Thực trạng Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước & phương hướng

Lời nói đầu Hiện nay,quá trình cổ phần hoá đang thật sự diễn ra mạnh mẽ ở nước ta.Rất nhiều doanh nghiệp chọn cách thức cổ phần hoá để đổi mới công ty mình,tạo nên tiềm lực mạnh mẽ cho sự phát triển doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.Nhận thức được những ưu điểm nổi bật, cũng như tính tất yếu phải cổ phần hoá,Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương đổi mới,sắp xếp,và phát triển doanh nghiệp nhà nước trong đó lấy cổ phần hoá làm giải pháp trọng tâm đã được đề ra và thực hiện

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước & phương hướng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gần 20 năm qua.Trong thời gian đó, chúng ta đã đạt được khá nhiều thành công,có nhiều thay đổi tích cực .Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá thành công và làm ăn có hiệu quả hơn sau khi thực hiện cổ phần hoá , trong đó có cả những doanh nghiệp lớn,giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước nhà.Tuy nhiên những hạn chế ,thiếu sót vẫn còn tồn taị, chưa có những biện pháp kịp thời ,đúng đắn để tháo gỡ. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta hãy cùng điểm lại thực trạng và đề ra những giải pháp,góp ý nhằm khắc phục phần nào những thiếu sót của công cuộc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Tuy nhiên,do còn nhiều mới mẻ và trình độ còn hạn chế nên bài viết không thể tránh được những sai sót, vì thế em rất mong được sự góp ý của thầy giáo để giúp cho bài đề án được hoàn thiện hơn. I/Những vấn đề lý luận chung về doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: 1/Doanh nghiệp nhà nước và vị trí của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân 1.1Nhận thức và các quan niệm về doanh nghiệp nhànước(DNNN) Theo cách hiểu thông thường DNNN là doanh nghiệp của nhà nước,với tư cách là chủ sở hữu,Nhà nước có thể bỏ vốn để đầu tư thành lập DNNN,hoạt động theo luật DNNN.Theo quy định của luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995,DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư 100% vốn,thành lập và tổ chức quản lý,hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích,nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội do Nhà nước giao.Xét về sở hữu,DNNN chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là Nhà nước và DNNN cũng chỉ hoạt động theo luật DNNN. Nhưng từ sau Nghị quyết trung ương 3 khoá IX đã mở rộng kháI niệm DNNN bao gồm DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối. Luật DNNN năm 2003 đã thể chế hoá chủ trương trên của Đảng và Nhà nước ,quy định DNNN gồm: Công ty nhà nước do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ,hoạt động theo luật DNNN,công ty cổ phần nhà nước bao gồm toàn bộ các cổ đông là công ty nhà nước hoặc tổ chức được Nhà nước uỷ quyền góp vốn,hoạt động theo luật Doanh nghiệp ,công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên,công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên trong đó các thành viên là công ty nhà nước hoặc các tổ chức đựơc Nhà nước uỷ quyền góp vốn hoạt động theo luật Doanh nghiệp,các doanh nghiệp có cổ phần ,vốn góp chi phối của Nhà nước (vốn Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ),gồm các công ty cổ phần , các công ty trách nhiệm hữu hạn,công ty liên doanh với nước ngoài hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài taị Việt Nam và công ty của Việt Nam thành lập ở nước ngoài, hoạt động theo pháp luật của nước sở tại. Theo quan niệm mới về DNNN trên đây,đối tượng để sắp xếp,cổ phần hoá DNNN mà chỉ là công ty nhà nước(gồm cả tổng công ty nhà nước do Nhà nước quyết định đầu tư thành lập),công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty nhà nước 100% vốn Nhà nước.Tác động tích cực của việc sắp xếp ,đổi mới DNNN không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả của công ty nhà nước,mà còn có tác động lan toả đối với tất cả các loại hình DNNN đã nêu trên và các doanh nghiệp không thuộc sở hữu của Nhà nước. 1.2/Khái niệm và những ưu điểm của công ty,doanh nghiệp cổ phần hoá: Trước hết chúng ta cần tìm hiểu thế nào là công ty,doanh nghiệp cổ phần hoá và những ưu điểm của công ty,doanh nghiệp cổ phần hoá. Công ty cổ phần là kết quả của sự vận động tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh về tư liệu sản xuất. Nó cho phép đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản, mở rộng quy mô sản xuất nhanh chóng tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất. Công ty cổ phần mang những đặc điểm cho phép thích ứng với những đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế thị trường mà các hình thái khác không thể đáp ứng được. Đó là: xét về mặt pháp lý công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân mà vốn do nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần, các cổ đông chỉ có trách nhiệm với các cam kết tài chính của công ty trong giới hạn số tiền mà họ đóng góp. Trong trường hợp công ty bị phá sản thì họ chỉ mất số tiền đã đầu tư vào công ty mà thôi, không chịu trách nhiệm vô hạn như hình thức kinh doanh một chủ hoặc chung vốn. Bằng cách bán cổ phiếu, trái phiếu cho những người có vốn muốn đầu tư để gia tăng thu nhập, nó đã làm cho họ không e ngại những hậu quả tài chính sẽ xảy ra với gia sản của mình. Xét về mặt huy động vốn: nó cho phép huy động một số vốn lớn trong xã hội bằng cách có thể định giá cổ phiếu thấp để khai thác được cả những số tiền tiết kiệm nhỏ nhất trong công chúng. Việc mua cổ phiếu không những mang lại lợi tức cổ phần mà còn hứa hẹn những khoản thu nhờ việc gia tăng giá trị cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. Ngoài ra các cổ đông có quyền được tham gia quản lý theo điều lệ của công ty và được pháp luật bảo đảm, điều đó làm cho quyền sở hữu của cổ đông trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn, thêm nữa cổ đông có quyền được ưu đãi trong việc mua những cổ phiếu mới phát hành trước khi chúng được đem bán rộng rãi cho công chúng. Trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần có Đại hội cổ đông - có quyền quyết định tối cao: bầu hoặc bãi miễn Hội đồng quản trị, Hội đồng quản trị - có trách nhiệm phân chia lợi nhuận, sửa đổi Điều lệ công ty, bảo toàn và phát triển giá trị các khoản vốn đầu tư của cổ đông... Ban giám đốc có trách nhiệm điều hành toàn bộ hoạt động quản lý kinh doanh. Cổ đông cũng có thể bầu ra Ban kiểm soát thực hiện việc kiểm tra giám sát hoạt động của công ty để bảo vệ lợi ích cho những người góp vốn. Chính vì những ưu việt của mình về trách nhiệm pháp lý, cơ cấu tổ chức chặt chẽ, rõ ràng... mà hình thái Công ty cổ phần ngày càng phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, hàng ngàn tập đoàn công ty khổng lồ được hình thành theo hình thái Công ty cổ phần đã góp phần tạo nên sức mạnh kinh tế của một quốc gia (do biết áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất) và tham gia đắc lực vào các qúa trình quốc tế hoá đời sống kinh tế quốc tế 1.3/Tính tất yếu phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: 1.3.1/Tính chất của DNNN: _Thứ nhất,là tính chất tất yếu tồn tại và đóng vai trò then chốt của DNNN.DNNN là loại hình doanh nghiệp Nhà nước dựa trên sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất,do đó khác các loại hình doanh nghiệp khác trên những điểm chủ yếu sau đây: Một là vì có vốn hầu hết là của Nhà nước nên dù có chức năng kinh doanh hay công ích thì trong bất kỳ hoàn cảnh nào DNNN luôn luôn chú trọng hiệu quả kinh tế-xã hội.Do đó sự có mặt của DNNN là lực lượng vật chất quan trọng đảm bảo tính ổn định của nền kinh tế,chống lại mọi hành vi cơ hội,bằng mọi giá chạy theo lợi nhuận của các loại hình doanh nghiệp khác,đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân. Hai là,lợi nhuận của DNNN sẽ do Nhà nước sử dụng.Do đó nhiều nước còn giao cho DNNN những lĩnh vực có lợi nhằm tạo cho Nhà nước những khoản lợi nhuận lớn để có kinh phí giảI quyết những vấn đề xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị trường. Ba là,trong nền kinh tế có nhiều lĩnh vực đòi hỏi sự đầu tư lớn, hiệu quả kinh tế không cao,nhưng lại rất cần thiết cho sự ổn định của kinh tế xã hội,các doanh nghiệp tư nhân rất ít khi đầu tư vào các lĩnh vực này,chỉ có DNNN,lấy mục tiêu bình ổn xã hội làm đầu mới đảm nhiệm được.Như vậy,trong những lĩnh vực quan trọng,huyết mạch của nền kinh tế,DNNN phảI có mặt và đóng vai trò then chốt. _Thứ hai,là về tính khó minh bạch của các DNNN.DNNN là doanh nghiệp dựa trên sở hữu Nhà nước vì thế cùng một lúc phải giải quyết nhiều mối quan hệ phức tạp,như quan hệ giữa chủ thể sỡ hữu(hội đồng quản trị)và người lao động…. trên các mặt trách nhiệm và lợi ích kinh tế,trong đó quan trọng nhất là lợi ích kinh tế..Xử lý mối quan hệ này rất phức tạp,trong đó việc những cá nhân quản lý vì lợi ích của bản thân mà bỏ qua lợi ích của doanh nghiệp,của công nhân là hiện tượng thường xuyên xảy ra.Hạn chế này xuất phát từ tính chất của sở hữu mà ngay cả các doanh nghiệp nước ngoài cũng thường gặp phải.Rõ ràng là,việc minh bạch hoá DNNN là một vấn đề nan giải. _Thứ ba,là sự kém hiệu quả của các DNNN.Nhìn chung các DNNN thường không có hiệu quả cao ,như năm 2002 có đến 20% DNNN thua lỗ ,40% hoà vốn hoạt động cầm chừng ,10% có lãi nhờ có được sự ưu đãi về thuế.Đó là do các DNNN thường phải đảm nhận kinh doanh trên những lĩnh vực ít lãi,phải đáp ứng những nhu cầu của xã hội mà các doanh nghiệp tư nhân không chịu đảm nhận,sở hữu nhà nước thuần tuý làm cho cơ chế quản lý DNNN trở nên rất phức tạp….. _Thứ tư,tính hệ thống,bao trùm của các DNNN là do lịch sử để lại.Hệ thống DNNN ở nước ta được xây dựng lâu dài theo quan niệm cũ,rộng khắp từ trung ương đến địa phương,quản lý một lực lượng lao động rộng khắp,một nguồn vốn lớn với những điều kiện thuận lợi nhưng lại mang laị hiệu quả thấp. Từ các tính chất của DNNN như trên,ta thấy được rằng,trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,cần phải có mặt DNNN với vai trò then chốt.Do đó yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần phải đổi mới lại DNNN trong đó việc cổ phần hoá DNNN là một trong những nội dung quan trọng trong chủ trương đổi mới DNNN cuả Đảng và Nhà nước ta. 1.3.2/Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một xu hướng tất yếu: Nước ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị ttrường nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN dựa trên sự đa dạng hoá về các loại hình sở hữu. Đó là một chủ trương đúng đắn để khôi phục lại nền kinh tế nước nhà sau chiến tranh và sau những hậu quả mà cơ chế quản lý kinh tế cũ đem lại. Từ thực tiễn tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế và những kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo, điều hành sản xuất kinh doanh chúng ta đã xã định được rằng cải cách doanh nghiệp Nhà nước một cách triệt để - trong đó cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là yêu cầu có tính quyết định để tăng cường động lực phát triển sản xuất và thúc đẩy DNNN hoạt động có hiệu quả hơn. Do đặc điểm nước ta vừa thoát khỏi cơ chế bao cấp nên những ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại ở đại bộ phận các doanh nghiệp. Vì thế, khi chuyển sang cơ chế mới các DNNN thường làm ăn kém hiệu quả, không có lãi. Lúc đó Nhà nước buộc phải có chính sách tài trợ, bao cấp. Tài trợ là một sách lược luôn luôn cần thiết nhằm đảm bảo cho các DNNN hoạt động tốt theo chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ. Còn bao cấp là một việc không đáng làm, nó chỉ làm cho các doanh nghiệp ngày càng ỷ lại, thiếu tinh thần trách nhiệm mà Nhà nước lại phải bù lỗ. Trong điều kiện ngân sách luôn thiết hụt thì đây thực sự là một gánh nặng nếu doanh nghiệp này thực ra là không cần phải duy trì hình thức quốc doanh. Thông thường các DNNN có quy mô nhỏ bé và dàn trải về ngành nghề. Đến nay cả nước có khoảng 5.280 doanh nghiệp, bình quân mỗi doanh nghiệp chỉ có 22 tỉ đồng (khoảng 1,5 triệu USD). trong đo số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỉ đồng (khoảng 350 nghìn USD) chiếm tới 65,45%, số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ đồng (trên 700 nghìn USD) chỉ chiếm dưới 21%. Đặc biệt số doanh nghiệp do địa phương trực tiếp quản lý quy mô còn nhỏ bé hơn nhiều, trong đó số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỉ đồng (khoảng 70 nghìn USD) còn chiếm hơn 30%. Nhiều doanh nghiệp cùng loại thì hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và trên cùng một địa bàn tạo ra sự cạnh tranh khônh đáng có. Do dàn trải về ngành nghề từ sản xuất đến thương mại và dịch vụ, manh mún về vốn trong khi vốn đầu tư của Nhà nước rất hạn chế đã gây chi phối xé lẻ các nguồn lực kể cả hoạt động quản lý của Nhà nước, không tập trung được cho những ngành lĩnh vực then chốt.Bên cạnh đó thiếu vốn cũng là nguyên nhân làm cho công nghệ của chúng ta không cải thiện được, dẫn đến năng lực cạnh tranh kém: sản phẩm làm ra thường kém chất lượng, giá cả lại cao, không có thị trường tiêu thụ (chỉ khoảng 15% đạt chất lượng xuất khẩu) nên cũng thua thiệt trong hội nhập về kinh tế với khu vực và thế giới. Hơn nữa, việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề chưa được chú trọng hoặc chưa phù hợp với xu thế phát triển, chưa có những ràng buộc về mặt lợi ích để người lao động phát huy hết khả năng của mình, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí... rất khó kiểm soát đang là những nhân tố làm khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động kém hiệu quả.Mặt khác các tác động tiêu cực do hội nhập kinh tế thế giới mang lại như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực gần đây đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nước ta. Điều này cho thấy tính cấp bách phải khẩn trương nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế để đảm bảo cho sự phát triển đất nước một cách ổn định vững chắc không những cho các năm trước mắt mà cho cả tương lai lâu dài. Chính vì thế,cổ phần hoá là giải pháp mang tính đột phá nhằm chuyển đổi DNNN từ đơn sở hữu sang đa sở hữu,chuyển từ sở hữu nhà nước duy nhất sang sở hữu hỗn hợp, và chính từ đâydẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lý cũng như phương hướng hoạt động của công ty. DNNN sau khi cổ phần hóa sẽ trở thành Công ty Cổ phần và hoạt động theo Luật Công ty. Việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc quản lý kinh tế, nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự quản lý trong sản xuất kinh doanh, nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng như óc sáng tạo của người lao động và người lãnh đạo. Với mục tiêu nhất quán của cổ phần hoá một bộ phận DNNN là huy động vốn của toàn xã hội để đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp, tạo động lực bên trong thay đổi phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời làm tăng tài sản và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp, thì cổ phần hoá đang được coi là yêu cầu cấp bách của cải cách DNNN cần tiến hành liên tục, có hiệu quả. II/Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta và đề ra các phương hướng giải quyết. 1/Chủ trương của Đảng về chương trình cổ phần hoá DNNN: Sớm nhận thức được tầm quan trọng cũng như sự nan giải trong tiến trình thực hiện, chủ trươngCPH một bộ phận DNNN đã được Đảng và Chính phủ đặt ra từ đầu những năm 1990 và chính thức triển khai từ giữa năm 1992 Và gần đây nhất,thủ tướng chính phủ đã có chỉ thị số 04/2005/CT-TTG ngày 17/05/2005 về việc đẩy nhanh vững chắc cổ phần hoá công ty nhà nước,các Bộ,ngành,địa phương tiến hành bổ sung các phương án tổng thể nhằm sắp xếp,đổi mới DNNN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 khoá IX và Quyết định số 155/2004/QĐ-TTG ngày 24/8/2004 của Thủ tướng chính phủ ban hành các tiêu chí,các danh mục phân loại công ty Nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty nhà nước .Khi xây dựng phương án tổng thể sắp xếp,đổi mới DNNN cần đặc biệt chú trọng cổ phần hoá các tổng công ty nhà nước,những tổng công ty đã cổ phần hoá đa số các doanh nghiệp thành viên thì tiến hành cổ phần hoá toàn bộ tổng công ty.Đối với những công ty chưa cổ phần chưa cổ phần hoá thì tiến hành cổ phần hoá hầu hết các doanh nghiệp thành viên và chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ_công ty con,sau khi hoạt động ổn định sẽ tiến hành cổ phần hoá công ty mẹ. Từ đầu năm 2005,Thủ tướng chính phủ tiếp tục xem xét và phê duyệt bổ sung phương án tổng thể sắp xếp,đổi mới công ty nhà nước cho các bộ ngành,địa phương năm 2005,có nơi còn kéo dài sang năm 2006. Qua đây,cho ta thấy rằng Đảng và Nhà nước ta đã có những nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc,từ đó đã ra những chỉ thị đúng đắn,nhằm góp phần cảI cách lại mảng doanh nghiệp quan trọng nhất của nền kinh tế thị trờng theo định hướng XHCN ở nước ta. Trên tinh thần đó,tiến trình đổi mới DNNN ở nước ta đã đạt được những thành tựu và hạn chế sau 2.Những thành tựu và hạn chế 2.1 Thành tựu: Qua 15 năm thực hiện ,đến hết năm 2005,chúng ta đã thành lập được 2987 công ty cổ phần trên cơ sở cổ phần hoá DNNN.Kết qủa thực hiện từng năm như sau: Năm 1990-1992:không có DNNN nào được cổ phần hoá. Năm 1993: 2 đơn vị Năm 1994: 1 đơn vị Năm 1995: 3 đơn vị Năm 1996: 5 đơn vị Năm 1997: 7 đơn vị Năm 1998:100 đơn vị Năm 1999:250 đơn vị Năm 2000: 212 đơn vị Năm 2001: 204 đơn vị Năm 2002: 464 đơn vị Năm 2003: 532 đơn vị Năm 2004: 753 đơn vị Năm 2000: 754 đơn vị Tổng cộng: 2987 đơn vị. Qua những con số trên đây đã cho thấy tiến trình cổ phần hoá đã trải qua những bước thăng trầm nhưng nói chung là theo xu hướng mỗi ngày càng được đẩy mạnh.Từ chỗ thực hiện chậm chạp trong những năm đầu thì cho đến 3 năm gần đây tiến trình công nghiệp hoá đã được đẩy mạnh hơn,do đó số lượng doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hoá ngay càng nhiều và nhanh. Năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng nữa cần được nhấn mạnh là trong số doanh nghiệp cổ phần hoá đã có những doanh nghiệp làm ăn khá, quy mô vốn lớn,hấp dẫn các nhà đầu tư.Ví dụ như Công ty vận tải xăng dầu đường thuỷ I,công ty sữa Vinamilk,công ty bánh Kinh Đô…. Sự chuyển hướng từ cổ phần hoá các DNNN trong một số lĩnh sang cổ phần ở hầu hết ngành,lĩnh vực ,trong cả kinh tế,thương mại,dịch vụ và ngân hàng,chỉ trừ doanh nghiệp trong lĩnh vực dầu khí và quốc phòng.TP Hồ Chí Minh còn kiến nghị chính phủ cho phép thành lập bệnh viện cổ phần.Bên cạnh đó chuyển biến từ việc chỉ cổ phần hoá DNNN có quy mô nhỏ sang cả những DNNN làm ăn có lãi với quy mô lớn trong các ngành kinh tế với kết quả hoạt động sau khi cổ phần hoá ngày càng tiến bộ.Tiến trình cổ phần hoá không chỉ được thực hiện với từng doanh nghiệp thành viên mà còn triển khai với cả tổng công ty.Đến nay đã có quyết định phê duyệt cổ phần hoá 5 tổng công ty trong đó có các tổng công ty Thương mai,Xây dựng,Điện tử_Tin học,Vinaconex và Bảo Việt.Một thành công đáng chú ý nữa là việc chuyển từ cổ phần hoá theo hướng cơ bản khép kín,nội bộ sang hình thức đấu giá công khai,bán cổ phần ra bên ngoài để thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước.Đây là sự chuyển biến cơ bản nhất thể hiện sự thay đổi quan điểm và chủ trương về cổ phần hoá,góp phần tạo ra sức bật mạnh mẽ để đẩy nhanh tiến trình cải cách hệ thống DNNN một cách công khai,minh bạch và chắc chắn,đạt hiệu quả cao. 2.2/Những hạn chế: -Cổ phần hoá tuy đã đạt được những thành tựu tích cực nhưng so với yêu cầu đổi mới vẫn còn chậm chạp.Vốn nhà nước trong các doanh nghiệp đã cổ phần hoá còn nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình còn chưa nhiều,thời gian tiến hành cổ phần hoá một số doanh nghiệp còn quá dài.Thường xuyên không hoàn thành kế hoạch đề ra.So với đề án được chinh phủ phê duyệt thì số DNNN được cổ phần hoá chưa đạt 80%.Số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá trong năm 2005 tuy đạt con số 754 đơn vị nhưng so với yêu cầu của nghị quyết hội nghị khoá 9 của Ban chấp hành trung ương Đảng thì chưa đạt yêu cầu. - Cổ phần hoá DNNN là công việc mới mẻ, phức tạp, vì vậy việc nghiên cứu các cơ chế chính sách cổ phần hoá còn chậm chạp. Các văn bản ban hành thiếu đồng bộ, quy trình triển khai phức tạp, còn nhiều mặt chưa hợp lý. Như các văn bản pháp quy về thực hiện chủ trương khống chế tỷ lệ mua cổ phần của các cán bộ quản lý và cá nhân trong lần mua đầu tiên đã làm giảm nhiệt tình và niềm tin của người lao động; thủ tục pháp lý về nhà xưởng, đất đai, xác định giá trị doanh nghiệp còn rườm rà, mất nhiều thời gian, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thuộc các Bộ, Tổng Công ty 91. Đồng thời, trong thời gian dài chậm quy định phạm vi DNNN được cổ phần hoá, chưa đề ra mục tiêu cổ phần hoá hàng năm để phấn đấu thực hiện. - Chưa có môi trường thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Một số nơi coi công ty cổ phần là doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên không được ưu ái như DNNN. Mặt khác, do Luật Công ty trước đây và Luật Doanh nghiệp Nhà nước đều chưa quy định rõ vai trò quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp đa sở hữu có vốn nhà nước góp, nên mỗi nơi vận dụng theo nhận thức riêng, không thống nhất. - Về nhận thức: Do cổ phần hoá đụng chạm đến lợi ích, bao gồm cả lợi ích cục bộ của ngành, đơn vị và cả lợi ích cá nhân, thêm nữa là thói quen trì trệ thích yên ổn, ngại thay đổi nên không ít Tổng Công ty ngần ngại chỉ đạo triển khai cổ phần hoá vì e rằng khi một công ty thành viên được cổ phần hoá tính độc lập sẽ cao hơn, ít lệ thuộc vào Tổng Công ty hơn. Cũng có những đơn vị có đề án tổng thể sắp xếp lại DNNN trong phạm vi quản lý nhưng lại không có chương trình kế hoạch cụ thể, việc triển khai mang tính chất đối phó, hình thức. 3/Đề xuất các giảipháp: - Do trong cổ phần hoá cũng có tư nhân hoá nên việc bán cổ phần cho các cá nhân là tất nhiên, do đó cần qui định tỷ lệ cổ phần bán cho người nước ngoài cho phù hợp để thu hút tối đa nguồn lực cho phát triển kinh tế. - Các cấp các ngành, các doanh nghiệp nhà nước cần quán triệt sâu sắc và có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về chủ trương, chính sách, các giải pháp đổi mới và phát triển DNNN với tiến trình cụ thể cho từng năm của Chính phủ, từ đó triển khai thực hiện với phương trâm tích cực, vững chắc, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt. - Tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, trước hết là trong các DNNN về các chủ trương cổ phần hoá với những sửa đổi bổ sung về chế độ khuyến khích tạo sự quan tâm của toàn xã hội với chủ trương quan trọng. - Giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm cho người lao động, tích cực giải quyết các khoản nợ của doanh nghiệp, tạo tiền đề cho việc thực hiện thành công chương trình cổ phần hoá. - Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, ban hành mới các Nghị định về cổ phần hoá để phù hợp với yêu cầu và những vấn đề đặt ra trong cổ phần hoá: từ đối tượng, chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động, đồng thời cần xem xét mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với nông dân, đảm bảo sự công bằng xã hội, có chính sách hỗ trợ những người có thu nhập thấp, giảm bớt chênh lệch giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp trong doanh nghiệp. Kết luận: Qua đây,chúng ta đã thấy được những ưu điểm của chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước do Đảng và Nhà nước ta đề ra, từ đó thấy được tầm quan trọng và sự đúng đắn, cần thiết phải chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang hình thức cổ phần.Tuy vẫn còn nhiều bất cập chưa được giải quyết nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ,sự đồng lòng đoàn kết, sự ủng hộ của toàn dân, chúng ta vẫn có quyền tin rằng công cuộc cổ phần hoá nhất định sẽ thành công, hệ thống doanh nghiệp nhà nước sẽ khẳng định được vai trò và vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần phát triển theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, góp phần đẩy nhanh công nghiệp hoá_hiện đại hoá đất nước , xây dựng xã hội ngày càng phồn vinh và giàu đẹp. Tài liệu tham khảo: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần IX Hữu Hạnh Bức tranh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,Tc CS, số 25,năm 20057. 3. Nguyễn Ngọc Quang Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước - Cơ sở lý luận và kinh nghiệp thực tiễn, NXB KHXH, 1996 Nguyễn Minh Thông Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, 15 năm nhìn lại, Thời báo Kinh tế,năm 2005 Nguyễn Thị Kim Nhung Doanh nghiệp nhà nước ,thực trạng và giaỉ pháp ,Tc CS, năm 2005 Mục lục Lời nói đầu 1 I/Những vấn đề lý luận chung về doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ………………………………………………… 2 1/Doanh nghiệp nhà nước và vị trí của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân 2 1.1Nhận thức và các quan niệm về doanh nghiệp nhànước(DNNN)………... 2 1.2/Khái niệm và những ưu điểm của công ty,doanh nghiệp cổ phần hoá….. 3 1.3/Tính tất yếu phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước…………………. 4 1.3.1/Tính chất của DNNN…………………………………………………. .4 1.3.2/Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một xu hướng tất yếu………... 5 II/Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta và đề ra các phương hướng giải quyết 7 1/Chủ trương của Đảng về chương trình cổ phần hoá DNNN…………...….. 7 2.Những thành tựu và hạn chế……………………………………………..... 8 2.1 Thành tựu…………………………………………………………….….. 8 2.2/Những hạn chế……………………………………………………...….. 9 3/Đề xuất các giải pháp………………………………………………….… 10 Kết luận…………………………………………………………….……… 12 Tài liệu tham khảo…………………………………………………………. 13 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0798.doc
Tài liệu liên quan