Lời mở đầu
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và quốc tế nền kinh tế, hội nhập và tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế là xu thế không thể đảo ngược đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế của mình.
Cùng với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt nam đã đạt được thành tựu khá ngoạn mục trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá. Trong khi những mặt hàng xuất khẩu của Việt nam ngày càng có uy tín trên thị trường thế giới đã xuất hiện một số trường hợp hàng xuất kh
112 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2743 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng chống bán phá giá trên thế giới và ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩu của nưóc ta bị nước nhập khẩu điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá để tạo ra hàng rào bảo hộ, ngăn cản hàng hoá của ta không cho xuất khẩu vào thị trường của nước họ. Việt nam tham gia vào ASEAN, APEC và đàm phán xin gia nhập WTO đồng nghĩa với sự thay đổi sâu sắc các chính sách thương mại liên quan tới việc mở cửa thị trường. Hiện tượng bán phá giá hàng nước ngoài chắc chắn sẽ ngày càng tăng trên thị trường nước ta, có thể gây ra những tổn thất lớn cho các nhà sản xuất tương tự trong nước do hàng rào bảo hộ bằng các biện pháp hạn chế định lượng có thể biến mất, đồng thời thuế suất thuế nhập khẩu cũng giảm xuống.
Đứng trước thực tế đó, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu và sớm áp dụng các công cụ bảo hộ mới phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong đó có thuế chống bán phá giá. Đây là việc làm mang tính cấp bách và cần thiết vì lợi ích và yêu cầu của đất nước. Đạt được điều này, đòi hỏi nước ta phải hoàn thiện hệ thống pháp lý thương mại trước khi được kết nạp là thành viên của WTO nhằm bảo vệ công nghiệp sản xuất nội địa và bảo vệ thị trường hàng hoá trong nước chống lại việc bán phá giá hoặc chống lại các trợ cấp mang tính chất kỳ thị đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt nam.
Do mức độ rộng lớn của vấn đề đòi hỏi phải có sự nghiên cứu của nhiều ngành, nhiều cấp nên khoá luận tốt nghiệp này chỉ đề cập tới một số nét khái quát về lý luận của việc bán phá giá, thuế chống bán phá giá và thực trạng áp dụng thuế chống bán phá giá tại một số nước đại diện cho những khu vực kinh tế điển hình, cũng như thực trạng và giải pháp của Việt nam trước việc hàng hoá nước ngoài nhập khẩu vào bán phá giá ở thị trường nước ta và việc hàng xuất khẩu của Việt nam ra nước ngoài bị kiện bán phá giá qua vụ việc Hiệp hội các chủ trại nuôi cá Nheo Mỹ(CFA) kiện các doanh nghiệp xuất khẩu Việt nam bán phá giá sản phẩm fillet cá Tra và cá Basa trên thị trường Mỹ.
Nhân đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Thầy giáo - Tiến sĩ Vũ Sỹ Tuấn - Chủ nhiệm Khoa Kinh tế Ngoại thương đã tận tình giúp đỡ và chỉ bảo để tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Hà nội, tháng 5 năm 2003
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ÁP DỤNG THUẾ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
I. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA KINH TẾ CỦA THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
1. Lịch sử và nguồn gốc của bán phá giá
Khái niệm “bán phá giá” trong thương mại quốc tế có một lịch sử lâu đời. Trong những cuộc tranh luận tại Mỹ năm 1791, Alexander Halinton đã cảnh báo về các thủ pháp của các đối thủ cạnh tranh bán hạ giá tại các nước khác để nhằm mục tiêu chiếm lĩnh thị trường. Những trường hợp bán phá giá của các nhà sản xuất Anh tại thị trường mới mẻ ở nước Mỹ đã được báo cáo. Cuộc tranh luận của công chúng về vấn đề này, cùng nhiều nỗ lực của ngành lập pháp nhằm đối phó với nó cũng được ghi nhận trong gần hết thế kỷ 19. Đầu thế kỷ XX, Đạo luật chống bán phá giá cụ thể đầu tiên được ban hành ở Canada năm 1904. Sau đó Luật chống bán phá giá được ban hành tại Newzealand năm 1905, Australia năm 1906 và Nam phi năm 1914. Nước Mỹ có Đạo luật chống bán phá giá năm 1916 và nước Anh có vào năm 1921.
Khi xây dựng Hiệp định chung về Buôn bán và Thuế quan (GATT) năm 1947, một điều khoản đặc biệt về các trường hợp chống bán phá giá đã được soạn thảo. Điều VI của GATT cho phép các bên ký kết được sử dụng các sắc thuế chống bán phá giá để bù trừ mức phá giá của các hàng nhập khẩu, miễn là chứng minh được việc bán phá giá đang gây ra, hoặc đe doạ gây ra thiệt hại vật chất cho các ngành công nghiệp nội địa có cạnh tranh. Cho đến nay, đây vẫn là luật quốc tế cốt lõi về việc bán phá giá.
Tuy nhiên, một số quốc gia trong GATT nhận thấy rằng có một số nước đã áp dụng Luật chống phá giá để dựng lên những hàng rào thương mại mới, các thủ tục chống bán phá giá, những cách tính toán mức phá giá đã gây thiệt hại làm hạn chế và lệch lạc các dòng thương mại quốc tế. Tại vòng đàm phán Kennedy của GATT (1962 - 1967) các bên ký kết GATT đã thảo luận
bộ luật chống bán phá giá, đặt ra một loạt các quy tắc về thủ tục và nguyên lý cho việc áp dụng những sắc thuế chống bán phá giá nhằm hạn chế các thủ tục và phương thức đánh thuế của những Chính phủ có thể gây tổn hại đến thương mại quốc tế.
Tại vòng đàm phán Tokyo 1973, các bên ký kết GATT đã xây dựng một Luật chống bán phá giá mới, có hiệu lực từ năm 1979 thay thế cho Luật chống bán phá giá năm 1967, có 26 nước thành viên ký kết có hiệu lực hơn mọi Hiệp định trước đó về bán phá giá. Đến vòng đàm phán Urugoay 1994 về bán phá giá, dựa trên Luật chống bán phá giá trước đó các thành viên xây dựng “ Hiệp định về việc thi hành điều VI của GATT năm 1994 ”điều chỉnh kỹ hơn các quy tắc chống bán phá giá và có hiệu lực hơn đối với mọi thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới ( WTO ) và là Hiệp định cưỡng bức thi hành.
Hiệp định nêu cụ thể ba loại nghĩa vụ khống chế việc áp dụng các sắc
thuế:
Các quy tắc chi tiết về các sự kiện cấu thành việc “ bán phá giá”.
Các quy tắc chi tiết “ yêu cầu về thiệt hại ”
Các quy tắc chi tiết về những thủ tục theo đó các Chính phủ
xác định và áp dụng các sắc thuế chống bán phá giá.
2. Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá:
2.1 Bán phá giá: Trong ngôn ngữ tiếng Việt, “Bán phá giá” thường được hiểu là hành động bán một mặt hàng với giá thấp hơn giá hiện hành của mặt hàng đó trên thị trường, làm cho những người bán hàng khác hạ giá bán. Như vậy ở đây có sự so sánh về giá ở hai thị trường khác nhau: thị trường nước nhập khẩu và thị trường nước xuất khẩu, mặc dù giá bán ở thị trường tiêu thụ (nước nhập khẩu) có thể không khác nhau, thậm chí có thể xảy ra trường hợp giá bán cáo hơn giá hiện hành. Nhìn chung, các tài liệu quốc tế đều thống nhất hiện tượng “bán phá giá” xảy ra khi hàng
hoá xuất khẩu được bán sang một nước khác với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa (của nước xuất khẩu). Nếu đọc lướt qua, định nghĩa này thật là đơn giản, chỉ việc so sánh giữa giá xuất khẩu với giá bán tại nội địa, nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá nội địa tức là có sự bán phá giá. Tuy nhiên, sự việc lại không đơn giản chút nào khi một loạt câu hỏi được đặt ra cần giải quyết khi so sánh giá để đảm bảo sự chính xác và công bằng: giá nội địa là giá nào? Là giá bán buôn hay giá bán lẻ? Giá xuất khẩu là giá nào? ...
2.2 Thuế chống bán phá giá: là một sắc thuế mà nước nhập khẩu đánh vào một mặt hàng nhập khẩu được bán phá giá với mục đích ngăn cản sự tiếp diễn của việc bán phá giá đó để tránh gây thiệt hại cho ngành sản xuất mặt hàng tương tự ở trong nước.
3. Ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá
Tác động của việc bán giá được đánh giá một cách đơn giản theo hình dưới đây. Trước khi có việc hàng của nước được bán vào thị truờng một nước với giá thấp hơn giá hiện hành, cung và cầu mặt hàng đó cân bằng ở điểm E, với giá P1 và lượng tiêu thụ Q1, hoàn toàn là hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, khi có nguồn hàng nước ngoài bán với giá thấp hơn là P2, lượng tiêu thụ tăng lên Q2, trong khi đó lượng hàng sản xuất trong nước giảm xuống chỉ
còn Q’2, lượng hàng nhập khẩu là Q2 - Q’2.
P
S
E A
P1
C D
P2 B SF
D
Q’2 Q1 Q2 Q
Từ hình này cho thấy thặng dư của người tiêu dùng tăng thêm một lượng bằng diện tích hình thang ABDE, trong khi đó thặng dư của nhà sản xuất trong nước giảm một lượng bằng diện tích hình thang ABCE.
Như vậy có thể thấy tác động của việc bán phá giá là: gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nhưng lại mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Về tổng thể, toàn xã hội được lợi bằng diện tích tam giác CDE.
Xuất phát từ thành kiến cố hữu, việc “bán phá giá” thường được coi là có tác động tiêu cực, thường vì lý do làm giảm lợi nhuận của những người bán hàng khác hoặc gây thiệt hại cho các nhà sản xuất cùng một mặt hàng của nước nhập khẩu, cho nên người ta thường tìm biện pháp để chống lại hành động này. Tuy nhiên, cần phải có sự phân tích thấu đáo bản chất của mọi trường hợp bán phá giá để xem có phải tất cả mọi hành động bán phá gía đều có hại hay không để từ đó có biện pháp đối phó thích ứng.
Có thể hình dung các trường hợp bán phá giá sau đây:
Thứ nhất, giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nước xuất khẩu nhưng vẫn cao hơn chi phí sản xuất;
Thứ hai, giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất và tất nhiên là thấp hơn giá thị trường trong nước. Trong trường hợp này còn có thể xảy ra một số tình huống khác nhau, tuỳ thuộc vào định nghĩa chi phí sản xuất: chi phí bình quân hay “chi phí lề”.
Trường hợp thứ nhất: Giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nhưng cao hơn chi phí sản xuất.
Trường hợp này có thể xảy ra khi một hãng chiếm vị thế độc quyền hoặc gần như độc quyền ở thị trường nội địa xuất phát từ điều kiện tự nhiên hoặc do được hưởng lợi thế từ hàng rào thương mại, nhưng phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu. Trong trường hợp này, vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, hãng đó sẽ lợi dụng vị thế độc quyền của mình để ấn định giá bán trong nước cao hơn, chừng nào thị trường đó còn chấp nhận được. Trong khi đó, do phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu, hãng đó chỉ có thể bán
với giá đang tồn tại ở thị trường đó. Như vậy đã xảy ra việc bán phá giá như định nghĩa ở trên.
Nếu việc bán phá giá này không làm giá ở thị trường nước nhập khẩu thay đổi (do cạnh trạnh ở đây hoàn hảo), sẽ không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nước nhập khẩu, và vì thế sẽ không cần thiết phải có biện pháp chống đối
lại.
Tuy nhiên, nếu việc bán phá giá này xảy ra với một lượng lớn và trong thời gian dài, làm giảm giá ở thị trường nước nhập khẩu sẽ gây tác động đến lợi ích của nước nhập khẩu. Người tiêu dùng sẽ được lợi từ giá thấp nhưng ngược lại các nhà sản xuất và công nhân trong ngành công nghiệp đó sẽ bị thiệt hại vì lợi nhuận và lương bị giảm. Lợi ích cuối cùng của nước nhập khẩu phụ thuộc vào việc lợi ích của người tiêu dùng có lớn hơn thiệt hại của người sản xuất và công nhân hay không.
Ngay cả trong trường hợp về tổng thể nước nhập khẩu bị thiệt hại cũng khó có lý do để áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá của hãng đó nhằm khắc phục thiệt hại bởi vì hãng đó có thể lập luận rằng do điều kiện thị trường của nước nhập khẩu là cạnh tranh, bất kỳ hãng nào cũng có thể tham gia thị trường đó và làm cho giá giảm xuống. Tuy nhiên, để khắc phục thiệt hại, nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp được phép khác như tự vệ.
Trường hợp thứ hai: Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất
Trước hết, để hiểu được ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá thấp hơn chi phí, cần phân biệt các loại chi phí.
Thông thường, chi phí sản xuất được phân biệt theo 2 loại: chi phí bình quân (average cost) và chi phí lề (marginal cost).
Chi phí bình quân được tính bằng tổng tất cả các chi phí một hãng phải chịu chia cho lượng sản phẩm sản xuất ra.
Chi phí lề là chi phí phải bỏ ra để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm. Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại
chi phí sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có
một phần nhỏ chi phí sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất thay đổi. Chính chi phí lề là yếu tố quyết định trong việc định giá của một hãng trong thời gian ngắn hạn khi phải chịu chi phí nhất định để thâm nhập vào một thị trường
Khi nhu cầu của thị trường bị giảm, kéo theo giá thị trường giảm và các hãng theo đó cũng phải giảm giá bán. Nếu giá bán thấp hơn chi phí bình quân, hãng đó sẽ bị lỗ. Tuy nhiên, khi một phần chi phí là cố định không phụ thộc vào lượng sản xuất, mức độ lỗ sẽ phụ thuộc vào lượng hàng bán ra và vào mức chi phí lề. Nếu giá bán vẫn cao hơn chi phí lề, hãng vẫn tiếp tục bán với hy vọng sau một thời gian ngắn thị trường sẽ phục hồi hoặc chỉ để giảm thiệt hại trước khi rút lui khỏi thị trường đó. Đây là sự phản ứng rất bình thường của các hãng đối với sự thay đổi của thị trường, kể cả các hãng nước ngoài và hãng nội địa.
Trong trường hợp này, việc áp dụng một biện pháp chống hàng nhập khẩu là bất hợp lý vì như vậy sẽ đối xử không công bằng giữa hãng nội địa và hãng nước ngoài. Tuy nhiên, một nước vẫn có thể áp dụng các chính sách hỗ trợ cho các hãng nội địa giảm nhẹ thiệt hại dưới hình thức các biện pháp tự vệ.
4. Tại sao bán phá giá chiếm thị trường ở nước ngoài lại vẫn gia tăng
được lợi nhuận?
Trong thực tế, có những lý do khiến một công ty bán phá giá hàng sản xuất ra thị trường nước ngoài mà vẫn thu được lợi nhuận. Giả dụ một công ty sản xuất một triệu chiếc radio một năm bằng một nhà máy duy nhất và chỉ làm ca ban ngày. Giả sử nhà máy đó định giá mặt hàng radio này trong thị trường nội địa là 20USD/chiếc và lãi được 4USD/chiếc. Ta giả dụ tiếp là những chi phí biến động của mặt hàng radio (nguyên vật liệu, lương công nhân...) vào khoảng 10USD/chiếc; Vậy chi phí cố định (nhà xưởng, trang thiết bị...) khoảng 6USD/chiếc.Nếu nhà máy bán hết một triệu chiếc radio mỗi năm với lãi 4USD/chiếc thì nó đã bù đắp xong mọi chi phí cố định và có thể
bán thêm radio với bất cứ mức giá nào cao hơn chi phí biến động
10USD/chiếc để kiếm thêm tiền lãi.
Giả sử nhà máy có thể chạy thêm ca đêm và sản xuất một triệu chiếc radio nữa mỗi năm. Các chi phí cố định, theo giả định, đã được trang trải xong với một triệu chiếc radio đầu tiền. Nếu nó có thể xoay xở bán được một triệu chiếc radio thứ hai này mà không ảnh hưởng gì tới giá bán một triệu chiếc radio đầu tiên, vậy thì bất cứ mức giá nào cao hơn mức chi phí biến động 10 USD/ chiếc cũng làm tăng thêm lợi nhuận cho công ty. Thí dụ nó bán radio làm ca đêm với giá 14 USD, thì nó lãi thêm 4 triệu USD (ngoài số lãi 4 triệu USD từ một triệu chiếc radio đầu tiên làm ca ngày), tức là tăng gấp đôi lợi nhuận. Dĩ nhiên, việc bán sản phẩm ca đêm không được ảnh hưởng tới giá trị bán của một triệu radio đầu tiên làm ca ngày. Điều này dẫn đến việc phải tìm kiếm một thị trường khác hẳn cho sản lượng của ca đêm. Thị trường mới này phải đảm bảo không dễ gì chuyển ngược hàng trở lại thị trường thứ nhất, nếu không thì giá bán của radio làm ca ban ngày sẽ bị cắt xuống tới mức thấp hơn giá thành.
Một phương cách để thực hiện việc trên là tính giá bán khác nhau ở những khu vực khác nhau, với điều kiện chi phí vận chuyển hàng theo chiều ngược lại phải đủ cao để ngăn không cho người mua ở thị trường giá rẻ đem bán lại ở thị trường giá đắt. Trong trường hợp xuất khẩu sản phẩm, các Chính phủ có thể dựng hàng rào thuế quan ngăn cản việc chở hàng hoá ngược về thị trường gốc. Như thế, nếu có một mức thuế quan 40% đánh lên radio nhập khẩu, thì sản lượng của ca đêm có thể bán sang nước ngoài sẽ chở radio ngược về thị trường giá gốc để làm giảm giá bán tại thị trường nội địa.
Có thể chứng minh những lập luận trên bằng trường hợp điển hình về
bán phá giá đã xẩy ra trên thương trường quốc tế sau đây:
1.400
PUSD(giá)
1.200
N
1.000
800
1 2 3
T
PT =700
Từ những năm 1960, sáu công ty điện tử hàng đầu của Nhật Bản là
HITACHI, MISUBISHI, MASUSHITA, SANYO, SHARP và TOSHIBA đã cạnh tranh gay gắt với nhau. Nhưng ngày 10/09/1964, họ đã thoả thuận thống nhất nâng giá bán, quy định sản lượng của mỗi công ty. Kết quả của việc thoả thuận này là trong nhiều năm trời, người tiêu dùng ở Nhật phải trả 700 USD
-9-
600
PB =500
PC =450
C1 C2
B D C 3 C
cho một tivi màu, trong khi các công ty đó ở Mỹ chỉ với giá 400 USD cho một tivi mầu cùng loại. Việc bán phá giá tivi Nhật ở Mỹ làm cho các công ty Mỹ không chịu nổi quá trình cạnh tranh. Cho đến năm 1989, sáu hãng tivi lớn và nhiều hãng nhỏ của Mỹ bị phá sản, công nghiệp sản xuất tivi của Mỹ bị suy yếu mạnh. Chúng ta có thể lý giải quá trình bán phá giá, chiếm thị trường, gia tăng lợi nhuận nói trên bằng mô hình sau đây:
Hiệu ứng bán phá giá - chiếm thị trường - tăng lợi nhuận
Giả sử có 3 doanh nghiệp Nhật Bản 1,2,3 cạnh tranh trên thị trường tivi. Nhu cầu là đường NC, chi phí bình quân (C1, C2, C3) và công suất thiết kế của ba doanh nghiệp là như nhau (500.000 tivi/năm).
Nếu ba doanh nghiệp cạnh tranh bằng giá với nhau, thị trường sẽ cân bằng ở điểm C, giá bán là Pc=450 USD và bằng chi phí bình quân thấp nhất của mỗi doanh nghiệp ở điểm D. Như vậy, cả ba doanh nghiệp đều chỉ hoà
vốn.
Giả sử ba doanh nghiệp thoả thuận giảm 40% sản lượng từ qc=1,5 triệu còn qT= 0,9 triệu tivi. Lúc này, giá mà thị trường chấp nhận là PT= 700 USD, thị trường cân bằng ở điểm T. Do sản lượng giảm, chi phí bình quân tăng từ
450 USD ở điểm D, lên 500 USD ở điểm B. Tuy nhiên, do giá tăng rất mạnh, từ 450 USD lên 700 USD, nên mặc dù sản lượng giảm, chi phí tăng, các doanh nghiệp vẫn có lãi. Đối với doanh nghiệp 1, điểm bán lúc cạnh tranh là D, song khi thoả thuận là A, với qA= 300.000 tivi. Lợi nhuận của doanh nghiệp này là:
Lợi nhuận thực tế = 300.000 x (700 USD-500 USD) = 60 triệu USD Như vậy lợi nhuận đã tăng từ 0 triệu lên 60 triệu USD. Ở tình trạng
thoả thuận bán ở trong nước như vậy, cả ba doanh nghiệp đều có lợi nhuận cao, song họ không bán thêm vào thị trường trong nước mà xuất khẩu, thì sẽ không làm giảm giá trị trường trong nước. Và nếu bán ra nước ngoài với giá
thấp, thì có thể chiếm được thị trường mới. Vấn đề là bây giờ lợi nhuận của họ thế nào?
Giả sử doanh nghiệp sản xuất hết 100% năng lực, song xuất khẩu 40%
sản phẩm. Tức là mỗi doanh nghiệp sản xuất 500.000 tivi/năm, xuất khẩu
200.000 tivi. Lúc này chi phí mỗi tivi là 450 USD ở điểm D. Giả sử ba doanh nghiệp quyết định bán phá giá ở nước ngoài, với giá PN= 400 USD < PC= 450
USD = chi phí bình quân. Như vậy, mỗi doanh nghiệp sẽ lỗ xuất khẩu là:
Lỗ = 200.000 x (450 USD - 400 USD) = 10 triệu USD.
Tuy nhiên do tăng được 40% sản lượng, chi phí bình quân mỗi tivi lại giảm,
từ 500 USD ở điểm B xuống còn 450 USD ở điểm D. Do vậy, mặc dù giá bán tivi trong nước không tăng, song lợi nhuận do bán trong nước lại tăng:
Lợi nhuận trong nước= 300 x (700 USD - 450 USD) = 75 triệu. Như vậy lợi nhuận thực tế của mỗi doanh nghiệp khi vừa thoả thuận,
vừa bán phá giá ở nước ngoài là:
Lợi nhuận= 75 triệu USD - 10 triệu USD = 65 triệu USD.
Mặc dù chịu lỗ ở nước ngoài, lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp đã tăng từ 60 triệu USD (khi thoả thuận mà không xuất khẩu) lên đến 65 triệu USD (khi vừa có thoả thuận vừa có xuất khẩu). Còn nếu so sánh khi các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau trong nước, lợi nhuận đã tăng từ 0 triệu lên đến 65 triệu USD. Nếu chi phí sản xuất tivi ở Mỹ là 400USD, tức là thấp hơn của Nhật bản là 450USD, thì để có lãi, giá bán tivi của Mỹ phải trên 400USD. Nếu các doanh nghiệp Nhật bản xuất khẩu sang Mỹ với giá 400USD thì rõ rằng là các doanh nghiệp Mỹ không chịu đựng nổi. Và như đã nêu ở trên, sau
30 năm bán phá giá, Nhật bản đã đánh bại công nghiệp tivi của Mỹ, mặc dù chi phí sản xuất của các công ty Nhật bản có thể cao hơn các công ty Mỹ.
Mô hình nêu trên đã chứng minh một khả năng là: Một nước có trình độ công nghệ không cao hơn, có chi phí sản xuất cao hơn vẫn có thể xuất khẩu sang nước có chi phí sản xuất thấp hơn, với một giá thấp hơn chi phí của nước chủ nhà, vừa chiếm được thị trường mà vẫn gia tăng được lợi nhuận.
Bản chất kinh tế của chiến lược này là: Hạn chế tối đa nhập khẩu, thoả
thuận trong nước về giá và xuất khẩu với giá tiêu diệt địch thủ:
Bằng cách hạn chế nhập khẩu và thoả thuận giữa các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đẩy được giá trong nước lên cao làm tăng lợi nhuận (điều này làm thiệt hại người tiêu dùng trong nước).
Bằng cách xuất khẩu để sử dụng tối đa công suất, các doanh nghiệp lại giảm được chi phí, từ đó lại tăng thêm được lợi nhuận của phần sản phẩm bán trong nước. Chính phần lợi nhuận tăng thêm này là nguồn tài chính để bù lỗi việc bán phá giá ở nước ngoài.
Như vậy, trong một cơ chế thị trường có sự hỗ trợ của Nhà nước như trên (khuyến khích thoả thuận, bảo hộ mậu dịch và trợ cấp sản xuất xuất khẩu), chính người dân Nhật bản là người gánh chịu cái giá của sự mở rộng thị trường quốc tế của Nhật. Họ phải mua hàng với giá cao ở trong nước để tài trợ cho các doanh nghiệp bán phá giá ở nước ngoài, còn bản thân các chủ doanh nghiệp vẫn thu được lợi nhuận cao dù phải bán phá giá để chiếm thị trường mới.
Cũng có những trường hợp các hãng bán với giá thấp hơn chi phí lề. Trong các trường hợp này không thể xem xét nguyên nhân hành động của các hãng với mục tiêu là nhằm tối đa hoá lợi nhuận mà vì các mục tiêu khác.
5. Những nguyên nhân của hành động bán phá giá
Mỗi một hành động bán phá giá đều nhằm đạt được một số mục tiêu cụ thể và có một số nguyên nhân dẫn đến hành động đó. Chúng ta có thể phân tích và tổng hợp thành một số nhóm nguyên nhân như sau:
5.1 Bán phá giá nhằm đạt mục tiêu chính trị thao túng các nước khác
Chính phủ Mỹ đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu gạo bởi vì cạnh tranh giá gạo bây giờ ảnh hưởng lớn đến việc đạt các mục tiêu quan trọng khác. Mỹ sẵn sàng bỏ ngân sách mua phần lớn số gạo trên thị trường thế giới rồi bán phá
giá. Điều này làm cho nhiều nước xuất khẩu gạo phải lao đao và sẽ phải chịu vòng phong toả của Mỹ. Chẳng hạn, giá xuất khẩu gạo của Mỹ khoảng
400USD/ tấn, nhưng các nhà xuất khẩu gạo Mỹ sẵn sàng mua với giá
500USD/ tấn, thậm chí cao hơn đến 800USD/tấn, và họ cũng sẵn sàng bán ra thị trường thế giới chỉ bằng 60 - 70%, thậm chí đến 40% giá mua. Mức giá này thấp hơn nhiều so với giá thành của chính nông dân Mỹ sản xuất ra. Như vậy, Mỹ có thể sẵn sàng bỏ ra 700 - 800 triệu USD/ năm để tài trợ giá xuất khẩu gạo nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Chính vì điều này mà mặc dù sản lượng gạo của Mỹ hàng năm thấp nhưng Mỹ lại thao túng giá gạo trên thị trường thế giới.
5.2 Do có các khoản tài trợ của Chính phủ
Chính phủ các nước phương Tây coi tài trợ là con đường ngắn nhất để đạt đuợc sự cân bằng kinh tế và đảm bảo cho thị trường hoạt động một cách tối ưu. Chính sách tài trợ nhằm đạt được hai mục đích sau:
Duy trì và tăng cường mức sản xuất xuất khẩu
Duy trì mức sử dụng nhất định đối với các yếu tố sản xuất như lao động và tiền vốn trong nền kinh tế. Các khoản tài trợ có thể được cấp cho người sản xuất cũng như cho người tiêu dùng, nhưng về mặt tác động kinh tế thì chúng đều như nhau vì đều đưa đến những hệ quả tương tự
Những hình thức tài trợ chủ yếu là: Trợ cấp, ưu đãi về thuế, tín dụng ưu đãi, sự tham gia của Chính phủ vào các chi phí kinh doanh cũng như hỗ trợ xuất khẩu.
- Trợ cấp: Đặc điểm cơ bản của trợ cấp là hướng vào giúp đỡ phát triển sản xuất. Ở các nước công nghiệp phát triển, các khoản trợ cấp chiếm một nửa toàn bộ khối lượng tài trợ. Tỷ trọng của các khoản trợ cấp cho từng ngành trong tổng số giúp đỡ của Chính phủ có sự khác nhau đáng kể giữa các nước. Như ở Anh, Ý, Hà Lan thì trợ cấp chiếm phần lớn.
- Ưu đãi về thuế: Những ưu đãi về thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một số ngành trong một số loại hoạt động riêng biệt. Chúng được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước, mặc dù ít khi được phản ánh trong các chỉ tiêu của Chính phủ vì chúng là ngoại lệ khi áp dụng các thuế suất chuẩn. Ở Anh, Bỉ, Đan Mạch, giá trị của chúng không lớn, còn ở Mỹ thì tổng số ưu đãi về thuế cho công nghiệp lớn gấp 3 lần khối lượng trợ cấp.
- Ưu đãi về tín dụng: Những ưu đãi về tín dụng là sự cho vay của Chính phủ với điều kiện hấp dẫn hơn là tìm kiếm trên thị trường vốn. ở các nước thuộc Cộng đồng Kinh tế Châu Âu khoảng 14% tổng khối lượng giúp đỡ cho công nghiệp được thực hiện dưới hình thức tín dụng ưu đãi. Phần lớn khối lượng tín dụng của Chính phủ Nhật bản cấp cho các hãng vừa và nhỏ với lãi suất thấp hơn ở lãi suất thị trường vốn 0,5%.
Các Chính phủ cũng thường xuyên bảo đảm các khoản tín dụng, tức là bảo lãnh cho các công ty vay mà không trả nợ được. Phương pháp tài trợ này thường dùng cho các hợp đồng xuất khẩu để đảm bảo cho các công ty xuất khẩu của nước mình. Theo đánh gái, quy mô của tài trợ này chiếm vào khoản từ 2% đến 8% tổng tài trợ công nghiệp ở các nước công nghiệp phát triển.
- Tham gia của Chính phủ vào chi phí kinh doanh: Sự tham gia của Chính phủ vào chi phí kinhdoanh thường là 15% tổng tài trợ trở xuống. Từ thập kỷ 80 đến nay, phần sở hữu Nhà nước trong hoạt động kinh doanh có xu hướng giảm. Phương pháp này được sử dụng để bù đắp những tổn thất trong những lĩnh vực kinh tế riêng đang suy thoái.
Hiện nay, tài trợ công nghiệp vẫn được Chính phủ các nước phương Tây duy trì ở mức khá cao. Trên thực tế, các khoản tài trợ giúp các ngành thực hiện công nghệ mới, trang bị máy và thiết bị hiện đại, nghĩa là giúp các ngành mới gia nhập thị trường và đẩy mạnh phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước, tăng cường xuất khẩu.
5.3 Bán phá giá cũng có thể xảy ra trong trường hợp một nước có quá nhiều hàng tồn kho không thể giải quyết theo cơ chế giá bình thường Trong nền kinh tế hàng hóa trước đây, khi gặp khủng hoảng thừa, các
chủ doanh nghiệp thường chất đống hàng hoá của mình, châm lửa đốt, hoặc đổ xuống biển để giữ giá, nhất định không bán phá giá. Còn hiện nay, ở các nước kinh tế phát triển, gặp trường hợp này, nhà buôn có thể chọn một trong hai giải pháp thường dùng. Trước hết là lưu kho chờ ngày giá lên. Nhưng lưu kho đòi hỏi phải có chỗ chứa, và chỉ áp dụng được với những mặt hành không bị hư hỏng. Giải pháp thứ hai là bán xôn. Nhiều khi đây là giải pháp duy nhất đối với một số mặt hàng: thực phẩm sắp hết thời hạn sử dụng, máy vi tính đời cũ, một số kiểu giầy, quần áo hết mốt ... Nhiều cửa hàng lớn ở Pháp (Paris) ngay từ khi vào mùa đã có số hàng tồn đọng lên tới 50% số dự trù bán ra. Hàng tồn kho này sẽ nhanh chóng được mang bán với giá khuyến mãi thấp hơn 30% giá bán thông thường. Đến cuối mùa, số hàng tụt xuống còn vài phần trăm, được nhượng lại cho dân bán xôn chuyên nghiệp với giá chỉ bằng
1/10 giá cũ. Dân chuyên nghiệp sẽ đẩy hết hàng ra nước ngoài, chủ yếu là sang Châu Phi, Châu Á và Đông Âu.
5.4 Bán phá giá được sử dụng như công cụ cạnh tranh
Các hãng nước ngoài sử dụng công cụ bán phá giá để loại bỏ các đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường của các nước nhập khẩu. Sau khi đã giành được vị trí khống chế thị trường, triệt tiêu được sự cạnh tranh của hàng hoá nội địa thì các hãng nước ngoài sẽ thực hiện mục tiêu cuối cùng của mình là tăng giá, tìm cách thao túng thị trường để thu được lợi nhuận tối đa.
5.5 Một nước có thể do nhập siêu lớn, cần phải có ngoại tệ để bù đắp cho thiếu hụt này
Khi đó họ có thể áp dụng công cụ bán phá giá để giải quyết vấn đề thiếu hụt ngoại tệ.
5.6 Một số nước làm ra được một số sản phẩm với giá thành rất thấp là nhờ sử dụng lao động trẻ em tiền lương thấp và sử dụng lao động của tù nhân làm hàng xuất khẩu
Theo số liệu của Văn phòng Quốc tế về lao động trẻ em (BIT) thì trên toàn thế giới hiện có tới 250 triệu trẻ em từ 5 - 14 tuổi đang tham gia một hoạt động kinh tế. Còn theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF) thì tại các nước nghèo, cứ 4 trẻ em thì có một trẻ em làm việc như người lớn.
Việc sử dụng lao động trẻ em và sử dụng lao động tù nhân ngoài việc mang lại siêu lợi nhuận, nó còn là cách để cạnh tranh đối với các đối thủ làm ăn. Nhờ giá nhân công rẻ mạt, người ta có thể hạ giá thành sản phẩm, xuất khẩu hàng hoá bán phá giá ở nước ngoài.
5.7 Ở Việt Nam có hiện tượng một số công ty kinh doanh hàng nhập khẩu trả chậm, đã bán phá giá nhằm dùng nguồn vốn nước ngoài để kinh doanh mặt hàng khác và hàng nhập lậu với khối lượng lớn
Để làm được việc đó, họ tìm cách bán phá giá trên thị trường, có lúc bán ồ ạt chịu lỗ từ 10 -20% so với giá vốn nhập khẩu để nhanh chóng thu hồi vốn, đi buôn mặt hàng khác có lãi suất cao hơn, không những đủ bù lỗ số hàng nhập trả chậm, mà còn có lãi lớn.
Năm 1995, ba mặt hàng quan trọng đã bị bán phá giá theo cách tính toán trên là xăng dầu, thép xây dựng và phân bón. Cuối năm 1995, giá phân Urê Indonesia nhập vào Việt nam đang ở mức cao (260-265USD/ tấn CIF Cảng Sài gòn), nhưng giá bán buôn cả tàu tại Tân Quy, Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh liên tục giảm xuống chỉ còn 245đồng/kg.
Ngoài ra, hàng ngoại nhập lậu với khối lượng lớn trong những năm vừa qua thu được lợi nhuận siêu ngạch từ việc trốn thuế nhập khẩu đã chiếm lĩnh thị trường với giá cạnh tranh so với hàng sản xuất trong nước, loại khỏi thị trường các doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Tóm lại, có rất nhiều trường hợp các hãng nước ngoài có thể xuất khẩu hàng của mình sang thị trường nước khác với giá thấp hơn giá nội địa và thậm chí thấp hơn cả chi phí sản xuất, nhưng không phải tất cả mọi trường hợp đều có thể gán cho cái tên “bán phá giá” để áp dụng các biện pháp ngăn cản. Trong nhiều trường hợp làm như vậy chỉ tạo ra một sự bảo hộ không cần thiết
cho ngành sản xuất trong nước, làm giảm lợi ích của người tiêu dùng cũng như của toàn xã hội.
6. Vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất
Biện pháp được phép sử dụng trong chống bán phá giá là thuế theo tỷ lệ phần trăm (ad-valorem), do vậy tác động về mặt lợi ích đối với xã hội của biện pháp này cũng giống như tác động của thuế nhập khẩu thông thường theo tỷ lệ phần trăm.Tác động đó được phân tích theo phương pháp “cân bằng từng
S
phần” như sau:
P
D
E
G J
P2
P1 A C M
H SF +T
N B T
SF
Q2 Q’2
Q’1 Q1 Q
Khi một sắc thuế T được áp dụng, làm cho giá trong nước của sản phẩm tăng lên một lượng bằng T. Do vậy, với các yếu tố về cầu của thị trường nội địa đối với sản phẩm đó không đổi, lượng tiêu thụ giảm từ Q1 xuống Q’1, trong đó lượng hàng sản xuất trong nước tăng từ Q2 lên Q’2, lượng hàng nhập khẩu giảm xuống chỉ còn bằng Q’1 - Q’2. Như vậy có thể thấy rõ tác động bảo hộ của thuế nhập khẩu đối với sản xuất trong nước: làm tăng giá trong nước, giảm tiêu thụ hàng nhập khẩu và tăng sản xuất trong nước. Các nhà sản xuất trong nước được hưởng lợi rõ ràng khi giá trị thặng dư của họ được gia tăng thêm một lượng bằng diện tích tứ giác ACJG.
Tuy nhiên, cùng với việc các nhà sản xuất được hưởng lợi thì người tiêu dùng lại bị thiệt hại: giá trị thặng dư của họ bị giảm một lượng bằng diện tích tứ giác ABHG.
Nhà nước cũng được hưởng lợi khi ngân sách thu vào từ thuế nhập khẩu tăng một lượng bằng diện tích hình chữ nhật MNHJ.
Thế nhưng, xét về tổng thể, toàn xã hội sẽ bị thiệt khi lợi ích mang lại cho các nhà sản xuất trong nước và Nhà nước không thể bù đắp cho thiệt hại về lợi ích của người tiêu dùng. Lượng thiệt hại của toàn xã hội bằng diện tích tam giác CMJ cộng với diện tích tam giác NBH.
Ngoài tác động bảo hộ của thuế chống phá giá như phân tích trên đây, quá trình dẫn đến việc áp dụng thuế chống phá giá cũng phần nào có tác động bảo hộ. Ví dụ, bản thân._. việc bắt đầu quá trình điều tra chống phá giá có nghĩa là trong tương lai rất có thể thuế chống phá giá sẽ được áp dụng, làm cho sản phẩm là đối tượng điều tra trở nên ít hấp dẫn hơn đối với các nhà nhập khẩu, như vậy phần nào đã ngăn cản dòng hàng hoá nhập khẩu.
II. GIỚI THIỆU HIỆP ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO
Năm 1948 hệ thống thương mại đa biên được thiết lập với sự ra đời của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Trải qua gần một nửa thế kỷ, những quy định của GATT về thương mại đa biên, trong đó có quy định về chống bán phá giá (Điều VI) tỏ ra chưa chặt chẽ. Cùng với sự ra đời của WTO, Hiệp định Chống bán phá giá đã có những quy định chặt chẽ và chi tiết hơn nhiều so với Điều VI của GATT. Theo Hiệp định này, nước nhập khẩu chỉ được áp dụng các biện pháp chống bán phá giá khi:
Hàng nhập khẩu bị bán phá giá;
Gây thiệt hại về vật chất cho ngành sản xuất trong nước; và
Cuộc điều tra phá giá được tiến hành theo đúng thủ tục.
Hiệp định chống bán phá giá của WTO quy định rất chi tiết nguyên tắc xác định phá giá, cách tính biên độ phát giá và thủ tục điều tra phá giá như sau:
1. Xác định việc bán phá giá
1.1 Định nghĩa phá giá
Một sản phẩm được coi là bị bán phá giá khi:
giá xuất khẩu sản phẩm đó thấp hơn giá có thể so sánh được trong
điều kiện thương mại thông thường ("giá trị thông thường")
của sản phẩm tương tự khi tiêu thụ ở thị trường nước xuất khẩu
WTO không đề cập đến trường hợp bán phá giá khi sản phẩm tương tự
trong thị trường nội địa của một nước.
Sản phẩm tương tự (SPTT): là sản phẩm giống hệt hoặc có các đặc tính gần giống với sản phẩm là đối tượng điều tra.
Điều kiện thương mại thông thường: không có định nghĩa. Ví dụ: khi giá bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu thấp hơn giá thành sản xuất thì có thể coi như là không nằm trong điều kiện thương mại thông thường.
1.2 Nguyên tắc xác định phá giá:
Biên độ phá giá (BĐPG) = giá trị thông thường (GTTT) - giá xuất khẩu
(GXK)
BĐPG > 0 -> có bán phá giá
BĐPG có thể tính bằng giá trị tuyệt đối hoặc theo phần trăm công thức: BĐPG = (GTTT-GXK)/GXK
1.3 Tính biên độ phá giá
Cách tính GTTT:
Trường hợp không có giá nội địa của SPTT ở nước xuất khẩu do:
- sản phẩm không được bán tại nước xuất khẩu trong điều kiện thương mại thông thường; hoặc
- có bán ở nước xuất khẩu nhưng trong điều kiện đặc biệt; hoặc
- số lượng bán ra không đáng kể (<5% số lượng SPTT bán ở nước nhập khẩu) thì:
GTTT = giá xuất khẩu SPTT sang nước thứ ba; hoặc
GTTT = giá thành sản xuất + chi phí (hành chính, bán hàng, quản lý chung...) + lợi nhuận
Trường hợp SPTT được xuất khẩu từ một nước có nền kinh tế phi thị trường (giá bán hàng và giá nguyên liệu đầu vào và do chính phủ ấn định) thì các quy tắc trên không được áp dụng để xác định GTTT.
Cách tính GXK:
GXK = giá mà nhà sản xuất nước ngoài bán SPTT cho nhà nhập khẩu đầu tiên.
Trường hợp giá bán SPTT không tin cậy được do:
- giao dịch xuất khẩu được thực hiện trong nội bộ công ty; hoặc
- theo một thoả thuận đền bù nào đó thì:
GXK = giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lần đầu tiên cho một người mua độc lập ở nước nhập khẩu.
So sánh GTTT và GXK:
Để so sánh một cách công bằng GTTT và GXK, Hiệp định quy định nguyên tắc so sánh như sau:
So sánh hai giá này trong cùng điều kiện thương mại (cùng xuất xưởng/ bán buôn/ bán lẻ), thường lấy giá ở khâu xuất xưởng;
Tại cùng một thời điểm hoặc thời điểm càng gần nhau càng tốt. Việc so sánh GTTT và GXK là cả một quá trình tính toán rất phức tạp, vì
không phải bao giờ cũng có sẵn mức giá xuất xưởng của GTTT và GXK mà chỉ có mức giá bán buôn hoặc bán lẻ của SPTT ở thị trường nước xuất khẩu (GTTT+) và giá tính thuế hải quan, giá hợp đồng hoặc giá bán buôn/bán lẻ SPTT của nhà nhập khẩu (GXK+) nên thường phải có một số điều chỉnh để có thể so sánh GTTT và GXK một cách công bằng.
Điều chỉnh các chênh lệch trong:
điều kiện bán hàng
các loại thuế
số lượng sản phẩm
đặc tính vật lý của sản phẩm
và những yếu tố khác ảnh hưởng đến việc so sánh hai giá.
Ví dụ: khi lấy giá bán SPTT cho một người mua độc lập ở nước nhập khẩu làm GXK + thì GXK sẽ được xác định bằng cách điều chỉnh như sau:
GXK = (GXK+) - (lợi nhuận) - (các loại thuế + chi phí phát sinh từ khâu nhập khẩu đến khâu bán hàng)
Cách so sánh:
Trung bình GTTT so với trung bình GXK; hoặc
GTTT (từng giao dịch) so với GXK (từng giao dịch); hoặc
Trung bình GTTT so với GXK (từng giao dịch)
(cách này chỉ được áp dụng khi GXK+ chênh lệnh đáng kể giữa những người mua, các vùng hoặc giữa các khoảng thời gian khác nhau)
Trường hợp SPTT được xuất khẩu sang nước nhập khẩu qua một nước trung gian (nước xuất khẩu):
Giá SPTT ở nước xuất khẩu (nước trung gian) so với giá bán
SPTT từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
Nếu SPTT chỉ đơn thuần được chở từ nước sản xuất qua nước xuất khẩu:
Giá ở nước xuất xứ so với giá bán SPTT từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
2. Xác định thiệt hại
2.1. Định nghĩa thiệt hại:
Thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước (thiệt hại hiện tại); hoặc
Nguy cơ gây thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước (thiệt hại tương lai); hoặc
Làm trì trệ sự phát triển một ngành sản xuất trong nước (không có quy định cụ thể)
Như vậy, để xác định thiệt hại cần xem xét các nhân tố sau:
Khối lượng hàng nhập khẩu bị bán phá giá: có tăng một cách
đáng kể không?
Tác động của hàng nhập khẩu đó lên giá SPTT: Giá của hàng nhập khẩu đó:
có rẻ hơn giá SPTT sản xuất ở nước nhập khẩu nhiều không?
có làm sút giá hoặc kìm giá SPTT ở thị trường nước nhập khẩu không?
Khi sản phẩm thuộc diện điều tra được nhập khẩu từ nhiều nước: đánh giá gộp tác động nếu BĐPG >= 2% GXK và khối lượng hàng nhập khẩu từ mỗi nước >= 3% khối lượng nhập khẩu SPTT.
Việc khảo sát tác động của hàng nhập khẩu bị bán phá giá đối với một ngành sản xuất trong nước phải xem xét tất cả các yếu tố kinh tế có thể ảnh hưởng đến ngành sản xuất đó, gồm những yếu tố sau:
Năng suất
Thị phần
Biên độ phá giá
Giá nội địa ở nước nhập khẩu
Suy giảm thực tế và nguy cơ giảm doanh số bán hàng
Số lượng hàng tồn kho
Sản lượng
Tình trạng thất nghiệp
Lương
Tác động tiêu cực đến luồng tiền
Huy động năng lực
Lợi nhuận
Tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư
Đầu tư
Khả năng huy động vốn
Tốc độ tăng trưởng
Khi xác định mối liên hệ giữa việc bán phá giá hàng nhập khẩu và thiệt hại cho một ngành sản xuất trong nước: cần tính đến những yếu tố khác
(ngoài việc bán phá giá ), nếu các yếu tố này gây thiệt hại cho ngành sản xuất đó thì không được quy thiệt hại của ngành sản xuất đó do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra.
2.2. Nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước
Để xác định nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước cần xem xét:
Tốc độ tăng nhập khẩu và khả năng tăng nhập khẩu trong tương lai;
Khả năng tăng năng lực xuất khẩu của nhà xuất khẩu dẫn đến khả
năng tăng nhập khẩu;
Tình hình hàng nhập khẩu làm sụt giá SPTT ở nước nhập khẩu;
Số lượng tồn kho SPTT ở nước nhập khẩu
3. Ngành sản xuất trong nước
Ngành sản xuất trong nước là toàn bộ các nhà sản xuất trong nước sản xuất ra SPTT hoặc một số nhà sản xuất có sản lượng chiếm tối đa số tổng sản lượng trong nước
Có thể xuất hiện một số trường hợp đặc thù dẫn tới việc xác định cụ thể
ngành sản xuất trong nước như sau:
Nhà sản xuất và nhà nhập khẩu/nhập khẩu có liên quan với nhau:
ngành sản xuất trong nước là các nhà sản xuất còn lại.
Lãnh thổ nước nhập khẩu bị chia thành nhiều thị trường riêng: các nhà sản xuất ở mỗi thị trường có thể coi là một ngành sản xuất riêng nếu:
+ bán toàn bộ hoặc phần lớn sản phẩm liên quan ra thị trường đó;
và
+ nhu cầu của thị trường đó đối với SPTT nhập khẩu từ nước khác là không đáng kể.
4. Nộp đơn yêu cầu tiến hành chống phá giá
Việc điều tra nhằm xác định sự tồn tại, mức độ và tác động của một số
sản phẩm bị bán phá giá sẽ được tiến hành khi:
có đơn bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước đề nghị điều tra phá giá; hoặc
không có đơn bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước nhưng cơ quan điều tra có đầy đủ bằng chứng về việc bán phá giá, thiệt hại và mối liên hệ giữa hai yếu tố này.
Đơn đề nghị điều tra phá giá phải bao gồm những thông tin sau:
Tên người nộp đơn, số lượng và giá trị của sản phẩm tương tự do người nộp đơn sản xuất trong nước. Nếu đơn được nộp đại diện cho ngành sản xuất trong nước thì đơn phải nêu danh sách tất cả các nhà sản xuất sản phẩm tương tự trong nước và số lượng, giá trị của các sản phẩm tương tự trong nước và số lượng, giá trị của các sản phẩm tương tự do các nhà sản xuất này sản xuất;
Mô tả sản phẩm đang nghi ngờ bị bán phá giá, xuất xứ hàng hoá, tên nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất nước ngoài;
Giá sản phẩm liên quan khi tiêu thụ ở thị trường trong nước sản xuất hoặc nước xuất khẩu, hoặc giá mà sản phẩm liên quan được bán cho người mua độc lập đầu tiên ở nước nhập khẩu;
Số lượng nhập khẩu của sản phẩm đang bị nghi ngờ phá giá, ảnh hưởng của việc nhập khẩu này lên giá sản phẩm tương tự ở thị trường nước nhập khẩu và ảnh hưởng đối với ngành sản xuất trong nước.
Cơ quan điều tra sẽ xác minh tính chính xác và đầy đủ của các bằng chứng nêu trong đơn để xác định xem đã có đủ lý do hợp lệ để tiến hành điều tra chưa. Cơ quan điều tra sẽ không tiến hành điều tra phá giá trừ khi xác định được rằng đơn xin điều tra được nộp bởi ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước của sản phẩm tương tự, nghĩa là:
sản lượng sản xuất sản phẩm tương tự của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc nộp đơn phải lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất trong nước phản đối đơn; và
sản lượng của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc nộp đơn phải chiếm ít nhất 25% tổng sản phẩm tương tự của ngành sản xuất trong nước.
Cuộc điều tra phá giá sẽ bị chấm dứt ngay lập tức nếu cơ quan điều tra xác định được rằng:
biên độ phá giá nhỏ hơn 2% giá xuất khẩu; hoặc
số lượng nhập khẩu hàng bị nghi ngờ bán phá giá từ một nước nhỏ hơn
3% tổng nhập khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu, trừ trường hợp từng nước xuất khẩu có lượng hàng nhập khẩu dưới 3%, nhưng lượng hàng nhập khẩu của tất cả các nước xuất khẩu chiếm trên 7% tổng sản phẩm nhập khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu.
Thủ tục hải quan vẫn được tiến hành trong khi điều tra phá giá. Trừ
trường hợp đặc biệt, một cuộc điều tra phá giá sẽ được tiến hành trong vòng
1 năm, và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được quá 18 tháng.
5. Thu thập thông tin
Cơ quan điều tra sẽ gửi thông báo cho tất cả các bên có quan tâm đến cuộc điều tra phá giá đề nghị cung cấp bằng văn bản mọi bằng chứng liên quan đến cuộc điều tra. Thời hạn trả lời câu hỏi điều tra là 30 ngàyvà có thể được gia hạn thêm 30 ngày hoặc lâu hơn nếu cần thiết.
Ngay khi bắt đầu điều tra, cơ quan điều tra sẽ gửi nguyên văn đơn đề nghị điều tra cho các nhà xuất khẩu và cơ quan liên quan ở nước xuất khẩu và các bên quan tâm khi có yêu cầu.
Trong suốt quá trình điều tra, cơ quan điều tra sẽ tạo đầy đủ điều kiện cho các bên quan tâm bảo vệ quyền lợi của mình, gặp các bên có quyền lợi đối nghịch để trao đổi quan điểm và đưa ra thoả thuận. Các bên quan tâm có quyền trình bày các thông tin khác bằng miệng, nhưng sẽ chỉ được cơ quan
điều tra lưu ý tới khi được soạn lại băng văn bản và gửi cho các bên quan tâm khác.
Bất kỳ thông tin nào có tính bí mật (chẳng hạn, bị đối thủ cạnh tranh lợi dụng hoặc gây tác hại cho người cung cấp thông tin) hoặc được các bên cung cấp một cách bí mật sẽ không được tiết lộ nếu không được bên cung cấp cho phép.
Cơ quan điều tra có thể tiến hành điều tra ở nước ngoài nếu cần thiết để thẩm định các thông tin cung cấp hoặc để tìm hiểu thêm chi tiết với điều kiện được sự đồng ý của các công ty liên quan và thông báo cho đại diện chính phủ nước này và các nước không phản đối.
Cơ quan điều tra sẽ tính biên độ phá giá riêng cho từng nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất sản phẩm đang bị điều tra. Trường hợp không tính được biên độ phá giá riêng do số nhà xuất khẩu, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hoặc loại sản phẩm liên quan quá lớn thì cơ quan điều tra có thể giới hạn diện điều tra tới một số nhà sản xuất, xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc giới hạn ở một số loại sản phẩm nhất định bằng cách sử dụng mẫu thống kê, hoặc giới hạn ở tỷ lệ phần trăm lớn nhất của khối lượng hàng xuất khẩu từ nước liên quan.
Việc chọn các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu hoặc loại sản phẩm để điều tra giới hạn sẽ được tiến hành trên cơ sở tham khảo ý kiến và có sự đồng ý của các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu có liên quan.
Trong trường hợp cơ quan điều tra giới hạn diện điều tra như nêu trên, họ vấn có thể tính biên độ phá giá riêng cho các nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất mà ban đầu không được đưa vào diện điều tra nhưng đã cung cấp thông tin đúng thời hạn.
Cơ quan điều tra tạo điều kiện cho người tiêu dùng sản phẩm đang điều tra hoặc tổ chức đại diện người tiêu dùng cung cấp thông tin liên quan đến cuộc điều tra nếu sản phẩm được bán lẻ rộng rãi.
6. Áp dụng biện pháp tạm thời
Biện pháp tạm thời có thể được áp dụng dưới các hình thức:
Thuế; hoặc
Đặt cọc khoản tiền tương đương với khoản thuế chống bán phá giá dự kiến; hoặc
Cho thông qua nhưng bảo lưu quyền đánh thuế và nêu rõ mức thuế nhập khẩu thông thường và mức thuế chống bán phá giá dự kiến sẽ áp dụng.
Trên thực tế, biện pháp tạm thời hay được áp dụng nhất là đặt cọc.
Điều kiện áp dụng biện pháp tạm thời:
cơ quan điều tra tiến hành điều tra theo đúng thủ tục, gửi thông báo và tạo điều kiện cho các bên quan tâm cung cấp thông tin và trình bày ý kiến;
có kết luận sơ bộ về việc xảy ra bán phá giá và dẫn đến thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước; và
cơ quan điều tra kết luận rằng biện pháp tạm thời là cần thiết để
ngăn chặn thiệt hại trong quá trình điều tra.
Biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sớm nhất là 60 ngày sau khi bắt đầu điều tra và sẽ duy trì càng ngắn càng tốt, không được quá 4 tháng hoặc trong trường hợp cần thiết thì cũng không được quá 6 tháng. Trường hợp cơ quan điều tra xác định được điều khoản thuế thấp hơn biên độ phá giá đã đủ để khắc phục thiệt hại thì thời hạn áp dụng biện pháp tạm thời có thể là 6 tháng hoặc 9 tháng.
7. Cam kết giá
Việc điều tra có thể ngừng hoặc kết thúc mà không cần áp dụng biện pháp tạm thời hoặc thuế chống bán phá giá nếu một nhà xuất khẩu tự nguyện cam kết tăng giá lên hoặc ngừng xuất khẩu phá giá vào khu vực thị trường đang điều tra và được cơ quan điều tra nhất trí rằng biện pháp này sẽ khắc phục được thiệt hại. Mức giá tăng không nhất thiết phải lớn hơn mà thường là nhỏ hơn biên độ phá giá nếu như đã đủ để khắc phục thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.
Cơ quan điều tra sẽ không chấp nhận cho các nhà xuất khẩu cam kết giá nếu thấy việc cam kết không khả thi, chẳng hạn như khi số lượng nhà xuất khẩu thực tế quá lớn. Trong trường hợp này, cơ quan điều tra sẽ giải thích rõ lý do không chấp nhận cam kết giá với các nhà xuất khẩu.
Nếu cơ quan điều tra chấp nhận việc cam kết giá thì cuộc điều tra phá gá và thiệt hại vẫn có thể được hoàn tất nếu nhà xuất khẩu muốn như vậy và cơ quan điều tra đồng ý. Trong trường hợp này, nếu điều tra đi đến kết luận là không có phá giá hoặc không gây thiệt hại thì việc cam kết giá sẽ đương nhiên chấm dứt, trừ khi kết luận trên được rút ra trong bối cảnh đã cam kết giá rồi. Trường hợp này cam kết giá sẽ duy trì trong thời hạn hợp lý.
Cơ quan điều tra có thể đề nghị nhà xuất khẩu cam kết giá nhưng nhà xuất khẩu không bắt buộc phải cam kết.
Các cơ quan hữu quan của nước nhập khẩu có thể yêu cầu bất kỳ nhà xuất khảu nào đã chấp nhận cam kết giá cung cấp thông tin định kỳ về thực hiện cam kết giá. Trường hợp nhà xuất khẩu vi phạm cam kết giá, cơ quan điều tra có thể lập tức áp dụng biện pháp tạm thời trên cơ sở các thông tin mà họ có (best information).
8. Áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá
Việc quyết định có đánh thuế chống bán phá giá hay không và đánh thuế tương đương hay nhỏ hơn biên độ phá giá sẽ do cơ quan điều tra của nước nhập khẩu quyết định.
Đối với một sản phẩm bị bán phá giá, cơ quan chức năng sẽ xác định biên độ phá giá riêng cho từng nhà xuất khẩu/sản xuất. Thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng cho từng trường hợp, trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu từ tất cả các nguồn được coi là gây thiệt hại, trừ trường hợp đã cam kết giá.
Trị giá thuế chống bán phá giá áp dụng sẽ không được vượt quá biên
độ phá giá.
Có hai hình thức thu thuế chống bán phá giá:
+ Kiểu tính thuế hồi tố (kiểu của Mỹ): việc tính mức thuế được căn cứ
vào số liệu của thời điểm trước khi điều tra (6 tháng - 1 năm). Sau
khi điều tra, cơ quan chức năng bắt đầu áp dụng một mức thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng được một thời gian, nếu nhà nhập khẩu yêu cầu đánh giá lại mức thuế (do giá xuất khẩu tăng lên) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xác định lại số tiền thuế phải nộp trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được yêu cầu. Sau đó mức thuế mới sẽ được áp dụng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90 ngày sau khi xác định lại mức thuế cuối cùng phải nộp.
+ Kiểu tính thuế ấn định (kiểu của EU): cơ quan điều tra lấy số liệu của thời điểm trước khi điều tra để tính biên độ phá giá và ấn định biên độ này cho cả quá trình áp dụng thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng được một thời gian, nếu nhà nhập khẩu đề nghị hoàn thuế với phần giá trị cao hơn biên độ phá giá (do giá xuất khẩu tăng) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xem xét việc hoàn thuế trong vòng
12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được đề nghị hoàn thuế phần giá trị cao hơn biên độ phá giá (do giá xuất khẩu tăng) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xem xét việc hoàn thuế trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được đề nghị hoàn thuế kèm theo đầy đủ bằng chứng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90 ngày kể từ khi ra quyết định hoàn thuế.
Thu thuế với hàng nhập khẩu từ các nhà xuất khẩu không điều tra: Trường hợp số nhà xuất khẩu/sản xuất sản phẩm bán phá giá quá lớn, không tính riêng biên độ phá giá thì được cơ quan chức năng sẽ giới hạn việc điều tra ở một số nhà xuất khẩu/sản xuất nhất định trên cơ sở trao
đổi với các nhà xuất khẩu/sản xuất liên quan.
Mức thuế đối với hàng nhập khẩu từ các nhà xuất khẩu không điều tra không được vượt quá bình quân gia quyền BĐPĐ của các nhà xuất khẩu có điều tra.
Sau mỗi đợt rà soát, hàng nhập khẩu thuộc diện không điều tra sẽ được hoàn lại khoản thuế bằng:
Bình quân gia quyền BĐPG (cũ) - bình quân gia quyền BĐPG (mới)
Khi có yêu cầu từ các nhà xuất khẩu không điều tra, cơ quan chức năng sẽ tính lại mức thuế bằng:
Bình quân gia quyền GTTT (nhà XK có điều tra) - giá xuất khẩu
(nhà XK không điều tra)
Phải loại trừ các biên độ bằng không và biên độ tối thiểu (2%) khi tính bình quân gia quyền BĐPG.
Hàng nhập khẩu mới, nghĩa là:
chưa được xuất khẩu sang nước nhập khẩu trong giai đoạn
điều tra
nhập khẩu từ nguồn không liên quan đến các nhà xuất khẩu đang bị đánh thuế chống bán phá giá trong thời gian tiến hành rà soát.
Tuy nhiên, hàng nhập khẩu này có thể bị truy thu thuế kể từ ngày bắt đầu rà soát nếu có quan chức năng xác định được là có bán phá giá.
9. Truy thu thuế
Các biện pháp tạm thời và thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng với sản phẩm được đưa ra bán sau thời điểm quyết định áp dụng biện pháp tạm thời (60 ngày sau khi điều tra) hoặc quyết định đánh thuế chống bán phá giá (1 năm - 18 tháng sau khi điều tra) có hiệu lực.
Có thể truy thu thuế trong các trường hợp sau:
1. quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào thiệt hại vật chất; hoặc
2. quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào nguy cơ gây thiệt hại và thiệt hại thực tế đã có thể xảy ra nếu không áp dụng biện pháp tạm thời.
3. Có thể truy thu thuế đến tận 90 ngày trước khi áp dụng biện pháp tạm thời nếu cơ quan chức năng xác định được:
có cả một quá trình bán phá giá gây ra thiệt hại hoặc nhà nhập khẩu đã hoặc lẽ ra phải nhận thức được rằng nhà xuất
khẩu đang bán phá giá và việc bán phá giá đó có thể gây thiệt hại; và
thiệt hại bị gây ra bởi khối lượng rất lớn hàng nhập khẩu trong thời gian ngắn trước khi áp dụng biện pháp tạm thời (trường hợp này nhà nhập khẩu được phép trình bày ý kiến).
Tuy nhiên không được truy thu thuế với sản phẩm được nhập khẩu trước ngày bắt đầu điều tra.
Phải hoàn thuế trong những trường hợp sau:
nếu mức thuế cuối cùng xác định được thấp hơn mức thuế tạm thời đã thu thì phải hoàn lại khoản chênh lệch cho nhà nhập khẩu, nếu cao hơn thì không được thu thêm.
Nếu kết luận điều tra cuối cùng khẳng định việc bán phá giá sẽ có thể dẫn đến thiệt hại hoặc làm chậm sự phát triển của ngành sản xuất trong nước thì thuế chống bán phá giá chỉ được đánh từ ngày ra kết luận điều tra cuối cùng và phải hoàn lại số tiền đặt cọc đã thu khi áp dụng biện pháp tạm thời.
Nếu kết luận cuối cùng là không đánh thuế chống phá giá thì khoản tiền đặt cọc khi áp dụng biện pháp tạm thời séc
được hoàn trả.
10. Rà soát
Sau khi áp dụng thuế chống bán phá giá một thời gian, cơ quan chức năng sẽ tự tiến hành rà soát việc tiếp tục đánh thuế hoặc theo đề nghị của bất kỳ bên liên quan nào về vấn đề:
có cần tiếp tục đánh thuế không; hoặc
nếu ngừng đánh thuế hoặc thay đổi mức thuế thì có dẫn đến thiệt hại không.
Cơ quan chức năng sẽ quyết định ngừng đánh thuế nếu, sau khi rà soát, xác định được rằng không cần tiếp tục đánh thuế nữa.
Về nguyên tắc, thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng tối đa trong 5 năm. Trước khi hết thời hạn trên, cơ quan chức năng sẽ tiến hành tự rà soát
hoặc theo đề nghị của đại diện ngành sản xuất trong nước. Nếu như sau khi rà soát (thường trong vòng 12 tháng), cơ quan chức năng xác định được là việc ngừng đánh thuế có thể dẫn đến thiệt hại thì có thể tiếp tục đánh thuế.
11. Thông báo công khai và giải thích các kết luận
Khi cơ quan điều tra thấy rằng sẽ có đầy đủ bằng chứng để tiến hành điều tra phá giá thì họ sẽ gửi thông báo cho nước hoặc nước có sản phẩm bị điều tra và các bên có quan tâm khác. Thông báo này gồm những thông tin sau:
tên (các) nước xuất khẩu sản phẩm có liên quan;
ngày bắt đầu điều tra;
căn cứ về hành vi phá giá ở trong đơn xin điều tra;
tóm tắt các yếu tố được coi là cơ sở xác định thiệt hại;
địa chỉ liên hệ để liên lạc với đại diện của các bên;
thời hạn đưa ra quan điểm cho các bên
Cơ quan điều tra phải gửi thông báo trong các trường hợp sau:
kết luận sơ bộ hay kết luận cuối cùng về việc có xảy ra phá giá hay không;
nhà xuất khẩu chấp nhận cam kết giá và khi chấm dứt cam kết giá;
áp dụng biện pháp tạm thời;
kết luận về cuộc điều tra và áp dụng, chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá
Mỗi một thông báo như nêu trên phải được soạn dưới dạng một báo cáo riêng, trong đó nêu đầy đủ thông tin và kết luận sơ bộ hay kết luận cuối cùng về phá giá và thiệt hại và phải bao gồm những thông tin như sau:
tên (các) nhà cung cấp sản phẩm hoặc trường hợp không có thông tin thì phải nêu tên nước cung cấp sản phẩm đó;
mô tả sản phẩm;
biên độ phá giá, giải thích phương pháp so sánh giá xuất khẩu với giá trị thông thường;
chứng minh thiệt hại;
lý do chính dẫn đến kết luận sơ bộ, lý do chấp nhận hoặc phản đối các kiến nghị của nhà xuất khẩu và nhập khẩu.
12. Cơ chế khiếu kiện độc lập
Tất cả những thành viên WTO mà luật pháp quốc gia có quy định về biện pháp chống bán phá giá phải đảm bảo một cơ chế hành chính, trọng tài hoặc toà án độc lập với cơ quan điều tra nhằm rà soát lại các quyết định hành chính liên quan đến việc ra kết luận cuối cùng về việc có áp dụng chống bán phá giá hay không và việc điều chỉnh thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá.
13. Chống bán phá giá thay mặt nước thứ ba
Một nước thứ ba có thể nộp đơn đề nghị điều tra chống bán phá giá ở nước khác. Đơn này phải nêu các thông tin về giá để chứng minh rằng hàng nhập khẩu bị bán phá giá và gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước liên quan ở nước thứ ba. Chính phủ ở nước thứ ba phải tạo mọi điều kiện cho cơ quan điều tra của nước nhập khẩu điều tra các thông tin cần thiết.
Khi xử lý đơn của nước thứ ba, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu sẽ xem xét tác động của việc bán phá giá nêu trong đơn tới toàn bộ ngành sản xuất liên quan của nước thứ ba, nghĩa là không chỉ đánh giá thiệt hại do tác động của việc bán phá giá đối với xuất khẩu của ngành đó sang nước nhập khẩu hay thậm chí đối với toàn bộ xuất khẩu của ngành đó.
Việc quyết định có tiến hành điều tra hay không sẽ do nước nhập khẩu quyết định.
14. Thành viên đang phát triển
Các thành viên phát triển của WTO sẽ lưu ý đến tình hình riêng của thành viên đang phát triển khi xem xét áp dụng thuế chống bán phá giá.
15. Uỷ ban chống bán phá giá
Uỷ ban chống bán phá giá bao gồm đại diện thành viên WTO được thành lập nhằm thực hiện các nghĩa vụ quy định trong Hiệp định này và tạo điều kiện cho các thành viên trao đổi với nhau vèe các vấn đề liên quan đến việc
thực hiện Hiệp định Chống bán phá giá. Uỷ ban này họp ít nhất 2 lần mỗi năm, Ban Thư ký WTO sẽ thực hiện chức năng thư ký cho Uỷ ban này.
Các thành viên WTO phải thông báo cho Uỷ ban chống bán phá giá:
ngay lập tức khi họ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời hay lâu dài;
nửa năm một lần (theo mẫu quy định) về các biện pháp chống bán phá giá mà họ áp dụng trong vòng 6 tháng trước đấy. Các thành viên có thể tham khảo thông báo này tại Ban thư ký WTO;
cơ quan nào ở nước mình có thẩm quyền điều tra phá giá, luật quy
định thủ tục điều tra phá giá ở nước mình.
16. Trao đổi và giải quyết tranh chấp
Các quy định trong biên bản về Giải quyết tranh chấp (DSU) của WTO sẽ được áp dụng cho việc trao đổi và giải quyết tranh chấp liên quan đến Hiệp định chống bán phá giá của WTO, trừ khi có quy định khác đi.
17. Điều khoản cuối cùng
Các thành viên WTO chỉ được áp dụng biện pháp đối phó với hàng xuất khẩu bị bán phá giá từ các nước thành viên khác theo quy định của GATT
1994 và được diễn giải bởi Hiệp định này. Các thành viên cũng phải đảm bảo luật, các quy định và các thủ tục hành chính về chống bán phá giá của mình phù hợp với Hiệp định này.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ
GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH ÁP DỤNG
1. Tình hình chung
Năm 1995, vòng đàm phán Uruguay kết thúc với sự ra đời của WTO và một số các hiệp đinh liên quan đến thương mại quốc tế, trong đó có Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Đây chính là cơ sở pháp luật quốc tế mà các nước thành viên WTO phải tuân theo khi thực thi và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. WTO đã thành lập một Uỷ ban về chống bán phá giá (Anti-dumping Committee) để kiểm soát việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phs giá của các nước thành viên, kịp thời cung cấp những thông tin cần thiết cho các nước thành viên. Các nước chưa là thành viên WTO cũng được khuyến nghị nên thực hiện theo quy định của WTO, trong đó có quy định liên quan đến chống bán phá giá.
Kể từ khi WTO ra đời, tính đến thời điểm cuối năm 2001, trên thế giới đã có tất cả 2132 cuộc điều tra về chống bán phá giá và có tất cả là 1066 lần áp dụng thuế chống bán phá giá (chiếm 50% tổng số cuộc điều tra). Điều này thể hiện, không phải tất cả các cuộc điều tra về chống bán phá giá đều có kết luận dẫn đến việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Các loại mặt hàng chịu thuế chống bán phá giá thường là các sản phẩm dệt may, giầy dép, sắt thép, kim loại và một số sản phẩm công cơ khí, v.v...
Trên thực tế, các nước áp dụng thuế chống bán phá giá thường bị nước xuất khẩu hàng hoá là đối tượng chịu thuế chống bán phá giá khởi kiện đến WTO, cụ thể là Cơ quan Giải quyết tranh chấp. Các vụ việc giải quyết tranh chấp về việc chống bán phá giá luôn là vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cãi. Đôi khi, kết quả thường dẫn đến các hành vi trả đũa trong thương mại, gây nhiều tranh cãi. Đôi khi, kết quả thường dẫn đến các hành vi trả đũa trong thương mại, gây ra nhiều mâu thuẫn, ảnh hưởng xấu đến tình hình thương mại
chung trên thế giới. Vì vậy, các quốc gia thường rất thận trọng khi quyết định việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá vào nước mình.
Trong thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá trên thế giới, đã có nhiều nước áp dụng biện pháp này trước khi WTO ra đời. Căn cứ thống kê từ năm
1990, việc áp dụng thuế chống bán phá giá hiện nay luôn thể hiện sự tiến bộ và xu hướng phát triển của các nước đang phát triển so với các nước phát triển. Điều này được thể hiện bằng biểu đồ dưới đây:
Xu hướng điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá
300
250
200
150
145
180
256
162
137
114
148
118 128
185
171
241
192
320
163
ĐPT
PT
100
70
50 48
0 20
83
73 73
122
115
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Nguồn: Báo cáo của Ban Thư ký WTO và Uỷ ban Chống bán phá giá
WTO
Một điểm cần quan tâm là không chỉ có các nước phát triển áp dụng thuế chống bán phát giá đối với các nước đang phát triển và ngược lại. Các nước phát triển còn áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước phát triển khác và điều này cũng xảy ra tương tự đối với các nước đang phát triển.
2. Tình hình áp dụng của các nước phát triển
Kể từ năm 1995 cho đến cuối năm 2001, có 12 nước phát triển đã tiến hành 899 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 502 lần áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá.
Cũng trong thời gian đó, hàng hoá xuất khẩu của 32 nước phát triển lại là đối tượng của 745 cuộc điều tra chống bán phá gía và chịu 430 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước nhập khẩu.
Trong số các nước phát triển, Mỹ và EU luôn là đi đầu trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá, nhưng cũng không tránh khỏi là đối tượng bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước khác. Mỹ đã tiến hành 255 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 169 lần áp dụng thuế chống bán phá giá, tuy nhiên chỉ 57 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. EU cũng gần tương đương Mỹ với 246 cuộc điều t._.t nam đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO và đang tiến hành xây dựng chính sách thương mại phù hợp với quy định của WTO. Song song với việc loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan, ta cần nghiên cứu để đưa vào áp dụng các biện pháp bảo hộ mới được WTO cho phép sử dụng như: thuế chống phá giá, tự về, hạn ngạch thuế quan.
Điều 9 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/05/1998 cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt nam. Quyết định số
46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04/04/2001 cũng quy định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001.
2. Tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước
Áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ tạo ra sự bảo hộ cao hơn đối với các nhà sản xuất sản phẩm tương tự ở trong nước. Mức bảo hộ tăng lên bằng biên độ phá giá, hay là sự chênh lệch giữa giá bán của sản phẩm đó tại nước xuất khẩu và giá xuất khẩu (GTTT-GXK). Do đó, nhà sản xuất hàng hoá tương tự ở trong nước không thể bán sản phẩm của mình ở mức giá cao hơn giá bán của sản phẩm đó ở nước xuất khẩu cộng thêm các chi phí liên quan tới xuất khẩu như bảo hiểm, vận tải, môi giới ... nhân với thuế nhập khẩu.
Thực tế cho thấy chỉ có các ngành sản xuất có quy mô đáng kể, có sự kiên kết khá chặt chẽ, có sức mạnh chính trị nhất định mới có thể phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của chính phủ để áp dụng thành công thuế chống bán phá giá. Như vậy, trong ngắn hạn việc áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ góp phần duy trì sản xuất của những ngành đó, qua đó tạo ra sự ổn định chính trị, giảm thất nghiệp và sự phá sản của một số nhà sản xuất.
Mặc dù áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ có lợi cho nhà sản xuất trong nước do bán được sản phẩm với giá cao hơn nhưng sẽ gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng. Nhiều nghiên cứu về khía cạnh kinh tế của hiện tượng bán phá giá cho rằng bán phá giá là một hiện tượng kinh tế phổ biến và bình thường, cả trong trường hợp giá bán trong nước thấp hơn giá xuất khẩu tức là có sự phân biệt đối xử về giá, cũng như trường hợp giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất, kể cả chi phí cố định. Lợi ích tăng lên đối với các nhà sản xuất trong nước không đủ bù đắp thiệt hại của người tiêu dùng, hay nói cách khác là thiệt hại chung đối với toàn xã hội.
Ngoài ra, áp dụng thuế này cũng sẽ gây ra thiệt hại đối với những nhà sản xuất sử dụng sản phẩm liên quan làm nguyên liệu cho sản xuất các hàng hoá khác. Ví dụ rõ ràng là các nhà chế tạo ô tô Hoa Kỳ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh với các đối thủ Châu Âu và Nhật bản do họ phải sử dụng thép với giá cao hơn khi chính phủ áp dụng thuế chống bán phá giá để tăng cường bảo hộ các nhà sản xuất thép.
Thuế chống bán phá giá cũng có thể làm giảm tính cạnh tranh dài hạn. Thật vậy thuế này chỉ pháp dụng trong một giai đoạn nhất định. Do nhiều nguyên nhân, các nhà sản xuất nước ngoài có thể hạ được chi phí sản xuất và không bán phá giá nữa. Trong trường hợp này giá xuất khẩu có thể không đổi, thậm chí ngày càng thấp đi. Nếu các nhà sản xuất trong nước không nhận thức rõ điều này mà chậm đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất ... quá dựa dẫm vào sự bảo hộ cao hơn do áp dụng thuế này mang lại thì về dài hạn họ sẽ mất đi khả năng cạnh tranh với các nhà sản xuất hàng hoá tương tự của nước xuất khẩu.
Các doanh nghiệp được bảo hộ cần nhận thức sau một giai đoạn nào đó, thường là vài năm, hiện tượng bán phá giá có thể biến mất nhưng hàng nhập khẩu vẫn ngày càng rẻ, do đó phải nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh càng sớm càng tốt.
3. Dự báo tình hình phát triển kinh tế Việt Nam khi áp dụng thuế chống bán phá giá
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đang chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Sau hơn mọt thập kỷ phát triển kinh tế khá ngoạn mục, Việt nam đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2001 - 2010 với mục tiêu tăng gấp đôi GDP sau mười năm và đến năm 2020 Việt nam sẽ là nước công nghiệp. Đường lối phát triển này của Việt nam có liên quan rất lớn tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá.
Trong tương lai sẽ xuất hiện ngày càng nhiều ngành sản xuất hàng hoá lớn mạnh. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển, những ngày này là những ngành non trẻ với những đặc điểm điển hình là đầu tưu vào sản xuất lớn nhưng chưa thu hồi vốn, giá thành cao. Ngoài ra, là nước đi sau nên phần lớn những ngành này là những ngành sử dụng nhiều lao động.
Trong những năm qua đã hình thành một số ngành sản xuất như vậy. Trong lĩnh vực công nghiệp là những ngành như dệt may, da giầy, sắt thép, xi măng, phân hoá học, ... Trong lĩnh vực nông nghiệp là một số ngành trồng trọt như mía đường, gạo, cà phê, cao su thiên nhiên, hạt tiêu .. Trong lĩnh vực thuỷ sản là nuôi tôm, nuôi cá. Có thể thấy rằng những ngành sản xuất Việt nam có lợi thế so sánh cao như lúa gậohy muôi cá thì khả năng bị nước ngoài áp dụng thuế chống bán phá giá khá lớn. Ngược lại, những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ tương đối tiên tiến như sắt thép, xi măng lại được bảo hộ rất cao bằng các công cụ thuế quan và hạn chế định lượng. Do đó, mặc dù có nhiều khả năng nước ngoài đã án phá giá vào Việt nam một số mặt hàng, chẳng hạn sắt thép hay xi măng nhưng nhu cầu sử dụng công cụ thuế chống bán phá giá chưa xuất hiện.
Trong những năm tới tình hình sẽ thay đổi. Một mặt, nhiều ngành sẽ xuất hiện với quy mô sản xuất hàng hoá như công nghiệp hoá dầu, điện tử, chăn nuôi lợn, chế biến sữa, chế biến nông sản ... Mặt khác, do các cam kết với các tổ chức kinh tế thương mại quốc tế và khu vực, Việt nam sẽ dần dần phải cắt giảm và tiến tới loại bỏ các biện pháp hạn chế định lượng. Phần lớn những ngành này có sức cạnh tranh chưa cao nên nhu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá để tăng cường bảo hộ sẽ ngày càng lớn.
Ngoài ra, đường lối lâu dài của Việt nam là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Doanh nghiệp Nhà nước vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong một số lĩnh vực sản xuất hàng hoá, nhưng các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển nhanh về số lượng cũng như quy mô.
Điều này đặt ra vấn đề triển khai áp dụng thuế chống bán phá giá như thế nào để đảm bảo được lợi ích cao nhất cho toàn xã hội. Rõ ràng là các doanh nghiệp lớn có sức mạnh chính trị đáng kể nên có nhiều cơ hội hơn trong việc vận động các cơ quan có thẩm quyền điều ta và áp dụng thuế chống bán phá giá cho các sản phẩm của họ. Nhưng với hàng trăm doanh nghiệp tư nhân, trong nhiều trường hợp là hàng vạn hộ nông dân thì sức mạnh chính trị của họ nhiều khi lại không cao. Do đó, cần có cơ chế thực thi thích hợp để có thể bảo hộ được nhóm các nhà sản xuất này.
4. Một số vấn đề liên quan tới áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt nam
Như đã phân tích ở trên, khi áp dụng thuế chống bán phá giá thì lợi ích chúng về mặt kinh tế của toàn xã hội có thể bị giảm. Do đó, vấn đề đầu tiên đặt là có nên áp dụng thuế này không ngay cả khi các điều kiện cần thiết để áp dụng thuế này được tuân thủ. Nói cách khác, ngay cả khi đã có đuể các điều kiện để áp dụng thuế chống bán phá giá theo các quy định của Hiệp định về thuế chống bán phá giá của WTO, cơ quan chắc năng vẫn cần cân nhắc mọi yếu tố liên quan để quyết định có nên áp dụng thuế này không. Ví dụ, thịt cừu của New Zealand bị bán phá giá vào Việt nam và gây thiệt hại cho một số nông dân nuôi cừu. Nhưng một mặt Chính phủ thấy rằng hiệu quả của việc nuôi cừu ở Việt nam rất thấp nên cần khuyến khích những nông dân đó nuôi dê, mặt khác Chính phủ đang khuyến khích phát triển du lịch, trong đó việc cung cấp thịt cừu chất lượng cao với giá thấp là một yếu tố thúc đẩy du khách vào Việt nam. Trong trường hợp đó nhất thiết phải áp dụng thuế chống bán phá giá với thiệt cừu nhập khẩu từ New Zealand.
Thứ hai, hiện nay Việt nam chưa có văn bản pháp lý làm cơ sở áp dụng thuế chống bán phá giá. Trong bối cảnh nhiều ngành sản xuất hàng hoá đang phát triển khá nhanh, việc áp dụng thuế chống bán phá giá có thể là cần thiết để bảo hộ một số nhà sản xuất nhất định. Do đó, Việt nam cần nhanh chóng xây dựng và ban hành văn bản pháp lý về thuế chống bán phá giá dựa trên
Hiệp định tương ứng của WTO. Để có thể triển khai được công cụ này trên thực tế, văn bản pháp lý cần phải có những quy định rất cụ thể về các cơ quan thực thi, đặc biệt là các cơ quan điều tra phá giá và cơ quan đánh giá đặc biệt.
Thứ ba, song song với việc ban hành văn pháp lý về thuế chống bán phá giá, Việt nam cần nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực ở nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan tới áp dụng thuế này. Chẳng hạn, cần có kế hoạch đào tạo sớm các luật sư chuyên về thương mại quốc tế để họ có thể tham gia giải quyết tranh chấp liên quan tới việc áp dụng thuế này. Thật vậy, việc áp dụng thuế chống bán phá giá phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của WTO. Do đó có nhiều tình huống Việt nam phải đương đầu với cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này. Nếu không có sự đào tạo các luật sư có đủ năng lực thì Việt nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan tới áp dụng thuế chống bán phá giá.
Thứ tư, Việt nam cũng cần củng cố và khuyến khích các nhà sản xuất thành lập các hiệp hội. Thông qua hiệp hội các sản xuất sẽ dễ dàng hơn trong việc nộp đơn yêu cầu cơ quan chức năng khởi đầu điều tra phá giá. Ngoài ra, chính các hiệp hội mới có nhiều điều kiện để cung cấp và thẩm định nhiều thông tin liên quan tới việc nhà xuất khẩu bán phá giá, giá bán trong nước, chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu... Nhà nước cần có kế hoạch phổ biến cho các hiệp hội về các vấn đề liên quan tới thuế chống bán phá giá.
Cuối cùng, Việt nam cần tích cực theo dõi những diễn biến của Vòng đàm phán Doha về “Các quy tắc mới” (New Rules), trong đó khả năng các thành viên WTO sẽ xem xét, sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiệp định về thuế chống bán phá giá. Đồng thời Việt nam cũng cần nghiên cứu về xu hướng áp dụng thuế này trên thế giới để có thể có những quyết định với các đối tác thương mại, vừa cân bằng được lợi ích của nhà xuất cũng như người tiêu dùng trong nước, vừa không gây căng thẳng trong quan hệ thương mại, ngoại giao với các nước trong khu vực và trên thế giới.
III. CÁC KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP LIÊN QUAN TỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI VIỆT NAM
1. Kiến nghị về việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã vạch ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc dân trên cơ sở phát huy tối đa nội lực. Chính sách thương mại của Việt Nam đang có những thay đổi sâu sắc theo đúng lối đó, cụ thể là chính sách thương mại ngày càng tự do hoá và phù hợp dần với các nguyên tắc và quy định của luật thương mại quốc tế.
Về thuế quan, thuế suất với hầu hết các mặt hàng sẽ giảm dần. Đồng thời, Việt Nam cũng phải cam kết ràng buộc với phần lớn biểu hiện thuế nhập khẩu. Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam không thể tăng thuế suất một cách tuỳ tiện.
Về các hàng rào thuế quan, Việt Nam có thể duy trì các hàng rào phi thuế quan không phù hợp với thông lệ quốc tế trong vòng vài năm nữa. Nhưng chắc chắn sau đó các hàng rào này sẽ phải loại bỏ. Khi đó, chỉ có thuế quan là công cụ bảo hộ trực tiếp cho một số ngành sản xuất hàng hoá trong nước hiện nay sức cạnh tranh còn kém.
Ngoài ra, Việt Nam đang tham gia khá chủ động và tích cực vào các khu vực thương mại quốc tế và khu vực, kể cả khu vực mậu dịch tự do (FTA). Việt Nam đã là thành viên của khu vực thương mại tự do ADEAN (AFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái bình dương (AFEC), Diễn đàn hợp tác á - âu (ASEM). Sự tham gia các tổ chức thương mại này sẽ gắn nền kinh tế Việt Nam ngày càng chặt chẽ với các nền kinh tế khác.
Việt Nam cũng đang cùng các nước ASEAN khác đàm phán thành lập hai khu vực thương mại tự do mới. Đó là Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - CER giữa ASEAN với Australia và Zealand và Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc.
Song song với việc tham gia các tổ chức thương mại khu vực hoặc đàm phán để thành lập các khu vực thương mại tự do mới, Việt Nam đang tích cực đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Như vậy có thể thấy rằng trong vòng năm đến mười năm nữa chính sách thương mại của Việt
Nam tương đối tự do và phù hợp với các chuẩn mực của luật thương mại quốc
tế.
Rõ ràng là từ nay trở đi các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước, cả thuế quan lẫn phi thuế quan - đặc biệt là các biện pháp hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu không tự động, sẽ ngày càng giảm. Việt Nam cần phải áp dụng các công cụ mới vừa có tác động bảo hộ sản xuất trong nước theo hướng tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng vừa phù hợp với luật thương mại quốc tế. Thuế chống bán phá giá là một công cụ như vậy.
Bán phá giá là một hiện tượng kinh tế bình thường, không bị cấm theo quy định của luật thương mại quốc tế. Khi mà Việt Nam phải cắt giảm các biện pháp hạn chế định lượng thì khả năng hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam sẽ càng tăng. Vì vậy, Việt Nam cần phải nhanh chóng áp dụng thuế chống bán phá giá. Đây vừa là công cụ bảo hộ hợp pháp cho sản xuất trong nước vừa đảm bảo sự tranh tranh bình đẳng với các nhà sản xuất của nước ngoài.
2. Các giải pháp liên quan tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại
Việt Nam.
Như phần trên đã phân tích, trong việc bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam cần cân nhắc tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá phù hợp với các quy định liên quan của WTO, Việt Nam cần nhanh chóng ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thuế chống bán phá giá, xây dựng bộ máy thực thi có hiệu quả và đặc biệt là phải làm tốt công tác tuyên truyền cho các doanh nghiệp nắm rõ về biện pháp này.
2.1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về áp dụng thuế chống bán phá giá
Sự cần thiết ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Thuế chống bán phá giá đã được áp dụng trên thế giới cách đây gần 100 năm và ngày càng được áp dụng nhiều không những ở các nước phát triển mà cả ở các nước đang phát triển.
Việt nam đã cân nhắc tới việc áp dụng thuế này. Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩ số 04/1998/HQ 10 ngày 20/5/1998 đã cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu được bán phá giá vào Việt Nam. Quyết định của Thủ tướng chính phủ số
46/2001/QĐ - TTg ngày 4/4/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 - 2005 cũng quy định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001.
Mặc dù vậy, những quy định tại hai văn bản này còn quá sơ sài. Muốn áp dụng được thuế chống bán phá giá phù hợp với quy định của WTO Việt Nam cần sớm xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thuế chống bán phá giá trên cơ sở các quy định của Hiệp định về Chống bán phá giá của WTO, có tham khảo tới luật và thực tiễn áp dụng của một số thành viên WTO.
Căn cứ vào thực tiễn ban hành các văn bản pháp quy ở Việt Nam thì hình thức Pháp lệnh sẽ thích hợp nhất đối với văn bản pháp quy về thuế chống bán phá giá.
Phạm vi, đối tượng điều chỉnh
Phạm vi điều chỉnh của pháp lệch về thuế chống bán phá giá bao gồm: quy định các điều kiện, thủ tục và các vấn đề liên quan để có thể đánh thuế chống ban phá giá đối với hàng nhập khẩu được bán phá giá vào Việt Nam.
Đối với điều chỉnh của Pháp lệnh là hàng nhập khẩu vào Việt Nam được bán phá giá ảnh hưởng bất lợi đến các nhà sản xuất hàng hoá tương tự tại Việt Nam.
Nội dung
Các quy định chung: Phạm vi áp dụng, đối tượng điều chỉnh cảu thuế chống bán phá giá, các quy định cần thiết và nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá.
Điều tra và tính biên độ phá giá: Xác định biên độ phá giá của mặt hàng nhập khẩu, quyết định tiếp tục điều tra hay ngừng lại.
Điều tra thiệt hại: Xác định thiệt hại đối với ngành sản xuất hàng hoá tương tự trong nước khi phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu bị bán phá giá; xác định mối lien hệ giữa thiệt hại và việc bán phá giá.
Trình tự áp dụng thuế chống bán phá giá: áp dụng biện pháp tạm thời, đánh thuế chính thức, truy thu thuế, thời hạn đánh thuế, hoàn thuế.
Tổ chức bộ háy thực hiện:
+ Cơ quan làm đầu mối quản lý Nhà nước về việc chống bán phá giá: tiếp nhận đơn yêu cầu điều tra, tiến hành điều tra và ra kết luận về mức thuế chống bán phá giá.
+ Cơ quan thu thuế chống bán phá giá.
+ Các cơ quan phối hợp: trách nhiênh và quyền hạn cụ thể.
Dự kiến bố cục của văn bản
+ Chương I: Các quy định chung.
+ Chương II: Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá.
+ Chương III: Áp dụng thuế chống bán phá giá.
+ Chương IV: Rà soát việc áp dụng thuế chống bán phá giá.
+ Chương V: Quản lý Nhà nước về thuế chống bán phá giá.
+ Chương VI: Các điều khoản thi hành.
Dự kiến thời hạn ban hành
Các quy định liên quan tới thuế chống bán phá giá rất phức tạp. Ngoài ra, Việt Nam đang đàm phán gia nhập WTO, do đó việc soạn thảo pháp lệnh cần hết sức cẩn thận và tỷ mỷ.
Với nguồn lực cán bộ của Việt Nam có thể tham gia vào soạn thảo pháp kệnh như hiện nay thời gian cần thể để xây dựng sẽ không thể ngắn hơn 18 tháng.
Phê chuẩn
Việt Nam đang tiến hành cải cách sâu rộng mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội nên chương trình xây dựng luật pháp của Quốc hội rất đồ sộ. Quốc hội có thể đặt ưu tiên cao cho các văn bản pháp quy dạng Luật hơn là Pháp lệnh. Do đó, Chính phủ cần thuyết minh sự cần thiết của Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá để Pháp lệnh này có thể được Quốc hội khoá XI phê chuẩn trong năm
2004.
Kinh phí
Theo quy định hiện hành thì kinh phí dành cho việc nghiên cứu, xây dựng Pháp lệnh khá thấp. Trong khi đó công việc cần có sự tham gia của nhiều cán bộ từ các cơ quan khác nhau và hầu hết họ đều rất bận. Vì vậy cần tim ra các nguồn kinh phí hỗ trợ khác, chẳng hạn từ các nguồn nghiên cứu khoa học hay sự tài trợ của các Hiệp hội sản xuất.
Ngoài ra cần tranh thủ sự ủng hộ của nhà tài trợ quốc tế. Hiện nay nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế ủng hộ mãnh mẽ tiến trình cải cách và hội nhập kr quốc tế của Việt Nam. Nhận thức cơ hội này, Việt Nam cần tích cực tìm kiếm sự hỗ trợ kỹ thuật từ các nguồn lực ngoài nhằm đào tạo cán bộ và xây dựng chính sách về chống bán phá giá cũng như xây dựng văn bản pháp quy về thuế chống bán phá gía.
2.2. Tổ chức bộ máy thực thi
Trên thực tế Pháp lệnh về thuế chống bán phá gía đã khó nhưng thực thi có còn khó hơn. Các chương trước đã phân tích chi tiết về sự phức tạp của hoạt động đièu tra hàng nhập khẩu bị bán phá giá theo quy định tại Hiệp địng về Chống bán phá giá của WTO cũng như điều tra thiệt hại đôí với các nhà sản xuất sản phẩm tương tự trong nước do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra. Cần phải có bộ máy thực thi hiệu quả thì mới đạt đồng chí mục tiêu của
pháp lệnh cũng như trách được các tranh chấp quốc tế do việc áp dụng thuế
chống bán phá giá không phù hợp với Hiệp định về chống bán phá giá.
Mối liên quan giữa bộ máy thực thi chống phá giá và tự vệ
Tháng 6 năm 2002 Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh về tự vệ đối với hàng hoá nhập khẩu. Song song với xây dựng Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá, Việt Nam cũng đang xây dựng Pháp lệnh về thuế chống trợ cấp. Đây là những biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo hộ nhà sản xuất trong nước với điều kiện chung là hàng nhập khẩu gây ra hoặc có nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với các nhà sản xuất hàng hoá tương tự trong nước.
Do cần cân nhắc tới bộ máy duy nhất thực thi cả ba biện pháp này, trong hoàn cảnh Việt Nam đang cải cách hành chính, tinh giảm bộ máy cơ quan quản lý Nhà nước, có lẽ khó có thể thành lập một cơ quan chuyên trách. Hơn nữa, kim ngạch nhập khẩu hàng năm của Việt Nam cũng chưa quá lớn nên nếu lập một cơ quan chuyên trách có thể không hiệu quả.
Như vậy có thể thành lập một bộ máy không chuyên trách phụ trách cả ba biện pháp. Các thành viêc của bộ phận này là các cán bộ có chuyên môn sâu về thương mại quốc tế, luật quốc tế, kế toán, ...
Điều tra phá giá
Điều tra phá giá rất phức tạp và tốn kém nguồn lực. Các cán bộ tham gia điều tra phá giá cần có kiến thức sâu về kinh tế vi mô, kinh tế ngành, kế toán và ngoại ngữ. Đồng thời cần phải hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng tương tự ở trong nước, trong quá trình điều tra hàng nhập khẩu được bán phá giá như thế nào.
Điều tra thiệt hại
Cét về lợi ích của những ngành sử dụng hàng nhập khẩu hay người tiêu dùng thì hàng nhập khẩu bị bán pha giá làm tăng lợi ích của họ. Như vậy chỉ nên áp dụng thuế chống bán phá giá khi hàng nhập khẩu đó gật thiệt hại nghiêm trọng đối với các nhà sản xuất mặt hàng tương tự ở trong nước.
Tuy nhiên, việc đánh giá thiệt hại vừa khó về mặt kỹ thuật lại vừa phức tạp về mặt xã hội. Chắc chắn là các nhà sản xuất sẽ tìm mọi cách vận động để
cơ quan điều tra thiệt hại thổi phổng ít nhiều thiệt hại do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra cho họ. Trong thực hiện ở Việt Nam tham nhũng còn khá phổ biến thì việc điều tra thiệt hại lại càng phức tạp.
Nếu tách cơ quan điều tra thiệt hại độc lập với điều tra bán phá giá thì sẽ đảm bảo khách quan hơn nhưng tổ chức lại cồng kềnh. Như vậy Việt Nam nên tiếp cận theo hướng chỉ có một cơ quan chung vừa điều tra bán phá giá vừa điều tra thiệt hại. Đồng thời cần có những quy định chặt chẽ và tuyển chọn cán bộ có đạo đức tốt để đảm bảo công việc điều tra thiệt hại.
Cơ quan thực thi
Việt Nam nên học hỏi kinh nghiệm của Thái Lan liên quan tới cơ quan thực thi Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá. Cơ quan này có thể là một Uỷ ban do Bộ trưởng Thương mại đứng đầu, các thành viên là các thứ trưởng Bộ tài chính, Công nghiệp, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Xây dựng, Giao thông vận tải và một số chuyên gia về luật thương mại quốc tế, kế toán, kinh tế.
Kết luận
Muốn áp dụng được thuế chống bán phá giá cần có sự quan tâm phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan trung ương tới địa phương và doanh nghiệp.
Cần nhanh chóng tổ chức các khoá đào tạo về áp dụng thuế chống bán phá giá cho đông đảo các bộ ngành. Nội dung của các khoá đào tạo này sẽ bao gồm những vấn đề kinh tế liên quan tới bán phá giá, những quy định về thuế chống bán phá giá của WTO, kinh nghiệm áp dụng thuế chống bán phá giá của một số nước và những vấn đề đang nổi lên tại Vòng đàm phán Doha của WTO liên quan tới vấn đề chống bán phá giá.
Các cơ quan nghiên cứu cần triển khâi các đề tài về chống bán phá giávà tư vấn cho nhà hoạch định chính sách về những ưu điểm cũng như nhược điểm của hệ thống chính sách hiện tại liên quan tới chống bán phá giá.
Đồng thời, các cơ quan nghiên cứu cũng phải đi tiên phong trong việc
đưa ra các kiến nghị về áp dụng thuế chống bán phá giá trong các trường hợp
cụ thể, đặc biệt là khi cơ quan chức năng đã quyết định điều tra. Những kiến nghị cần cụ thể như có nên áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu đang được điều tra hay không, lợi ích và thiệt hại đối với mỗi nhóm là bao nhiêu, thuế suất có đúng bằng mức biên độ phá giá không hay nên thấp hơn, những phản ứng quốc tế khi áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ như thế nào,.v.v..
Cần tổ chức, tuyên truyền cho các doanh nghiệp có những hiểu biết nhất định về quyền của họ đối với việc tiến hành điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá, nghĩa vụ tham gia của họ trong tiến trình điều tra,...
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần biết rõ nguy cơ hàng xuất khẩu của họ cũng có bị nước nhập khẩu áp dụng thuế chống bán phá giá. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất/ xuất khẩu một loại mặt hàng nên hợp tác với nhau dưới hình thức hiệp hội để thường xuyên trao đổi thông tin, tìm hiểu biện pháp đối phó khi mặt hàng mình xuất khẩu bị nước ngoài điều tra phá giá, đồng thời các doanh nghiệp cũng cần hợp tác chặt chẽ với Chính phủ để tiến hành những vận động cần thiết khi hàng xuất khẩu của Việt Nam có nguy cơ bị điều tra/ áp dụng thuế chống bán phá giá.
Lời mở đầu 1
CHƯƠNG I 3
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ÁP DỤNG THUẾ 3
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 3
I. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA KINH TẾ CỦA THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 3
1. Lịch sử và nguồn gốc của bán phá giá 3
2. Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá: 4
3. Ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá 5
4. Tại sao bán phá giá chiếm thị trường ở nước ngoài lại vẫn gia tăng 8
5. Những nguyên nhân của hành động bán phá giá 12
5.1 Bán phá giá nhằm đạt mục tiêu chính trị thao túng các nước khác 12
5.2 Do có các khoản tài trợ của Chính phủ 13
5.3 Bán phá giá cũng có thể xảy ra trong trường hợp một nước có quá nhiều hàng tồn kho không thể giải quyết theo cơ chế giá bình thường Trong nền kinh tế hàng hóa trước đây, khi gặp khủng hoảng thừa, các 15
5.4 Bán phá giá được sử dụng như công cụ cạnh tranh 15
5.5 Một nước có thể do nhập siêu lớn, cần phải có ngoại tệ để bù đắp cho thiếu hụt này 15
5.6 Một số nước làm ra được một số sản phẩm với giá thành rất thấp là nhờ sử dụng lao động trẻ em tiền lương thấp và sử dụng lao động của tù nhân làm hàng xuất khẩu 15
5.7 Ở Việt Nam có hiện tượng một số công ty kinh doanh hàng nhập khẩu trả chậm, đã bán phá giá nhằm dùng nguồn vốn nước ngoài để kinh doanh mặt hàng khác và hàng nhập lậu với khối lượng lớn 16
6. Vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất 17
II. GIỚI THIỆU HIỆP ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO 18
1. Xác định việc bán phá giá 18
1.1 Định nghĩa phá giá 18
1.2 Nguyên tắc xác định phá giá: 19
1.3 Tính biên độ phá giá 19
2. Xác định thiệt hại 21
2.1. Định nghĩa thiệt hại: 21
2.2. Nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước 23
3. Ngành sản xuất trong nước 23
4. Nộp đơn yêu cầu tiến hành chống phá giá 23
5. Thu thập thông tin 25
6. Áp dụng biện pháp tạm thời 26
7. Cam kết giá 27
8. Áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá 28
9. Truy thu thuế 30
10. Rà soát 31
11. Thông báo công khai và giải thích các kết luận 32
12. Cơ chế khiếu kiện độc lập 33
13. Chống bán phá giá thay mặt nước thứ ba 33
14. Thành viên đang phát triển 33
15. Uỷ ban chống bán phá giá 33
16. Trao đổi và giải quyết tranh chấp 34
17. Điều khoản cuối cùng 34
CHƯƠNG II 35
THỰC TRẠNG CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ 35
GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 35
I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH ÁP DỤNG 35
1. Tình hình chung 35
2. Tình hình áp dụng của các nước phát triển 36
3. Tình hình áp dụng tại các nước đang phát triển 37
II. ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA BẮC MỸ 38
1. Văn bản pháp quy về chống bán phá giá của Mỹ 38
2. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá 38
2.1 Cơ sở tiến hành điều tra 39
2.2 Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá 39
2.3 Kết thúc điều tra 41
3. Nguyên tắc xác định giá trị thông thường và giá xuất khẩu 41
4. Áp dụng thuế chống bán phá giá 41
4.1. Thuế tạm thời 41
4.2. Tính thuế và thu thuế chống bán phá giá 42
4.3. Rà soát việc áp dụng thuế chống bán phá giá 42
5. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Mỹ 42
III. ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU) 43
1. Tình hình áp dụng trong EU 43
2. Cơ quan điều tra và thủ tục điều tra 44
2.1. Các cơ quan Chức năng 44
2.2. Thủ tục điều tra 45
3. Nguyên tắc xác định phá giá và thiệt hại 47
3.1. Xác định giá trị thông thường 47
3.2. Xác định giá xuất khẩu 47
3.3. Biên độ phá giá 48
3.4. Xác định thiệt hại 48
3.5. Sản phẩm tương tự 49
3.6. Ngành sản xuất trong nước 49
3.7. Điều tra phá giá từ các nước có nền kinh tế phi thị trường 49
4. Cách tính thuế và truy thu thuế 50
4.1 Hình thức đánh thuế 50
4.2 Biên độ thiệt hại 51
4.3 Truy thu thuế 52
4.4 Rà soát 52
IV. KINH NGHIỆM CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA TRUNG QUỐC 54
1. Tình hình chung 54
2. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá 54
2.1. Các cơ quan chức năng 54
2.2. Thủ tục điều tra 54
3. Xác định phá giá và thiệt hại 56
3.1. Xác định giá xuất khẩu 56
3.2. Giá trị thông thường 56
3.3. Mức bán phá giá 56
3.4. Xác định thiệt hại 57
4. Cách tính thuế và truy thu thuế 57
4.1. Thu thuế: 57
4.2. Hoàn thuế 57
4.3. Truy thu thuế 58
4.4. Rà soát 58
5. Trợ cấp và biện pháp chống trợ cấp 58
6. Thực tiễn và nguyên nhân Trung Quốc bị áp dụng nhiều nhất biện pháp chống bán phá giá trên thị trường Quốc tế 58
CHƯƠNG III 64
VẤN ĐỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI VIỆT NAM 64
I. THỰC TRẠNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG NHẬP KHẨU CỦA NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 64
1. Thực trạng bán phá giá hàng nhập khẩu của nước ngoài ở Việt nam 64
1.1. Ngành cơ khí 64
1.2. Ngành hàng sản xuất xe đạp 65
1.3. Ngành hàng sản xuất quạt điện 65
1.4. Điện tử 66
1.5. Ngành giấy 67
1.6. Ngành dệt may 68
1.7. Dược phẩm 68
2. Các vụ nước ngoài kiện doanh nghiệp Việt nam bán phá giá: Việc Hiệp hội các chủ trại nuôi cá Nheo Mỹ (CFA) kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá sản phẩm fillet cá Tra, cá Basa trên thị trường Mỹ 70
2.1 Khái quát diễn biến tình hình 71
2.1.1 Tìm hiểu khái niệm catfish và vấn đề xuất khẩu catfish sang thị trường Mỹ 72
2.1.2 Tình hình diễn biến vụ kiện các doanh nghiệp Việt nam bán phá giá sản phẩm fillet cá tra và cá basa trên thị trường Mỹ 76
2.2 Những lập luận nhằm phản bác nội dung đơn kiện của Hiệp hội các chủ trại nuôi cá Nheo Mỹ (CFA) tố cáo các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá sản phẩm fillet cá Tra và cá Basa trên thị trường Mỹ. Ngày 28/06/2002 Hãng luật Askin Gump là nguyên đơn, đại diện cho 8 81
2.2.1. Khái quát nội dung đơn kiện 81
2.2.2. Những lập luận nhằm phản bác lại nội dụng đơn kiện của phía Mỹ. 82
2.3 Kết luận và giải pháp từ phía các doanh nghiệp Việt Nam 92
2.3.1 Kết luận 92
2.3.2 Đề xuất áp dụng hạn ngạch đối với cá basa xuất khẩu sang Mỹ 93
II. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM 94
1. Các quy định hiện tại của Việt Nam liên quan đến thuế chống bán phá giá 94
2. Tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước 95
3. Dự báo tình hình phát triển kinh tế Việt Nam khi áp dụng thuế chống bán phá giá 96
4. Một số vấn đề liên quan tới áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt nam 98
III. CÁC KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP LIÊN QUAN TỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI VIỆT NAM 99
1. Kiến nghị về việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam 100
2. Các giải pháp liên quan tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại 101
2.1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về áp dụng thuế chống bán phá giá 101
2.2. Tổ chức bộ máy thực thi 104
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8181.doc