Phần I: Cổ phần hoá với phát triển kinh tế và tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội
I. Doanh nghiệp nhà nước và vấn đề cổ phần hoá
1. Doanh nghiệp nhà nước
1.1. Khái niệm
Theo luật doanh nghiệp nhà nước do quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 20/04/1995 thì doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa như sau: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm t
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1206 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao.
Như vậy doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế được nhà nước thành lập để thực hiện những mục tiêu do nhà nước giao. Và vì doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn vào nên tài sản trong doanh nghiệp là thuộc sở hữu nhà nước, còn doanh nghiệp quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Nghĩa là doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm hữu hạn về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số tài sản do doanh nghiệp quản lý.
Tất cả các doanh nghiệp nhà nước đều là tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập. Tài sản trong doanh nghiệp là một bộ phận của tài sản nhà nước do nhà nước đầu tư vốn và nhà nước sở hữu về vốn. Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh doanh nhưng chỉ có quyền quản lý kinh doanh trên cơ sở sở hữu của nhà nước. Là đối tượng quản lý trực tiếp của nhà nước, chịu trách nhiệm trước nhà nước về việc bảo toàn và phát triển số vốn của nhà nước giao cho. Đồng thời thực hiện các mục tiêu mà nhà nước giao.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển
1.2.1. Quá trình hình thành
Việc ra đời doanh nghiệp nhà nước là do vai trò hết sức quan trọng của nó nhưng ở mỗi quốc gia khác nhau thì nguyên nhân là khác nhau. Nhưng tựu chung lại thì chỉ có 4 nguyên nhân như sau:
Sau chiến tranh thế giới thì các nước muốn khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh. Nhưng muốn khôi phục được thì chi phí rất lớn đòi hỏi đầu tư nhiều, trong khi đó thì các doanh nghiệp tư nhân với vốn nhỏ công nghệ kém không đủ sức tham gia xây dựng các công trình lớn, đòi hỏi nhiều vốn và công nghệ.
Quá trình quốc hữu hoá toàn bộ xí nghiệp của tư bản nước ngoài đặc biệt ở các nước xã hội chủ nghĩa kinh tế quốc doanh là thành phần kinh tế chính. Phát triển sở hữu công bằng quốc hữu hoá doanh nghiệp tư nhân, tư bản trong và ngoài nước ngay sau khi giành được độc lập từ tay đế quốc.
Nhằm ổn định kinh tế, đang trong giai đoạn suy thoái và khủng hoảng sau chiến tranh. Phát triển công bằng xã hội, nhằm mục tiêu ổn định tình hình chính trị xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước.
Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Do đó tư nhân không thể tham gia nên chính phủ phải thành lập các doanh nghiệp nhà nước, để làm đầu tàu kinh tế dẫn dắt nền kinh tế và chính phủ nắm giữ các ngành công nghiệp chủ chốt để thực hiện mục tiêu quốc gia và đồng thời phục vụ ý đồ chính trị của mình.
Đối với Việt Nam: Xuất phát từ quan niệm nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất với 2 hình thức là sở hữu toàn dân (sở hữu nhà nước) và sở hữu tập thể (hợp tác xã). Nên ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công chúng ta đã có các văn bản pháp luật về doanh nghiệp nhà nước là sắc lệnh số 104/SL do chủ tịch nước ban hành ngày 1.1.1948 quy định việc thành lập doanh nghiệp nhà nước và thuộc sở hữu quốc gia. Ngày 31.10.1952 thủ tướng chính phủ ban hành nghị định 214/Ttg-NĐ ban hành điều lệ tạm thời về xí nghiệp quốc doanh. Sau khi miền bắc giải phóng thủ tướng chính phủ ban hành quyết định số 130/ttg quy định thi hành chế độ hạch toán kinh tế để phát triển sản xuất. Ngày 8.4.1977 chính phủ mới ban hành điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh. Ngày 21.1.1981 ra quyết định 25/CP về đổi mới công tác kế hoạch hoá đối với xí nghiệp quốc doanh, mở rộng quyền chủ động trong kinh doanh cho xí nghiệp quốc doanh. Thuật ngữ doanh nghiệp nhà nước được sử dụng chính thức trong nghị định 388/HĐBT ngày 20.11.1991. Và ngày 20.4.1995 quốc hội thông qua luật doanh nghiệp nhà nước. Đến thời điểm này doanh nghiệp nhà nước mới chính thức được điều chỉnh bởi văn bản pháp luật.
1.2.2. Vai trò của kinh tế nhà nước.
Hiện nay Việt Nam đang xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, các doanh nghiệp đều bình đẳng trong kinh doanh và trước pháp luật. Nhưng không có nghĩa là chúng có vị trí như nhau trong nền kinh tế. Phạm vi hoạt động của thành phần này càng ngày càng giảm nhưng nó vẫn giữ vai trò chủ đạo. Tồn tại trong những ngành lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, để nhà nước có đủ sức thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, can thiệp vào để khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường điều tiết thị trường theo mục tiêu của nhà nước đã đặt ra và theo đúng định hướng chính trị của nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước còn phải được duy trì ở những ngành, lĩnh vực kinh doanh mang lại ít lợi nhuận hoặc không có lợi nhuận. Vì ít lợi nhuận nên các thành phần kinh tế khác sẽ không đầu tư vào nhưng để đảm bảo nhu cầu chung của nền kinh tế đảm bảo lợi ích công cộng.
Nhà nước còn phải đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi vốn lớn mà các thành phần kinh tế khác không đủ sức đầu tư. Do đó mà doanh nghiệp nhà nước lại càng có vai trò quan trọng. Việc đánh giá vai trò quan trọng của kinh tế nhà nước không chỉ dựa vào sự lời lỗ trước mắt mà phải tính đến hiệu quả kinh tế lâu dài. Sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách quan. Để doanh nghiệp nhà nước phát huy vai trò chủ đạo của mình, đòi hỏi nhà nước phải có chính sách quản lý thích hợp đối với doanh nghiệp nhà nước. Nhưng cũng phải tôn trọng quy luật kinh tế khách quan, để các doanh nghiệp nhà nước không là gánh nặng cho nhà nước về kinh tế mà kinh tế nhà nước phải được sắp xếp lại cho hợp lý nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
1.2.3. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ hoạt động của doanh nghiệp nhà nước là khá hiệu quả cả về kinh tế và xã hội. Nhưng do cơ chế cũ theo kiểu bao cấp, nền kinh tế tự cung tự cấp kéo dài, dẫn đến triệt tiêu động lực sản xuất kinh doanh. Sản xuất không theo nhu cầu mà theo chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước, sản xuất đình trệ không có hiệu quả. Nhất là vào những thập kỷ 60 tình hình trở nên xấu hơn khi các doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Mục đích của việc thành lập doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo tích luỹ cho ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho người lao động nhưng trong thực tế các doanh nghiệp nhà nước không đáp ứng được những mục tiêu này. do doanh nghiệp nhà nước thường có xu hướng tập trung vào những ngành cần vốn lớn sử dụng ít lao động, cộng thêm với việc trình độ của đội ngũ quản lý doanh nghiệp có nhiều yếu kém, nên doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả không đảm bảo được các mục tiêu nhà nước đặt ra đối với doanh nghiệp nhà nước khi thành lập. Việc hoạt động kém hiệu quả là do 3 nguyên nhân:
ảnh hưởng của kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong điều kiện chiến tranh kéo dài. Coi kinh tế quốc doanh dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, xem nhẹ quy luật kinh tế khách quan của thị trường nên hạch toán doanh nghiệp mang tính hình thức, đội ngũ cán bộ lãnh đạo quan liêu, nóng vội chủ quan duy ý chí. Ngay cả trong thời kỳ đổi mới thì thành phần kinh tế này vẫn hoạt động chưa hiệu quả, do chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường và thực tế, thái độ lao động của doanh nghiệp nhà nước còn mang tính ỷ lại, nên năng xuất lao động không cao.
Sự yếu kém của lực lượng sản xuất, cần xây dựng và hoàn thiện đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật lành nghề, cán bộ quản lý có năng lực trình độ và đầu tư cho các trang thiết bị máy móc công nghệ hiện đại. Sự yếu kém của lực lượng sản xuất còn thể hiện ở kết cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế cũng như của mỗi doanh nghiệp. Công nghệ lạc hậu dẫn tới hậu quả tất yếu là sản phẩm chất lượng kém giá thành sản phẩm cao không thể cạnh tranh trên thị trường, vì thế doanh nghiệp chưa có tích luỹ nội bộ.
Trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế và doanh nghiệp còn nhiều yếu kém. Hệ thống chính sách pháp luật quản lý chưa hoàn chỉnh đồng bộ khi còn chồng chéo mâu thuẫn, hiệu lực thực hiện thấp gây khó khăn cho doanh nghiệp . Pháp luật còn nhiều kẽ hở chồng chéo không ổn định sự kém linh hoạt của bộ phận quản lý tài chính, kế toán, kiểm toán, thanh tra. Nên nhà nước không nắm được thực trạng tài chính hiệu quả của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước chưa xác định rõ quyền lợi trách nhiệm của người lao động, cho nên người lao động không có trách nhiệm, không quan tâm đến quản lý sử dụng tài sản doanh nghiệp, tình trạng tham nhũng tiêu cực trong doanh nghiệp trở nên phổ biến.
+ Công nợ của các doanh nghiệp nhà nước lớn, nợ phải thu chiếm 65% , nợ phải trả chiếm 125 % vốn nhà nước trong doanh nghiệp. Trong đó nợ phải trả cho ngân hàng chiếm 25%.
+ Quy mô của doanh nghiệp nhà nước phần lớn nhỏ bé số lượng nhiều. Năm 1996 có 33% doanh nghiệp nhà nước có vốn nhỏ hơn 1 tỷ đồng trong đó 50% có số vốn nhỏ hơn 500 triệu đồng số doanh nghiệp có vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 30 %. Còn số doanh nghiệp có số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng chỉ chiếm 23 % trong số các doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động. Nhiều doanh nghiệp cùng loại hoạt động chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý trên cùng 1 địa bàn tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh, nảy sinh nhiều tiêu cực.
+ Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước rất yếu vì chưa chứng tỏ khả năng cạnh tranh trên thị trường vì mang tâm lý trông chờ ỷ lai không tự xây dựng kế hoạch kinh doanh cho doanh nghiệp. Trên thực tế đã chứng minh khả năng cạnh tranh và khả năng thành công của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào kế hoạch kinh doanh và kế hoạch cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc lựa chọn sản phẩm cho doanh nghiệp là yếu tố quan trọng hàng đầu. Vì doanh thu mà sản phẩm mang lại phải bảo đảm bù đủ chi phí ngoài ra còn phải có lợi nhuận.
+ Tình trạng thiếu vốn là phổ biến: trung bình mỗi doanh nghiệp có 11,6 tỷ đồng vốn do nhà nước cấp nhưng vốn hoạt động thực tế chỉ bằng 80% vốn ghi trên sổ sách. Vốn lưu động chỉ còn 50 % huy động vào sản xuất kinh doanh. Còn lại là công nợ khó đòi tài sản mất mát, kém phẩm chất, trang thiết bị lạc hậu.
Vì thế việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả gây lãng phí nguồn lực quốc gia, sang hình thức công ty cổ phần hay tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước là chủ trương hoàn toàn hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của nền kinh tế.
2. Công ty cổ phần.
2.1. Khái niệm.
Theo luật công ty ngày 21 - 12 - 1990 định nghĩa thì công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng nhau góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn của mình góp vào công ty.
Công ty cổ phần có đặc điểm chung là: vốn điều lệ của công ty được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần, trong đó thì các cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là 7 người và không hạn chế tối đa. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra thị trường theo đúng quy định của pháp luật về chứng khoán. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm hữu hạn, cổ đông trong công ty chỉ chịu trách nhiệm về nợ của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty.
Cổ phần và cổ đông:
Cổ phần phổ thông là cổ phần bắt buộc phải có của công ty cổ phần, người sở hữu cổ phần phổ thông được gọi là cổ đông phổ thông
Cổ phần ưu đãi là cổ phần có được những ưu đãi về quyền lợi nhất định so với cổ phần phổ thông. Công ty cổ phần có thể có hoặc không có cổ phần ưu đãi. Người sở hữu cổ phần ưu đãi được gọi là cổ đông ưu đãi. Cổ phần ưu đãi bao gồm cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại, cổ phần ưu đãi khác do điều lệ công ty quy định.
Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ đông phổ thông (số phiếu này do điều lệ công ty quy định) cổ phần này không được quyền chuyển nhượng .
Cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần trả mức cổ tức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm.
Cổ phiếu và trái phiếu
Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu của một hoặc một số cổ phần của công ty, cổ phiếu có ghi tên hoặc không ghi tên.
Trái phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ của công ty cổ phần đối với người sở hữu trái phiếu. Công ty cổ phần có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu khác theo quy định của pháp luật.
2.2. Quá trình hình thành và phát triển.
ở Việt Nam, luật cạnh tranh ra đời muộn và chậm phát triển. Mặc dù hoạt động thương mại đã có từ lâu và trong lịch sử được điều chỉnh bằng thông lệ thương mại. Luật lệ về công ty có thể được quy định lần đầu tại Việt Nam trong “dân luật thi hành tại các toà án Nam - Bắc kỳ” đạo luật này chia các công ty (hội buôn) thành 2 loại hội hợp danh và hội hợp vốn, trong hội hợp vốn chia thành hội vô danh (công ty cổ phần) và hội hợp cổ (công ty hợp vốn đơn giản cổ phần).
Dưới thời Pháp thuộc xuất hiện nhiều loại công ty dưới hình thức hội, và luật công ty Việt Nam gắn liền với luật dân sự và thương mại. Từ năm 1954 đất nước chia làm 2 miền do đó có 2 hệ thống pháp luật khác nhau ở miền Bắc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa nên chỉ có 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể, nên công ty cũng không tồn tại.
Từ 1986 Đảng đã đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đã tạo điều kiện cho các công ty ra đời và phát triển. Đến ngày 21-12-1990 luật công ty chính thức được ban hành, đến 22-06-1994 luật công ty được sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
2.3. Ưu nhược điểm của công ty cổ phần
Ưu điểm: mang lại hiệu quả kinh doanh cao góp phần hoàn thiện cơ chế thị trường, do quan hệ đa sở hữu trong công ty cổ phần nên quy mô có khả năng mở rộng, huy động vốn dễ, thu hút được nhiều nhà đầu tư và tiết kiệm của dân cư, nên có thể mở rộng quy mô nhanh. Công ty cổ phần có thời gian tồn tại vô hạn vì vốn góp có sự độc lập nhất định với các cổ đông người mua cổ phần không được rút vốn mà chỉ được quyền sở hữu trao đổi buôn bán tự do trên thị trường chứng khoán và có quyền thừa kế. Chức năng của vốn tách rời quyền sở hữu nên sử dụng được các nhà quản lý chuyên nghiệp giỏi, giám đốc kinh doanh trở thành một nghề không mang chức vụ hành chính, công ty cổ phần có thể thuê mướn giám đốc kinh doanh trên cơ sở hợp đồng quản trị. Cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù, chế độ trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ trong mức vốn của công ty nên các nhà đầu tư tài chính có thể mua cổ phần của nhiều công ty để giảm tổn thất khi bị phá sản, so với khi đầu tư vào 1 hoặc 1 số công ty cùng ngành. Tạo điều kiện ra đời thị trường chứng khoán, tập hợp nhiều lưu lượng khác nhau vào hoạt động chung nhưng vẫn tôn trọng quyền sở hữu riêng, cả về quyền và lợi ích của cổ đông theo vốn. Đặc biệt là người lao động là cách để họ tham gia vào công ty chứ không phải là làm thuê nên tăng trách nhiệm của họ đối với công việc.
Nhược điểm: đem lại thuận lợi cho công ty nhưng chuyển bớt rủi ro cho chủ nợ, các cổ đông không quen biết nhau, có tiền nhưng có thể không hiểu biết về kinh doanh, mức góp vốn không bằng nhau nên mức độ ảnh hưởng có khác nhau, do đó có thể có sự lợi dụng nhau hoặc nảy sinh tranh chấp và phân hoá lợi ích. Có tổ chức chặt chẽ nhưng không phân công về quyền lực và chức năng của từng bộ phận cho hoạt động của công ty cho hiệu quả là khó. Có tính dân chủ cao trong kinh doanh phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn nên quyền kiểm soát công ty thực tế thuộc quyền của các cổ đông lớn, dù họ không hiểu gì về kinh doanh nên có tình trạng công ty chưa hoạt động đúng chức năng, kém hiệu quả.
3. Quá trình cổ phần hoá
3.1. Bản chất cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Từ thực tế hoạt động cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cho thấy, khi cổ phần hoá vốn chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước được chuyển đổi thành công ty cổ phần và được bán cho nhiều đối tượng khác nhau như các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp. Nhà nước có thể giữ lại một tỷ lệ cổ phần hoặc không. như vậy hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ sở hữu nhà nước duy nhất sang sở hữu hỗn hợp. Từ đây dẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức quản lý cũng như phương hướng hoạt động cuả công ty. Doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá trở thành công ty cổ phần, sẽ tổ chức hoạt động theo luật doanh nghiệp.
Có thể khái quát về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một biện pháp chuyển đổi hình thức sở hữu trong doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước sang sở hữu của các cổ đông (trong đó nhà nước có thể tham gia với tư cách cổ đông hoặc không tham gia). Đi đôi với việc chuyển đổi sở hữu là việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước (sau cổ phần hoá) sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, được điều chỉnh theo các quy định trong Luật doanh nghiệp. Về hình thức, đó là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần (vốn của mình trong doanh nghiệp cho các cá nhân tổ chức trong và ngoài doanh nghiệp, hoặc trực tiếp tự doanh nghiệp theo cách bán giá thông thường hay bằng phương thức đấu giá hoặc qua thị trường chứng khoán.
Về bản chất, đó là phương thức thực hiện xã hội hoá đồng vốn thuộc sở hữu nhà nước, chuyển từ doanh nghiệp 1 chủ sở hữu sang đa sở hữu, tạo nên mô hình doanh nghiệp hoạt động phù hợp kinh tế thị trường.
Hay cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, nhằm huy động vốn của xã hội vào việc đầu tư đổi mới công nghệ thay đổi phương thức quản lý, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế.
3.2. Quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam
3.2.1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và trình độ xã hội hóa sản xuất dẫn đến sự tập trung lớn về vốn xã hội khi một cá nhân không thể đáp ứng được vì quy mô vốn quá lớn đối với cá nhân.
Do đặc tính của nền kinh tế thị trường với những nhu cầu đòi hỏi về đổi mới kỹ thuật công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hoá.
Sự ra đời của thị trường vốn và phát triển các ngân hàng thương mại là đầu mối huy động thu hút vốn cho doanh nghiệp bằng phát hành cổ phiếu ra thị trường, thu vốn tài sản hoặc tiền mặt, chuyển khoản về để đầu tư mua sắm trang thiết bị đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất thu lợi nhuận cao hơn.
Xu thế đổi mới trong khu vực và nhiều nước, đã cổ phần hoá thành công. Những nhân tố này đã có đủ ở Việt Nam từ đầu những năm 90 tạo cơ sở cho ra đời và phát triển công ty cổ phần. Tuy nhiên vai trò và hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực của mình và bộc lộ nhiều yếu kém: làm ăn chồng chéo, manh mún dẫn đến thua lỗ và nợ đọng nhiều, không linh hoạt trong thu hút vốn và đổi mới kỹ thuật công nghệ và khả năng quản lý còn nhiều hạn chế, cần có biện pháp và giải pháp tháo gỡ.
Tạo điều kiện cho những người góp vốn, công nhân viên nâng cao vai trò làm chủ, họ sẽ hăng say sản xuất kinh doanh và có ý thức hơn trong công tác và bảo vệ tài sản nhằm tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh giải phóng doanh nghiệp khỏi sự quản lý của nhà nước, tránh cho nhà nước phải chịu gánh nặng thua lỗ của doanh nghiệp.
Để bắt kịp xu thế chung của thế giới và đòi hỏi phải đổi mới doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam thì việc tiến hành cổ phần hoá là hết sức cần thiết và là điều tất yếu sẽ xảy ra nếu ta không kịp thời chuyển đổi cho phù hợp thì không thể theo kịp trình độ phát triển của các nước trên thế giới.
3.2.2. Nội dung cơ bản của chủ trương cổ phần hoá.
Chủ trương cổ phần hoá đã được đề ra từ lâu nhưng đến nay mới được quan tâm hợp lý nhà nước đã đề ra nhiều giải pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cổ phần hoá như nghị định 44/2998/NĐ-CP, nghị định 64/2002/NĐ-CP, bao gồm một số nội dung cơ bản về cổ phần hoá như sau:
Về mục tiêu cổ phần hoá: Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có đông đảo người lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và của doanh nghiệp. Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp. Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp nhà đầu tư và người lao động.
Về đối tượng doanh nghiệp cổ phần hoá: có đủ điều kiện hạch toán độc lập, không gây khó khăn hay ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các bộ phận còn lại.
Hình thức cổ phần hoá: Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phần thu hút thêm vốn đầu tư. Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phần thu hút thêm vốn.
Phương thức bán cổ phần: Cổ phần được bán công khai tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, hoặc tại các tổ chức tài chính trung gian theo cơ cấu cổ phần lần đầu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trong phương án cổ phần hoá và sẽ được thực hiện theo phương thức bán đấu giá. Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá có tình hình tài chính phù hợp với điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán, thì phương án bán cổ phần ra bên ngoài phải đảm bảo các điều kiện để được niêm yết trên thị trường chứng khoán, sau khi chuyển thành công ty cổ phần. Tiền thu từ bán cổ phần thuộc vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty nhà nước (không phân biệt tổng công ty 90 hay tổng công ty 91) sẽ được chuyển về quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá tổng công ty nhà nước. Tiền thu từ bán phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được sử dụng để hỗ trợ doanh nghiệp thanh toán trợ cấp cho người lao động thôi việc mất việc tại thời điểm cổ phần hoá hoặc sau khi người lao động chuyển sang làm việc tại công ty cổ phần trong 5 năm đầu, kể từ khi công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tiền thu từ bán phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được sử dụng để hỗ trợ doanh nghiệp có khó khăn về khả năng thanh toán, để xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ bảo hiểm xã hội.
Về xác định giá trị doanh nghiệp: Cho phép áp dụng nhiều phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá, đồng thời quy định tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá như cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp sẽ chỉ định người đại diện làm chủ tịch hội đồng, cơ quan tài chính (cung cấp) cử người đại diện làm chủ tịch hội đồng; hoặc lựa chọn công ty kiểm toán và tổ chức kinh tế có chức năng định giá. Giá trị quyền sử đụng đất được tính vào giá trị doanh nghiệp đối với diện tích đất nhà nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng; doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được hưởng các quyền sử dụng đất theo quy định của luật đất đai. Xác định lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được so với lãi suất của trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất. Cho phép tính giá trị thương hiệu vào giá trị doanh nghiệp, nếu rõ ràng thì được thị trường chấp nhận. Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp là cơ sở xác định mức giá sàn để tổ chức bán cổ phần cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Toàn bộ giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá do bộ trưởng các bộ, chủ tịch UBND tỉnh thành phố quyết định, trừ trường hợp giá trị doanh nghiệp thực tế nhỏ hơn so với trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp từ 500 triệu đồng trở lên, thì cần phải thoả thuận bằng văn bản của bộ tài chính.
3.2.3. Quy trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Về quy trình cổ phần hoá thì nhà nước đã có hướng dẫn cụ thể trong nghị định 64/2002/NĐ-CP đồng thời phải tuân thủ theo quy định của pháp luật hiện hành của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việc cho phép thành lập công ty cổ phần phải do cơ quan có thẩm quyền thành lập doanh nghiệp nhà nước đó đồng ý và được sự đồng ý của cơ quan chủ quản và ban chỉ đạo cổ phần hoá cho phép tiến hành cổ phần hoá. Sau khi hoàn thành các thủ tục trên thì doanh nghiệp có quyết định cổ phần hoá sẽ phải tiến hành định giá doanh nghiệp, tiến hành kiểm toán để xác định tình hình tài chính của doanh nghiệp rồi mới làm đơn xin phép thành lập công ty cổ phần.
Thứ nhất các sáng lập viên phải gửi đơn xin phép thành lập đến uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương nơi dự định đặt trụ sở chính. Trong đơn thành lập công ty phải kèm theo phương án kinh doanh ban đầu và dự thảo điều lệ công ty. Sau khi được chấp nhận thì công ty phải đăng ký kinh doanh bao gồm giấy phép thành lập, điều lệ công ty và giấy tờ chứng thực trụ sở giao dịch của công ty. Việc tiến hành đăng ký kinh doanh phải được tiến hành trong một năm.
Ngoài ra còn phải đảm bảo một số quy định sau: các sáng lập viên phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% số cổ phiếu dự tính phát hành của công ty. Trong trường hợp các sáng lập viên không đăng ký mua tất cả cổ phiếu của công ty thì họ phải công khai kêu gọi vốn từ những người khác. Việc đăng ký mua cổ phiếu được xác nhận bằng một tờ cổ phiếu có chữ ký của người nhận mua hoặc người được uỷ nhiệm mua và của ít nhất một sáng lập viên. Tờ cổ phiếu này ghi rõ:
Tên công ty
Mục tiêu hoạt động của công ty
Trụ sở dự định của công ty
Tổng số vốn gọi góp
Tổng số cổ phiếu dự tính phát hành
Nơi gửi số tiền đã góp
Ngày và nơi nộp dự thảo điều lệ
Họ tên, tuổi, đại chỉ thường trú và nghề nghiệp của người đăng ký mua cổ phiếu và số cổ phiếu đăng ký mua, số cổ phiếu được đóng bằng tiền mặt, bằng hiện vật hoặc bằng bản quyền sở hữu công nghiệp và cam kết đóng hết số còn lại theo quyết định gọi vốn của hội đồng quản trị.
Các sáng lập viên phải gửi tất cả số tiền đã góp của người đăng ký mua cổ phiếu vào tài khoản phong toả tại một ngân hàng trong nước kèm theo danh sách những người đăng ký mua số cổ phiếu và số tiền mỗi người đã góp. Số tiền gửi chỉ được lấy ra khi công ty đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc sau một năm kể từ ngày cấp giấy phép thành lập công ty không thành lập được
Các sáng lập viên triệu tập đại hội đồng thành lập để thông qua điều lệ công ty và các thủ tục cần thiết khác.
Công ty cổ phần có thể được uỷ ban nhân dân thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương nơi công ty cổ phần đặt trụ sở chính cho phép phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Nếu có đủ tiêu chuẩn và điều kiện phát hành cổ phiếu.
4. Kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở một số quốc gia trên thế giới.
Quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam nói chung và cổ phần hoá doanh nghiệp ở Việt Nam nói riêng diễn ra muộn hơn các nước trên thế giới từ 5 đến 10 năm. Đây là một điều khá thuận lợi cho Việt Nam vì có cơ hội để đúc kết những bài học kinh nghiệm quí báu, góp phần đảm bảo cho sự thành công trong việc thực hiện thành công cổ phần hoá ở nước mình.
Tuy nhiên có thể thấy rằng, chương trình cổ phần hoá ở các nước diễn ra không giống nhau từ bối cảnh, động cơ, đến phương pháp và kết quả. Nếu xem xét ở bộ phận các nước xã hội chủ nghĩa trước đây là Đông Âu và Liên xô đều đã tiến hành cổ phần hoá như một bộ phận của tư nhân hoá trong một bối cảnh kinh tế chính trị không mấy thuận lợi, nên quá trình tiến hành gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là quá trình tư nhân hoá trong con đường tư bản chủ nghĩa đã đưa các quốc gia này xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trên thế giới, hiện nay chỉ có Trung Quốc là nước có nền kinh tế mang bản chất dựa trên chế độ công hữu với kinh tế quốc doanh là chủ đạo và thực hiện cổ phần hoá nhằm đảm bảo một mục tiêu tổng thể là cải cách kinh tế nhưng vẫn giữ vững đường lối chính trị xã hội chủ nghĩa.
4.1. Tư nhân hoá, cổ phần hoá ở Ba Lan.
Ba lan vào cuối những năm 80 đứng trước sự khủng hoảng lớn của mô hình kinh tế tập trung với sự thống trị của quan hệ sở hữu Nhà nước mà biểu hiện là sự hoạt động sa sút của khu vực doanh nghiệp Nhà nước và tình trạng thâm hụt ngân sách lớn do phải bao cấp các doanh nghiệp nhà nước. Tháng 9/1989, chính phủ Tadeuz Mazowiecki lên nắm quyền chuyển tên nước Cộng hoà nhân dân Ba Lan thành Cộng hoà Ba Lan, đồng thời đẩy mạnh chương trình cải cách mới đối với nền kinh tế.
Chiến lược tư nhân hoá khu vực doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo tư tưởng của học thuyết "liệu pháp sốc", đặt lên hàng đầu với hai mục tiêu trước mặt là lành mạnh hoá nền kinh tế, và lâu dài cải cách chế độ sở hữu để chuyển từ nền kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường. Quá trình tư nhân hoá ở Ba Lan diễn ra rất sớm và có ảnh hưởng đến nhiều nước Đông Âu và Liên Xô sau đó. Các biện pháp tư nhân hoá ở Ba Lan khá phong phú, thể hiện sự điều chỉnh phù hợp với thực tiễn.
1- Tư nhân hoá thông qua phá sản và tư nhân hoá thông qua phát mãi tài sản là các biện pháp tư nhân hoá được áp dụng chủ yếu và thời gian đầu, cho thanh lý, bán hoặc chuyển giao xí nghiệp hoặc một phần tài sản của xí nghiệp nhà nước hàng loạt các xí nghiệp công cộng thành các Công ty cổ phần hoặc Công ty tư nhân (Các biện pháp tư nhân hoá này thực tế đã được thực hiện từ sớm hơn rất nhiều bởi trong luật pháp Ba lan từ năm 1981 đã có những quy định cho phép tương tự). Tuy nhiên việc phát mãi trở nên không hiệu quả vì tiềm lực tiết kiệm của người dân trong nước quá nhỏ, trong khi kỳ vọng thu hút nguồn đầu tư từ các nước Tây Âu trên thực tế không thực hiện được.
2- Tư nhân hoá thông qua phương pháp vốn là phương pháp liên quan đến việc tư nhân hoá doanh nghiệp cỡ lớn sau khi các phương pháp tư nhân hoá thông qua phá sản và phát mãi không có khả năng thực hiện. Phương pháp này được biểu hiện trong các chương trình cổ phần hoá đơn giản qua phát hành các cổ phiếu và các thể thức cho tham gia chia lãi, với cam kết bảo vệ tài sản, tăng năng suất doanh nghiệp ... Tư nhân hoá vốn có sự ưu tiên lớn đến đối tượng công nhân viên trong xí nghiệp. Nhưng do việc phân phối tài sản doanh nghiệp không không được thực hiện công bằng, và việ._.c vận hành xí nghiệp của công nhân tỏ ra kém hiệu quả, công nhân thường tìm cách thu lợi về cho riêng mình... đã làm cho giải pháp này về sau bị hạn chế lại và thay vào đó là phương pháp tư nhân hoá đại chúng.
3- Tư nhân hoá đại chúng (tư nhân hoá hàng loạt) được quy định rất ít trong Luật tư nhân hoá (7/1990). Nội dung của phương pháp này là nhà nước sẽ phân phối không phải trả liền (như kiểu cấp tín dụng) một số lượng cổ phiếu tư nhân hoá như nhau đối với tất cả công dân đang sống ở Ba Lan. Nhưng trên thực tế phần đông dân chúng không có khả năng kinh doanh và gánh chịu mạo hiểm, nên về sau đã có sự thay đổi quan điểm: việc phân chia những tài sản thu được từ việc quốc hữu hoá các tài sản nhà nước chỉ dành cho những người có khả năng sử dụng chúng vì mục đích sinh lợi như tầng lớp thương nhân, thầu khoán.
Nhìn chung trong hai năm 1990-1991, Ba Lan chỉ tư nhân hoá được 15% số xí nghiệp công nghiệp, trong đó gần 73% là xí nghiệp nhỏ và vừa, và đa số là công ty cổ phần. Tuy nhiên, nền sản xuất sau quá trình tư nhân hoá ban đầu cũng đã có những dấu hiệu hồi sinh.
Đến năm 1996, thông qua con đường cổ phần hoá vốn, chính phủ Ba Lan đã chuyển được 168 DN nhà nước thành công ty cổ phần, trong đó 28 Công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Varsava. Biện pháp tư nhân hoá đại chúng được triển khai mạnh mẽ và đạt kết quả với 312 DN nhà nước.
Nhìn chung, việc tư nhân hoá sau đó tiếp tục diễn ra với một nhịp độ chậm, chỉ có hình thức tư nhân hoá nhỏ được tiến hành nhanh nhất. Nhiều nước Đông Âu như Hungari, Tiệp Khắc, Bungari tuy tiến hành tư nhân hoá sau nhưng lại đang đạt được tiến độ nhanh hơn nhiều Ba Lan.
Trong thời kỳ sau, Ba Lan đã dần tiếp cận lại vấn đề tư nhân hoá đại chúng theo kiểu của Tiệp Khắc (một quốc gia rất thành công trong phương pháp này). Một mặt, yêu cầu bắt buộc các lãnh đạo xí nghiệp phải soạn thảo các phương án tư nhân hoá với các dự án cạnh tranh khác nhau; mặt khác, phát triển một mạng lưới quỹ tư nhân hoá nhằm thu hút các cổ đông vào quá trình tư nhân hoá bằng việc cho vay qua các ngân hàng và tính dụng với điều kiện ưu đãi, và đảm bảo việc mua lại cổ phiếu sau một năm với giá cao ... Quỹ tư nhân hoá cũng thực hiện nhiệm vụ tập trung các bộ phận cổ phần hoá, phân tán trong dân chúng.
ở Ba Lan, Bộ Tư nhân hoá có vai trò quan trọng trong quá trình tư nhân hoá. Bộ tư nhân hoá đã phát triển một bộ máy quản lý, điều hành chương trình tư nhân hoá ở toàn bộ 49 tỉnh thành, có sự tham gia phối hợp trực tiếp của tất các Bộ khác như Bộ công nghiệp, Bộ nông nghiệp, Bộ thương mại...
Tóm lại, chương trình tư nhân hoá, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Ba Lan diễn ra trong một bối cảnh chính trị, kinh tế không ổn định nên đã không đạt được hiệu quả như mong muốn. Đặc biệt trong thời gian đầu chuyển tiếp, tuy áp dụng nhiều biện pháp đa dạng giảm được tình trạng thất thoát tài sản nhà nước, nhưng do thực hiện vội vã và thiếu một hệ thống cơ chế pháp lý, đã khiến cho chương trình tư nhân hoá, cổ phần hoá thực hiện tương đối chậm và tạo ra những tác động không tốt đối với nền kinh tế - xã hội nước này.
Bài học kinh nghiệm từ quá trình tư nhân hoá, cổ phần hoá ở Ba Lan :
- áp dụng đa dạng nhiều phương pháp chuyển đổi sở hữu phù hợp với từng đối tượng. Điều này giúp hạn chế lớn việc thất thoát tài sản nhà nước.
- Cổ phần hoá các lĩnh vực kém quan trọng, quy mô nhỏ trước sau đó chuyển dần lên các doanh nghiệp có quy mô lớn quan trọng hơn.
- Chính phủ đã thành lập các uỷ ban chuyên trách, được giao thực quyền chỉ đạo tập trung cho vấn đề chuyển đổi sở hữu. Đồng thời, có những công ty tài chính, hoặc cơ quan quản lý tài sản đứng ra nắm giữ cổ phần nhà nước và thực hiện các chương trình tư nhân hoá, cổ phần hoá, ở các doanh nghiệp.
- Các nguồn thu nhập của Nhà nước thông qua cổ phần hoá thường không được tích trữ mà được ưu tiên sử dụng ngay cho việc cơ cấu nền kinh tế hoặc hỗ trợ tài chính trực tiếp cho công tác chuyển đổi sở hữu như bù đắp chi phí, thực hiện ưu đãi ...
- Bán cổ phần gặp nhiều khó khăn khi thị trường vốn trong nước yếu kém và thiếu các chính sách khuyến khích việc đầu tư của nước ngoài.
4.2. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc.
Trung Quốc là một nước sớm đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trong những thập niên trước đây, do áp dụng một cách giáo điều mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp của các nước Liên Xô và Đông Âu, cùng với tư tưởng đồng nhất chế độ công hữu với kinh tế, nên quy mô doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc luôn chiếm tới 90% tổng tài sản quốc gia.
Chính sách "Bốn hiện đại hoá" thực hiện vào cuối những năm 70 đã đưa nền kinh tế Trung Quốc vào khủng hoảng và mất cân đối nghiêm trọng. Nhận thấy thực hiện phát triển kinh tế không thể nóng vội, chủ quan; Nhà nước Trung Quốc nên đó đã thận trọng chuyển sang chính sách cải cách kinh tế, thực hiện đường lối mở cửa từng bước.
Để thực hiện một trong những nhiệm vụ cơ bản là cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc đã sớm đề ra nhiều chính sách cải cách: như mở rộng nhường quyền và nhường lợi ích xí nghiệp, thực hiện khoán lợi nhuận... tuy nhiên các chính sách này vẫn nằm trong khuôn khổ duy trì, giữ nguyên hiện trạng mà chưa thay đổi căn bản chủ sở hữu, do đó chưa tạo ra chuyển biến tích cực trong khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Từ những năm 1980, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước (thông qua hình thức hợp đồng và cho thuê) Trung Quốc bắt đầu vào chương trình cải cách sở hữu theo 3 hướng :
- Thành lập công ty cổ phần, cổ đông bao gồm nhà nước, tập thể, cá nhân; đối với doanh nghiệp lớn và vừa nhà nước nắm cổ phần khống chế.
- Phát triển ở mức độ nhỏ loại hình doanh nghiệp tư nhân.
- Phát triển các mô hình doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Chương trình thí điểm cổ phần hoá được đề ra trong "Quy định về đi sâu cải cách, tăng cường sức sống doanh nghiệp của Trung ương" tháng 12/1986. Tuy nhiên, chương trình này chỉ thực sự phát triển mở rộng từ sau năm 1992 khi Quốc vụ viện và Nhà nước Trung Quốc phê chuẩn văn kiện "Các biện pháp thí điểm cổ phần xí nghiệp" và "ý kiến quy phạm công ty hữu hạn cổ phần".
Các biện pháp cổ phần hoá được quy định bao gồm :
- Bán một phần giá trị doanh nghiệp cho các cá nhân, tổ chức ngoài doanh nghiệp thông qua bán cổ phiếu và cải biến doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần trong đó Nhà nước nắm cổ phần khống chế. Đây là loại doanh nghiệp nhà nước cổ phần.
- Bán phần lớn giá trị tài sản của doanh nghiệp nhà nước thông qua bán cổ phiếu cho mọi đối tượng, trong đó Nhà nước là một cổ đông song không nắm cổ phần khống chế. Đây là loại Công ty cổ phần thuần tuý.
- Bán toàn bộ doanh nghiệp nhà nước cho tư nhân để hình thành các công ty tư nhân hoặc các công ty cổ phần. Đây có thể coi là biện pháp tư nhân hoá hoàn toàn.
- Giữ nguyên vốn Nhà nước và gọi thêm vốn của các cổ đông khác để chuyển thành công ty cổ phần.
- Nhà nước góp vốn với tư nhân để hình thành công ty cổ phần mới.
Theo con số thống kê cuối năm 1992, Trung Quốc có khoảng 3.700 xí nghiệp cổ phần hoá trong đó 750 xí nghiệp nguyên là quốc doanh được chuyển đổi. Đến cuối năm 1993 số xí nghiệp cổ phần hoá trong cả nước trong năm lên tới 2.540 xí nghiệp, trong đó có 218 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế năm 1994 chỉ còn 57% so với năm 1978 là 80,7%. Tuy nhiên con số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ vẫn lớn chiếm tới 49,5% (kim ngạch thua lỗ 34,4 tỷ NDT). Một thực trạng đối với xí nghiệp cổ phần do Nhà nước nắm cổ phần khống chế vẫn không thay đổi được cơ chế quản lý (ban lãnh đạo cũ), hoạt động kinh doanh theo lối cũ làm cho xí nghiệp chưa thể vận hành theo nguyên tắc thị trường).
Trong bản báo cáo về "Vấn đề bảo đảm quyền lợi và lợi ích của cổ phần nhà nước trong xí nghiệp cổ phần" tháng 6/1994 của ông Phạm Nhạc, Phó cục trưởng Cục quản lý cổ phần nhà nước còn nêu ra 3 tồn tại khác gồm: "Một là, đại diện quyền sở hữu nhà nước trong công ty cổ phần không rõ ràng, không hoàn toàn đại diện cho nhà nước. Hai là, tỷ trọng cổ phần nhà nước có xu thế suy giảm rõ rệt, các công ty cổ phần ban đầu mới thành lập, cổ phần nhà nước đều chiếm trên 50%, nhưng sau đó cổ phần nhà nước cứ giảm dần, có công ty hàng năm giảm 10%. Ba là, cổ phần nhà nước không thể vận hành (mua bán) nên về cơ bản trong tình trạng ngưng trệ, vốn nhà nước rất khó bảo tồn và tăng giá trị".
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc sau giai đoạn này đã được đẩy lên một bước mới : Xây dựng chế độ nhân dân hiện đại.
Văn kiện đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 14 coi việc xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện là nhiệm vụ trung tâm trong kế hoạch năm lần thứ 9 (1993-1997).
Theo đó các xí nghiệp mới mang bốn đặc trưng :
- Quyền sở hữu tài sản rõ ràng.
- Quyền lợi và trách nhiệm của mọi chủ thể rõ ràng
- Chính quyền và xí nghiệp tách rời nhau
- Quản lý khoa học.
Trên cơ sở này, doanh nghiệp nhà nước được cần được chuyển thành 5 loại:
- DN nhà nước : gồm các doanh nghiệp lớn có vị trí then chốt, do Nhà nước quản lý và sở hữu.
- Công ty chung vốn đầu tư nhà nước : Gồm các doanh nghiệp công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà nước sở hữu trên 51%.
- Công ty cỡ lớn và vừa, không quan trọng lắm về chiến lược, nhà nước sở hữu dưới 50%.
- Các tập đoàn do nhà nước sở hữu : Đó là những doanh nghiệp có mạng lưới rộng khắp cả nước, tổ chức dưới mô hình tập đoàn.
- Các doanh nghiệp nhỏ được sắp xếp, hợp nhất tạo thành các công ty mới liên doanh với tư nhân, nước ngoài, hoặc giải thể phá sản.
Nhiều biện pháp mới liên quan đến cổ phần hoá được áp dụng như thành lập Công ty quản lý doanh nghiệp trung ương và biến các công ty cổ phần hoá thành công ty con của Công ty quản lý; tách hoạt động quan trọng ra khỏi doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần; đẩy mạnh thu hút vốn nước ngoài vào các xí nghiệp cổ phần hoá...
Tính đến cuối năm 1996, Trung Quốc đã cổ phần hoá và thành lập mới được khoảng 9.200 Công ty cổ phần với tổng vốn đăng ký khoảng 600 tỷ NDT, trong đó cổ phần nhà nước chiếm 43%.
Như vậy sau gần 20 năm thực hiện cải cách mở cửa và cải cách thể chế kinh tế (trong đó có cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là hướng đi chính của cải cách chế độ sở hữu), Trung Quốc đã thu được nhiều thắng lợi, tuy cũng có những vấp váp, thất bại, nhưng nhìn chung con đường cải cách của Trung Quốc là đúng đắn và được sự ủng hộ của nhân dân.
Bài học kinh nghiệm từ quá trình cổ phần hoá ở Trung Quốc:
- Xây dựng và quán triệt một quan niệm, một mục tiêu đúng đắn về cổ phần hoá, phù hợp với bản chất của chế độ xã hội : Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần là để thu hút vốn từ bên ngoài vào, chứ không bán toàn bộ tài sản Nhà nước.
- Hình thức cổ phần hoá áp dụng chủ yếu đối với các doanh nghiệp vừa và lớn, có khả năng phát triển.
- áp dụng tỷ lệ bán cổ phần đa dạng. Chẳng hạn như ở Thẩm Quyến, cổ đông tư nhân chiếm tới 12%, ở Thượng Hải chỉ có 8,5% trong đó tư nhân ở nước ngoài chiếm tới 41%.
- Cổ phần hoá muốn phát triển và mở rộng phải có sự gắn kết với thị trường chứng khoán. Đặc biệt, Trung Quốc đã xoá bỏ sự phân biệt giữ cổ phiếu Nhà nước (cổ phiếu A) và cổ phiếu của các cá nhân, pháp nhân (cổ phiếu B) gọi chung là cổ phiếu đầu tư, tạo một sân chơi bình đẳng giữa cho các nhà đầu tư.
- Chính phủ Trung Quốc chú trọng đến giải pháp kích cầu và tạo cơ sở ban đầu cho việc hình thành thị trường vốn trong nước. Bên cạnh việc mở rộng đối tượng bán để các công dân có thể tham gia chương trình cổ phần hoá, chính phủ còn có biện pháp hỗ trợ vốn ban đầu cho người lao động trong doanh nghiệp, có các chính sách lãi suất, chính sách tài chính đúng, mở rộng thị trường mua, kể cả việc bán cho người nước ngoài và chuyển nợ thành vốn đầu tư.
Thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài;
4.3. Kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở thành phố Hồ Chí Minh
Trước năm 1999 thành phố Hồ Chí Minh có 10 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá chia theo 3 giai đoạn nhưng thực hiện còn nhiều vướng mắc
Năm 1999: 35 doanh nghiệp
Có 42 doanh nghiệp đã được thông qua ban đổi mới doanh nghiệp thành phố trong số này đã có 35 doanh nghiệp có quyết định chuyển thể từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần; 5 doanh nghiệp gửi đề án trình TW (doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng) và 2 doanh nghiệp đang hoàn tất hồ sơ trình chuyển thể.
Năm 2000; 18 doanh nghiệp
Có 23 doanh nghiệp đã được thông qua ban đổi mới quản lý doanh nghiệp thành phố trong số này, có 18 doanh nghiệp đã có quyết định chuyển thể từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần và 5 doanh nghiệp đang hoàn tất hồ sơ trình chuyển thể.
Năm 2001 có 28 doanh nghiệp.
Có 32 doanh nghiệp được thông qua đề án cổ phần hoá trong đó 28 doanh nghiệp đã có quyết định chuyển thể và 4 doanh nghiệp đang trình hồ sơ, chờ quyết định chuyển thể.
Một điều mà người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá lo ngại là vấn đề việc làm. Sau cổ phần hoá số lượng lao động chẳng những không giảm mà còn tăng 10% với thu nhập tăng 20 %. Điều này khuyến khích người lao động yên tâm làm việc, cống hiến hết khả năng của mình vào công việc.
Sau khi cổ phần hoá bình quân giá trị vốn nhà nước chỉ chiếm 25% trong cơ cấu vốn điều lệ, còn lại là vốn của các cổ đông là cán bộ công nhân viên chức và cổ đông ngoài doanh nghiệp chiếm 75 %. Như vậy cổ phần hoá đã thực hiện được mục tiêu thu hút rộng rãi các các nguồn vốn của người lao động trong cả doanh nghiệp và ngoài xã hội để phát triển doanh nghiệp. Tuy nguồn vốn của nhà nước chỉ chiếm 25% tổng số vốn của công ty cổ phần, vốn của các đối tượng khác chiếm 75%, nhưng lại là nguồn vốn phân tán, do dó phần sở hữu của nhà nước trong các công ty vẫn giữ vai trò trọng yếu, chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Tóm lại từ thực tế cổ phần hoá của cả nước mà điển hình là thành phố Hồ Chí Minh cho thấy việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang hình thức cổ phần chẳng những giúp nhà nước bảo tồn nguồn vốn của mình mà còn tăng đáng kể tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn trước đây, nhà nước cũng thu hồi vồn để đầu tư cho các doanh nghiệp khác. Vai trò của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá cũng có sự đổi khác họ vừa làm việc cho công ty cổ phần vừa là chủ sở hữu công ty trên cơ sở đồng vốn của mình. Vì thế ý thức và tinh thần trách nhiệm được nâng cao hơn trước. Hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá nhạy bén năng động tự chủ hơn trước. Nhờ đó mà chất lượng hiệu quả công việc cũng cao hơn trước, các khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước cũng tăng lên.
Cổ phần hoá đã đem lại lợi ích cho cả nhà nước, người lao động và cổ đông của doanh nghiệp. Từ thực tế đó đã chứng minh rằng chủ trương của Đảng và nhà nước ta về cổ phần hoá là hoàn toàn đúng đắn.
5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
5.1. Tính cấp thiết
Từ kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước trên thế giới cho thấy sự triển khai cổ phần hoá từ những năm 80 của thế kỷ XX đã chứng tỏ các nước đều quan tâm đến mối quan hệ kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế và theo xu hướng ngày càng giảm tỷ lệ kinh tế nhà nước và tăng tỷ lệ khu vực kinh tế tư nhân là xu hướng phổ biến trong quá trình đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước diễn ra ở hầu hết các quốc gia khác. Khắc phục hiện tượng trì trệ kinh tế do hoạt động kém hiệu quả dẫn đến thâm hụt ngân sách kéo dài và gánh nặng nợ của nhà nước tăng. Các nước đều tiến hành chuyển đổi hình thức sở hữu từ doanh nghiệp nhà nước sang tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhằm hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực và trên thế giới do nền kinh tế bị đình trệ và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước vốn chịu nhiều sự quản lý của nhà nước.
Đối với Việt Nam thì việc cơ cấu lại nền kinh tế theo xu hướng chung là thu hẹp sở hữu nhà nước và hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào các doanh nghiệp để các doanh nghiệp có thể tự do chọn lựa đối tác làm ăn và sản phẩm cho phù hợp với năng lực sản xuất của doanh nghiệp đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sản xuất. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sở hữu tư nhân và hỗn hợp là chủ yếu trong đó coi trọng điều tiết thị trường nhằm định hướng nền kinh tế theo mục đích của nhà nước.
Chính phủ xác định chỉ tiêu cổ phần hoá là mỗi năm cổ phần hoá được khoảng 150 doanh nghiệp và chính phủ chỉ đạo mỗi bộ, ngành phải xây dựng chỉ tiêu cụ thể về số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá cho các doanh nghiệp trực thuộc nhằm giúp cho chính phủ có phương án chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá đúng tiến độ và kế hoạch cổ phần hoá của mình.
5.2. Vận dụng kinh nghiệm quốc tế vào cổ phần hoá ở Việt Nam.
Tuỳ vào tính đặc thù của mỗi nước khác nhau mà có sự áp dụng khác nhau cho quá trình cổ phần hoá vì ở mỗi nước thì điều kiện cơ bản cho cổ phần hoá là khác nhau và do những đặc điểm về kinh tế và chính trị xã hội cũng khác nhau nên không thể áp dụng một cách giáo điều được. Tuy có sự tương đồng về quá trình cổ phần hoá chủ yếu là những vấn đề kỹ thuật, tài chính, phương pháp và điều kiện thực hiện nhưng về quan điểm tổ chức và điều kiện vận dụng thì khác nhau do những vấn đề tế nhị về chính trị và xã hội.
ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển và thị trường chứng khoán phát triển thì các điều kiện về cổ phần hoá là thuận lợi hơn ở các nước đang phát triển bởi vì các điều kiện về cổ phần hoá đã có đủ và tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước nắm giữ 100% vốn không nhiều lại có thị trường chứng khoán phát triển nên quá trình này diễn ra nhanh hơn và dễ dàng hơn.
Còn ở những nước có nền kinh tế chuyển đổi như ở Đông Âu thì do thiếu những điều kiện quan trọng của cổ phần hoá và những dặc thù riêng nên quá trình này diễn ra trong thời kỳ dài hơn và phức tạp hơn so với ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
Cùng với cổ phần hoá thì chuyển đổi nền kinh tế và các hoạt động trên cơ sở quan hệ thị trường do đó khuyến khích cạnh tranh và thương mại hoá toàn bộ nhân tố sản xuất trong điều kiện đó thì tài chính ngân hàng và các quỹ tín dụng được coi là quan trọng nhất vì chúng là các tổ chức tài chính trung gian hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá.
Quan niệm về vai trò của các lĩnh vực được khu vực kinh tế nhà nước nắm giữ khác nhau, tổ chức doanh nghiệp cũng khác nhau nên quá trình cổ phần hoá ở các quốc gia và ở các doanh nghiệp khác nhau là có sự khác nhau tuỳ theo đặc điểm ở mỗi nước. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển gắn liền với việc nhà nước bố trí lại cơ cấu sở hữu và các lĩnh vực cần nắm giữ nên diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn ở những nước khác. Đa số các công ty cổ phần là công ty dạng sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước và tư nhân. Tiến hành thực hiện chuyển hoá linh hoạt hình thức cổ phần hoá và nhà nước hoá nhằm xác lập mối tương quan giữa 2 khu vực đồng thời xác lập kinh tế thị trường. Còn ở các nước có nền kinh tế đang phát triển ở Đông Âu do doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhà nước nắm 100% vốn còn nhiều nên việc cổ phần hoá gặp nhiều khó khăn.
Đối với Việt Nam phải chú ý đến điều kiện đặc thù về điều kiện, mục tiêu, phương pháp, bước đi trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện bắt đầu hình thành và phát triển thị trường chứng khoán và kinh tế thị trường khu vực kinh tế nhà nước còn chiếm tỷ lệ nhiều việc học hỏi kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước là cần thiết nhưng phải chú ý đến tính đặc thù ở mỗi nước mà có sự sàng lọc thử nghiệm kỹ trong điều kiện ở nước ta nhằm tránh việc áp dụng một cách giáo điều mô hình ở nước khác vào điều kiện ở nước ta gây thất thoát lãng phí tiền của của nhà nước ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến trình cổ phần hoá.
Phải tiến hành đồng thời 3 hệ thống giải pháp khác nhau đối với 3 nhóm doanh nghiệp nhà nước nhưng trong đó nhóm 2 với 60% - 70% tổng số doanh nghiệp nhà nước hiện nay chiếm hàng đầu trong các giải pháp vì khối lượng to lớn các doanh nghiệp này. Thực hiện các giải pháp cơ bản để cổ phần hoá từng bước hình thành loại hình doanh nghiệp công ty cổ phần trong cơ chế thị trường. Cần gắn liền với cơ chế quản lý và chính sách như xuất khẩu, vốn, thuế, tỷ giá, tín dụng... thị trường chứng khoán cần được phát triển vì đây là kênh thu hút và lưu thông vốn chủ yếu ở nền kinh tế trong tương lai khi kinh tế thị trường phát triển đồng bộ từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như của đông đảo các tầng lớp dân cư trong xã hội.
5.3. Thành lập cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm về quá trình cổ phần hoá.
Kinh nghiệm cho thấy cổ phần hoá là bộ phận của quá trình cải cách nền kinh tế nên cần mang tính chiến lược cao, định hướng các mục tiêu lâu dài trong việc xác lập cơ cấu kinh tế, tương quan giữa các lĩnh vực khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế. Tiến hành phân bổ nguồn lực và quyền lực cho nhóm người sở hữu và nhóm người quản lý khác nhau nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội.
Cổ phần hoá cũng gây những phản ứng khác nhau đối với những người có quyền lợi và trách nhiệm liên quan trực tiếp đến quá trình này trong khi họ không hoàn toàn thờ ơ về mặt chính trị do đó họ sẽ bằng các hành động của mình nhằm nâng cao và bảo vệ quyền lợi của mình thông qua các áp lực chính trị khác nhau.
Để tiến hành thành công cổ phần hoá thì cần lập ra một cơ quan đại diện đứng đầu và chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với quá trình cổ phần hoá. Cơ quan này quản lý toàn bộ quá trình cổ phần hoá theo quan điểm có tính chiến lược trong đánh giá, soạn thảo, chỉ đạo tổ chức thực hiện kiểm tra và điều chỉnh cổ phần hoá cho phù hợp với những thay đổi phát sinh trong quá trình cổ phần hoá. Từ thực tiễn cần có 1 cơ quan nhà nước được thành lập và uỷ quyền để giải quyết các vấn đề đổi mới khu vực kinh tế nhà nước chuyên trách theo dõi chỉ đạo và có thẩm quyền quyết định các vấn đề liên quan. Mặc dù có tên gọi khác nhau ở mỗi nước như: ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước, ban chỉ đạo cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, hội doanh nghiệp cổ phần hoá, ban hình thành thị trường chứng khoán ... nhưng đều có nhiệm vụ chung là quản lý và thực hiện chuyển đổi và đa dạng hoá hình thức sở hữu theo đúng pháp luật trong các doanh nghiệp nhà nước chống việc một số người trục lợi tham nhũng tẩu tán tài sản nhà nước.
Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước là cơ quan chịu trách nhiệm kiểm tra, định giá cho các doanh nghiệp cổ phần hoá, trình chính phủ các đề án cổ phần hoá cho từng doanh nghiệp nhưng lại mang tính chất hành chính chung không mang tính chuyên môn nghiệp vụ. Cần có một tổ chức chuyên môn để thực hiện các nghiệp vụ tư vấn cổ phần hoá có hệ thống. Hiện nay có trung tâm tư vấn trực thuộc viện kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đang làm nhiệm vụ này nhưng chỉ là tư vấn và chủ yếu là xây dựng phương án cổ phần hoá chưa có chức năng đầu tư cổ phần hoá hoặc các dịch vụ đi kèm. Hơn nữa số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá sẽ tăng cao trong vài năm tới thì trung tâm này không thể đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp. Bộ tài chính đang có dự kiến thành lập quỹ đầu tư cổ phần hoá nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp còn vướng mắc và khó khăn trong quá trình cổ phần hoá.
Tuy nhiên việc xúc tiến thành lập công ty cổ phần đầu tư và dịch vụ cổ phần hoá là cần thiết nhằm đẩy mạnh tiến độ cổ phần hoá nâng cao hiệu quả nền kinh tế và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thực hiện xã hội hoá đầu tư mở rộng quy mô hoạt động của doanh nghiệp , làm đối tác với các tổ chức tài chính nước ngoài. Công ty hoạt động trong các lĩnh vực sau:
Tư vấn cổ phần hoá doanh nghiệp
Dịch vụ phát hành cổ phiếu.
Đầu tư mua cổ phần
Môi giới cho vay vốn đầu tư mua cổ phần
Tư vấn quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hoá
Các dịch vụ có liên quan đến cổ đông của doanh nghiệp
5.4. Vừa làm vừa rút kinh nghiệm cổ phần hoá
Thông thường ở các nước diễn ra quá trình cổ phần hoá gồm nhiều giai đoạn như: chuẩn bị các mặt về tổ chức, lựa chọn mục tiêu cổ phần hoá, phương pháp thực hiện, kiểm soát và điều chỉnh... nhưng không tách rời nhau, không thể phân biệt các giai đoạn này với nhau mà nó đan xen vào nhau vì thế nó được coi như một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Việc coi nó như vậy có nhiều thuận lợi cho quá trình cổ phần hoá như nó đơn giản nên dễ tiếp thu và áp dụng, triển khai nhanh chóng vào thực tế, tránh được việc hiểu sai về cổ phần hoá tách rời các giai đoạn. Ngoài ra qua đó có thể dự kiến được những tác động xảy ra trong giai đoạn sau để có trước những phương án dự phòng trong mọi tình huống xảy ra, tránh được gây hoang mang đối với doanh nghiệp và người lao động trong công ty cổ phần hoá . Nó gạt bỏ tư tưởng nóng vội của những người cực đoan cấp tiến muốn nhanh chóng thực hiện cổ phần hoá mà không quan tâm đến tính giai đoạn của cổ phần hoá giảm việc mắc sai lầm trong cổ phần hoá, khuyến khích việc thận trọng với các côngviệc mới của các nhân viên chính phủ. Phù hợp với các chính phủ đang cần thời gian để nắm bắt kiểm soát cũng như người dân cần có thời gian để tin vào sự ổn định lâu dài của chính phủ. Đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài vốn hoài nghi về sự ổn định của chính sách của Việt Nam. Riêng đối với các nước đang phát triển, kinh tế thị trường chưa phát triển, thị trường chứng khoán chưa hình thành, nên thành phần kinh tế tư nhân còn yếu nên tính lâu dài và nhiều giai đoạn phải thực hiện trong nhiều năm mới có thể tạo được sự tin tưởng của các nhà đầu tư
Chính phủ cũng lưu ý đến tác động nhân quả giữa cổ phần hoá và các điều kiện của cổ phần hoá nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của quá trình cổ phần hoá do đó tính quá trình càng được nhấn mạnh cả ở trong chủ trương chính sách của nhà nước và trên thực tế.
àCổ phần hoá bao hàm cả một quá trình thường xuyên liên tục để di chuyển sở hữu nhà nước sang các lĩnh vực khác nhau nhằm cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp. Nó là quá trình lâu dài và có những bước đi cụ thể tương ứng với các giai đoạn khác nhau.
5.5. Tạo môi trường pháp lý
Tạo môi trường pháp lý là cần thiết nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho sự chuyển hoá và hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hoá và của các công ty. Khác với các nước phát triển thì sự không ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô với những chính sách thường xuyên thay đổi sẽ gây cản trở lớn cho quá trình cổ phần hoá cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Những chính sách đang trong quá trình thay đổi sẽ làm tăng độ rủi ro và tính không chắc chắn cho nhà đầu tư. Nhà nước cần nhanh chóng thiết lập một hệ thống pháp luật tạo khuôn khổ cho hoạt động kinh tế.
ở Việt Nam luật công ty được quốc hội thông qua ngày 21/12/1990 và cũng đã cho ra đời nhiều văn bản dưới luật dạng nghị quyết, nghị định, thông tư... được ban hành phong phú phục vụ cho cổ phần hoá. Tuy nhiều văn bản còn tản mạn chưa có hệ thống nhưng cũng góp phần không nhỏ vào tạo cơ sở pháp lý đảm bảo chủ trương cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước được thuận lợi.
Cũng theo tinh thần nghị quyết 202 – HĐBT thì doanh nghiệp được cổ phần hoá sẽ hoạt động theo luật công ty. Xây dựng điều lệ và quy chế hoạt động tuân theo luật công ty, nhưng theo quy định của nhà nước thì viên chức nhà nước không được tham gia làm sáng lập viên hoặc quản trị viên trong công ty. Vậy thì ai sẽ thay mặt nhà nước sở hữu vốn của nhà nước tại doanh nghiệp? Nhà nước cần xây dựng một đội ngũ công chức ở các bộ chủ quản và các địa phương để thay mặt nhà nước quản lý vốn trong các công ty cổ phần có sự tham gia của nhà nước, hoạt động như một công ty tài chính nhằm quản lý thực hiện hoạt động đầu tư thông qua công ty cổ phần nhằm điều tiết định hướng nền kinh tế. Xây dựng đội ngũ nhà quản trị kinh doanh có đủ năng lực hoạt động trong điều kiện mới, không phân biệt khu vực nhà nước hoặc tư nhân. Trong một số trường hợp có thể thuê các nhà quản trị kinh doanh giỏi ở nước ngoài để học tập kiến thức và kinh nghiệm cũng như kêu gọi nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu.
5.6. Cần lập kế hoạch tài chính cho quá trình thực hiện cổ phần hoá.
Kinh nghiệm ở tất cả các nước muốn thực hiện cổ phần hoá thành công thì nhà nước sẽ phải chịu những chi phí nhất định do phải quan tâm đến các doanh nghiệp hậu cổ phần hoá. Không như tư nhân thì sau khi bán cổ phần của mình thu lợi thì không còn trách nhiệm đối với doanh nghiệp. Nhưng đối với nhà nước sau khi cổ phần hoá thì còn phải quan tâm về vấn đề của doanh nghiệp. Khoản phí tổn này được các chính phủ khác nhau có quan niệm và các xử lý khác nhau: có thể là sự ưu đãi cổ phiếu khi bán hoặc cho không đối với những tầng lớp dân cư nhất định nhằm mục tiêu chính trị xã hội.
Đối với Việt Nam cần lường trước được những khoản phí tổn không thể giảm được nhất là vấn đề giải quyết việc làm, đào tạo lại, bảo hiểm xã hội trong doanh nghiệp, tư vấn kiểm toán quảng cáo, môi giới đầu tư trong và ngoài nước với cổ phần hoá. Việc thực hiện cổ phần hoá, thì nhà nước không chỉ chú ý đến thu hồi vốn mà chấp nhận một khoản phí tổn nhất định như: bảo hiểm, trợ cấp mất việc làm và tìm việc làm mới, bán giá thấp nhằm ưu đãi những tầng lớp dân cư nhất định... Ngoài ra còn có hiệu quả và lợi ích lâu dài của chuyển đổi mô hình kinh doanh, mà có thể chấp nhận bán doanh nghiệp thấp hơn giá trị thị trường chút ít, vì mục tiêu đa dạng hoá và tạo điều kiện cho người lao động làm chủ doanh nghiệp, thì nhà nước chấp nhận chi phí về trợ cấp, cho vay ưu đãi đặc biệt, giá thấp, cho người lao động trong doanh nghiệp.
Phần ii: thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội
I. quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam.
1. Giai đoạn thí điểm (1992-5/1996)
Giai đoạn này cả nước mới chỉ có 5 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Trong đó Hà Nội không có doanh nghiệp nào được cổ phần hoá. Các công ty được cổ phần hoá đó là công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc Việt Phương, cổ phần hoá vào ngày 1/7/1995 với tổng vốn là 7.912 triệu đồng, nhà nước nắm giữ 30% số cổ phần tại doanh nghiệp. Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển cổ phần hoá ngày 1/7/1993 với số vốn là 6.200 triệu đồng. Công ty cổ phần cơ điện lạnh ngày 1/10/1993 với số vốn ban đầu là 16.000 triệu đồng.
Còn các công ty khác được cổ phần hoá lại ở các địa p._.hời điểm gần nhất. Cho phép tính giá trị thương hiệu vào giá trị doanh nghiệp, nếu rõ ràng thì được thị trường chấp nhận.
Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp là cơ sở xác định mức giá sàn để tổ chức bán cổ phần cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp .
Toàn bộ giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá do bộ trưởng các bộ, chủ tịch UBND tỉnh thành phố quyết định, trừ trường hợp giá trị doanh nghiệp thực tế nhỏ hơn so với trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp từ 500 triệu đồng trở lên, thì cần phải thoả thuận bằng văn bản của bộ tài chính.
Cách xác định giá trị doanh nghiệp cũng có nhiều quy định thoáng hơn với điều khoản cho áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để xác định giá trị, và có thể thuê các công ty kiểm toán hoặc các tổ chức kinh tế có chức năng để định giá doanh nghiệp. Giá trị được xác định này dùng để bán cổ phần cho người lao động, còn đối với cổ phần bán ra ngoài (được quy định phải bán ra ngoài tối thiểu 30%) thì đó chỉ là "giá sàn" để làm cơ sở bán đấu giá. Việc bán đấu giá này được quy định thực hiện thông qua các tổ chức tài chính trung gian. Cách làm như vậy nhằm mục đích đưa giá bán doanh nghiệp sát hơn với giá trị thật, hạn chế những phản ánh định giá doanh nghiệp thấp, gây thất thoát tài sản nhà nước.
Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi dã trừ các khoản nợ phải trả và số dự Quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi.
Giá trị tài sản của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào chất lượng tài sản, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp. Chất lượng tài sản của doanh nghiệp căn cứ vào khả năng bảo đảm an toàn trong vận hành và sử dụng tài sản; bảo đảm chất lượng sản phẩm và môi trường. Giá trị quyền sử dụng đất, trước mắt vẫn áp dụng chính sách thuê đất và giao đất theo quy định hiện hành. ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố tính lại giá thuê đất ở những vị trí thuận lợi để áp dụng chung cho mọi loại hành doanh nghiệp. Đối với diện tích đất Nhà nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp trên vốn nhà nước tại doanh nghiệp bình quân trong 3 năm liền kề trước khi cổ phần hoá so với lãi suất của trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất nhân với giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp tại thời điểm định giá. Nếu doanh nghiệp có giá trị thương hiệu được thị trường chấp nhận thì xác định căn cứ vào thị trường.
Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp là cơ sở để xác định cơ cấu cổ phần bán lần đầu, thực hiện chính sách đối với người lao động trong doanh nghiệp, người sản xuất và cung cấp nguyên liệu, xác định mức giá "sàn" để tổ chức bán cổ phần cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp chỉ được cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh lại trong trường hợp doanh nghiệp có khó khăn trong việc bán cổ phần và trong trường hợp xác định lại giá trị doanh nghiệp từ thời điểm định giá đến thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển thành công ty cổ phần.
Trước khi xác định giá trị doanh nghiệp cần phải xử lý tài sản thuê, mượn, góp vốn liên doanh, liên kết, tài sản không cần dùng, tài sản được đầu tư bằng Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi.
4.2. Giải quyết vướng mắc về nhà đất.
Giá trị quyền sử dụng đất được tính vào giá trị thực tế của doanh nghiệp nhà nước khi chuyển thành công ty cổ phần. Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về địa lý, uy tín doanh nghiệp, tính chất độc quyền về sản phẩm, mẫu mã, thương hiệu (nếu có) được tính là căn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp khi chuyển thành công ty cổ phần. Đối với diện tích đất nhà nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Giá trị quyền sử dụng được xác định theo khung giá chuyển quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền quy định và không thấp hơn chi phí đã đầu tư như đền bù, giải phóng mặt bằng, san lấp mặt bằng... ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm tính lại giá thuê đất ở những vị trí thuận lợi để áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp. Trước mắt nhà nước vẫn áp dụng chính sách thuê và giao đất theo quy định hiện hành.
Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở tỷ lệ lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp trên vốn nhà nước tại doanh nghiệp bình quân trong 3 năm liền kề trước khi cổ phần hoá so với lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất nhân với giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở thời điểm định giá. Nếu doanh nghiệp có giá trị thương hiệu được thị trường chấp nhận thì xác định căn cứ vào thị trường.
Riêng về việc đưa giá trị đất vào giá trị doanh nghiệp, nghị định quy định trước mắt vẫn áp dụng chính sách thuê đất và giao đất theo quy định hiện hành. Thí điểm tính giá trị đất chỉ nên áp dụng đối với diện tích đất giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng, bởi đây là vấn đề rất khó nên cần có thời gian nghiên cứu thêm.
5. Cơ chế phân bổ và tổ chức bán cổ phiếu.
5.1. Cơ chế phân bổ việc bán cổ phiếu
Không hạn chế số lượng cổ phần được mua lần đầu tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá đối với nhà đầu tư trong nước (trừ trường hợp doanh nghiệp thuộc diện nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt). Cần quy định các điều kiện để xác định cổ đông sáng lập của doanh nghiệp cổ phần hoá là: Cổ đông sáng lập trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá phải thoả mãn các điều kiện tham gia thông qua điều lệ lần đầu cuả công ty cổ phần; cùng nhau nắm giữ ít nhất một số lượng cổ phần được quyền chào bán; sở hữu số lượng cổ phần đảm bảo mức tối thiểu của cổ đông sáng lập và số lượng cổ phần tối thiểu của cổ đông sáng lập do đại hội đồng cổ đông quyết định và ghi vào điều lệ công ty.
Cơ cấu cổ phần lần đầu của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được dành để bán theo giá ưu đãi (giảm giá 30% trên 100.000 đồng mệnh giá ban đầu của một cổ phần) cho người lao động trong doanh nghiệp, cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu ở những doanh nghiệp chế biến hàng nông lâm thuỷ sản; ngoài ra, phải theo một thứ tự ưu tiên khi bán cổ phần là:
- Nhà nước, nếu vẫn tiếp tục nắm giữ cổ phần.
- Người lao động trong doanh nghiệp được mua theo giá ưu đãi.
- Người sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp, được phép mua theo giá ưu đãi.
- Mọi người, được mua số cổ phần còn lại, nhưng phải dành tối thiểu 30% để bán ra ngoài doanh nghiệp, trong đó ưu tiên cho các nhà đầu tư tiềm năng.
Cán bộ quản lý tại doanh nghiệp nhà nước, từ phó phòng nghiệp vụ trở lên không bị khống chế mức mua cổ phần theo giá ưu đãi bình quân trong doanh nghiệp. Người lao động trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá đều có quyền và nghĩa vụ như nhau dựa theo số năm tháng thực tế làm việc tại khu vực nhà nước trước khi cổ phần hoá. Tuy nhiên điều này cần phải được khẳng định lại, vì doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá vẫn phải chịu sự chi phối của điều 1 pháp lệnh chống tham nhũng.
Theo quy định thì việc mua cổ phần lần đầu tại các doanh nghiệp cổ phần hoá được khống chế như sau:
- Loại doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì mỗi pháp nhân được mua không quá 10%, mỗi cá nhân được mua không quá 5% tổng số cổ phần của doanh nghiệp.
- Loại doanh nghiệp mà Nhà nước không tham gia cổ phần thì không hạn chế số lượng cổ phần của mỗi pháp nhân và cá nhân nhưng phải bảo đảm số cổ đông tối thiểu theo Luật doanh nghiệp
Việc khống chế như trên còn quá chặt chẽ, cứng nhắc, đã hạn chế những nhà đầu tư muốn mua số lượng cổ phần lớn để được tham gia quản lý công ty, mà những nhà đầu tư loại này thường mong muốn thay đổi hẳn phương pháp quản lý của công ty. Do đó, thường dẫn tới hiện tượng người được quyền mua thì không có đủ tiền còn người có đủ tiền muốn mua thì lại không được mua. Chính điều này đã làm cho doanh nghiệp khó có thể thu hút được vốn từ nhiều nguồn khác nhau, để tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận. Các nhà đầu tư tiềm năng chỉ có thể sở hữu được tối đa 30% số cổ phiếu nên không thể tiến hành mở rộng doanh nghiệp theo hướng kinh doanh sản xuất những mặt hàng có lợi nhuận cao được. Chính vì thế việc khống chế số lượng chỉ có 30% số cổ phiếu được phép bán ra ngoài doanh nghiệp sẽ là hạn chế rất lớn nên chăng tỷ lệ này là 50% thì cổ đông bên ngoài doanh nghiệp nếu có tiền thì có thể nắm quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong doanh nghiệp cổ phần hoá thì hợp lý hơn
Trong những trường hợp nhất định, cơ chế trên đã có những ảnh hưởng không tốt đến tiến trình bán cổ phần cũng như tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nói chung; đồng thời còn là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng cho việc thực hiện các mục tiêu: huy động vốn và thay đổi phương thức quản lý của chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
5.2. Tổ chức bán cổ phiếu
Cổ phần được bán công khai tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, hoặc tại các tổ chức tài chính trung gian theo cơ cấu cổ phần lần đầu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trong phương án cổ phần hoá và sẽ được thực hiện theo phương thức bán đấu giá .
Việc bán cổ phần tại các doanh nghiệp này trước hết sẽ được tiến hành bán cho cổ đông trong doanh nghiệp, theo các quy định của nhà nước cho các đối tượng khác nhau đó. Số cổ phiếu còn lại ít nhất 30% mới được bán ra ngoài cho các cổ đông khác theo hình thức công khai tại doanh nghiệp hay trên thị trường thông qua tổ chức tài chính trung gian. Trong trường hợp doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu thì nộp bản giải trình về nhu cầu mở rộng doanh nghiệp đã được thông qua tại đại hội đồng cổ đông của công ty, rồi mới được phép phát hành cổ phiếu ra bên ngoài và được định giá theo giá thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá có tình hình tài chính phù hợp với điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán, thì phương án bán cổ phần ra bên ngoài phải đảm bảo các điều kiện để được niêm yết trên thị trường chứng khoán, sau khi chuyển thành công ty cổ phần.
Tiền thu từ bán cổ phần thuộc vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty nhà nước (không phân biệt tổng công ty 90 hay tổng công ty 91) sẽ được chuyển về quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá tổng công ty nhà nước.
Tiền thu từ bán phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được sử dụng để hỗ trợ doanh nghiệp thanh toán trợ cấp cho người lao động thôi việc mất việc tại thời điểm cổ phần hoá hoặc sau khi người lao động chuyển sang làm việc tại công ty cổ phần
Tiền thu từ bán phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá nên được sử dụng để hỗ trợ doanh nghiệp có khó khăn về khả năng thanh toán và để xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ bảo hiểm xã hội.
5.3. Cần hoàn chỉnh chính sách bán cổ phần cho đối tác nước ngoài
Về mục tiêu của việc bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài quy chế quy định 3 mục tiêu đó là: huy động vốn, công nghệ (tiên tiến) và trình độ quản lý. Trong 3 mục tiêu đó thì mục tiêu nâng cao trình độ quản lý của các nhà quản lý doanh nghiệp là chủ yếu, nhưng muốn nâng cao trình độ quản lý của các nhà quản lý doanh nghiệp Việt Nam thì nên để nhà đầu tư nước ngoài tham gia quản lý công ty cổ phần, từ đó ta học được cách quản lý, điều hành của họ. Điều này có vẻ như mâu thuẫn với việc quy định nhà đầu tư nước ngoài chỉ được sở hữu không vượt 30% vốn điều lệ của công ty cổ phần, trong khi luật đầu tư nước ngoài lại cho phép các nhà đầu tư nước ngoài liên doanh với mức vốn góp không dưới 30% và được quyền thành lập các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam.
Về giá bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài cũng là điều cần bàn thêm. Cụ thể: một mặt quy chế quy định giá bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước thống nhất chung một giá, mặt khác lại quy định trong trường hợp nhiều nhà đầu tư nước ngoài đăng ký mua cổ phần vượt quá 30% số vốn điều lệ của công ty thì tổ chức đấu giá. Vậy khi đấu giá mà nhà đầu tư nước ngoài trả giá cao hơn nhà đầu tư trong nước thì có điều chỉnh giá mua cổ phần của nhà đầu tư trong nước không? trong thực tế các doanh nghiệp đã bán cổ phần cho các nhà đầu nước ngoài đều có mức giá cao hơn giá bán cho nhà đầu tư trong nước. Vậy quy định như vậy là can thiệp quá sâu vào doanh nghiệp.
Sự không thống nhất trong cơ chế chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cùng với biện pháp phân cấp mạnh mẽ trong công tác tổ chức thực hiện cổ phần hoá như thiếu sự kiểm tra giám sát và chấn chỉnh kịp thời của Chính phủ và trách nhiệm rõ ràng của cơ quan được uỷ quyền đã dẫn đến sự không thống nhất trong việc triển khai cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở các địa phương và các bộ, ngành. Vì vậy đã có biểu hiện tuỳ tiện hoặc trây ỳ trong việc xúc tiến thực hiện chủ trương cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước.
6. Chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước và người lao động khi thực hiện cổ phần hoá.
6.1. Chính sách ưu đãi hợp lý đối với doanh nghiệp cổ phần hoá
Theo quy định, doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang công ty cổ phần được hưởng 6 ưu đãi, trong đó chủ yếu là ưu đãi về mặt tài chính.
Tuy vậy, cho đến nay những ưu đãi về tài chính của doanh nghiệp vẫn còn một số nội dung cần phải được tiếp tục hoàn thiện.
Về ưu đãi được "tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như đã áp dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước". Thực tế nhiều doanh nghiệp đã gặp phải khó khăn khi thực hiện ưu đãi này vì thông tư hướng dẫn của ngân hàng Nhà nước Việt Nam lại quy định chỉ những doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ cổ phần đặc biệt, cổ phần chi phối mới được tiếp tục vay vốn theo cơ chế và lãi suất hiện hành áp dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước, còn những doanh nghiệp khác (nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt) chỉ được hưởng ưu đãi này trong vòng 2 năm liên tiếp sau khi doanh nghiệp chuyển chính thức sang hoạt động theo Luật công ty, còn sau đó thì theo cơ chế tín dụng hiện hành áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Vấn đề tỷ lệ cổ phần ưu đãi cho những doanh nghiệp Nhà nước có phần vốn tự tích luỹ nhiều, quy định hiện hành vẫn chưa hợp lý, và không thể thực hiện được vì nếu so sánh giữa phần vốn tự tích luỹ với giá trị doanh nghiệp thì khó có doanh nghiệp nào đảm bảo được tỷ lệ 10% chứ chưa nói đến tỷ lệ trên 40% như chế độ Nhà nước đã quy định.
Đối với một số doanh nghiệp trong diện cổ phần hoá có tình hình tài sản, tài chính phức tạp chưa có cơ chế xử lý như: do quá trình trước để lại công nợ nhưng không lập hồ sơ đầy đủ, nợ phải thu khó đòi chiếm tỷ trọng lớn trong phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, công nợ của giai đoạn I còn tồn đọng chưa xử lý xong... Tồn đọng này vẫn kéo dài chưa thể giải quyết được.
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài nhưng liên doanh thua lỗ chưa có cơ chế xử lý.
Doanh nghiệp đang làm đề án cổ phần hoá nhưng phải tiến hành di dời, hoặc nhà cửa, kho, đất đai đang tranh chấp.
Doanh nghiệp trước đây bị thua lỗ và đã chi âm quỹ phúc lợi khen thưởng, gặp khó khăn trong phương hướng phát triển, nên chưa thể xây dựng đề án cổ phần hoá.
Nên phương hướng giải quyết cho doanh nghiệp loại này trong quá trình cổ phần hoá là:
Về công nợ thì các khoản nợ phải thu đã quá hạn thanh toán từ 3 năm trở lên (trước đây là 5 năm), tuy con nợ đang tồn tại nhưng không có khả năng trả nợ, được phép xử lý bằng cách trừ vào kết quả kinh doanh, hoặc cuối cùng không còn nguồn nào thì trừ vào phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hoá.
Nợ phải thu quá hạn thanh toán có thể được bán cho các tổ chức kinh tế có khả năng mua bán nợ.
Nợ phải trả đến hạn được thoả thuận với chủ nợ để xử lý hoặc chuyển thành vốn góp cổ phần.
Nợ thuế và nợ ngân sách của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được xem xét cho xử lý như khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ.
Nợ đọng vay ngân hàng thương mại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được quyền thoả thuận với ngân hàng để giãn nợ, khoanh nợ, xoá nợ giảm lãi suất vay hoặc chuyển nợ thành vốn góp cổ phần.
Nợ nước ngoài doanh nghiệp tự vay có thể thoả thuận với chủ nợ chuyển thành vốn góp trong công ty cổ phần.
Các khoản lỗ luỹ kế trước đây của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được dùng thu nhập trước thuế có đến thời điểm cổ phần hoá để bù đắp.
Đối với tài sản liên doanh nước ngoài doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được thoả thuận để mua bán lại vốn góp liên doanh. Nếu đưa vốn góp liên doanh vào cổ phần hoá thì đã có quy định hướng dẫn xác định giá trị góp vốn liên doanh với nước ngoài, theo tỷ giá chuyển đổi ngoại tệ bình quân trên thị trường tiền tệ tại thời điểm định giá
Đối với doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài nếu làm ăn thua lỗ có thể cho kết thúc hợp đồng liên doanh, rồi tiến hành giải thể doanh nghiệp đó theo quy định của pháp luật. Hoặc có thể tiến hành cổ phần hoá theo hướng cổ phần hoá đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cần có cơ chế thích hợp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể cho phép các doanh nghiệp này tiến hành cổ phần hoá vì chính những công ty này sẽ làm phong phú hơn các hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Đối với những doanh nghiệp này thì nên quy định khống chế tỷ lệ cổ phần thích hợp với bên nước ngoàivà bên Việt Nam, trước hết cần thí điểm để rút kinh nghiệm tránh việc mắc sai lầm. Việc đầu tiên là tiến hành bổ sung sửa đổi sửa đổi luật đầu tư nước ngoài và chỉ tiến hành cổ phần hoá những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, cần có những bước đi thích hợp.
6.2. Đảm bảo lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá.
Theo quy định thì mỗi 1 năm làm việc cho Nhà nước người lao động trong doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá được mua tối đa 10 cổ phần (trị giá 1 cổ phiếu 100.000 đồng) với mức giảm giá 30% so với các đối tượng khác. Số lượng cổ phần được mua với giá ưu đãi tuỳ thuộc vào số năm công tác của từng người nhưng tổng giá trị ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp không được vượt quá 20% hoặc 30% (đối với những doanh nghiệp có vốn tự tích luỹ từ 40% giá trị doanh nghiệp trở lên) giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Riêng người lao động nghèo còn được Nhà nước cho trả chậm tiền mua cổ phần ưu đãi trong giới hạn 10 năm.
Về cơ bản, chế độ ưu đãi cho người lao động đã được cải thiện nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, việc quy định thống nhất tỷ lệ giá trị được ưu đãi tương ứng với phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp mà không xét đến mức vốn thực tế và lao động hiện có ở doanh nghiệp là không hợp lý và không công bằng, sẽ dẫn tới tình trạng nơi nhiều vốn Nhà nước thì người lao động được hưởng một phần mức đã quy định. Nhất là những doanh nghiệp có giá trị tài sản thấp và đông lao động ưu đãi này chưa thật hấp dẫn người lao động vì thực tế bình quân người lao động ở những doanh nghiệp này chỉ mua được 2-3 cổ phần theo giá ưu đãi cho mỗi năm công tác trong khu vực Nhà nước mà thôi.
Mặt khác, chế độ ưu đãi này mới chỉ khuyến khích một bộ phận người lao động ở những doanh nghiệp cổ phần hoá, không công bằng đối với những người lao động đã làm việc cho Nhà nước ở các khu vực khác hoặc đã hưu trí. Chưa thật sự tạo ra được động lực thúc đẩy đông đảo quàn chúng quan tâm và nhiệt tình tham gia hưởng ứng chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của Chính phủ.
Nên chăng áp dụng tổng hợp các giải pháp sau đây trong quá trình cổ phần hoá:
Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được miễn lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần.
Doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được duy trì các hợp đồng thuê nhà cửa, vật kiến trúc của các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp khác, hoặc được ưu tiên mua theo giá thị trường tại thời điểm cổ phần hoá để ổn định sản xuất kinh doanh.
Số dư bằng tiền của quĩ khen thưởng phúc lợi được chia cho người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp để mua cổ phần, không phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
Người lao động trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được nhà nước bán cổ phần theo giá ưu đãi cho một năm làm việc thực tế tại khu vực nhà nước với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu. Trị giá một cổ phần là 100.000 đồng. Người lao động nghèo được mua trả dần 10 năm không lãi suất với cổ phần không quá mức khống chế trên tổng số cổ phần bán ưu đãi. Tổng giá trị ưu đãi không vượt quá phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Tất cả cổ phần ưu đãi này đều là cổ phiếu ghi tên và và chỉ được chuyển nhưọng sau một thời gian nhất định kể từ khi mua.
Xoá bỏ tỷ lệ khống chế tổng mức giá trị ưu đãi cho người lao động.
Qui định cổ phần được mua theo giá ưu đãi của người lao động trong doanh nghiệp là loại cổ phiếu ghi tên và chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ ngày mua, và được quyền thừa kế thì mới khuyến khích người lao động tham gia nhiệt tình trong việc mua cổ phiếu. Trường hợp đặc biệt nếu có vấn đề nghiêm trọng xảy ra thì hội đồng quản trị công ty cổ phần xem xét và ưu tiên mua lại theo giá thị trường tại thời điểm bán.
Không bắt buộc phải sử dụng hết số lao động hiện có tại thời điểm cổ phần hoá, chỉ yêu cầu sử dụng tối đa số lao động hiện có. Số lao động còn lại sẽ được Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước giải quyết. Người lao động dôi dư được hưởng chính sách đãi ngộ theo quy định của pháp luật và có hướng dẫn cụ thể cho từng doanh nghiệp trong từng ngành, lĩnh vực.
Còn về bán cổ phần cho lãnh đạo , quản lý, nghiệp vụ và người thân của họ cùng làm việc tại doanh nghiệp nhằm đảm bảo tính công bằng cho cán bộ công nhân viên, đồng thời không phân biệt cán bộ lãnh đạo hay lao động bình thường, nếu có thời gian thâm niên công tác như nhau thì phần ưu đãi cũng phải được hưởng như nhau. Nên bổ sung chính sách ưu đãi đối với người lao động trong một số doanh nghiệp không có tích luỹ quỹ phúc lợi khen thưởng để phân phối cho công nhân mua cổ phần, cụ thể như cho công nhân mua chịu trả chậm phần cổ phần theo giá ưu đãi (ngoài danh mục công nhân nghèo được mua trả chậm).
6.3. Chính sách đối với cán bộ lãnh đạo khi cổ phần hoá.
Đề nghị mở rộng chính sách quy định tại pháp lệnh chống tham nhũng, cho phép cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý tại doanh nghiệp cổ phần hoá được mua cổ phần như các cổ đông khác (ngoài phần mua theo giá ưu đãi), nếu họ có khả năng tài chính có thể mua được cao hơn, để tạo niềm tin cho tập thể người lao động trong doanh nghiệp và các cổ đông ngoài doanh nghiệp mua nhiều và nhanh số cổ phần bán ra.
Vai trò của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp có một ý nghĩa quan trong, nó quyết định sự thành công trong thực hiện cổ phần hoá của từng doanh nghiệp, thế nhưng họ lại thấy rằng quyền lợi cuả họ bị kìm lại bởi nhiều quy định. Cụ thể như nghị định 44/CP (ngày 29-06-1998) không giới hạn cổ phần mà giám đốc trong doanh nghiệp được mua, nhưng trong pháp lệnh chống tham nhũng thì giám đốc chỉ được mua không quá số cổ phiếu ưu đãi bình quân của người lao động trong công ty. Việc khống chế người lãnh đạo, người quản lý doanh nghiệp chỉ được mua cổ phần theo giá ưu đãi tối đa bằng mức bình quân của cổ đông trong doanh nghiệp đã là một điều thiếu bình đẳng khiến cho các đối tượng này thiếu hăng hái trong việc tiến hành cổ phần hoá. Và điều làm cho các vị giám đốc tâm tư hơn nữa là theo các quy định tại nghị định 73/CP (06-12-2000) thì giám đốc sẽ mất quyền quản lý vốn doanh nghiệp nếu nắm giữ dù chỉ một cổ phiếu của doanh nghiệp. Thực tế đã cho thấy ở doanh nghiệp nào mà người lãnh đạo và người quản lý không hăng hái nhiệt tình tham gia thì quần chúng nơi đó cũng không tin tưởng, nhiệt tình tham gia chương trình cổ phần hoá, và tiến trình cổ phần hoá ở các doanh nghiệp đó thường bị kéo dài một cách không cần thiết, thậm chí cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ phần cũng không đảm bảo đúng như phương án cổ phần hoá đã đề ra vì gặp những trở ngại trong quá trình bán cổ phần. Nhiều doanh nghiệp đã cổ phần hoá không thuộc diện Nhà nước phải nắm giữ cổ phần chi phối, thế nhưng số cổ phần do Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ còn khá lớn (khoảng trên 30%) do không bán hết. Điều đó cho thấy cần phải xem xét, sửa đổi, bổ sung lại các quy định về việc khống chế quyền mua cổ phần sao cho hợp lý và linh hoạt để việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được thuận lợi hơn, công bằng hơn, đảm bảo hoạt động cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đáp ứng triệt để hơn các mục tiêu đã được đặt ra.
7. Kết hợp thị trường chứng khoán và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Muốn có thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán, theo nhiều chuyên gia phải đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp và đưa nhanh các doanh nghiệp này lên sàn giao dịch. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc các doanh nghiệp hội đủ điều kiện nhưng không tham gia thị trường chứng khoán, nhà nước có ưu đãi về thuế và phí nhưng các công ty e ngại kiểm toán, công bố thông tin và chờ cho thị trường chứng khoán hoạt động rồi mới niêm yết, một số công ty muốn niêm yết nhưng vì hạn chế về quyền chuyển nhượng cổ phiếu do điều lệ công ty quy định.
Vì thế cần có cơ chế chính sách thông thoáng hơn cho doanh nghiệp khi tham gia thị trường chứng khoán để thị trường chứng khoán là mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá, nhằm thu hút vốn đầu tư thông qua thị trường chứng khoán, và cần tạo dựng quy chế thống nhất cho các công ty khi muốn tham gia vào thị trường chứng khoán được dễ dàng hơn, Không cần tiến hành các thủ tục rườm rà. Xây dựng thị trường chứng khoán phát triển để thị trường chứng khoán là kênh thu hút vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp, trong trường hợp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh.
8. Thành lập hội doanh nghiệp cổ phần hoá.
Cần xúc tiến việc thành lập hội doanh nghiệp các công ty cổ phần hoá nhằm tạo điều kiện cho các công ty cổ phần hỗ trợ nhau trong quá trình phát triển, hội sẽ đứng ra bảo vệ quyền lợi cho các công ty cổ phần khi xảy ra tranh chấp, hay khúc mắc, khi cổ phần hoá hay trong quá trình hoạt động. Hội là cầu nối giữa công ty và nhà nước, các nhà lập pháp trong việc tháo gỡ những khó khăn cho công ty cổ phần.
III. Một số kiến nghị với trung ương và thành phố
1. Kiến nghị với trung ương
1.1. Về chính sách ưu đãi cho người lao động tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.
Đề nghị xem xét để điều chỉnh cho phù hợp hơn trong việc bán cổ phần giá ưu đãi cho thành phần lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ và người thân thuộc của họ cùng làm việc tại doanh nghiệp, nhằm đảm bảo tính công bằng cho cán bộ công nhân viên chức (không phân biệt lãnh đạo hay lao động bình thường), nếu có thời gian thâm niên công tác như nhau thì phần ưu đãi phải như nhau. Ngoài những chính sách ưu đãi cho người lao động tại các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hoá, việc tiếp tục nghiên cứu bổ sung chính sách tương tự, đối với lực lượng lao động tăng giảm trong doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá.
Cần thiết nên bổ sung chính sách ưu đãi đối với người lao động trong một số doanh nghiệp nhà nước không có tích luỹ được quỹ phúc lợi khen thưởng để phân phối cho công nhân mua cổ phần, cụ thể là đối với doanh nghiệp nhà nước không có số dư quỹ phúc lợi khen thưởng hoặc có nhưng quá ít , đề nghị cho công nhân mua chịu trả chậm phần cổ phần theo giá ưu đãi (ngoài danh mục công nhân nghèo được mua trả chậm).
1.2. Về bán cổ phần cho các cá nhân và pháp nhân trong nước.
Về vấn đề này thì nên khuyến khích tất cả các cá nhân và thành phần kinh tế tham gia mua và không hạn chế số lượng để huy động được càng nhiều vốn càng tốt, không nên hạn chế số lượng mua cổ phiếu như hiện nay sẽ làm giảm khả năng kêu gọi vốn đầu tư từ phía những nhà đầu tư tiềm năng.
Đối với những ngành mà nhà nước thấy cần nắm giữ hay chi phối đặc biệt thì nhà nước sẽ giữ lại >50% vốn điều lệ để đảm bảo vẫn quản lý được doanh nghiệp đó, cần quy định riêng đối với từng doanh nghiệp chứ không nói chung chung là những ngành nhà nước giữ tỷ lệ khống chế như hiện nay để có phương hướng lập kế hoạch cổ phần hoá nhằm tránh sai số trong lập kế hoạch.
1.3. Về một số nội dung khác trong xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá
Cần hướng dẫn bổ sung việc định giá tài sản là nhà ở, gắn với đất đai, thuộc loại tài sản lưu động, tạm gọi là hàng hoá của công ty địa ốc phát triển kinh doanh nhà, vì đó không phải là tài sản cố định của doanh nghiệp, hay gọi là tài sản lưu động của công ty kinh doanh bất động sản. Với loại tài sản này thì không nên đưa giá trị đất đai, nhà cửa vật kiến trúc nầy vào giá trị doanh nghiệp khi định giá.
Về định giá tài sản là nhà xưởng vật kiến trúc, đề nghị chính phủ hướng dẫn thêm việc xác định vị trí của doanh nghiệp (có hay không việc định giá đất vào giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá).
Về giá trị lợi thế nên quy rõ các điều kiện cần và đủ để xét doanh nghiệp có lợi thế hay không sau đó mới cho tính giá trị lợi thế.
Cần hướng dẫn chi tiết , cụ thể hơn đối với phần vốn góp liên doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá.
Cần quy định nguyên tắc và phương thức đấu thầu phát hành cổ phiếu và đấu giá phát hành.
Cho thí điểm áp dụng các phương thức định giá phù hợp từng loại ngành sản xuất kinh doanh, để có thể kết hợp phương pháp, để tìm ra hệ số so sánh, khi xác định giá trị thực tế doanh nghiệp cổ phần hoá.
2. Kiến nghị với thành phố.
Đề nghị thành phố có hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp trong việc giải quyết các vướng mắc về định giá trị doanh nghiệp, về nhà đất, công nợ của các doanh nghiệp trước cổ phần hoá.
Thành phố nên thành lập một cơ quan chuyên trách trong giải quyết các vấn đề vướng mắc cho doanh nghiệp, đồng thời cơ quan này cũng tiến hành giải quyết các thủ tục cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội.
Xúc tiến thành lập công ty cổ phần đầu tư và dịch vụ cổ phần hoá công ty hoạt động trong các lĩnh vực: tư vấn cổ phần hoá, dịch vụ phát hành cổ phiếu, đầu tư mua cổ phần, môi giới cho vay vốn đầu tư mua cổ phần, tư vấn quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hoá , các dịch vụ có liên quan đến cổ đông của doanh nghiệp.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4588.doc