Thực trạng cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, những vấn đề tồn tại và giải pháp

Lời nói đầu Để đất nước phát triển ổn định và bền vững, cải cách kinh tế luôn được coi là một trong những vấn đề cơ bản vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài. Trong tiền trình cải cách kinh tế sâu rộng này, vấn đề cải cách doanh nghiệp vừa là mục tiêu vừa là giải pháp có vị trí đặc biệt, gắn bó chặt chẽ với sự thành bại của tiến trình lớn. Trong đó cải cách doanh nghiệp Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng bởi các doanh nghiệp Nhà nước là chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân,

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, những vấn đề tồn tại và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có vai trò định hướng cho nền kinh tế và thể hiện đặc trưng của xã hội chủ nghĩa. Nhận thức được điều này, trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì tập trung tiến hành công tác sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước và đã đạt được một số kết quả nhất định như giảm mạnh một số lượng do doanh nghiệp Nhà nước, giảm bớt được sự tài trợ ngân sách, nâng quy mô vốn bình quân. Tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp trong tổng số gần 6000 doanh nghiệp Nhà nước hiện đang tồn taị và hoạt động với hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, không có lãi. Nếu cứ duy trì các doanh nghiệp Nhà nước này sẽ bất lợi cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Trước đòi hỏi của tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đưa ra chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Đây là chủ trương hết sức đúng đắn trong công cuộc đổi mới, vừa đáp ứng được nhu cầu trước mắt huy động vốn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế vừa phù hợp với lợi ích lâu dài, và cso khả năng mang lại lợi ích hài hoà cho Nhà nước cũng như doanh nghiệp, người lao động và toàn bộ xã hội. Nhưng từ khi triển khai thực hiện cổ phần các doanh nghiệp Nhà nước đến nay kết quả vẫn chưa đạt được như mong muốn. Đâu là những nguyên nhân cản trở và cần phải có các giải pháp là gì? để đẩy tiến trình cổ phần hoá này. Xuất phát từ những vấn đề trên, đề tài nghiên cứu của đề án là : “Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, những vấn đề tồn tại và giải pháp”. Chương I Những vấn đề chung về công ty cổ phần và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước I. Công ty cổ phần 1. Khái niệm và đặc điểm Công ty cổ phần : a) Khái niệm Khái niệm Công ty được hiểu là sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm hoạt động để đạt được mục tiêu chung nào đó. Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các Công ty cổ đông cùng nhau góp vốn kinh doanh, cùng nhau chia lợi nhuận và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần avốn góp của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Vốn điều lệ của Công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần được biểu hiện về hình thức bằng cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần được biểu hiện về hình thức bằng cổ phần. Những người sở hữu cổ phiếu gọi là cổ động. b) Đặc điểm Công ty cổ phần : - Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiêmj pháp lý hữu hạn trong phần vốn góp của mình. - Cơ cấu tổ chức và điều hành Công ty thông qua tổ chức đại diện làm nhiệm vụ tổ chức trực tiếp quản lý Công ty, bao gồm : Đại diện cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành và Ban kiểm soát. - Phân chia lợi nhuận trong Công ty cổ phần được thực hiện theo nguyên tắc vốn góp của các cổ đông và lệ thuộc trực tiếp vào tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty. Những đặc điểm của các quan hệ trên cho thấy, nếu trong các Công ty khác, người sở hữu tài sản đồng thời là người tổ chức và quản lý hoạt động của Công ty, quan hệ với người bạn hàng, thì ở Công ty cổ phần, người sở hữu tài sản của Công ty là người sở hữu thuần tuý, là người chủ tiền tệ thuần tuý. Việc điều hành và quản lý Công ty được thực hiện thông qua chế độ thường là thuê Giám đốc (hoặc cũng có thể là cử một thành viên của Hội đồng quản trị). Chủ sở hữu chỉ thực hiện quyền sở hữu của mình trên phương diện thu lợi tức cổ phần tên cơ sở hoạt động của Công ty, tham gia Đại hội cổ đông, quyết định các vấn đề có tính chất chiến lược như thông qua điều lệ, phương án xây dựng Công ty, quyết toán tài chính, giải thể Công ty, bầu cử và ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của Công ty.....Người Giám đốc của Công ty chỉ đơn giản là người quản lý và điều khiển tư bản của người khác. Anh ta chỉ là người làm thuê với loại lao động đặc biệt mà giá cả được quy định trên thị trường cũng như bất cứ một loại lao động nào khác. 2. Những ưu điểm cơ bản của Công ty cổ phần. Công ty cổ phần là một mô hình tổ chức doanh nghiệp đạt trình độ xã hội cao và rất có hiệu quả. Sức hấp dẫn của nó thể hiện ở các mặt sau đây : Thứ nhất là đối với cổ động : - Đem lại cho họ lợi tức cổ phần và còn có thể mang lại một khoản thu nhập nhờ việc tăng giá trị cổ phiếu khi Công ty làm ăn có hiệu quả, họ có quyền được thông tin và tham gia ý kiến vào phương hướng phát triển Công ty, và họ có quyền chuyển nhượng cổ phiếu, được ưu đãi trong việc mua những cổ phiếu mới phát hành thêm của Công ty trước khi chúng được đem bán rộng rãi. Thứ hai là đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ thu hút được một lượng vốn nhất định để đầu tư cho sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện mở rộng, nâng cao năng lực công nghệ, sản phẩm, cho phép tuyển chọn và tập hợp những nhà quản lý, kinh doanh giỏi vào bộ máy quản lý của Công ty. Thứ ba là trên phạm vi xã hội : Việc phát hành cổ phiếu của Công ty cổ phần và việc tự do chuyển nhượng cổ phiếu góp phần làm cho tiền vốn trong xã hội được lưu thông liên tục, thu hút vốn từ nhiều kênh lớn nhỏ đổ vào các Công ty có tỷ suất lợi nhuận cao, vào những ngành và lĩnh vực có triển vọng, nhờ đó góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. 3. Lịch sử hình thành và phát triển Công ty cổ phần. Việc nghiên cứu sự hình thành của Công ty cổ phần trong lịch sử là hết sức cần thiết cho việc hình thành các Công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay (bao gồm cả việc hình thành các Công ty cổ phần từ doanh nghiệp Nhà nước). Sự phát triển Công ty cổ phần trên thế giới có thể được chia làm 4 giai đoạn sau đây : * Giai đoạn 1 : Giai đoạn mầm mống Trong giai đoạn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, các nhà tư bản chủ yếu xuất thân từ thợ cả, chủ phường hội, thương nhân, người cho vay nặng lãi... Lúc đầu, họ lập ra các Xí nghiệp riêng lẻ, kinh doanh độc lập, thuê mướn công nhân và bóc lột lao động làm thuê. Dần dần, cùng với sự phát triển của sức sản xuất và chế độ tín dụng, họ đã liên kết với nhau, dựa trên quan hệ nhân thân và chữ tín. Họ đã góp vốn kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi, từ doanh nghiệp nhóm bạn dần dần phát triển thành doanh nghiệp góp vốn. Năm 1553, Công ty cổ phần đầu tiên ở Anh với số vốn khoảng 6000 bảng Anh được thành lập thông qua việc phát hành 240 cổ phiếu, mỗi cổ phiếu là 25 bảng Anh để tổ chức đội buôn gồm 3 chiếc thuyền lớn tìm đường sang ấn Độ. Đặc điểm của Công ty cổ phần trong giai đoạn này là được thành lập bằng vốn cổ phần của thương nhân do thương nhân đứng ra tổ chức. Mục đích hoạt động của Công ty là lợi dụng những phát kiến lớn về địa lý thế kỷ XV, XVI để đi tìm kiếm thị trường mới có tỷ suất lợi nhuận cao và thu về những nguồn lợi lớn cho thưoưng nhân. * Giai đoạn 2 : Giai đoạn hình thành. Trước và sau cuộc cách mạng Đại công nghiệp, chủ yếu là nửa đầu thế kỷ XIX, các Công ty cổ phần chính thức lần lượt ra đời với hình thức tổ chức riêng của nó. Năm 1806, phát triển thương mại của Pháp đã có những quy định cơ bản về Công ty cổ phần. Đồng thời cùng với sự phát triển của các Công ty cổ phần, các Sở giao dịch chứng khoán cũng mọc lên một cách phổ biến tại các nước phương Tây. * Giai đoạn 3 : Giai đoạn phát triển. Sau những năm 70 của thế kỷ XIX, Công ty cổ phần phát triển rất nhanh, mọc lên một cách phổ biến ở tất cả các nước, các ngành, quy mô sản xuất mở rộng mạnh mẽ, tập trung tư bản diễn ra với tốc độ chưa từng thấy, các tổ chức độc quyền ra đời như Cacfen, Xanhđica, Tờ rớt... Hầu hết tất cả các doanh nghiệp lớn đều áp dụng hình thức cổ phần. Đến năm 1930, số Công ty cổ phần của nước Anh đã lên tới 86000 và 90% tư bản ở Anh chịu sự khống chế của các Công ty cổ phần. Năm 1939, số Công ty cổ phần ở Mỹ chiếm 51,7% tổng số các Xí nghiệp công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp. Lúc này, tư bản tài chính đã trở thành hình thái chủ thể tài sản xã hội, ngân hàng kiểm soát công nghiệp. Đây là cái mà chúng ta gọi là "thời đại chủ nghĩa đế quốc". Tương ứng với nó là thị trường giao dịch cổ phiếu mọc lên khắp các nước, hình thành trung tâm tài chính quốc tế, giao dịch chứng khoán cực kỳ sôi động đến mức trở thành thước đo cho sự dao động kinh tế và chính trị, đồng thời còn là sân chơi cho các nhà đầu cơ. * Giai đoạn 4 : Giai đoạn trưởng thành. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Công ty cổ phần có những điểm mới : + Dùng hình thức cổ phần để lập ra các Công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia để liên kết kinh tế và quốc tế hoá cổ phần, hình thành các tập đoàn kinh doanh quốc tế. + Thu hút công nhân mua ciổ phần thực hiện cái gọi là "chủ nghĩa tư bản nhân dân" vừa để làm chịu mâu thuẫn giữa người lao động và nhà tư bản vừa để thu hút nguồn vốn. + Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần ngày càng hoàn thiện pháp luật ngày càng kiện toàn và mỗi nước đều có những đặc điểm riêng. Ta có thể tóm tắt các giai đoạn hình thành và phát triển Công ty cổ phần trên thế giới như sau : Giai đoạn trưởng thành - Hình thành Công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia. - Thu hút công nhân mua cổ phiếu. - Cơ cấu công ty cổ phần hoàn thiện pháp luật ngày càng kiện toàn Giai đoạn mầm mống - Góp vốn theo nhóm bạn. - Hoạt động liên kết lỏng lẻo. Giai đoạn hình thành - Bắt đầu phát hành cổ phiếu. - Bước đầu xuất hiện sự giao dịch chứng khoán Giai đoạn phát triển - Công ty cổ phần phổ biến tư sản chủ nghĩa. - Các tổ chức độc quyền. - Hình thành trung tâm, giao dịch chững khoán sôi động Giai đoạn phát triển - Góp vốn theo nhóm bạn. - Hoạt động liên kết lỏng lẻo. II. Tính tất yếu của việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 1. Về nhận thức. Từ thực tiễn tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và những kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo điều hành sản xuất kinh doanh trong nhiều nă qua Đảng và Nhà nước ta đã xác định được rằng cải cách doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp với từng thời kỳ là yêu cầu có tính quyết định để tăng cường động lực phát triển sản xuất và thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Nhất là trong giai đoạn này, nước ta đang thực hiện một nền kinh tế mở, kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy, cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đã thấy được tính cấp thiết, tất yếu của nó. 2. Về thực tiễn. Trước khi thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, nền kinh tế nước ta có khoảng gần 6000 doanh nghiệp Nhà nước, nắm giữ 88% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp chỉ có khoảng 50% doanh nghiệp Nhà nước là có lãi, trong đó thực sự làm ăn có lãi và lâu dài chỉ chiếm dưới 30%. Trên thực tế, doanh nghiệp Nhà nước nộp ngân sách chiếm 80 - 85% tổng số thu, nhưng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì doanh nghiệp Nhà nước chỉ đóng góp được trên 30% ngân sách Nhà nước. Đặc biệt, nếu tính đủ chi phí và tài sản cố định, đất theo giá thị trường thì các doanh nghiệp Nhà nước hoàn toàn không tạo ra được tích lũy. Như vậy, hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước không tương xứng với phần đầu tư của Nhà nước cho nó, cũng như với tiềm lực của nó. Điều đó xảy ra là do những nguyên nhân như : Các doanh nghiệp vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung những năm trước đây, trình độ quản lý vĩ mô nền kinh tế cũng như vi mô trong các doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, ... Và một trong những nguyên nhân quan trọng là tài sản cố định nhất là máy móc thiết bị đã quá cũ, lạc hậu về mặt kỹ thuật. Hiện nay, có đến 54,3% doanh nghiệp Nhà nước trung ương và 74% doanh nghiệp Nhà nước ở địa phương còn sản xuất ở trình độ thủ công. Quy mô doanh nghiệp nhỏ, vốn ít, vốn hoạt động trong thực tế chỉ bằng 80% vốn ghi trên sổ sách, riêng vốn lưu động chỉ còn 50% được huy động vào sản xuất kinh doanh, còn lại là công nợ khó đòi, tài sản vật tư mất mát kém phẩm chất và lỗ chưa được xử lý. Với tình trạng trang bị kỹ thuật và tài chính như trên, các doanh nghiệp hầu như không có khả năng cấp vốn và bao cấp các doanh nghiệp như trước đây. Ngân hàng cho vay cũng phải có những điều kiện đảm bảo như tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả thu hồi vốn. Các doanh nghiệp ở trong tình trạng luẩn quẩn : vốn không có nhưng cũng chẳng có cách nào khắc phục. Ngoài ra, với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực vừa qua đã làm cho các doanh nghiệp nước ta điêu đứng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có các doanh nghiệp Nhà nước. Bên cạnh đó trong vài năm tới chúng ta sẽ thực hiện "mở cửa" nền kinh tế với các nước trong khối ASEAN tạo điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu. Tất cả những điều đó cho thấy tính cấp bách phải khẩn trương nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước chính là một trong những giải pháp đổi mới mà thực trạng hiện nay đòi hỏi phải tiến hành, để có thể tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn và lâu dài cho các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và tạo ra sức bật mới. III. Mục đích của việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Mục đích của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 đã nêu : Thứ nhất là : Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Thứ hai là : Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã đóng góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Như vậy, ta thấy rằng một trong những mục đích quan trọng của cổ phần hoá là để doanh nghiệp thu hút vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của doanh nghiệp. Một mặt nó sẽ góp phần tháo gỡ được khó khăn cho ngân sách Nhà nước do không phải chu cấp cho doanh nghiệp. Mặt khác, vốn và tài sản doanh nghiệp Nhà nước nhờ cổ phần hóa thu hồi lại sẽ được sử dụng để đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng thêm tài sản cố định, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, doanh nghiệp cổ phần hoá sẽ thu hút được ngày càng nhiều vốn nếu hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nhất là khi đã hình thành thị trường chứng khoán, bởi vì khi đó người ta sẽ đổ xô vào mua cổ phiếu và trái phiếu của doanh nghiệp. Cổ phần hoá còn chuyển từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu của nhiều cổ đông, tạo điều kiện cho người lao động thật sự làm chủ doanh nghiệp. Quyền lợi của người lao động trong Công ty đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi của Công ty. Do vậy người lao động phải làm việc với tinh thần trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình, mặt khác cũng yêu cầu Hội đồng quản trị, giám đốc điều hành phải chỉ đạo và lãnh đạo Công ty hoạt động có hiệu quả để có lợi nhuận cao hơn. Một mục đích nữa của cổ phần hoá là sẽ giúp cho doanh nghiệp sắp xếp lại lao động một cách hợp lý, nâng cao trình độ tay nghề cho những người lao động bằng cách đào tạo, đào tạo lại họ,... sử dụng người đúng với năng lực của họ vào những công việc phù hợp. Mặt khác, khi cổ phần hoá, phương pháp quản lý điều hành doanh nghiệp thay đổi, từ việc giám đốc doanh nghiệp Nhà nước do cấp trên chỉ định sang hình thức cổ đông bầu Hội đồng quản trị, ban kiểm soát và ban giám đốc. Do đó trách nhiệm của Hội đồng quản trị, giám đốc điều hành cao hơn, tinh thần trách nhiệm và óc sáng tạo của họ cao hơn trước đây. Đồng thời cho phép tuyển chọn và tập hợp những nhà quản lý, kinh doanh giỏi vào bộ máy quản lý của Công ty. Khi thực hiện cổ phần hoá nó sẽ giúp khắc phục việc buông lỏng quản lý tài sản của doanh nghiệp, xóa bỏ tình trạng "vô chủ" của doanh nghiệp. Mặc dù giải pháp trao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp Nhà nước đã đạt được kết quả nhất định nhưng mới chỉ đẩy lùi được chế độ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước. Còn về nhận thức thì tài sản của doanh nghiệp Nhà nước vẫn là "tài sản chung" cho nên tình trạng vô trách nhiệm, lãng phí của công vẫn chưa được khắc phục. Khi doanh nghiệp Nhà nước trở thành Công ty cổ phần thì điều này sẽ không còn tồn tại. Bên cạnh những vấn đề trên việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước sẽ tạo cơ sở thúc đẩy, quá trình ra đời, hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính chứng khoán ở Việt Nam. Và góp phần đắc lực vào việc thực hiện thành công chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước... Nói tóm lại, việc cổ phần hóa sẽ giúp cho các doanh nghiệp Nhà nước đổi mới toàn diện cả về cách quản lý, công nghệ, sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường và sẽ đạt hiệu quả hoạt động cao trong sản xuất kinh doanh. Chương II Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta I. Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng và tính tất yếu của việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã sớm đưa ra chủ trương chính sách cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ngay từ đầu những năm 1990, từng bước thực hiện và đầu đổi mới cho phù hợp với từng giai đoạn của tiến trình cổ phần hoá. 1. Chủ trương của Đảng và Quốc hội. 1.1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII (tháng 11 năm 1991) đã ghi "chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành Công ty cổ phần và thành lập một số Công ty quốc doanh cổ phần mới phải làm thí điểm, chỉ tạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp". 1.2. Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá VIII ngày 26/12/1991 về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1991-1995 đã ghi : "Thí điểm việc cổ phần hoá 1 số cơ sở kinh tế quốc doanh để rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển". 1.3. Nghị quyết hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VIII( tháng 1 - 1994) chỉ rõ cổ phần hoá nhằm thu hút thêm vốn cho các doanh nghiệp. 1.4. Nghị quyết Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước ( số 10 - NQ/TW) đã chỉ rõ : " ...Tuỳ tính chất loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỷ lệa cổ phần cho cán bộ công nhân viên... và bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp". 1.5. Thông báo số 63 - TB/TƯ ngày 4/4/1997 của Bộ chính trị khẳng định tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới. 2. Thực hiện của Chính phủ. Thực hiện chủ trương của Đảng và Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các văn bản để chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện. 2.1. Quyết định số 202/CT ngày 08/6/1992 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ) về tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. Quyết định số 203KT ngày 08/6/1992 chọn 7 doanh nghiệp Nhà nước do Chính phủ chỉ đạo thí điểm vào giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thành phố trực thuộc Trung ương chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp thí điểm chuyển thành công ty cổ phần. 2.2. Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính Phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đôí với các doanh nghiệp Nhà nước. 2.3. Nghị định số 28/ CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. 2.4. Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ về sửa đổi một số điều của nghị định 28/CP (ngày7/5/1996). 2.5. Chỉ thị số 658/TTg ngày 20/8/1997 của Thủ tướng Chính ph về thúc đẩy triển khai vững chắc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. 2.6. Nghị định số 44/CP của Chính phủ ngày 29/6/1998 về "chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần". II. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước từ năm 1992 đến nay. Từ năm 1992 chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ, có quyết định số 202/CT về làm thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. Căn cứ vào số lượng doanh nghiệp Nhà nước đăng ký cổ phần hoá, Chính phủ đã chọn 7 doanh nghiệp để chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần, đó là : 1. Nhà máy xà phòng Việt Nam ( thuộc Bộ Công nghiệp). 2. Nhà máy diêm thống nhất ( Thuộc Bộ Công nghiệp). 3. Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Thuộc Bộ Công nghiệp). 4.Xí nghiệp chế biến gỗ lạng Long Bình ( Bộ Công nghiệp). 5. Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng ( Bộ Thương Mại). 6. Xí nghiệp sản xuất bao bì Hà Nội ( Thành phố Hà Nội). 7. Xí nghiệp dệt may Legamex ( Thành phố Hà Nội). Sau một thời gian tiến hành làm thử, các doanh nghiệp Nhà nước được chọn lựa thí điểm đều xin rút hoặc không đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá. Tiếp đến ngày 4/3/1993 Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 84/TTg về việc tiếp xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Sau đó có hơn 3 0 doanh nghiệp đã đăng ký để thí điểm. Thực hiện cổ phần hoá và 3 doanh nghiệp xin chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn theo chỉ thị số 84/TTg. Qua 4 năm thực hiện quyết định 202/TCT(1992 -1996) và chỉ thị số 84/TTg trong toàn quốc có 5 doanh nghiệp Nhà nước đã chuyển sang Công ty cổ phần, gồm : 1. Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (Bộ giao thông). 2. Công ty cổ phần cơ điện lạnh ( Thành phố Hồ Chí Minh). 3. Công ty cổ phần giấy Hiệp An ( Bộ Công nghiệp). 4. Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An ( Tỉnh Long An). 5. Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc ( Bộ Công nghiệp). Theo một hướng khác, có 2 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn là Công ty dịch vụ Thương Mại tổng hợp Quận Hồng Băng (Hải Phòng) và Công ty gạch bông Đức Tân (Thành Phố Hồ Chí Minh). Sau 4 năm thực hiện, Chính phủ các ngành, các địa phương đã đúc rút được một số kinh nghiệm để bổ sung, tổng hợp ghi nhận một số vấn đề vướng mắc nảy sinh mà trước đó chúng ta chưa hình dung được. Ngày 7/5/1996 số nghị định số 28/CP của Chính phủ đã ra đời để đáp ứng kịp thời cho những đòi hỏi của thực tiễn. Thực hiện nghị định 28/CP, công tác cổ phần hoá đã được các Bộ, ngành, các tỉnh quan tâm hơn và đã triển khai một số công việc sau : - Ban chỉ đạo trung ương cổ phần hoá do Bộ trưởng Bộ tài chính làm trưởng ban có các thành viên là các cơ quan lớn như Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ lao động thương binh và xã hội, Ban kinh tế Trung ương Đảng, Ban tổ chức Trung ương Đảng và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. - Có 16 Bộ, ngành, Tổng Công ty Nhà nước thành lập ban chỉ đạo cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. - Có 31 tỉnh đã thành lập ban chỉ đạo cổ phần hoá, các địa phương khác do Ban đổi mới doanh nghiệp kiêm nghiệm hoặc giao cho một tổ chuyên viên giúp việc. Trong quá trình triển khai công việc, một số Bộ và địa phương đã tổ chức hội nghị truyền đạt chủ trương chính sách về cổ phần hoá cho đội ngũ cán bộ chủ chốt như Bộ xây dựng, Bộ Thuỷ sản, Bộ Công nghiệp và phát triển nông thôn, Tỉnh Lâm Đồng, Bình Định, Quảng Ninh.....Tuy nhiên còn nhiều địa phương và ngành chưa chú ý đến công tác tuyên truyền, hướng dẫn giải thích cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá hiểu rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước. Như vậy, sau khi có nghị định 28/CP đến cuối năm 1997 chúng ta tiến hành cổ phần hoá được 13 doanh nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp cổ phần lên 18, với tổng số vốn là : 121.384 triệu đồng gồm : * Nếu phần theo ngành : - Ngành giao thông vận tải : 4 doanh nghiệp - Ngành công nghiệp : 7 doanh nghiệp ư - Ngành xây dựng : 1 doanh nghiệp - Ngành chế biến nông lâm thuỷ sản : 3 doanh nghiệp - Ngành dịch vụ : 3 doanh nghiệp * Nếu phân theo lãnh thổ : - Thành phố Hồ Chí Minh : 10 doanh nghiệp - Thành phố Hà Nội : 1 doanh nghiệp - Thành phố Hải Phòng : 1 doanh nghiệp - Thành Phố Đà Nẵng : 1 doanh nghiệp - Tỉnh Long An : 1 doanh nghiệp - Tỉnh Ninh Bình : 1 doanh nghiệp - Tỉnh Bình Định : 1 doanh nghiệp - Tỉnh Cà Mau : 1 doanh nghiệp - Tỉnh An Giang : 1 doanh nghiệp Trong số 18 doanh nghiệp nói trên có 1 doanh nghiệp Nhà nước bán toàn bộ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp mà không giữ lại cổ phần nào, số còn lại Nhà nước nắm giữ ít nhất là 18% cao nhất là 5% cổ phần của Công ty (bình quân của 18 doanh nghiệp là 34,2%) còn lại do cán bộ công nhân viên trong Công ty và các thành phần kinh tế khác ngoài xã hội nắm giữ. Trong số 18 doanh nghiệp Nhà nước đã chuyển thành công ty cổ phần có 11 doanh nghiệp hoạt động từ 1 năm trở lên, trong đó có 2 doanh nghiệp trước khi chọn làm thí điểm cổ phần hoá có những điều kiện thuận lợi, hoạt động có lãi cao là Công ty cổ phần cơ điện lạnh, Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển. Nhiều doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá kinh doanh kém hiệu quả, lợi nhuận thấp, vốn giảm dần như xí nghiệp Vifoco, xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu Long An, xí nghiệp sưả chữa và đóng mới tàu thuyền Bình Định....Từ khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức Công ty cổ phần thì sản xuất kinh doanh phát triển, có tiến bộ về mọi mặt, Nhà nước và doanh nghiệp, người lao động đều có lợi cụ thể như sau : * Đối với các doanh nghiệp ( số liệu của 18 doanh nghiệp) - Vốn tăng bình quân 45%/ năm - Doanh thu tăng bình quân 56,9%/năm - Lợi nhuận tăng bình quân 70,2%/ năm - Nộp ngân sách tăng bình quân 98%/ năm - Thu nhập của người lao động tăng bình quân 20%/ năm - Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 19,1%/ năm Tỷ suất lợi nhuận trên vốn 74,6/ năm * Đối với Nhà nước : Do sản xuất phát triển, doanh thu và lợi nhuận đều tăng nên tiền thuế của các Công ty cổ phần nộp cao hơn khi còn là doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra Nhà nước còn thu được 32.724 triệu đồng từ các nguồn sau : - Tiền thu về bán cổ phần : 30207 triệu đồng - Phần lợi tức của Nhà nước từ các Công ty cổ phần : 6995 triệu đồng - Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của cán bộ công nhân viên 555 triệu đồng ( Chưa kể số tiền cán bộ công nhân viên trong các Công ty cổ phần mua chịu cổ phần là 14.749 triệu đồng sau 5 năm phải trả nhà nước). * Đối với người lao động và xã hội. Thu nhập của người lao động cao hơn khi còn là quốc doanh từ 1,5 đến 2 lần chưa kể nguồn thu từ lợi tức cổ phần khoảng 22 - 24%/ năm. Ngoài số lao động cũ, các Công ty đã thu hút thêm hơn 1000 lao động ngoài xã hội vào việc làm. Do hoạt động của các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá có hiệu quả, tốc độ tích luỹ vốn của doanh nghiệp cũng khá nhanh, giá trị cổ phiếu thường tăng từ 1,5 đến 2 lần ( sau 1 đến 2 năm hoạt động ). Như vậy tính khả thi và hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá đã được thực tế chứng minh. Nhưng tốc độ cổ phần hoá vẫn chậm so với kế hoạch dự kiến của Bộ tài chính. Năm 1998 lần đầu tiên trong chỉ thị của Thủ tướng chính phủ đã đề ra chỉ tiêu cụ thể cho nhiệm vụ cổ phần hóa. Đó là trong năm 1998 - 1999 thực hiện được mục tiêu cổ phần hoá 150 doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng việc triển khai rất chậm trễ, điều đó có nguyên nhân từ nhiều phía. Trước tình hình đó ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần thay thế Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 và Nghị định 25/CP ngày 26/3/1997. Sự ra đời của Nghị định 44/CP đã có tác dụng mạnh mẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Tính đến 31/12/1998 cả nước đã có 116 doanh nghiệp Nhà nước chuyển đổi thành Công ty cổ phần và 4 doanh nghiệp Nhà nước chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm là 90 doanh nghiệp, thuộc Bộ là 19 doanh nghiệp, thuộc các Tổng Công ty là 7 doanh nghiệp. Nếu xét theo mức vốn thì số doanh nghiệp đã cổ phần hóa có mức vốn từ 10 tỷ đồng trở lên là 19 doanh nghiệp, dưới 10 tỷ là 97 doanh nghiệp. Nếu xét theo ngành thì ngành dịch vụ cổ phần hoá được 56 doanh nghiệp, ngành công nghiệp và xây dựng 51 doanh nghiệp, ngành nông lâm nghiệp là 9 doanh nghiệp. Trong các địa phương triển khai cổ phần hoá, Hà Nội là đơn vị triển khai vững chắc và hiệu quả nhất và được xem là địa phương điển hình cho công tác chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá trong cả nước. Năm 1998 Hà Nội có 31 doanh nghiệp được cổ phần hoá, trong khi cùng khoảng thời gian này thành phố Hồ Chí Minh chỉ cổ phần hoá được 4 doanh nghiệp trên tổng số 20 doanh nghiệp đăng ký. Đối với các tỉnh miền núi, Tuyên Quang là tỉnh thực hiện khá nhanh, vượt kế hoạch được 6 trên 2 doanh nghiệp theo kế hoạch được giao. Tỉnh Lâm Đồng cũng hoàn thành vượt mức, được 5 doanh nghiệp trong khi kế hoạch là 2 doanh nghiệp. Thực tế triển khai cổ phần hóa ở các doanh nghiệp Nhà nước đã cho thấy kết quả khả quan của hoạt động sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp đã chuyển sang Công ty cổ phần này. Điều đó cho thấy tính đúng đắn của chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước của Đảng và Nhà nước ta. Mặc dù vậy, việc thực hiện cổ phần hoá vẫn diễn ra không đồng đều giữa các địa phương, các ngành và đặc biệt là rất chậm chạp. Sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc Bộ thương mại và các Tổng Công ty hầu như không đáng kể. Mà với số lượng doanh nghiệp Nhà nước gần 6000 như hiện nay, mặc dù không phải tất cả đều thực hiện cổ phần hoá nhưng nếu mỗi năm chỉ thực hiện được từ 100 á 200 doanh nghiệp như hiện nay thì đến bao giờ chúng ta mới có thể hoàn thành được. Điều này cho thấy chúng ta phải nhanh chóng tìm ra những nguyên nhân còn tồn đọng để kịp thời đưa ra các biện pháp xử lý để đẩy nhanh vững chắc việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Chương III Những nguyên nhân cổ phần hoá chậm I. Từ phía Nhà nước và địa phương Một là : Các ngành, các cấp ở Trung ương và địa phương chưa quán triệt các quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang Công ty cổ phần. Các địa phương, cơ sở không nhiệt tình làm hết trách nhiệm được giao, việc thành lập và đôn đốc các ban cổ phẩn hoá không được chú ý đúng mức. Một số lãnh đạo chính quyền cơ sở lo ngại cổ phần hoá làm mất chủ quyền của nhà nước, mất vai trò kinh tế của quốc doanh. Mặt khác cán bộ tỉnh, thành phố vẫn muốn có trong ty mình một số doanh nghiệp nhà nước đáng kể để chi phối. Nếu cổ phần hoá thì không còn đối tượng để chi phối nữa, tức là mất quyền , mất “ lợi ích ”. Từ đó do d._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34969.doc