốc lộ 18, quốc lộ 10, đường Hồ Chí Minh…; đặc biệt là xây dựng hầm đường bộ qua đèo Hải Vân và hầm đường bộ qua đèo Ngang theo công nghệ đào hầm mới của áo…; xây dựng các công trình công nghiệp theo yêu cầu kỹ thuật cao như: nhà máy xi măng Hạ Long công suất 2 triệu tấn/năm, nhà máy thép Việt ý, khu đô thị Mỹ Đình - Mễ Trì... Từ sự hình thành và phát triển, có thể rút ra một số đặc điểm về cơ cấu tổ chức quản lý và hoạt động kinh doanh của tổng công ty Sông Đà như sau: 2.1.1- Cơ cấu hệ thống tổ chức quản lý của tổng công ty Sông Đà Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tổng công ty Sông Đà thường xuyên quan tâm kiện toàn bộ máy tổ chức với sự phân cấp quản lý khoa học và chặt chẽ. Đồng thời, tổng công ty còn chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về phẩm chất và chuyên môn. Tổng công ty Sông Đà là một Tổng công ty 90 trực thuộc Bộ Xây dựng, có đầy đủ tư cách pháp nhân hoạt động theo Luật DNNN, có vốn và tài sản riêng, có bảng cân đối kế toán riêng. Hiện nay, tổng công ty Sông Đà có 63 doanh nghiệp thành viên, gồm 32 doanh nghiệp hạch toán độc lập, 15 doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc và 16 doanh nghiệp sự nghiệp. Người có quyền cao nhất là Chủ tịch Hội đồng quản trị và người điều hành trực tiếp là Tổng giám đốc. Giúp việc cho Tổng giám đốc là các phó Tổng giám đốc và các phòng ban chức năng của tổng công ty (Hiện nay, tổng công ty Sông Đà có 7 phó Tổng giám đốc và 15 phòng ban chức năng). Ngoài ra, tại các công trình lớn, tổng công ty Sông Đà còn thành lập các Ban điều hành hoặc Đại diện tổng công ty để chi đạo thi công. Sơ đồ về cơ cấu hệ thống tổ chức quản lý của tổng công ty Sông Đà Hội đồng quản trị (Đứng đầu là Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị) Tổng giám đốc Các phòng ban chức năng Các ban điều hành, đại diện tổng công ty Các doanh nghiệp thành viên Các phó tgđ 2.1.2- Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của tổng công ty Sông Đà Tổng công ty Sông Đà có hoạt động sản xuất kinh doanh đa chức năng, trong đó lĩnh vực chủ đạo là xây dựng thủy điện. - Về kỹ thuật công nghệ: Lĩnh vực xây dựng trong đó chủ yếu là xây dựng các công trình thuỷ điện có quy mô lớn đòi hỏi tính an toàn cao, trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến ... Vì vậy, tổng công ty đã tập trung đầu tư vốn lớn cho phương tiện vận tải, máy móc thi công hiện đại; đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật thi công và cán bộ vận hành lành nghề . - Về cơ chế hoạt động: Tổng công ty Sông Đà tuân thủ chặt chẽ các quy định của luật pháp trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Sự quản lý đó thể hiện trong từng giai đoạn kinh doanh, trong sự phân cấp quản lý giữa doanh nghiệp với chủ đầu tư; giữa B chính với B phụ; giữa việc thiết kế kỹ thuật với việc tính khối lượng, lập dự toán chi tiết, tổng dự toán vv… Trong quá trình thi công, tổng công ty Sông Đà còn gặp phải nhiều thay đổi về giá cả thị trường và những phát sinh khác nên thường xuyên có sự đàm phán, thương lượng để điều chỉnh giá đầu vào, đầu ra trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật. Mặt khác, lợi nhuận từ lĩnh vực này không lớn do chịu sự quản lý chặt chẽ về định mức, đơn giá, lãi định mức của các Bộ, ngành chủ quản. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của tổng công ty Sông Đà. - Về mặt địa lý: Do lĩnh vực hoạt động chủ yếu của tổng công ty Sông Đà là xây dựng thủy điện nên địa điểm xây dựng luôn nằm tại các khu vực vùng sâu vùng xa, giao thông vận tải khó khăn, địa bàn thi công hiểm trở. Điều đó đã gây ảnh hưởng lớn đến điều kiện và tiến độ thi công. - Về vốn: Với việc thi công các công trình như trên, nên nhu cầu vốn đầu tư máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất kinh doanh rất lớn. Trong khi đó, vốn điều lệ do ngân sách cấp cho tổng công ty không đáng kể nên vấn đề huy động vốn là một trong những nhiệm vụ được lãnh đạo Tổng công ty hết sức quan tâm. Điều đó cho thấy, sự phát triển của tổng công ty Sông Đà luôn gắn liền với sự phát triển chung của các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VietCombank), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (Vietindebank), Ngân hàng Công thương Việt Nam (Incombank), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank). - Về chu kỳ kinh doanh: Do sản phẩm trong hoạt động xây lắp thường là một công trình hoặc hạng mục công trình lớn nên chu kỳ kinh doanh xây lắp thường dài hơn so với các lĩnh vực sản xuất khác. Thời gian thi công các công trình trung bình từ 3 đến 4 năm nên thời gian tồn đọng vốn lớn. Do vậy, vấn đề đẩy nhanh công tác thu hồi vốn để sử dụng vốn có hiệu quả là một giải pháp được tổng công ty đặc biệt quan tâm. 2.2- Quá trình thực hiện Cổ PHần hoá ở tổng công ty Sông Đà Bước vào đầu những năm 1990, vấn đề CPH DNNN đã được Đảng và Nhà nước ta đăc biệt quan tâm trong nội dung đổi mới DNNN. Thực tế ở nước ta, CPH DNNN đã diễn ra ở nhiều nghành, lĩnh vực, địa phương góp phần tích cực thúc đẩy quá trình đổi mới hệ thống DNNN. Tuy nhiên, cũng trong hoàn cảnh ấy, việc tiến hành CPH ở tổng công ty Sông Đà diễn ra có muộn hơn. Là một tổng công ty lớn thuộc Bộ Xây dựng, quá trình đổi mới sắp xếp lại hệ thống các doanh nghiệp thành viên được gắn liền với mục tiêu phát triển của tổng công ty sẽ trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh với nghành nghề đa dạng. Trên cơ sở đó, tổng công ty Sông Đà có khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh, làm tổng thầu trọn gói các công trình lớn trong nước và quốc tế. Điều đó cho thấy, tổng công ty Sông Đà cần phải chuẩn bị đầy đủ mọi cơ sở vật chất kỹ thuật, áp dụng công nghệ khoa học kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng lực kinh doanh, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Để tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, tổng công ty Sông Đà đã tập trung xây dựng hệ thống các doanh nghiệp thành viên trong mối liên kết chặt chẽ về công nghệ và các dịch vụ sản xuất kinh doanh. Khi tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên đã tạo dựng được mối quan hệ gắn kết mang tính tập đoàn sẽ tạo ra một sức mạnh toàn diện trong việc huy động vốn, công nghệ, nhân lực cho mục tiêu phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh. Xuất phát từ mục tiêu trên, một trong những giải pháp của tổng công ty Sông Đà là thực hiện rà soát, sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp thành viên, trong đó có vấn đề CPH doanh nghiệp. Do vậy, từ những yêu cầu thực tế, việc thực hiện CPH là một bước đi quan trọng trong nội dung đổi mới của tổng công ty nhằm đáp ứng những vấn đề bức bách đặt ra trong phát triển. Điều đó cho thấy, hoà nhập vào công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước, nhiều vấn đề tổng công ty Sông Đà cần phải tập trung giải quyết, mà CPH cũng là vấn đề có ý nghĩa tích cực đến sự phát triển lâu bền của tổng công ty. 2.2.1- Xác lập quy trình tiến hành cổ phần hoá ở tổng công ty Sông Đà Thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành TW Đảng khóa IX về sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước và Quyết định số 335/QĐ-TTg ngày 28/02/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới Tổng công ty Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ Xây dựng giai đoạn 2003 – 2005, tổng công ty Sông Đà đã và đang tiến hành việc đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp thành viên nhằm tái cơ cấu lại tổng công ty theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả và từng bước trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các doanh nghiệp, khắc phục tình trạng yếu kém trong sản xuất kinh doanh bằng hình thức CPH. Để thực hiện công tác CPH doanh nghiệp thành viên, tổng công ty Sông Đà đã phổ biến và hướng dẫn từng doanh nghiệp qui trình và các bước tiến hành CPH theo đúng q._.ảo hộ bất hợp lý và tình trạng bao cấp của Nhà nước và tổng công ty đối với các doanh nghiệp thành viên như khoanh nợ, xoá nợ, bù lỗ, cấp vốn tín dụng ưu đãi. - Từng bước chuyển dần hoạt động của tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - con làm cơ sở cho việc xây dựng tổng công ty Sông Đà trở thành tập đoàn kinh tế mạnh. Như vậy, trong việc đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp ở tổng công ty Sông Đà, công tác CPH cần được thực hiện theo lộ trình cụ thể. Tổng công ty Sông Đà đã xác định mục tiêu đến năm 2010 là cơ bản hoàn thành công tác CPH các doanh nghiệp trong tổng công ty . 3.2- Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh thực hiện Cổ phần hoá ở tổng công ty Sông Đà. 3.2.1- Hoàn thiện môi trường pháp lý Việc hoàn thiện môi trường pháp lý cho công tác CPH ở nước ta hiện nay là hết sức cấp bách. Thực tế, một số chính sách và chế tài của các Luật như: Luật doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp Nhà nước... cần phải được tiếp tục hoàn thiện. Trên cơ sở đó, các Bộ, ngành chức năng cần có các chính sách, văn bản hướng dẫn có hệ thống và chi tiết hơn cho cơ sở thực thi chương trình CPH. Môi trường pháp lý cần phải hoàn thiện, được thể hiện qua một số nội dung sau: - Cần thay đổi từ cơ chế doanh nghiệp trực tiếp bán cổ phiếu sang cơ chế đấu giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán; chuyển việc xác định giá trị doanh nghiệp theo phương thức hành chính hiện nay sang phương thức đấu thầu giá trị doanh nghiệp. - Nhanh chóng xoá bỏ sự phân biệt giữa DNNN với các loại hình doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh, đồng thời còn giúp các doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật. - Sớm hình thành các công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng. Về tài chính, để đáp ứng kịp thời tốc độ CPH, cần nhanh chóng thành lập công ty đầu tư tài chính Nhà nước để đảm nhận chức năng quản lý phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi sang CTCP; Nhà nước nên quy định trách nhiệm cụ thể của các cơ quan quản lý trong việc tiếp tục cung cấp thông tin, phổ biến chính sách chế độ cho doanh nghiệp trong quá trình CPH. - Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết, huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nới lỏng hơn nữa điều kiện niêm yết chứng khoán của các CTCP. Đồng thời, cần xem xét lại việc quy định loại cổ phiếu ưu đãi chỉ được chuyển nhượng sau ba năm kể từ khi mua để nguồn vốn của người lao động có thể sử dụng linh hoạt hơn trong thời gian đó. - Về vấn đề mua cổ phần: Nhà nước nên có những chính sách thích hợp hơn đối với người lao động nghèo trong các doanh nghiệp khi thực hiện CPH, nên hoàn tất các thủ tục hành chính một cách nhanh gọn, tránh việc gây khó khăn trở ngại cho các cổ đông. Đồng thời, cho phép tổng công ty Sông Đà có thể bán cổ phần ưu đãi cho các cổ đông khác là người lao động trong doanh nghiệp CPH có đủ điều kiện mua tăng số cổ phần ưu đãi khi một số cổ đông không mua hết cổ phần ưu đãi của mình. Điều đó sẽ thúc đẩy nhanh hơn tiến độ CPH doanh nghiệp. 3.2.2- Tăng cường công tác tư tưởng trong thực hiện cổ phần hoá Thực hiện chủ trương lớn về sắp xếp, đổi mới DNNN của Đảng và Chính phủ, tổng công ty Sông Đà đã xác định công tác CPH các doanh nghiệp thành viên là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. CPH có tác động đến nhiều mặt của sự tồn tại và phát triển vững mạnh của tổng công ty. Do vậy, để triển khai tích cực và vững chắc công tác CPH, cần coi trọng các giải pháp về tư tưởng và tổ chức thực hiện CPH trong toàn thể CBCNV của tổng công ty. Công tác tư tưởng có vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức, qua đó tạo nên sự thống nhất về ý chí đối với các CBCNV trong tổng công ty để thúc đẩy CPH. Thực tế CPH các doanh nghiệp thành viên liên quan đến những vấn đề rất cơ bản thuộc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước như sở hữu, vai trò tự chủ của doanh nghiệp, chính sách đối với người lao động trong các DNNN sau CPH… Trước thực tế ấy, đã có không ít cách nhìn và ý kiến khác nhau trong tổng công ty. Một số ý kiến cho rằng, các DNNN trong nền kinh tế thị trường là yếu tố đảm bảo định hướng XHCN giữ vai trò chủ đạo, là bộ phận đóng góp nhiều nhất cho ngân sách Nhà nước vẫn phải được tiếp tục phát triển trên tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Việc coi nhẹ phát triển DNNN là xa rời định hướng XHCN. ý kiến khác lại cho rằng, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chỉ nên phát triển DNNN một cách có chọn lọc. Bởi vì, các DNNN đạt hiệu quả thấp, nên chỉ tập trung phát triển DNNN vào một số nghành, lĩnh vực sản xuất hàng hoá công cộng. Do vậy, ở nước ta cũng nên sớm giải thể, tư nhân hoá các DNNN ở những ngành, lĩnh vực mà tư nhân có thể đảm nhận. Từ những ý kiến trên, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đẩy mạnh công tác vận động trong tổng công ty đến các doanh nghiệp thành viên về mục tiêu, quan điểm, chủ trương CPH DNNN của Đảng và Chính phủ để triển khai rộng rãi công tác CPH. Do vậy, về công tác tư tưởng: - Phải làm cho các cấp uỷ Đảng và lãnh đạo của tổng công ty đến các doanh nghiệp thành viên quán triệt đầy đủ và thông suốt chủ trương của Đảng, Nhà nước về CPH. - Phải tổ chức tuyên truyền sâu rộng cho người lao động trong các doanh nghiệp hiểu và nhận thức đúng đắn chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tổng công ty về CPH. Trong công tác tư tưởng phải tạo được sự thông suốt tư tưởng cho CBCNV về mục đích, bản chất CPH DNNN không phải là tư nhân hoá, CPH DNNN là biện pháp hữu hiệu để cơ cấu lại hệ thống DNNN nhằm giải quyết những vướng mắc trong sản xuất, đời sống xã hội hiện nay. - Bên cạnh việc tuyên truyền, giải thích cho CBCNV về công tác CPH, cần phải phổ cập rộng rãi các kiến thức chủ yếu về kinh tế thị trường, về tính chất, đặc điểm hoạt động của CTCP, thị trường chứng khoán và sự cần thiết CPH DNNN nhằm huy động các nguồn vốn đầu tư trong dân cư. Từ đó, hình thành nhận thức mới của CBCNV. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì đối với các nước đã có nền kinh tế thị trường phát triển thì vấn đề này không cần đặt ra do dân cư đã có trình độ dân trí cao, các kiến thức về kinh tế thị trường đã được phổ cập rộng rãi. ở nước ta, do nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung kéo dài, những vấn đề trên còn là mới mẻ trong nhận thức của mọi người. - Tổng công ty cũng đã có những doanh nghiệp thành viên sản xuất kinh doanh có hiệu quả sau khi tiến hành CPH. Vì vậy, việc tuyên truyền phổ biến kinh nghiệm và thông tin một cách thường xuyên và kịp thời về những kết quả hoạt động của các doanh nghiệp này trong tổng công ty là cần thiết. Điều đó có tác dụng củng cố và tăng cường niềm tin của CBCNV đối với chủ trương CPH của Nhà nước và tổng công ty. Thực tế, giải pháp này vẫn ít được tổng công ty Sông Đà và các cấp Bộ, ngành quan tâm đúng mức. Vì vậy, thúc đẩy triển khai CPH ở tổng công ty, không nên xem nhẹ vai trò công tác tư tưởng trong CBCNV. 3.2.3- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tổng công ty đối với công tác cổ phần hoá Thực tế, tiến trình CPH của tổng công ty nhanh hay chậm và thành công đến mức nào đều gắn với trách nhiệm chỉ đạo của Đảng uỷ tổng công ty. Vì vậy, Đảng uỷ tổng công ty cần: - Trên cơ sở nhiệm vụ được giao, Ban thường vụ Đảng uỷ các cấp cần phối hợp chỉ đạo chặt chẽ các bộ phận nghiệp vụ nhằm thực hiện nghiêm túc kế hoạch CPH của tổng công ty, khắc phục tình trạng giao động, thiếu kiên quyết trong triển khai. - Ban thường vụ và Ban chấp hành Đảng uỷ các cấp thuộc tổng công ty phải nắm vững chủ trương của Đảng, Nhà nước về CPH để làm tốt vai trò lãnh đạo của mình. Đặc biệt, trong chỉ đạo thực hiện CPH, việc đầu tư và hợp tác với bên ngoài cần xác định rõ tỷ lệ cổ phần giữa các thành viên trong doanh nghiệp và ngoài doanh nghiệp. Đồng thời, cần chỉ đạo giải quyết tốt các vấn đề về tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi xã hội, tích luỹ và thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước của tổng công ty. - Phải coi trọng việc chăm lo công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ và công tác vận động quần chúng trong tổng công ty để thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, tăng cường công tác kiểm tra để chủ trương CPH của tổng công ty được thực hiện đạt kết qủa tốt, ngăn ngừa và khắc phục những biểu hiện tiêu cực đối với công tác CPH. 3.2.4- Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá CPH DNNN là một bước ngoặt trong đời sống kinh tế của CBCNV, nên họ không thể không có những suy nghĩ và thái độ khác nhau. Người lao động lo lắng bị nghỉ việc theo điều 17 của luật lao động mà không có ai can thiệp được, lo phải có tiền để mua cổ phần... Bên cạnh đó, từ vấn đề quyền lợi nên đội ngũ cán bộ lãnh đạo nhiều khi không hưởng ứng nhiệt tình với CPH. Đây là một thực tế, cần được giải quyết về mặt tư tưởng ở tổng công ty Sông Đà. Vì vậy, các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp như công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ có vai trò quan trọng đối với việc tuyên truyền về tư tưởng. Thông qua các hình thức như hội nghị, trao đổi để thu thập ý kiến của CBCNV, đề xuất cấp trên giải quyết những nguyện vọng chính đáng của người lao động. Các tổ chức đoàn thể còn đóng vai trò tích cực giúp đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ khi tiến hành CPH và khi doanh nghiệp đã chuyển thành CTCP. Đồng thời, các tổ chức đoàn thể, nhất là công đoàn, cần tham gia tích cực vào việc chuẩn bị nhân sự cho Hội đồng quản trị, xây dựng điều lệ của CTCP, đại hội cổ đông... Vì vậy, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể phải được coi là một giải pháp không thể thiếu được trong thực hiện CPH ở tổng công ty. 3.2.5- Kiện toàn, nâng cao năng lực tổ chức và quản lý của tổng công ty trong công tác cổ phần hoá Bộ máy quản lý vững mạnh sẽ có ý nghĩa quyết định đến kết quả hoạt động của tổng công ty. Vì vậy, để kiện toàn bộ máy tổ chức của tổng công ty để làm tốt công tác CPH cần: - Trước hết, đổi mới phương thức hoạt động của các phòng chức năng, các ban chuyên trách CPH từ tổng công ty đến các doanh nghiệp thành viên. Chú trọng đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác CPH có đủ năng lực, phẩm chất và trách nhiệm trong chuyên môn. Bên cạnh đó, tổng công ty cần mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về CPH, chứng khoán và thị trường chứng khoán để nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý. - Tăng cường sự chỉ đạo của tổng công ty với các doanh nghiệp thành viên trong công tác CPH; giải quyết kịp thời những vướng mắc ở các doanh nghiệp CPH; xử lý nghiêm khắc những giám đốc doanh nghiệp, cán bộ quản lý không thực hiện, hoặc chỉ thực hiện CPH mang tính chất đối phó. - Hình thành một bộ phận tư vấn gồm những chuyên gia giỏi về CPH trong tổng công ty để tư vấn giúp đỡ các doanh nghiệp thực hiện tốt tiến trình CPH. Phát huy vai trò cốt cán của đội ngũ cán bộ kinh tế có kinh nghiệm thực tế lâu năm trong tổng công ty để tìm ra các giải pháp vận dụng linh hoạt chính sách, chế độ của Nhà nước nhằm thúc đẩy nhanh công tác CPH. Đồng thời, nâng cao năng lực của bộ phận chuyên môn của Ban đổi mới doanh nghiệp từ tổng công ty đến các doanh nghiệp thành viên trong vận dụng quy định của Nhà nước về CPH và hướng dẫn thực hiện cho các doanh nghiệp thành viên. Thực tế, nâng cao năng lực tổ chức và quản lý của tổng công ty Sông Đà là một giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của các cấp quản lý trong tổng công ty khi tiến hành CPH. Đến nay, tổng công ty Sông Đà đã triển khai thực hiện CPH theo các Nghị định của Chính phủ và Thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành nhưng sự phối hợp giữa các phòng ban chuyên môn và các doanh nghiệp thành viên vẫn chưa được chặt chẽ. Để đảm bảo bước đi vững chắc của công tác CPH, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện về quy chế hoạt động trong phạm vi tổng công ty. - Thường xuyên nghiên cứu và rà soát lại các văn bản Nhà nước đã ban hành, để tìm ra những vấn đề chưa phù hợp với thực tế triển khai tại tổng công ty nhằm kịp thời có kiến nghị lên các Bộ, Ngành sửa đổi cho phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN. Nghiên cứu và thực hiện các quy định của Nhà nước về việc quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào các CTCP , chú ý theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. tổng công ty có thể thành lập công ty Đầu tư tài chính làm nhiệm vụ dùng vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp trong tổng công ty đã CPH. - Kiện toàn bộ máy chỉ đạo, điều hành CPH từ tổng công ty xuống các doanh nghiệp thành viên. Đó thực sự là cơ quan tham mưu với nhiệm vụ giúp lãnh đạo tổng công ty chỉ đạo tốt công tác CPH DNNN. Xây dựng và hoàn thiện quy chế quản lý của tổng công ty nhằm khuyến khích từng cá nhân nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều hiện thuận lợi và khuyến khích họ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Phải sớm đánh giá, rút kinh nghiệm, khen thưởng những doanh nghiệp làm tốt và phê phán nghiêm khắc những doanh nghiệp thiếu trách nhiệm, gây khó khăn, cản trở thực hiện CPH. - Theo dõi, kiểm tra và tổng kết thực hiện chương trình CPH: CPH là một vấn đề mới, phức tạp nên khâu theo dõi, kiểm tra, tổng kết thực hiện cần kịp thời để xử l‎ý, điều chỉnh đảm bảo mục tiêu và tiến độ thực hiện. 3.2.6- Chú trọng xây dựng kế hoạch cổ phần hoá của tổng công ty Việc CPH ở tổng công ty Sông Đà hiện nay vẫn còn là vấn đề mới mẻ. Do vậy, để thúc đẩy công tác CPH, tổng công ty Sông Đà phải chú trọng xây dựng kế hoạch CPH các doanh nghiệp thành viên. - Xây dựng chương trình tổng quát và cụ thể cho công tác CPH trong toàn tổng công ty. Đồng thời, vấn đề này cần tiến hành có trọng tâm, trọng điểm theo trình tự trên cơ sở xác định rõ số lượng doanh nghiệp thành viên cần CPH. Phải dựa vào tiêu thức chung và tình hình cụ thể của các doanh nghiệp trong tổng công ty để xác định danh sách các doanh nghiệp thực hiện CPH. Ví dụ, hai doanh nghiệp thành viên đều hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm bê tông, nhưng doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh và có khả năng phát triển hơn thì đưa vào danh sách CPH trước. Doanh nghiệp có tình hình sản xuất kinh doanh yếu kém thì chưa thể đưa ngay vào CPH. Như vậy, việc CPH không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, mà còn đảm bảo hiệu quả xã hội. Đồng thời, chính CPH doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển của tổng công ty để mở rộng hơn diện CPH Trên cơ sở danh sách các doanh nghiệp thuộc diện CPH đã xác định rõ, cần chia các doanh nghiệp đó thành các nhóm nhỏ hơn để xác lập lịch trình và bước đi cụ thể. Có thể chia các doanh nghiệp tiến hành CPH thành 3 nhóm: 1) Nhóm có khả năng CPH ngay: Đó là những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, quy mô vừa phải, có khả năng hấp dẫn người mua cổ phần; 2) Nhóm các doanh nghiệp có khả năng phục hồi, cần cơ cấu lại, cấp thêm vốn đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ sau đó tiến hành CPH; 3)Nhóm thứ ba là các doanh nghiệp không có khả năng phục hồi, làm ăn thua lỗ, công nghệ lạc hậu. Các doanh nghiệp này sẽ được xử l‎ý bằng cách giải thể hoặc sáp nhập. Như vậy, các doanh nghiệp thuộc nhóm đầu dễ tiến hành CPH nhất và thành công hơn. Sự thành công trong CPH ở các doanh nghiệp này sẽ kích thích doanh nghiệp khác, thúc đẩy tốc độ CPH của toàn tổng công ty. Với các doanh nghiệp thuộc nhóm hai, cần chuẩn bị kế hoạch hỗ trợ tài chính, thay đổi cán bộ… để doanh nghiệp vươn lên khẳng định uy tín để có đủ điều kiện CPH. Vì CPH DNNN là vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp, có nhiều yếu tố ràng buộc nên trong xây dựng và thực hiện chương trình cần phải: Nắm vững các thông tin về hoạt động của các doanh nghiệp trong danh mục CPH; Phân tích sâu sắc khả năng chuyển doanh nghiệp thành CTCP để có biện pháp thích hợp; Nắm vững các phương thức thực hiện chương trình; Dự báo phương hướng và triển vọng sản xuất kinh doanh sau khi doanh nghiệp chuyển thành CTCP; Lập các ngân quỹ và kế hoạch phụ trợ để thực hiện chương trình. 3.2.7- Chú trọng bảo đảm tính hiệu quả của cổ phần hoá Việc triển khai CPH trong tổng công ty cần khẩn trương tích cực, song phải đảm bảo tính hiệu quả gắn với sự phát triển bền vững của tổng công ty. Dưới dây là một số vấn đề cần được tiếp tục giải quyết: - Xác định hợp lý giá trị doanh nghiệp để không xảy ra những tiêu cực, thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước. Theo thông tư 104-1998/TT/BTC ngày 18/7/1998 của Bộ tài chính, giá trị thực tế của doanh nghiệp là tổng giá trị thực tế của tài sản (hữu hình và vô hình) thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp tính theo giá trị thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là phần còn lại sau khi lấy tổng giá trị thực tế của doanh nghiệp trừ đi các khoản nợ thực tế phải trả, số dư phúc lợi, khen thưởng (nếu có). Thực tế, tài sản của các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty Sông Đà hiện nay lại rất đa dang về nguồn gốc, cách tính giá trị tài sản cũng như khấu hao của tổng công ty đã phải thay đổi nhiều lần theo quy định của Nhà nước, nên giá trị tài sản doanh nghiệp trên sổ sách khác nhiều so với thực tế. Do vậy, phương pháp định giá doanh nghiệp cần được xác định khoa học hơn. Trong thực tế, việc xác định giá trị doanh nghiệp thường chấp nhận kết quả tính toán một chiều của chủ sở hữu là Nhà nước. Bộ tài chính đã có Thông tư 104-1998/TT/BTC về vấn đề này, nội dung chủ yếu là kiểm kê tài sản của doanh nghiệp, xử lý tài sản và các khoản nợ trước khi CPH, xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp để CPH, xác định giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Do vậy, nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp cần phải căn cứ vào các yếu tố: số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm CPH; giá trị thực tế của tài sản tại doanh nghiệp xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá trị thực tế tại thời điểm CPH; lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lý, uy tín mặt hàng (nếu có) và chỉ tính tối đa 30% giá trị lợi thế này vào giá trị thực tế của doanh nghiệp. Điều đó cho thấy, giá trị thực tế của doanh nghiệp có thể bằng, cao hơn, hoặc thấp hơn giá trị ghi trên sổ kế toán. Trong việc xác định giá trị doanh nghiệp, muốn không để xảy ra những thất thoát, tiêu cực, hoặc lợi dụng CPH để chia chác, phân tán tài sản Nhà nước cần thực hiện công khai và dân chủ, đồng thời phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra, giám sát. - Các doanh nghiệp có khả năng tiếp nhận đầu tư phát triển cần được tạo điều kiện thuận lợi khi chuẩn bị CPH. Một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn các cổ đông mua cổ phiếu của DNNN khi CPH là khả năng thu lợi từ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau CPH. Đó là lợi tức của CTCP mà các cổ đông được hưởng cao hay thấp. Điều đó có nghĩa là một doanh nghiệp khi tiến hành CPH nếu có tình hình tài chính lành mạnh và khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển thì công việc CPH càng dễ dàng và thuận lợi hơn. Do vậy, chủ trương và quan điểm của tổng công ty Sông Đà là hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn để mở rộng diện CPH trong phạm vi tổng công ty. Vì vậy cần: + Tăng cường áp dụng khoa học – công nghệ tiên tiến, đầu tư thiết bị kỹ thuật hiện đại nhằm tăng năng suất lao động, mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp thành viên. Trong sản xuất, việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ mới sẽ có tác dụng nhiều mặt về kinh tế, xã hội. Về kinh tế, áp dụng thiết bị công nghệ hiện đại làm cho sản xuất được phát triển ở trình độ cao hơn, tính chất xã hội hoá sản xuất được tăng cường sẽ tạo cơ sở cho các doanh nghiệp chuyển thành CTCP được thuận lợi. áp dụng công nghệ mới sẽ đưa đến nâng cao sản xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập, tạo nguồn vốn tích luỹ để tái đầu tư, kể cả hình thức đầu tư bằng cổ phiếu tại các CTCP. Do vậy, có thể bằng con đường áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để trang bị lại kỹ thuật, công nghệ, tổ chức lại sản xuất sẽ thu hút được các nhà đầu tư cổ phiếu mạnh hơn, tiến trình CPH sẽ nhanh hơn. Đó còn là giải pháp có ý nghĩa vừa cơ bản, vừa cấp bách đối với yêu cầu triển khai tích cực và vững chắc công tác CPH ở tổng công ty Sông Đà giai đoạn tiếp. + Phải xem xét lại cơ cấu doanh nghiệp và dự án đầu tư cụ thể để có những điều chỉnh thích hợp theo hướng hiệu quả. Tìm cách phát huy tối đa các nguồn lực trong nội bộ tổng công ty, đồng thời tìm mọi nguồn vốn tài trợ từ bên ngoài như Quỹ Đầu tư phát triển, ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Do vậy, phải có biện pháp tháo gỡ triệt để nhằm tăng khả năng huy động vốn trong nội bộ tổng công ty. Mặt khác, phải kiên quyết đình hoãn các công trình quy mô lớn, thiếu tính khả thi hoặc hiệu quả thấp; cắt giảm các dự án và lĩnh vực ít có khả năng cạnh tranh; các công trình và dự án đã đưa vào kế hoạch đầu tư phải quyết tâm đầu tư dứt điểm để sớm đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả. Cùng với chiến lược đầu tư trên, tổng công ty cần có những biệp pháp khuyến khích tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng. Xử lý nghiêm khắc và kịp thời những hành động tiêu cực gây thất thoát tiền vốn và tài sản. Do đó để thực hiện đầu tư một dự án cụ thể, tổng công ty có thể giao cho một doanh nghiệp thành viên chịu trách nhiệm thu hút vốn đầu tư của công nhân viên chức tại doanh nghiệp và của người ngoài doanh nghiệp thông qua CPH DNNN. Đồng thời, vốn Nhà nước tại doanh nghiệp được chuyển hoá thành vốn góp cổ phần trong CTCP. Đây cũng là một trong những cách thức thực hiện CPH mà tổng công ty Sông Đà cần áp dụng. + Phát triển và đa dạng hoá nghành nghề sản xuất kinh doanh. Tổng công ty cần phát huy ngành nghề truyền thống là xây dựng thuỷ điện để trở thành nhà thầu có tầm cỡ quốc tế, có thể thi công được những công trình đồi hỏi yêu cầu kỹ thuật chất lượng cao. Đồng thời, cần mở rộng các nghành nghề khác như kinh doanh hạ tầng và đô thị, xuất khẩu lao động, sản xuất kinh doanh những mặt hàng vật liệu xây dựng mà nhu cầu thị trường đang thiếu như xi măng, sắt thép... + Cần chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tham gia thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là nơi giao dịch mua bán những cổ phiếu có giá trị như cổ phiếu, trái phiếu, ngân phiếu, kỳ phiếu…được ra đời và phát triển trong quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa cung - cầu về vốn đầu tư trên thị trường. Đối với quá trình CPH DNNN tại tổng công ty Sông Đà, thị trường chứng khoán sẽ là nơi cung cấp thông tin, mà tổng công ty Sông Đà có thể biết được những doanh nghiệp thành viên nào cần thiết phải CPH để có những quyết định đúng đắn trong quá trình CPH. Do vậy, tổng công ty Sông Đà cần lấy CPH làm điều kiện để tham gia tích cực vào thị trường chứng khoán và lấy việc tham gia tích cực vào thị trường chứng khoán để tác động trở lại làm cho tiến trình CPH ở tổng công ty nhanh hơn, vững chắc hơn. 3.2.8- Tiếp tục hoàn thiện chính sách đối với người lao động Chính sách đối với người lao động có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của mỗi CBCNV làm việc tại doanh nghiệp. Đây là một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất khi CPH các doanh nghiệp thành viên. Điều này có tác động trực tiếp đến tiến độ thực hiện CPH. Giải quyết tốt vấn đề này không chỉ có tác dụng tích cực về mặt kinh tế mà còn tạo ra hiệu ứng tích cực về mặt xã hội. Nó phản ánh tính chất ưu việt của xã hội ta và làm cho CPH DNNN có ý nghĩa thiết thực trong sự phát triển kinh tế – xã hội. Nhìn chung, các chính sách trên đã có tác dụng tích cực trong thực hiện mục tiêu CPH. Tuy nhiên từ thực tiễn cuộc sống, chính sách đối với người lao động trong các doanh nghiệp CPH cần được tiếp tục bổ sung các vấn đề sau: - Cần có chính sách và biện pháp cụ thể để giải quyết số lao động dôi dư cả trong và sau khi CPH: Khi tiến hành CPH, doanh nghiệp phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi dư trên cơ sở đề án đổi mới, phát triển doanh nghiệp. Phải phân loại để xác định số lao động dôi dư, đưa ra hướng giải quyết cụ thể như cho nghỉ hưu trước tuổi đối với người gần đến tuổi nghỉ hưu, đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho những người còn trẻ để sử dụng hoặc chuyển sang ngành nghề mới. Tổng công ty cần có các biện pháp hỗ trợ tài chính như cho phép doanh nghiệp sử dụng vốn vay lãi suất thấp để tạo thêm việc làm, giải quyết lao động dôi dư. - Tạo điều kiện thuận lợi để người lao động được hưởng đúng và đủ chế độ ưu đãi mua cổ phần trong doanh nghiệp. Để tạo ra sự công bằng trong việc mua cổ phần ưu đãi giữa người lao động trong doanh nghiệp CPH, cần thành lập quỹ hỗ trợ CPH để có vốn bổ sung cho các doanh nghiệp khi người lao động ở đây có khả năng được mua đủ 10 cổ phần ưu đãi trong 1 năm làm việc. 3.2.9- Quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên sau cổ phần hoá Nhìn chung, các doanh nghiệp sau CPH thường gặp nhiều khó khăn về tài chính, về các quy chế hoạt động… Do vậy, tổng công ty cần có những biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp sau CPH giải quyết những khó khăn này. Đó là: - Phải có văn bản cụ thể hướng dẫn thực hiện các quy chế hoạt động cho doanh nghiệp sau khi đã CPH nhằm bảo đảm cho các doanh nghiệp thuộc mọi nghành nghề kinh doanh, thuộc mọi địa bàn được hoạt động bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh trước pháp luật. - Lãnh đạo tổng công ty cần quan tâm chỉ đạo sâu sát để nắm chắc tình hình các doanh nghiệp thành viên, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc của từng doanh nghiệp bằng các hình thức hỗ trợ cần thiết nhằm ngăn chặn việc gây phiền hà, sách nhiễu, phân biệt đối xử với các doanh nghiệp CPH. Đồng thời, thực hiện đầy đủ những ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động được quy định tại Nghị định 44/1998/NĐ-CP. - Phòng tài chính, phòng kế toán và các bộ phận chuyên môn nghiệp vụ khác cần tham mưu cho lãnh đạo tổng công ty ra văn bản hướng dẫn các doanh nghiệp thành viên về thủ tục, về sử dụng nguồn tài chính để chi trả các khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động trong thời gian làm việc tại doanh nghiệp trước khi CPH và cho người lao động trong các CTCP khi nghỉ chế độ. + Tổng công ty cần có biện pháp cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi và giúp cho các doanh nghiệp kịp thời có số lượng cổ phiếu khi thực hiện CPH. Tránh tình trạng doanh nghiệp sau CPH phải nộp toàn bộ số vốn điều lệ vào kho bạc mới cấp cổ phiếu cho doanh nghiệp. + Tổng công ty phải có phương án giải quyết các khoản nợ, nhất là các khoản nợ khó đòi của các doanh nghiệp khi tiến hành định giá doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thành viên sau CPH đi vào hoạt động thuận lợi. Tổng công ty giúp đỡ các doanh nghiệp thành viên trong việc hoãn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp CPH trong 2 năm đầu và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo, chú ý trả lợi tức cổ phiếu một cách thoả đáng để vận động các cổ đông và thu hút thêm các nhà đầu tư mới. + Tổng công ty cũng cần có chính sách, chế độ đối với số cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp thành viên; bố trí sắp xếp hoặc ưu tiên giải quyết chế độ khi họ không còn tiếp tục làm việc trong CTCP. Tóm lại, thực tiễn công tác sắp xếp, đổi mới đổi mới doanh nghiệp ở tổng công ty Sông Đà chứng tỏ CPH DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước và cần được tiến hành mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới. Đây là giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển tổng công ty Sông Đà trở thành tập đoàn kinh tế mạnh. Kết luận Cổ phần hoá DNNN là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Nghiên cứu về “Thực trạng CPH ở tổng công ty Sông Đà, kinh nghiệm và giải pháp”, luận văn đã hoàn thành được mục tiêu đặt ra và có những đóng góp sau: 1. Hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về CPH DNNN. Đó là khái niệm về CPH và sự hình thành CTCP. Đặc biệt, luận văn đã làm rõ sự cần thiết phải CPH DNNN ở nước ta và tác dụng của nó. Đồng thời, luận văn cũng làm rõ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CPH DNNN. Để làm rõ thêm những vấn đề lý luận về CPH DNNN, luận văn đã rút ra những kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo với nước ta về thực tiễn CPH DNNN ở một số nước. 2. Phân tích thực trạng quá trình thực hiện CPH ở tổng công ty Sông Đà trong thời gian qua. Từ kết quả và hạn chế, luận văn đã rút ra một số bài học kinh nghiệm về CPH ở tổng công ty Sông Đà. Đó cũng là cơ sở để đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình CPH ở tổng công ty cho phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn tiếp. 3. Dựa vào mục tiêu, phương hướng phát triển và những yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp thành viên của của tổng công ty Sông Đà, luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH ở tổng công ty Sông Đà. Đó là: Hoàn thiện môi trường pháp lý; tăng cường công tác tư tưởng trong thực hiện CPH; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tổng công ty đối với công tác cổ phần hoá; phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tiến trình CPH; kiện toàn, nâng cao năng lực tổ chức và quản lý của tổng công ty trong công tác CPH; chú trọng xây dựng kế hoạch cổ phần hoá của tổng công ty; chú trọng bảo đảm tính hiệu quả của cổ phần hoá; tiếp tục hoàn thiện chính sách đối với người lao động; quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên sau CPH. Để tăng tính khả thi của các giải pháp trên, luận văn đề xuất với Nhà nước và tổng công ty Sông Đà một số kiến nghị nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH ở tổng công ty. Kiến nghị đối với Nhà nước: Khẩn trương hoàn thiện hệ thống đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp đã CPH; cần đơn giản hoá thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giải quyết nhanh chóng thủ tục trong CPH; hướng dẫn kịp thời những văn bản mới liên quan tới công tác CPH. Đồng thời, nhanh chóng giải quyết những tồn tại, vướng mắc về chế độ, chính sách của các DNNN. Kiến nghị đối với tổng công ty Sông Đà: Kiên quyết xử lý những cán bộ làm chậm trễ tiến độ CPH, đồng thời tổng công ty Sông Đà cần phối hợp với các cơ quan chức năng trong thực hiện CPH; xây dựng kế hoạch triển khai quá trình CPH, trong đó cần xác định cụ thể các bước chuyển doanh nghiệp thành CTCP theo kế hoạch đặt ra; phối hợp đồng bộ các chính sách và giải pháp trong thực hiện CPH. Đồng thời, chú trọng giải quyết thoả đáng quyền lợi, chế độ cho người lao động. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32750.doc
Tài liệu liên quan