Thực trạng Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU *** Ngày nay, toàn cầu hoá kinh tế đang trở thành một xu thế tất yếu của thế giới đương đại, nó chi phối đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội của hầu hết các quốc gia, các nước dù muốn hay không, dù giàu hay nghèo đều bị cuốn vào vòng xoáy của cơn lốc này và Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó.Để đứng vững trong cơn lốc thị trường. Chúng ta đã chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với hội nhập kinh tế quốc tế.Hội nhập tức là dám chấp nhận chơi trên một sâ

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n chơi chung mà lợi thế nghiêng về các nước tư bản phát triển, một sân chơi có nhiều cơ hội nhưng cũng tiềm ẩn không ít rủi ro.Vì vậy để thành công thì năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng phải không ngừng được nâng cao.Ở nước ta, hiện nay có khoảng hơn 5000 doanh nghiệp Nhà nước đang nắm những ngành những ,lĩnh vực then chốt là xương sống của nền kinh tế nên nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.Hơn nữa, có một thực tế không thể phủ nhận là ngày nay khu vực kinh tế tư nhân và các khu vực khác hoạt động tốt hơn khu vực kinh tế Nhà nước, nếu không có sự quản lý sẽ tạo điều kiện cho tư nhân phát triển.Vì vậy, để nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân thì cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước được xác định là một trong những giải pháp quan trọng trong bước đi hội nhập của Việt Nam. I.Bản chất của cổ phần hóa và sự cần thiết cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam . 1.Bản chất cổ phần hóa. Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu thành công ty cổ phần tức doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu , cổ phần hóa nói chung có thể diễn ra tại các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh, tại các doanh nghiệp Nhà nước . Như vậy cổ phần hóa là quá trình đa dạng hóa chủ sở hữu của doanh nghiệp .Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần trong đó nhà nước có thể vẫn giữ tư cách là một cổ đông tức là nhà nước vẫn có thể là chủ sở hữu một bộ phận tài sản của doanh nghiệp. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước không chỉ là quá trình chuyển sở hữu nhà nước thành sở hữu của các cổ đông mà có cả hình thức doanh nghiệp Nhà nước thu hút thêm vốn thông qua bán cổ phiếu đẻ trở thành công ty cổ phần. Như vậy về bản chất cổ phần hóa là phương thức thực hiện xã hội hóa sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp thành nhiều chủ sở hữu để tạo ra mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường nhằm tạo điều kiện cho người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và làm chủ thực sự doanh nghiệp đồng thời huy động được vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ , phát triển doanh nghiệp ,tăng trưởng kinh tế. Chúng ta cần phân biệt cổ phần hóa với tư nhân hóa .Cổ phần hóa không phải là tư nhân hóa bởi lẽ tư nhân hóa là quá trình chuyển đổi toàn bộ hay một phần quyền sở hữu tài sản trong doanh nghiệp Nhà nước từ nhà nước sang tư nhân đông thời chuyển các lĩnh vực kinh doanh sản xuất từ nhà nước đọc quyền sang cho tư nhân đảm nhiệm theo nguyên tắc thị trường đối với những ngành , những lĩnh vực mà nhà nước không cần nắm giữ mà trong những ngành những lĩnh vực này khu vực tư nhân hoàn toàn có thể làm tốt hơn doanh nghiệp Nhà nước .Quá trình tư nhân hóa có thể là đa dạng hóa sở hữu mà cũng có thể không .Nó có thể hiểu theo hai khía cạch rộng và hẹp .Theo nghĩa hẹp thì tư nhân hóa để chỉ quá trình bán toàn bộ sơ hữu nhà nước cho khu vực tư nhân .Còn theo nghĩa rộng tư nhân hóa dùng để chỉ quá trình chuyển đổi nói chung từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân song cổ phần hóa thì khác .Cổ phần hóa là cơ cấu lại chức năng đặt ra vai trò mới cho khu vực kinh tế quốc doanh cố gắng vẫn giữ cho khu vực này tiếp tục phát triển và đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Trong cổ phần hóa tài sản của doanh nghiệp Nhà nước được bán cho nhiều đối tượng khác nhau bao gồm : các tổ chức kinh tế xã hội , các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp đồng thời giữ lại một tỷ lệ cổ phần cho nhà nước trong chính doanh nghiệp cổ phần đó. Điều này rõ ràng không thể nói rằng đó là tư nhân hóa .Mặt khác ở đây hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển tư nhà nước duy nhất sang hỗn hợp từ đây dẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức quản lý cũng như những phương thức hoạt động của công ty doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa trở thành công ty cổ phần điều lệ và thể thức hoạt động theo luật công ty .Còn doanh nghiệp Nhà nước sau tư nhân hóa trở thành doanh nghiệp tư nhân và thể thức hoạt động theo luật doanh nghiệp tư nhân. Như vậy cổ phần hóa và tư nhân hóa doanh nghiệp Nhà nước la hai quá trình khác nhau Tuy nhiên trong những điều kiện nhất định mà chúng có thể giống nhau và đều là quá trình đa dạng hóa chủ sở hữu .Mặt khác tùy vào mức độ chuyển đổi quyền sở hữu với vốn và tài sản của nhà nước trong doanh nghiệp mà khẳng định đó là cổ phần hóa hay tư nhân hòa. 2.Sự cần thiết phải cổ phần hóa. Có một thực tế mà mọi người đều thấy rõ là nhìn một cách tổng quát thì khu vực kinh tế quốc doanh làm việc kém hiệu quả hơn khu vực kinh tế tư nhân và tập thể .Do nhiều năm trước đổi mới chúng ta thực thi một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung , bao cấp , coi kinh tế nhà nước đồng nhất với doanh nghiệp Nhà nước nên doanh nghiệp Nhà nước phát triển với số lượng lớn và được hưởng chinh sách tài trợ tràn lan mà không tính đến lỗ lãi không quan tâm đến tiết kiệm .Vì vậy gây ra tình trạng thất thoát vốn đầu tư thường xuyên .Mặt khác về phần chinh phủ lại tin rằng các doanh nghiệp Nhà nước sẽ đảm bảo thực hiện tốt mọi chủ trương phát triển kinh tế xã hội đề ra nên chính phủ chẳng kiểm soát gay gắt ngân sách của các doanh nghiệp Nhà nước .Vì vậy đã dẫn đến việc phải bù lỗ tràn lan cho nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả ngay cả khi thị trường không cần đến những doanh nghiệp ấy nữa .Vô hình chung sự trong quản lý của chính phủ thông qua cơ chế xin cho cấp phát đã làm cho các doanh nghiệp Nhà nước mất đi tính năng động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh ,tạo ra thoi quen ỷ lại ,phụ thuộc vào các cơ quan cấp trên .Mặt khác do không được quản lý tốt cách quản lý kinh tế theo kiểu hành chính qua nhiều cấp bậc trung gian ,hệ thống kế hoạch hóa tài chính cứng nhắc đã khiến cho các doanh nghiệp Nhà nước thiếu khả năng thích nghi với nền kinh tế thị trường gây ra tình trạng làm ăn kém hiệu quả ,thua lỗ yếu kém triền miên . Hơn nữa ,như ta đã biết các doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận chủ yếu cấu thành khu vực kinh tế nhà nước mà đối với nước ta kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân , điều tiết và định hương cho các thành phần kinh tế kém phát triển. Song có một thực tế hiện nay là khu vực kinh tế nhà nước ngày càng thua kém rõ dệt khu vực tư nhân và tập thể. Trong điều kiện kinh tế thị trường đang phát triển sôi động như hiện nay vai trò chủ đạo cua kinh tế nhà nước không được củng cố thêm thậm chí còn yếu đi nếu chúng ta cứ tiếp tục duy trì những doanh nghiệp hiệu quả thấp, dàn trải và năng lực kém .Đặc biệt hơn nữa khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO nếu năng lực cạnh tranh của chúng ta mà kém thì chúng ta khó có thể thắng trên sân nhà. Chính vì những lý do trên nên cổ phần hóa là giải pháp tốt nhất để nâng cao năng lực của các doanh nghiệp Nhà nước tạo cho khu vực kinh tế nhà nước một bộ mặt mới, nó giúp củng cố được vai trò của khu vực kinh tế nhà nước đồng thời giảm bớt được khoảng cách giữa khu vực này với các khu cực khác tạo ra các cân đối trong nền kinh tế quốc dân đảm bảo ổn định về xã hội, không sáo trộn, không tạo ra nhiều khe hở làm thất thoát tài sản của nhà nước, đời sống nhân dân được cải thiện. Điều này đã được Đảng ta khẳng định ngay từ đầu thập kỷ 90 trong Nghị quyết Hội Nghị Trung Ương Đảng lần 2 khóa VII (11-1991) đó là “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp” .Và cho đến nay sau nhiều nghị quyết của Đảng thì cổ phần hóa đã trở thành vấn đế tất yếu được đề cập đến khi nói về phát triển kinh tế. II.Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua. 1.Tiến trình cổ phần hóa. Quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam có thể chia thành 4 giai đoạn được đánh dấu bởi việc Chính phủ ban hành một số nghị định mới và mỗi khi nghị định mới ban hành thì tiến độ cổ phần hóa được đẩy nhanh hơn. Thứ nhất giai đoạn 1: Giai đoạn thí điểm cổ phần (6/1992 - 4/1996) hay đây là giai đoạn cổ phần hóa tự nguyện. Ngay từ những năm đầu thập kỷ 80 Đảng và nhà nước đã chú trọng cải tiến quản lý doanh nghiệp Nhà nước coi đây là mục đích thúc đẩy kinh tế nhà nước phát triển. Đặc biệt sau Đại hội 6/1986 thực hiện sự nghiệp đổi mới Chính Phủ đã ban hành một loạt pháp lệnh nghị định nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. Đồng thời đây cũng là khoảng thời gian thực hiện chương trình thí điểm cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước vừa và nhỏ khi nó đã thỏa mãn các điều kiện cần thiết như có lợi nhuận ,không mang tính chiến lược và do đó nhà nước không cần sở hữu 100% vốn, ban giám đốc và người lao động thì tự nguyện tham gia vào chương trình thí điểm. Nhìn vào các tiêu chuẩn trên ta có thể thấy răng Việt Nam lúc đó dự định cổ phần hóa theo hai giai đoạn. Những doanh nghiệp nhỏ không quan trọng thì dược cổ phần hóa trước, những doanh nghiệp lớn và quan trọng cổ phần hóa sau, song kết quả của chương trình này rất khiêm tốn, trong 5 năm từ 1992 đến 1996 chỉ có vẻn vẹn 5 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa trên tổng số hơn 6000 doanh nghiệp Nhà nước hiện có trong thời gian ấy. Năm doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần đều là những doanh nghiệp Nhà nước mới được thành lập có quy mô vừa và nhỏ chủ yếu sản xuất hàng hóa trong lĩnh vực không quan trọng. Việc triển khai thí điểm cổ phần hóa còn quá chậm, không đạt yêu cầu mong muốn. Đây là giai đoạn đầy khó khăn vì vấn đề tư tưởng cho các cán bộ , công nhân viên công ty chưa được thông suốt, hơn nữa cơ chế vận hành của công ty cổ phần và cổ phần hóa còn là vấn đề rất mới ở Việt Nam trong giai đoạn này. Giai đoạn 2: (5/1996 – 5/1998) Mở rộng chương trình thí điểm. Qua 4 năm thực hiện chương trình thí điểm cổ phần hóa tuy kết quả còn ít nhưng ta đã có kinh nghiệm trong việc mở rộng cổ phần hóa trong thời gian tiếp theo. Vì vậy năm 1996 sau khi đánh giá kết quả chương trình thí điểm để đáp ứng nhu cầu bức xúc về vốn của doanh nghiệp Nhà nước và đẩy mạnh cổ phần hóa, Chính Phủ đã quyết định mở rộng chương trình này . Và đây cũng là lần đầu tiên Chính Phủ cam kết mạnh mẽ với cổ phần hóa. Tuy nhiên cổ phần hóa được mở rộng song một lần nữa kết quả thu được không đáp ứng được kỳ vọng, từ 1996 đến 1998 chỉ có thêm 25 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa. Giai đoạn 3: (6/1996-5/2002) Tăng tốc độ chương trình cổ phần hóa. Từ kinh nghiệm cổ phần hóa ở các giai đoạn trước nên từ 6/1998 chương trình thí điểm thay bằng cổ phần hóa kiên quyết hơn với sự ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP và văn bản có liên quan. Đây có thể gọi là khuôn khổ pháp lý đầu tiên về cổ phần hóa ở Việt Nam . Các doanh nghiệp Nhà nước lúc này không còn quyền lựa chọn có tham gia chương trình cổ phần hóa hay không mà Chính Phủ chủ động phân loại tất cả các doanh nghiệp Nhà nước thành 3 nhóm theo mức độ quan trọng của nó: Nhóm thứ nhất bao gồm những doanh nghiệp Nhà nước có tầm quan trọng chiến lược và vì vậy nhà nước nắm quyền sở hữu và kiểm soát toàn bộ. Những doanh nghiệp Nhà nước trong nhóm này không là mục tiêu của cổ phần hóa. Nhóm thứ 2 bao gồm những doanh nghiệp Nhà nước thuộc lĩnh vực công nghiệp mà nhà nước muốn giữ cổ phần kiểm soát nếu nó được cổ phần.Nhóm thứ 3 bao gồm tất cả các doanh nghiệp Nhà nước còn lại và là đối tượng của cổ phần hóa. Tiến độ cổ phần hóa giai đoạn này rất ấn tượng từ tháng 6/1998 đến tháng 5/2002 cả nước cổ phần hóa được 845 doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy cho đến 5/2002 Chính Phủ Việt Nam đã cổ phần hóa được khoảng 15% tổng số doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên vốn của các doanh nghiệp này chỉ chiếm khoảng 2,5% tổng số vốn của khu vực kinh tế nhà nước. Giai đoạn 4: Tiếp tục đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa. Dự định đến cuối năm 2005 tức là trước khi Việt Nam gia nhập một cách trọn vẹn vào khu vực Mậu Dịch Tự Do ASEAN (AFTA) số doanh nghiệp Nhà nước chỉ còn khoảng 2000. Nhận thấy tốc độ cổ phần hóa đang chững lại nên trong năm 2002 Chính Phủ đã quyết định đẩy nhanh chương trình cổ phần hóa bằng cách ban hành Nghị đinh số 64/2002/NĐ-CP để hoàn thiện khung pháp lý cho cổ phần hóa .Có nhiều đặc điểm đáng chú ý trong Nghị định mới này đó là Chính Phủ cho phép các bộ ngành chính quyền địa phương và các tổng công ty có thẩm quyền hơn trong quyết định cổ phần hóa .Thứ hai các quỹ phúc lợi dược thành lập đẻ trợ cấp hoặc đào tạo lại lao động bị sa thải .Thứ ba những doanh nghiệp Nhà nước không có tầm quan trọng chiến lược và có vốn nhỏ hơn 5 tỷ bị dọa đóng cửa nếu không cổ phần hóa .Thứ tư giới hạn trần của tỷ lệ cổ phần danh cho các cá nhân , tổ chức nước ngoài được điều chỉnh phát triển từ 20% đến 30% cho các doanh nghiệp thuộc nhóm 2 và nhóm 3 .Thứ năm các phương thức định giá và bán doanh nghiệp Nhà nước được linh hoạt hơn .Và mới đây tháng 11/2004 Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 187/2004/NĐ-CP để thay thế Nghị định 64/2002/NĐ-CP. Nghị định này giúp giải quyết những vướng mắc liên quan đến nợ xấu của các doanh nghiệp Nhà nước .Quan trọng hơn là Nghị định này đã dọn đường để áp dụng các phương pháp thị trường trong việc định giá doanh nghiệp Nhà nước. 2.Thành tựu – Hạn chế - Nguyên nhân. Như vậy tiến trình cổ phần hóa diễn ra trong một thời gian dài và đã bước đầu thu được những thành tựu nhất định từ cổ phần hóa được 5 doanh nghiệp giai đoạn 1 đến 25 doanh nghiệp giai đoạn 2 rồi đến 845 doanh nghiệp giai đoạn 3 , 2224 doanh nghiệp giai đoạn cuối năm 2004 và 2900 doanh nghiệp năm 2005 . Cổ phần hóa đã huy động được lượng vốn lớn từ các cán bộ công nhân viên công ty và các nhà đầu tư trong và ngoài nước .Tại 30 doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa ( tính đến 2/6/1998) số vốn thu dược là 166077 triệu đồng (bằng 80% tổng số vốn điều lệ hoạt động của các doanh nghiệp này ) .Thời gian đầu người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa vẫn còn lo ngại về sự không ổn định trong sản xuất kinh doanh như trước kia .Tuy nhiên theo thông kê của ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung Ương thì sau khi cổ phần hóa vốn điều lệ bình quân của các doanh nghiệp trong cả nước tăng 44% ,doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 140% ,hơn 90% số công ty làm ăn có lãi ,nộp ngân sách nhà nước bình quân tăng 24,9% , cổ tức bình quân đạt trên 17% /năm. Nhờ quá trình cổ phần hóa hơn 12411 tỷ đồng của các cá nhân tổ chức ngoài xã hội đã được đầu tư vào doanh nghiệp , phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hóa không bị giảm đi mà còn được bảo toàn tăng lên .Cổ phần hóa tạo cơ sở cho sự ra đời và phát triển thị trường chứng khoán , mang lại cho doanh nghiệp cơ chế quản lý năng động hiệu quả ( Một điều tra cho thấy các doanh nghiệp cổ phần hóa bình quân giảm được 25% chi phí gián tiếp) . Bên cạnh đó ,cổ phần hóa còn giúp người lao động yên tâm làm việc, kích thích khả năng cống hiến của họ cho doanh nghiệp tạo điều kiện vật chất và pháp lý để người lao động và cổ đông nâng cao vai trò làm chủ . Theo Bà Nguyễn Thị Mai Thanh Tổng giám đốc công ty Cổ Phần Cơ Điện Lạnh (REE) một trong những doanh nghiệp cổ phần hóa đầu tiên lên sàn chứng khoán cho biết “ khi bắt đầu cổ phần hóa 1993 công ty chỉ có số vốn 8,5 tỷ đồng .Hiện nay , nguồn vốn của REE đã lên tới 225 tỷ đồng , lực lượng lao động gấp 3 lần , thu nhập bình quân đạt 2,2 triệu /người /tháng .Quan trọng hơn thương hiệu REE dần trở thành cái tên hấp dẫn thu hút sự đầu tư của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước ”.Mới đây như chúng ta đã biết một doanh nghiệp mới cổ phần hóa là Vinamilk , sau khi cổ phần hóa thì cổ phiếu bỗng đắt như tôm tươi (gấp 10 lần giá ban đầu ) .Như vậy cổ phần hóa đem lại lợi ích cho cả nhà nước, người lao động và cổ đông của doanh nghiệp .Thực tế đó đã chứng minh chủ trương của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn, nó được biểu hiện : Trước hết xóa bỏ tình trạng vô chủ của doanh nghiệp .Cổ phần hóa đã đưa người lao động trở thành chủ thực sự của doanh nghiệp , khi quyền lợi riêng gắn liền với quyền lợi chung thì người lao động sẽ luôn quan tâm đến kết quả sản xuất kinh doanh nâng cao tinh thần trách nhiệm với công việc xóa bỏ tư tưởng “cha chung không ai khóc” đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước . Thứ hai , nó tạo động lực trong quản lý doanh nghiệp. Khi còn là doanh nghiệp Nhà nước mọi người chỉ làm theo chỉ đạo của nhà nước không có môi trường phát huy sáng kiến , ý tưởng nhưng sau khi cổ phần hóa mọi người trong doanh nghiệp đều là chủ quyền lợi của họ gắn liền với thành công và thất bại của doanh nghiệp điều này buộc mọi người phải năng động sáng tạo đặc biệt với bộ máy lãnh đạo phải luôn thương xuyên đổi mới nâng cao phương thức quản lý tạo điều kiện áp dụng những thành tựu mới trong quản trị doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp . Thứ ba , cổ phần hóa sẽ tháo gỡ khó khăn cho ngân sách nhà nước .Những năm gần đây , nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ , hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu hướng toàn cầu ,vì vậy việc đảm bảo tài chính quốc gia vững mạnh là yêu cầu cực kỳ bức thiết .Ngân sách nhà nước không chỉ cần được phân bổ hợp lý mà còn được sử dụng nhằm mang lại hiệu quả đầu tư tối đa .Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là giải pháp đáp ứng được nhu cầu trên . Cổ phần hóa sẽ làm cho khu vực kinh tế nhà nước tăng hơn , năng động hơn ,nên việc bù lỗ cho doanh nghiệp Nhà nước từ ngân sách nhà nước cũng giảm qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân ,cổ phần hóa chuyển hình thức sở hữu đơn nhất thành hình thức đa sở hữu .Theo đó ,doanh nghiệp từ chỗ có một “ông chủ ” duy nhất trở thành doanh nghiệp nhiều chủ. Đây là cơ sở để hình thành nền kinh tế đa sở hữu ,nhiều thành phần ,góp phần ổn định và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một thành tựu nữa mà cổ phần hóa đem lại cho chúng ta đó là sự ra đời và phát triển thị trường chứng khoán – Một thị trường quan trọng trong điều kiện hiện nay. Thông qua thị trường chứng khoán, người dân có điều kiện được thông tin đầy đủ hơn, kể cả điều kiện phân tích sàng lọc thông tin để xác định công ty cổ phần hay doanh nghiệp cổ phần làm ăn lành mạnh có hiệu quả, để có lòng ham muốn tích cực tham gia mua cổ phiếu góp vốn sản xuất kinh doanh cho yêu cầu phát triển kinh tế. Thị trường chứng khoán vừa giúp sàng lọc những công ty làm ăn kém hiệu quả để đảm bảo yêm tâm cho người dân khi mua cổ phiếu, đóng góp vốn, vừa tạo điều kiện luân chuyển, lưu động nhanh vòng quay vốn của các cổ đông và thông qua thị trường chứng khoán các cổ đông sẽ xác định lựa chọn được những ngành, những lĩnh vực đầu tư cho hiệu quả tối ưu nhất từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Bên cạnh mặt tích cực, thành tựu thì cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua còn không ít nhược điểm đã phần nào làm chậm tiến trình cổ phần hóa, phải thừa nhận rằng tỷ trọng vốn của các doanh nghiệp cổ phần hóa trong khối doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn khiêm tốn (17700 tỷ đồng chỉ bằng 8,2% tổng số vốn của toàn bộ khối doanh nghiệp Nhà nước) Vốn huy động ngoài xã hội chỉ chiếm 53,4% chưa tương xứng tiềm năng. Trong 10 năm qua chúng ta phần nhiều chỉ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước quy mô nhỏ nên tuy số lượng nhiều nhưng đồng vốn chẳng được bao nhiêu. Đối với một số “đại gia” như Điện lực, Dầu khí, Bưu Chính viễn thông, những người nắm giữ những khoản vốn khổng lồ của nhà nước hầu như cổ phần hóa mới chỉ bắt đầu. Nhược điểm tiếp theo, tiến trình cổ phần hóa diễn ra còn rất chậm trong giai đoạn thí điểm 4 năm mới cổ phần hóa được 5 doanh nghiệp Nhà nước từ chỗ tự nguyện đăng ký số doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa trở thành chỉ tiêu pháp lệnh. Năm 1999, Thủ tướng Chính Phủ giao chỉ tiêu cổ phần hóa 450 doanh nghiệp cho các bộ, Tổng công ty 91 và các địa phương, nhưng chỉ thực hiện được 220 doanh nghiệp đạt 49% kế hoạch. Năm 2000, chỉ tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là 508 doanh nghiệp trong đó 337 doanh nghiệp cổ phần hóa theo Nghị định 44/1998/NĐ – CP nhưng chỉ thực hiện được 196 doanh nghiệp, đạt 38,6% kế hoạch đề ra, trong đó có 171 doanh nghiệp cổ phần hóa đạt 50,7% kế hoạch và 25 doanh nghiệp thực hiện hình thức bán, khoán, cho thuê, đạt 14,6% kế hoạch. Một cuộc điều tra 934 doanh nghiệp đã cổ phần hóa năm 2004 thời gian trung bình để cổ phần hóa một doanh nghiệp là 437 ngày. Theo ông Phạm Viết Muôn – Phó trưởng Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển Doanh Nghiệp Trung Ương tiết lộ: trung bình để một doanh nghiệp hoàn thành quá trình cổ phần hóa từ 400 – 500 ngày. Sắp tới rút xuống còn 200 ngày. Việc tiến hành cổ phần hóa không đồng đều giữa các ngành, địa phương cũng là một nhược điểm của cổ phần hóa. Theo báo cáo sơ kết thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước theo Nghị định 44/1998/NĐ- CP của Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương đến tháng 10- 1999 cả nước vẫn còn 6/13 bộ, 7/17 tổng công ty 91 và 18/61 tỉnh chưa tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Nhiều mục tiêu cổ phần hóa chưa đạt được, tài sản của nhà nước bị thất thoát nhiều, vẫn còn nhiều người trong đội ngũ lãnh đạo các ngành, các doanh nghiệp và những người lao động chưa hiểu rõ nội dung,bản chất và lợi ích của cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.Tư tưởng chần chừ, chờ đợi còn khá phổ biến nó tồn tại ở hầu hết các công ty từ cán bộ đến công nhân. Với các cán bộ thì lo sợ mất quyền quản lý đối với các doanh nghiệp trực thuộc. Vì vậy, họ luôn tìm cách kéo dài thời gian cổ phần hóa, tìm cách đánh giá sai thiếu công tâm, khách quan với giá trị thực của số tài sản hiện có đối với doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa theo hướng có lợi cho mình hoặc khi đã tiến hành cổ phần hóa xong thì họ lại tìm mọi cách thôn tính dần số cổ phiếu của cổ đông là nhà nước, mua gom cổ phiếu khác dưới nhiều thủ đoạn rất tinh vi nhằm thâu tóm quyền lực, thao túng công ty cổ phần. Còn đối với người công nhân, họ mua cổ phiếu vì sợ mất việc hơn là đầu tư. Vì vậy họ mua cổ phiếu như một vấn đề bắt buộc, là điều kiện để duy trì việc làm. Nhược điểm tiếp theo của cổ phần hóa là cổ phần hóa chưa tạo được sự rạch ròi trong quản lý nhà nước và quyền sở hữu. Vì nhà nước vừa là người ban hành các quy định, vừa là cổ đông lớn. Khi sở hữu đa số cổ phần, nhà nước có quyền phủ quyết các quyết định quản lý và đầu tư quan trọng, cũng không hiếm các trường hợp nhà nước can thiệp quá sâu và duy ý chí vào hoạt động của các doanh nghiệp làm cho nhiều sáng kiến ý tưởng không được phát huy. Một vấn đề nghiêm trọng khác nữa là khả năng và nguồn lực của cơ quan quản lý vốn nhà nước rất hạn chế trong khi cơ quan này phải giám sát cùng lúc rất nhiều doanh nghiệp cổ phần hóa vì vậy cho dù trở thành cổ đông lớn trong doanh nghiệp cổ phần thì nhà nước cũng không thể sử dụng quyền điều hành và giám sát một cách đúng đắn. Điều này cùng với người lao động thường có tiếng nói yếu ớt đã tao điều kiện cho những ban giám đốc hoạt động một cách tùy tiện, theo ý mình từ đó dẫn đến tình trạng lạm dụng quyền lợi để tham nhũng, nhận hối lộ... Một đặc điểm khác nữa của cổ phần hóa ở nước ta là mang tính khép kín và nội bộ cao. Nhà nước và nội bộ doanh nghiệp nắm giữ đa số cổ phần được bán ra bên ngoài khoảng 15%. Trong 2224 doanh nghiệp đã cổ phần hóa thì có tới 860 doanh nghiệp không có cổ phiếu bán ra bên ngoài. Tất cả các nhược điểm trên được lý giải do một số nguyên nhân sau : Thứ nhất, do trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp đại bộ phận cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ lạc hậu, lao động thủ công còn chiếm đa số, những lao động có tay nghề cao thì ít. Trình độ phân công lao động xã hội còn rất thấp trình độ dân trí chưa cao, tâm lý mang nặng tính sản xuất nhỏ còn phổ biến. Theo điều tra thì cả nước còn có 45% lao động chưa hết phổ thông cơ sở, 80% thanh niên ở độ tuổi lao động không biết nghề nào, chỉ có 2% lực lượng lao động có trình độ đại học, nhưng có đến 60% phải đào tạo lại do trình độ không còn phù hợp. Từ điểm xuất phát thấp như vậy nên nhận thức của người dân về cổ phần hóa có phần hạn chế điều này đã làm cho tiến trình cổ phần hóa ở nước ta chậm lại. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế thị trường của Việt Nam đang trong quá trình hình thành nên nó còn nhiều bất cập thiếu sót, ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp vẫn còn tồn tại, các tổ chức kinh tế thị trường còn ít cả nước có hơn 4000 doanh nghiệp và công ty nhưng quy mô còn nhỏ hoạt động thương mại chưa thực sự sôi động cũng đã phần nào cản trở tiến trình cổ phần hóa Thứ hai, do công tác tuyên truyền về chủ trương cổ phần hóa của Đảng và Nhà nước không được quan tâm đúng mức, hình thức tuyên truyền không phù hợp nên dẫn đến nhận thức sai lầm về cổ phần hóa. Nhiều người cho rằng cổ phần hóa và tư nhân hóa là đồng nhất với nhau từ đó nảy sinh tư tưởng sợ chệch hướng xã hội chủ nghĩa .Vì vậy, mà khi vấn đề này được đưa ra đã không được các cấp, ngành địa phương hưởng ứng tích cực họ chỉ đạo triển khai cổ phần hóa mang tính đối phó, hình thức hơn là vì mục tiêu phát triển doanh nghiệp . Nguyên nhân tiếp theo, hiện nay vẫn còn sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Nhà nước và các đối thủ cạnh tranh thuộc các thành phần kinh tế khác, ví dụ Công ty nhựa Bình Minh vừa được nhà nước xét cho vay 68 tỷ đồng để đầu tư 1 dây chuyền sản xuất mới, nhằm tăng năng lực cạnh tranh với hơn 20 đơn vị ống nhựa khác. Nhu cầu đầu từ dây chuyền sản xuất hiện đại nhưng không vay được vốn vì khi ấy Bình Minh định chuyển thành công ty cổ phần. Sau đó công ty xin Bộ chủ quản cho ngưng cổ phần hóa và đã được vay 68 tỷ đồng trong khi giá trị tài sản của công ty chỉ khoảng 22-26 triệu đồng. Như vậy, chính sách coi mọi doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật và thực tiễn còn có khoảng cách. Bên cạch đó sự mặc cảm xã hội đối với những người làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh và sự kỳ thị của một số công chức đối với khu vực kinh tế dân doanh, đã tác động không nhỏ đến tư tưởng của người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước đang chuẩn bị cổ phần hóa làm cản trở tiến trình cổ phần hóa . Nguyên nhân tiếp theo khiến cổ phần hóa mang tính nội bộ khép kín là sự bất cân xứng về thông tin rất lớn giữa bên trong và bên ngoài doanh nghiệp về giá trị thực tại và giá trị tương lai cua doanh nghiệp sẽ được cổ phần hóa, khi thông tin không minh bạch đồng thời quyền lợi của nhà đầu tư thiểu số không được bảo vệ một cách thích đáng thì hệ quả là đa số các nhà đầu tư bên ngoài không chấp nhận rủi ro và sẽ không mua cổ phiếu của doanh nghiệp .Kết quả là cổ phiếu tập trung trong tay ban giám đốc, họ hàng người quen của họ và cổ phần hóa không đạt hiệu quả như mong muốn . Một nguyên nhân nữa khiến cổ phần hóa chậm là tình hình tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và các doanh nghiệp Nhà nước phải cổ phần hóa nói riêng chưa lành mạnh thiếu tính minh bạch rõ ràng .Vì vậy quá trình thương lượng về giá trị doanh nghiệp giữa ban giám đốc và hội đồng định giá thường kéo dài tốn nhiều thời gian. III. Định hướng khuôn khổ pháp lý cho cổ phần hoá. 1.Hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý cho cổ phần hoá. Ngày nay, trước sức ép của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp Nhà nước phải đối mặt với những cuộc cạnh tranh gay gắt giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa quốc gia với quốc gia. Vì vậy để đứng vững trong xu thế cạnh tranh thì việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước là một đòi hỏi tất yếu. Nhưng để thành công trước hết phải hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý cho cổ phần hoá. Vấn đề đặt ra ở đây là nhà nước cần phải ban hành đồng bộ hệ thống pháp luật làm căn cứ pháp lý cho việc sắp xếp tổ chức lại việc quản lý các doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh mới. Đồng thời nhà nước cần đưa ra những quy định rõ ràng, dứt khoát có hiệu lực pháp lý cao, nói rõ giới hạn kinh doanh, những quyền lợi được hưởng và nghĩa vụ doanh nghiệp phải thực hiện khi tham gia vào thị trường. Tiếp tục hoàn thiện sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ chế chính sách tạo khung pháp lý đồng bộ bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Tiếp tục rà soát ban hành một loạt các văn bản về tự do cạnh tranh, phá sản, ngăn ngừa độc quyền, chống tàn phá tài nguyên và ô nhiễm môi trường, chống tệ nạn xã hội và các vấn đề khác của kinh tế thị trường. Trước mắt cần giải quyết hai vấn đề quan trọng là vấn đề phá sản và vấn đề chống các hiện tượng tiêu cực xã hội. Một thực tế đang diễn ra đặc biệt nghiêm trọng ở các doanh nghiệp , công ty, các thành phần kinh tế là tình trạng gian lận thương mại và làm ăn phi pháp. Vì vây cần khẩn trương nghiên cứu ban hành và hoàn chỉnh các văn bản pháp luật chống làm ăn gian lận, lừa đảo. Qua đó tạo nên môi trường pháp lý ổn định, vững chắc, môi trường đầu tư thuận lợi tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho các công ty cổ phần. Bên cạnh đó, việc xây dựng cơ chế pháp lý phù hợp để đảm bảo lành mạnh hoá tài chính quốc gia cũng là một điều kiện cần thiết để hoàn thiện cho khuôn khổ pháp lý cho cổ phần hoá. Mà cụ thể ở đây là việc sửa đổi bổ sung hoàn thiện chính sánh thuế - một chính sách có tác động rất lớn đến hoạt động của các công ty cổ phần - . Bởi theo đánh giá của các chuyên gia thì chính sách thuế của ta hiện nay còn nhiều bất hợp lý, vừa thất thu vừa lạm thu, chưa thực sự công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp. Chính vì vậy chỉ có hoàn thiện chính sánh thuế mới hoàn thiện các công cụ pháp lý tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho sự ra đời và hoạt động của các công ty cổ phần. 2.Quyết tâm chỉ đạo. Trước hết, chúng ta phải tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển một cách đồng đều và tạo ra sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần. Có một thực tế hiện nay là giữa doanh nghiệp Nhà nước và các công ty cổ phần bị phân biệt đối xử một cách rõ ràng chính sách đối với doanh nghiệp Nhà nước khấu hao thấp, vay vốn Ngân Hàng Nhà nước dễ dàng hơn. Sở dĩ như vậy vì những doanh nghiệp này còn là trách nhiệm vô hạn, có gì Nhà nước chịu. Chính sự phân biệt đối sử này dã không khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước tiến hành cổ phần hoá. Như vậy việc tạo sân chơi bình đẳng chúng ta cần phải nâng cao hoạt động lành mạnh hoá hệ thống các Ngân Hàng bởi ngân hà._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0812.doc
Tài liệu liên quan