ChươngI:
Cơ sở lý luận của chiến lược xuất khẩu ở công ty kinh doanh quốc tế.
vai trò và Vị trí của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
Khái niệm và bản chất của xuất khẩu hàng hoá
Khái niệm xuất khẩu hàng hoá
Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế so sánh của từn
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1465 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng chiến lược marketing xuất khẩu mặt hàng gạo của Tổng Công ty lương thực miền Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g quốc gia trong phân công lao động quốc tế.
Theo cách khác chúng ta có thể định nghĩa xuất khẩu hàng hoá là : việc đưa hàng hoá ra thị trường nước ngoài để tiêu thụ nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng nước ngoài.
Bản chất của xuất khẩu hàng hoá
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Nó diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho tới hàng hoá tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị cho tới công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi nhuận cho các quốc gia tham gia.
Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất trong hoạt động thương mại quốc tế. Nó có thể diễn ra trong một hai ngày hoặc kéo dài hàng năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
Xuất khẩu hàng hoá là nguồn chính của thu nhập và chi tiêu quốc tế ở hầu hết các quốc gia .Trong số các công ty tham dự vào một số dạng hoạt động thương mại quốc tế, ngày càng có nhiều công ty hơn xâm nhập vào các hoạt động xuất khẩu hơn bất kỳ loại giao dịch nào khác.
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động đầu tiên của một công ty quốc tế vì nó đòi hỏi sự ràng buộc và sự rủi ro tối thiểu về những nguồn lực của công ty.
Xuất khẩu hàng hoá được tiếp tục ngay cả khi công ty đa dạng hoá phương thức hoạt động. Hay nói cách khác, trong một số trường hợp xuất khẩu có thể bị gián đoạn nhưng nó vẫn thường tiếp tục, hoặc bởi những hoạt động thương mại với các thị trường khác hoặc bước sang những hoạt động thương mại mới.
Quan điểm chủ đạo của Nhà Nước và vai trò của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
Quan điểm chủ đạo của nhà nước vễ xuất khẩu hàng hoá
Để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại với nước ngoài góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước, căn cứ vào luật tổ chức chính phủ ngày 39/09/1992, theo quy định của Bộ trưởng Bộ thương mại thì chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam rất ưu tiên cho công tác xuất khẩu của các doanh nghiệp. Các quy định và hướng dẫn chi tiết về việc này được ghi trong nghị định 57 CP ngày 30/07/1998.
Việc quản lý của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu được thực hiện theo nguyên tắc sau:
Tuân thủ luật pháp và các chính sách có liên quan của Nhà nước về sản xuất lưu thông và quản lý thị trường .
Tôn trọng các cam kết với nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế.
Đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp và đảm bảo sự quản lý của Nhà nước.
Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp phát triển và mở rộng thị trường mới, xuất khẩu các mặt hàng mà Nhà nước khuyến khích xuất khẩu.
Bộ thương mại cùng uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Bộ tài chính, ngân hàng Nhà nước, các Bộ có liên quan trình Chính phủ danh mục mặt hàng khuyến khích xuất khẩu, các chính sách và biện pháp để thực hiện các mục tiêu trên.
Nhằm khuyến khích xuất khẩu trường hợp các doanh nghiệp đã có giấy phép kinh doanh xuất khẩu, những mặt hàng ngoài phạm vi danh mục nghành hàng đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh xuất khẩu thì Bộ thương mại có trách nhiệm xem xét và giải quyết cụ thể từng hợp đồng xuất khẩu nhưng mặt hàng đó.
Đặc biệt trong văn kiện đại hội VIII Đảng ta đã xác định rõ: Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn trước hết phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông, lâm, ngư nghiệp, bảo đảm vững chắc yêu cầu an toàn lương thực cho xã hội, tạo nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị, phát triển các nghành nghề , làng nghề truyền thống và các nghành nghề mới bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp.
Vai trò của xuất khẩu hàng hoá
Đối với nền kinh tế quốc dân:
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yêu cho nhập khẩu, phụ vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Tại các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự phát triển và tăng trưởng là thiếu tiềm lực về vốn trong quá trình phát triển. Nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là cơ sở chính như mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của đất nước đó, vì đây là nguồn chính đảm bảo nước này có thể trả nợ được.
Xuất khẩu góp phần chuyển dịnh cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại.
Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta hoàn toàn phù hợp với su thế phát triển của kinh tế thế giơí.
Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu có thể được nhìn nhận theo các bước sau:
Xuất khẩu những sản phẩm của ta cho nước ngoài.
Xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà nước khác cần. Điều đó có tác dụng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nghành có liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi.
Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu và cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước.
Xuất khẩu tạo ra các tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước.
Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Đối với việc giải quyết công ăn việc làm, xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua việc sản xuất hàng xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao động. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhân dân.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động chủ yếu, cơ bản, là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy mối quan hệ khác như : du lịch quốc tế, bảo hiểm, vận tải quốc tế, tín dụng quốc tế .v.v. phát triển theo.Ngược lại sự phát triển của các nghành này lại là điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
Đối với một doanh nghiệp :
Ngày nay xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là xu hướng phát triển của các doanh nghiệp. Việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ đem lại các lợi ích sau:
Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về chất lượng và giá cả. Những yếu tố đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.
Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với bạn hàng trong và ngoài nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.
Xuất khẩu khuyến khích việc phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn như việc đầu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất, marketing…, cũng như sự phân phối và mở rộng trong việc cấp giấy phép.
Quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu.
Khái niệm và các loại chiến lược Marketing xuất khẩu.
Khái niệm:
Một cách đơn giản nhất, chiến lược được hiểu là những kế hoạch được thiết lập hoặc những hành động được thực hiện trong nỗ lực nhằm đạt tới các mục đích của tổ chức.
Như vậy, chiến lược được xem là những kế hoạch cho tương lai, tức là những chiến lược được dự định và những hạn động được thực hiện, tức là những chiến lược được thực hiện. Song, cho dù đó là chiến lược được dự định hay được thực hiện thì nó đều phải hướng tới việc đạt được các mục tiêu, mục đích của tổ chức.
Quản trị chiến lược là quá trình nghiên cứu các mục tiêu hiện tại cũng như tương lai, hoạch địch các mục tiêu của tổ chức. Đề ra, thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quyết định nhằm đạt được mục tiêu đó trong môi trường hiện tại hoặc tương lai. Như vậy, quản trị chiến lược là một quá trình.
Chiến lược Marketing xuất khẩu là logic Marketing xuất khẩu mà nhờ đó, đơn vị kinh doanh hy vọng đạt được các mục tiêu Marketing xuất khẩu của mình. Về nội dung chiến lược Marketing xuất khẩu bao gồm: các chiến lược xác định đối với thị trường mục tiêu, phối thức Marketing xuất khẩu và mức chi phí Marketing xuất khẩu.
Quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu là toàn bộ việc hoạch định các hoạt động Marketing xuất khẩu của doanh nghiệp từ việc đưa ra các mục tiêu cho tới việc tổ chức thực hiện thành công các mục tiêu đó. Có thể xem Quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu như một nghệ thuật thiết lập, thực hiện và đánh giá các quyết định Marketing xuất khẩu giúp cho chủ thể ra quyết định đạt được mục tiêu nhất định.
Thực hiện tốt công việc Quản trị chiến lược Marketing nói chung và Quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu nói riêng sẽ đem lại cho các doanh nghiệp nhiều vị thế, nhiều lợi ích. Tuy nhiên, để đạt được sự thành công và phát huy được tác dụng thì cần phải quán triệt các nguyên tắc sau:
Chiến lược phải phù hợp với định hướng thị trường và kênh lưu thông.
Xác định rõ các mục tiêu chiến lược và phải được quán triệt thông báo cho toàn thể mọi người trong doanh nghiệp nắm bắt và hiểu được mục tiêu kinh doanh ở từng thời kỳ và cả kế hoạch dài hạn.
Tuyệt đối nhất quán với các mục tiêu chiến lược đã đề ra ban đầu.
Phải liên kết chặt chẽ, thống nhất giữa chức năng Marketing với các chức năng khác của doanh nghiệp thương mại.
Cần phải kết hợp trực giác với phân tích dữ liệu thông tin. Nếu không quan tâm đến dữ liệu thì thực chất chỉ là quản trị bàng quan, không phải quản trị theo trực giác.Quản trị theo trực giác phải có sự rèn luyện, tích luỹ kinh nghiệm (kể cả thành công và thất bại), kết hợp với thông tin cập nhật thì các quyết định quản trị mới đem lại hiệu quả thực sự cho doanh nghiệp.
Nguyên tắc cuối cùng là phải biết thích nghi với sự thay đổi, chủ động và lượng hoá đủ các yếu tố biến động của thị trường thì quản trị chiến lược Marketing của công ty mới thành công.
Chiến lược dự định và chiến lược thực hiện:
Như đã đề cập ngắn gọn ở phần khái niệm của chiến lược, cần thiết phải có sự phân biệt giữa chiến lược dự định và chiến lược thực hiện: đó là những kế hoạch của nhà quả trị đề ra và những hành động mà họ thực hiện trong thực tế.
Biểu hình 1 : Chiến lược dự định và chiến lược được thực hiện
Chiến lược có cân nhắc kỹ
Chiến lược dự định
Chiến lược được thực hiện
Chiến lược không được thực hiện
Chiến lược nổi lên
Nguồn: H. Mintzberg and A. Water. “of Strategies. Delibery and Emergent”
Strategic Management Journal, 6, 1985.
Chiến lược dự định:
Với những mục đích và mục tiêu đã xác định, các nhà kinh doanh phải phát triển các kế hoạch hành động của tổ chức, qua đó đạt tới các mục tiêu và mục đích đã đề ra.Các chiến lược dự định là bộ tài liệu chứa đựng những thông tin mà tổ chức muốn thực hiện để đạt tới mục tiêu đã đề ra. Những thông tin này cũng như các chỉ dẫn cho những phương tiện và công cụ mà tổ chức sẽ sử dụng.
Thông thường các chiến lược dự định bao gồm các kế hoạch và các chính sách. Các kế hoach liên quan tới những hành động sẽ được thực hiện như tốc độ tăng trưởng, mở rộng thị phần, gia tăng cạnh tranh hoặc phát triển công nghệ và nguồn lực…
Như vậy, chiến lược dự định của một tổ chức bao gồm những hoạt động mà tổ chức dự định theo đuổi, thực hiện và những chính sách thể hiện những quy định, những chỉ dẫn cho việc thực hiện những công việc do kế hoạch đặt ra.
Chiến lược thực hiện:
Trên thực tế, rất nhiều các chiến lược được ra nhưng không thực hiện. Điều này có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân.
Trước hết, các chiến lược dù có tính toán và cân nhắc kỹ thì nó vẫn là sản phẩm của con người, một khi không tính toán hết các nhân tố ảnh hưởng thì chiến lược dự định sẽ không thể tồn tại được dưới thử thách khắc nghiệt của mội trường cạnh tranh khốc liệt.
Thứ hai, thực tiễn quản trị chỉ ra rất nhiều các tổ chức quan tâm tới hoạch định chiến lược, họ đề ra các chiến lược rất hay, tốn rất nhiều công sức, thời gian và tiền bạc song lại không quan tâm tới tổ chức thực hiện nó.
Thứ ba, do không có kế hoạch thực hiện một cách có hiệu quả nên có nhiều chiến lược dự định rất tốt đẹp cũng sẽ không được triển khai trong thực tiễn, hoặc thất bại trong quá trình thực hiện – biến những ý định những ý tưởng thành hiện thực quả là một việc làm khó khăn.
Từ những chiến lược được thực hiện ta thấy việc giám sát môi trường và phản ứng nhanh chóng, có hiệu quả với sự thay đổi của môi trường, việc phát triển tổ chức, phát triển người lao động và chức năng thực sự của người làm chủ, thực sự làm việc hết lòng và làm việc có hiệu quả cho sự phát triển của tổ chức có một ý nghĩa rất quan trọng trong điều kiện của một môi trường biến động và thay đổi rất nhanh như hiện nay.
Quá trình quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu:
Trước đây, quyết định chiến lược được thực hiện một lần cho một khoảng thời gian dài, và nó là công việc của quản trị cấp cao. Hiện nay, quá trình quản trị chiến lược là một quá trình thường xuyên, liên tục và đòi hỏi sự tham gia của tất cả các thành viên trong tổ chức. Nói chung, quá trình quản trị chiến lược được thể hiện thông qua biểu hình sau:
Xác định tầm nhìn và sứ mạng của tổ chức
Phân tích môi trường bên ngoài
Phân tích môi trường bên trong
Xác định các mục tiêu chiến lược
Hình thành chiến lược
Cấp công ty
Cấp kinh doanh
Cấp chức năng
Kinh doanh quốc tế
Đưa chiến lược vào hành động và đạt tới sự hội nhập
Cấu trúc tổ chức và kiểm soát.
Hoạch định và phân bổ các nguồn lực
Biểu hình 2 ; quá trình quản trị chiến lược.
Phân tích môi trường
Môi trường của một tổ chức được phân định thành môi trường bên ngoài và môi trường bên trong. Phân tích môi trường hay còn gọi là phân tích SWOT là nhằm tìm ra những cơ hội, đe dọa, điểm mạnh và điểm yếu của tổ chức. Quản trị chiến lược là việc tận dụng và phát huy các điểm mạnh, khắc phục và hạn chế các điểm yếu trong việc khai thác các cơ hội và né tránh các đe doạ của môi trường. Vì vậy, gắn việc phân tích môi trường nội bộ với môi trường bên ngoài sẽ tạo ra những gợi ý chiến lược cho sự phát triển của công ty.
Phân tích môi trường bên ngoài
Nghiên cứu môi trường bên ngoài là một quá trình phải tiến hành thường xuyên, liên tục không bao giờ dừng lại, vì nó chính là điều kiện đảm bảo sự thành công của chiến lược. Mục đích của nghiên cứu môi trường bên ngoài là nhằm nhận dạng những mối đe dọa cũng như những cơ hội có ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.
Phân tích môi trường bên trong
Thực chất của quản trị chiến lược là việc tìm ra và phát triển các lợi thế cạnh tranh, do đó việc hiểu biết môi trường nội bộ có một ý nghĩa to lớn. Phân tích môi trường nộibộ là nhằm tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu của công ty, qua đó xác định các năng lực phân biệt và những lợi thế cạnh tranh của công ty. Bối cảnh để hiểu rõ các điểm mạnh và điểm yếu của công ty là dây chuyền giá trị của công ty, tình hình tài chính, văn hoá, tổ chức và lãnh đạo của công ty. Bàn về năng lực phân biệt và lợi thế cạnh tranh hay những điểm mạnh và những điểm yếu của công ty tức là nói đến sự so sánh các mặt, các hoạt động của công ty so với các nhà cạnh tranh. Sẽ là vô nghĩa khi các phân tích nội bộ không gắn với việc so sánh một cách có ý nghĩa.
Xác định sứ mạng và mục tiêu
Xác định sứ mạng và mục tiêu là một trong những nội dung đầu tiên hết sức quan trọng trong quản trị chiến lược, nó tạo cơ sở khoa học cho quá trình phân tích và lựa chọn chiến lược công ty. Việc xác định bản tuyên bố về sứ mạng cho công ty được đặt ra không chỉ đối với các công ty mới khởi đầu thành lập mà còn đặt ra đối với các công ty đã có quá trình phát triển lâu dài trong ngành kinh doanh. Khi tổ chức mới hình thành thì nó phải có tầm nhìn và sứ mạng, song sứ mạng có thể phải thay đổi khi môi trường thay đổi. Vì vậy, việc xác định sứ mạng và mục tiêu được sẽ được trình bày sau khi phân tích môi trường.
Hình thành chiến lược
Chiến lược cấp công ty
Tiến trình tăng trưởng và phát triển đặt công ty đứng trước sự chọn lựa về lĩnh vực kinh doanh và thị trường. Quá trình tăng trưởng của công ty có thể bắt đầu từ tập trung vào một lĩnh vực kinh doanh nào đó sau đó, thực hiện việc phát triển thị trường và tiến hành đa dạng hóa.
Một quyết định quan trọng khi công ty lớn lên là có đa dạng hoá hay không? Khi công ty chỉ kinh doanh một loại sản phẩm mà không tiến hành đa dạng hóa thì chiến lược cấp công ty chính là chiến lược cạnh tranh (cấp kinh doanh). Việc tiến hành đa dạng hóa các hoạt động của công ty có thể diễn ra là hội nhập dọc (về phía trước và về phía sau) hoặc hội nhập ngang (đa dạng hóa đồng tâm và đa dạng hóa tổ hợp).
Khi công ty tiến hành đa dạng hóa thì việc sử dụng các phương pháp phân tích cấu trúc kinh doanh sẽ đưa ra những gơị ý tốt cho định hướng hoạt động của các đơn vị kinh doanh chiến lược. Có thể sử dụng ba phương pháp phân tích cấu trúc kinh doanh đó là phương pháp BCG, phương pháp Mc. Kinsey và phương pháp dựa trên sự phát triển của ngành.
Chiến lược cấp kinh doanh và chức năng
Để cạnh tranh một cách hiệu quả, công ty cần nhận dạng những cơ hội và đe dọa trong môi trường kinh doanh ngành cũng như xây dựng và phát triển những năng lực phân biệt nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh. Để chọn các chiến lược cạnh tranh trên cơ sở các năng lực phân biệt và lợi thế cạnh tranh, các nhà quản trị cần hiểu nền tảng của chiến lược cạnh tranh, nguồn của lợi thế cạnh tranh, từ đó gắn nó với các chiến lược đầu tư trong bối cảnh phát triển của ngành. Năng lực phân biệt và lợi thế cạnh tranh chỉ có thể được phát huy và phát triển khi các chức năng tạo ra sự cộng hưởng và mỗi chức năng là một nhân tố quan trọng để tạo ra giá trị cho khách hàng.
Chiến lược cạnh tranh được hỗ trợ và bảo đảm bởi các chiến lược cấp chức năng. Việc hình thành và phát triển các chiến lược chức năng phải tạo ra sự cộng hưởng các chức năng nhằm phát huy và phát triển các lợi thế cạnh tranh của công ty. Các chiến lược về Marketing, tài chính, vận hành, nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực phải được thiết kế phù hợp với chiến lược cạnh tranh đã chọn, nhằm đạt tới các mục tiêu của chiến lược cạnh tranh và công ty.
Chiến lược kinh doanh quốc tế
Đối với các công ty, trong điều kiện toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới hiện nay, việc thực hiện quốc tế hóa không còn là một lựa chọn nữa mà là tất yếu. Thực hiện chiến lược quốc tế hóa chính là nhằm để khai thác và phát triển lợi thế cạnh tranh của công ty. Việc tiến hành quốc tế hóa mang lại nhiều lợi ích to lớn cho công ty, song nó cũng có rất nhiều điểm phức tạp do quy mô, địa lý và những khác biệt về văn hóa, xã hội và chính trị.
Việc tiến hành quốc tế hóa các hoạt động đòi hỏi công ty phải xử lý các vấn đề về chọn quốc gia và chọn chiến lược cạnh tranh trên cơ sở tính toán và cân nhắc để hoàn thiện dây chuyền giá trị và phát triển lợi thế cạnh tranh. Các nguồn của lợi thế cạnh tranh phải được xem xét cân nhắc trong một bối cảnh toàn cầu rộng lớn và đặc biệt phải quan tâm tới yếu tố chính quyền và văn hóa.
Thực hiện chiến lược
Biến chiến lược thành hành động và đạt tới sự hội nhập
Một chiến lược được vạch ra tốn kém rất nhiều thời gian và tiền của song nếu nó không được thực hiện tốt thì cũng trở thành vô nghĩa. Có được một chiến lược tốt đã là rất khó, biến nó thành hiện thực còn khó hơn rất nhiều. Một chiến lược thành công luôn là một quá trình trong đó các kế hoạch thực hiện chiến lược phải được chú trọng ngay trong quá trình hình thành chiến lược. Sứ mạng được tuyên bố phải biến thành những hành động cụ thể. Các nhà quản trị phải bảo đảm rằng những hoạt động khác nhau trong tổ chức phải được hội nhập để đạt tới những lợi thế cạnh tranh.
Kế hoạch thực hiện muốn có hiệu quả phải đảm bảo sự nhất quán của các mục tiêu và hoạt động. Vì thế quá trình hoạch định thường đi từ bao quát, tổng thể tới cụ thể, bắt đầu từ tầm nhìn chung rộng lớn tới ngân sách cụ thể hàng năm. Sự nhất quán logic cần được đảm bảo không chỉ giữa các mục tiêu ngắn và dài hạn mà còn là giữa các đơn vị và cá nhân với nhau và với toàn bộ tổ chức. Muốn bảo đảm sự thống nhất giữa các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, giữa các bộ phận và cá nhân và hơn nữa, thông qua đó để đạt tới các mục tiêu dài hạn cần không ngoan sử dụng các chính sách và thủ tục.
Khi tổ chức lớn lên, sẽ hình thành nhiều đơn vị và bộ phận với các mức độ độc lập khác nhau. Việc thực hiện chiến lược thành công hay không phụ thuộc vào việc có tạo ra được sự cộng hưởng giữa các đơn vị này hay không. Muốn vậy phải bảo đảm sự hội nhập giữa các chức năng và giữa các đơn vị kinh doanh chiến lược.
Phân bổ các nguồn lực cho thực hiện chiến lược
Việc thực hiện thành công các chiến lược luôn luôn đòi hỏi những thay đổi trong việc sử dụng các nguồn lực trong tổ chức. Do đó, việc hoạch định kỹ lưỡng sự thay đổi trong việc sử dụng các nguồn lực đóng vai trò quan trọng. Việc hoạch định sử dụng các nguồn lực sẽ được quan tâm với những cấp độ khác nhau ở các cấp chiến lược khác nhau.
Nói chung, việc hoạch định nguồn lực luôn được quan tâm ở hai cấp độ. Trước hết, ở cấp độ rộng lớn, những nguồn lực nên được phân bổ thế nào giữa các chức năng, bộ phận, đơn vị khác nhau trong tổ chức. Thứ hai, những vấn đề chi tiết hơn, là các nguồn lực nên được bố trí thế nào trong mỗi các chức năng, bộ phận và đơn vị khác nhau trong tổ chức để bảo đảm chiến lược được chọn lựa được thực hiện tốt nhất và đảm bảo tạo ra và duy trì, phát triển lợi thế cạnh tranh. Một điều cần suy nghĩ là khi suy nghĩ về cách thức thực hiện chiến lược một cách có hiệu quả thì tính khả thi luôn là một vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng. Vì vậy, hoạch định việc phân bổ các nguồn lực cũng là một bộ phận của lượng giá chiến lược. Sẽ là vô nghĩa khi thấy một chiến lược là phi thực tế và không có khả năng thực hiện. Vì thế, khi hoạch định chiến lược các nhà quản trị cần thấy rằng: không chỉ hoạch định những gì cần thực hiện mà còn phải xem xét nó có khả năng thực hiện hay không.
Cấu trúc tổ chức và kiểm soát chiến lược
Một trong những nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển tổ chức là con người, vì thế cách thức trong đó nguồn lực này được tổ chức là rất quan trọng đối với việc thực hiện thành công các chiến lược đã định. Quan điểm truyền thống cho rằng chiến lược là một quá trình trên xuống, vì thế việc thiết kế hệ thống tổ chức là một phương tiện để thực hiện và kiểm soát.
Quá trình hoạch định chiến lược Marketing xuất khẩu
Hoạch định hay lập kế hoạch là một hoạt động thiết yếu để đảm bảo xây dựng và thực thi được các chính sách và chiến lược Marketing thích hợp. Trong quá trình hoạch định chiến lược này tất cả các yếu tố quan trọng của quản trị như : tài chính, nhân sự, thông tin… đều được xem xét trong mối quan hệ tương tác qua lại tại mọi cấp độ quản trị của công ty, nhằm giúp công ty nói chung và chức năng quản trị nói riêng đạt được các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn.
Hoạch định chiến lược Marketing xuất khẩu bao gồm các hoạt động có tính hệ thống nhằm giúp công ty nhìn thấy những chương trình và hành động cụ thể để thực thi các chiến lược Marketing xuất khẩu của nó.
Hoạch định chiến lược có thể mang tính ngắn hạn hay dài hạn. Thông thường một công ty kinh doanh quốc tế thường lập kế hoạch cho 3 năm hay 5 năm tới và kế hoạch này sẽ được xem xét lại hàng năm. Sau đó, từ các kế hoạch dài hạn, tuỳ từng mục tiêu và tình hình cụ thể mà công ty xây dựng các kế hoạch ngắn hạn.
Trên thực tế, việc hoạch định chiến lược Marketing thường được thực hiện dựa trên kinh nhiệm của hoạt động hoạch định trên thị trường nội địa, kết hợp với kinh nghiệm mà công ty đã đúc kết trong quá trình hoạt động kinh doanh quốc tế của mình. Nói cách khác, nội dung các bước của quá trình hoạch định chiến lược Marketing xuất khẩu cũng tương tự như trong Marketing nội địa, bao gồm các bước sau:
Phân tích môi trường chiến lược
Các công ty kinh doanh quốc tế hoạt động trong một môi trường phức tạp có thể được phân thành ba bộ phận cơ bản: môi trường trong nước, môi trường quốc tế, môi trường nước chủ nhà, là loại môi trường giới hạn trong nội bộ quốc gia. Trong khi đó, môi trường Marketing quốc tế chính là loại môi trường biểu hiện mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Môi trường quốc gia:
Môi trường quốc gia là nơi mà các công ty kinh doanh quốc tế dựa vào để tạo ra bàn đạp cho các hoạt động nước ngoài của mình. Vì vậy những tình huống trong nước cũng sẽ ảnh hưởng đến bản chất và vị trí của các chiến lược xuất khẩu của công ty.
Trong khi môi trường trong nước giới hạn trong một quốc gia, môi trường nước chủ nhà dường như bao gồm các thị trường quốc gia phức tạp mang tính đồng nhất hay không đồng nhất. Ngoài tính đa dạng của nó các thị trường nước chủ nhà sẽ ít quen thuộc và khó nhận thức hơn môi trường trong nước ít nhất là vào giai đoạn đầu của xâm nhập thị trường.
Môi trường kinh tế:
Các nguyên tắc kinh tế cơ bản
Những ẩn chứa bên trong thị trường kinh tế chi tiết có thể nhận thức rõ nhất trong hoàn cảnh hệ thống kinh tế riêng biệt trong một thị trường được quan tâm. Các thông tin có liên quan đến bản chất của hệ thống kinh tế, cấu trúc kinh tế và mức độ phát triển kinh tế trong một thị trường nhất định cần được xem xét.
- Hệ thống kinh tế
Có hai hệ thống kinh tế cơ bản là nền kinh tế thị trường và tập trung. Thực tế đã chứng minh tất cả các nền kinh tế có một số đặc điểm của cả hai hệ thống, và không có ví dụ hoàn hảo nào của hai hệ thống tồn tại. Tất cả các nền kinh tế quốc gia là nền kinh tế hỗn hợp, và ở đâu đó giữa dải biến thiên có một cực là nền kinh tế thị trường lý tưởng và nền kinh tế tập trung lý tưởng. Điểm ở dải biến thiên này xác định vị trí của nền kinh tế là rất quan trọng vì nó đưa ra các thông tin cần thiết về động lực cơ bản của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, cơ chế thúc đẩy hoạt động là sự tương tác giữa các lực lượng thị trường, qua hệ thống giá, điều khiển sử dụng nguồn lực vào sản xuất và phân phối hàng hoá, dịch vụ. Cung cấp nhiên liệu cho hệ thống này là các ý tưởng như cạnh tranh hoàn hảo, quyền tự do của doanh nghiệp và chủ quyền của người tiêu dùng. Các Chính phủ có vai trò không quan trọng trong một nền kinh tế như vậy.
Trong nền kinh tế tập trung, tác động của các lực lượng thị trường bị giới hạn. Các nguồn lực được sử dụng như thế nào và các sản phẩm được phân phối như thế nào được Chính phủ chỉ định. Để hệ thống này có thể hoạt động các phương pháp kế hoạch hoá phức tạp và quyền sở hữu công cộng là cần thiết. Các kế hoạch được chi tiết hoá cao, chúng chỉ rõ các mức của sản xuất , giá và mô hình phân phối.
- Cấu trúc kinh tế
Có hai cách phân loại các khu vực kinh tế. Cách thứ nhất, một giản đồ phân loại thông thường phân định giữa ba khu vực trong một nền kinh tế. Ba khu vực này là: 1-Khu vực nông nghiệp gồm: nông, lâm nghiệp, săn bắn và thuỷ sản; 2-Khu vực công nghiệp gồm: khai mỏ, sản xuất, xây dựng, điện lực, thuỷ lợi và khí đốt; 3-Khu vực dịch vụ gồm tất cả các hình thái khác của hoạt động kinh tế. Cách thứ hai, theo cách này thì cấu trúc của một nền kinh tế được phân định ra làm bốn khu vực kinh tế :
Khu vực cơ bản: gồm các hoạt động dựa trên nguồn lực tài nguyên thiên nhiên;
Khu vực sản xuất;
Khu vực tiêu dùng gồm: năng lượng và nước;
Khu vực dịch vụ.
Thông thường ở các nước kém phát triển phụ thuộc vào nông nghiệp nhiều hơn so với các nước giàu có các hoạt động sản xuất và dịch vụ có tỷ lệ tương đối lớn hơn rất nhiều.Thậm chí trong một khu vực công nghiệp nhất định, bản chất hoạt động kinh tế trong một quốc gia khác biệt rất lớn với các quốc gia khác.
- Mức độ phát triển kinh tế
Mức độ phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới trải dài từ tỷ lệ rất thấp đến rât cao. Phát triển kinh tế được đo lường bằng toàn bộ GDP và thu nhập theo đầu người là mục tiêu hàng đầu của hầu hết các quốc gia.
Quá trình phát triển kinh tế và những kết quả thay đổi cấu trúc thường được gọi là phát triển kinh tế. Chuẩn mực thông thường nhất để đo lường phát triển kinh tế và phân loại các quốc gia thành những nhóm khác nhau là tổng sản phẩm quốc gia ( GNP ) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người.
Các biến kinh tế then chốt
Tiềm năng kinh tế của một quốc gia được đo lường thông qua 5 biến số kinh tế then chốt sau:
- Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là những hình thái tiềm tàng của cải mà thiên nhiên ưu đãi. Chúng bao gồm các khoáng sản, nước, đất đai, địa lý và khí hậu, các nguồn năng lượng.
Tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia là một lý do quan trọng để giải thích mô hình các hoạt động kinh tế của quốc gia đó. Do nguồn tại nguyên ở các quốc gia là không giống nhau nên mỗi một quốc gia có những hoạt động kinh tế nổi bật dựa trên tiềm năng tài nguyên thiên nhiên của họ. Tiềm năng tài nguyên thiên nhiên của quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác.
- Địa lý và khí hậu
Địa lý và khí hậu có tác động đến hoạt động Marketing quốc tế theo những cách thức căn bản và lâu dài. Đó là, các nhân tố địa lý dẫn đến sự sẵn có hay khan hiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhân tố địa lý cũng tác động đến quyết định của nhà quản trị Marketing, chúng có thể là nguồn lực, là sự kiềm chế, có ảnh hưởng đến sự sống còn của thị trường .
Khí hậu là một khía cạnh của địa lý có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển và hoạt động kinh tế của một quốc gia. Tầm quan trọng của khí hậu như là nguồn lực được minh hoạ bởi khả năng của các nước nhiệt đới có thể sản xuất ra một số loại hoa quả nhiệt đới để xuất khẩu sang các nước mà không thể trồng chúng.
Cuối cùng, địa lý và khí hậu có tác động quan trọng đối với sự tồn tại của thị trường qua việc có nhiều hay khan hiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đồng thời xác định nền kinh tế sẽ phát triển đến đâu. Bên cạnh đó, các đặc điểm địa lý còn tác động đến chi phí và mức dễ dàng của phân phối hàng h._.oá.
- Thông tin nhân khẩu học
Các thông tin nhân khẩu học có tầm quan trọng đặc biệt vì nó giúp chúng ta đánh giá được mức độ và mô hình nhu cầu ở một thị trường nhất định và bản chất của lực lượng lao động ở địa phương. Trước hết, quy mô của thị trường tiềm năng là một yếu tố sống còn của thị trường. Tuy nhiên nếu chỉ đề cập đến quy mô mà không đề cập đến sức mua thì sẽ trở nên vô nghĩa. Đôi khi tăng trưởng dân số nhanh hơn là tăng trưởng kinh tế, điều này đáng lo ngại ở các nước phát triển Châu Phi.
Tỷ lệ phát triển dân số và quy mô của dân số sẽ ảnh hưởng khả năng tiến triển về kinh tế của xã hội và đặt nền móng cho tương lai. Nó đồng thời cũng ảnh hưởng đến sự phân bổ của thu nhập hiện tại cũng như tương lai.
Độ tuổi cấu thành của dân số cũng là mối quan tâm của các nhà quản trị Marketing. Những gia tăng và suy giảm dân số của một nhóm tuổi nhất định cũng liên quan chặt chẽ đến nhu cầu của những hàng hoá và dịch vụ nhất định.
- Kết quả kinh tế
Dữ liệu tổng thu nhập quốc dân và tổng thu nhập quốc gia trên đầu người là những chỉ tiêu kết quả kinh tế đã được đề cập tới. Đặc biệt tỷ lệ tăng trưởng có tác động rất lớn đến mức sống tương đối giữa các quốc gia.
Ngoài ra, các chỉ tiêu sau đây cũng được sử dụng để đánh giá kết quả kinh tế:
Các số liệu quá khứ và hiện tại về số liệu thất nghiệp và năng suất lao động.
Lạm phát.
Cán cân thanh toán và dự trữ ngoại tệ.
Đầu tư và tiết kiệm.
Nguồn cung ứng tiền tệ và tỷ lệ lãi suất.
Chỉ số hàng tiêu dùng và thương mại ngoài nước.
Tỷ giá hối đoái của tiền địa phương và thuế.
- Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là mạng lưới các phương tiện và dịch vụ cần thiết cho việc hoạt động hoá một nền kinh tế.
Mức độ phát triển của cơ sở hạ tầng của một quốc gia ảnh hưởng đến mức độ sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên của nó. Cơ sở hạ tầng đồng thời quyết định các nhà quản trị Marketing có thể tiếp cận được với các thị trường sống động hay không. Một thị trường mục tiêu rộng lớn có sức mua cao có rất ít giá trị nếu hàng hoá và dịch vụ không bán được cho người tiêu dùng do hệ thống giao tiếp không tốt hoặc đường xá tồi tệ.
Các linh vực có tầm quan trọng đặc biệt và ảnh hưởng to lớn đến hoạt động kinh tế trong và ngoài nước của các quốc gia là nguồn năng lượng, các phương tiện vận tải, giao tiếp, các dịch vụ thương mại và tài chính. Đặc biệt chất lượng là sự sẵn có của các dịch vụ hỗ trợ như Marketing, phân phối, ngân hàng là những nhân tố quan trọng giữa các thị trường.
- Chính sách kinh tế
Chính sách của chính phủ được phản ánh trong các tuyên bố và luật pháp chính thức của nó điều chỉnh xã hội và phân bổ nguồn lực. Các chính sách kinh tế của nước nhà có ảnh hưởn rất to lớn đến kết quả thực hiện các hoạt động kinh tế. Đặc biệt các chính sách về tài chính và tiền tệ và các chính sách kinh tế khác có tác động trực tiếp đến kết quả hiện kinh tế hiện tại cũng như tương lai. Các biện pháp kích thích ( mức thuế, trợ cấp) cũng như kiểm soát ( giá, nhập khẩu, luật lệ chi trả và chuyển tiền cho quyền tác giả ) của chính phủ nhất là khi chúng tác động vào các công ty ngoại quốc, cần phải được các nhà quản trị thường xuyên xem xét. Và khi kinh doanh ở các thị trường khác nhau các nhà quản trị cũng phải xem xét hiệu quả của công tác quản lý và dự phòng của chính phủ về các sản phẩm và dịch vụ quan trọng( đặc biệt là các dịch vụ có liên quan đến cơ sở hạ tầng).
Môi trường thương mại
Thông thường, tất cả các chính phủ trên thế giới cố gắng điều hoà các dòng vận động thương mại quốc tế nhằm đảm bảo một số loại hàng xuất khẩu không đến sai địa chỉ, và các nghành hàng trong nước không bị phá huỷ bởi các hàng nhập khẩu. Để làm được điều này các chính phủ thường sử dụng các hàng rào thương mại. Có ba hình thức hàng rào thương mại chính: thuế quan, hạn ngạch và các hàng rào phi thuế.
Thuế quan:
Thuế quan là các mức thuế mà được đặt ra đối với các hàng xuất hoặc nhập khẩu. Có một số loại thuế quan như sau:
Thứ nhất, các thuế quan theo giá hàng được thu như một tỷ lệ phần trăm nhất định của trị giá hàng hoá sẽ bị đánh thuế. Thứ hai, thuế theo số lượng là mức độ cố định được thu dựa trên mỗi đơn vị địa lý được nhập hay xuất khẩu. Thứ ba, thuế phức hợp kết hợp hai loại thuế quan theo giá hàng và theo số lượng thông qua thiết lập một đơn vị thuế cố định và thêm một lượng biến đổi vào các tỷ lệ cơ sở này có liên quan đến trị giá hàng hoá.
Thuế không những là nguồn thu mà quan trọng hơn nó còn là biện pháp bảo hộ đối với hàng hoá nhập khẩu. Thuế quan đồng thời tác động trực tiếp( làm gia tăng ) đối với giá cả hàng hoá.
Hạn ngạch:
Khác với thuế không giới hạn danh mục hàng hoá kinh doanh, hạn ngạch hạn chế trực tiếp khối lượng vật lý hoặc ( ít thông thường hơn ) giá trị của hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Hạn ngạch thường được dùng để bảo hộ sản xuất trong nước đối với cạnh tranh quốc tế, nhưng nó không tạo ra lợi nhuận cho chính phủ đặt ra hạn ngạch đó.
Hàng rào phi thuế:
Các hàng rào phi thuế quan ( NTB )gồm tất cả các biện pháp hạn chế mậu dịch nhân tạo khác. Các hình thức quan trọng nhất của NTB là:
Trợ giúp các nhà sản xuất trong nước.
Các hạn chế xuất khẩu tự nguyện.
Các luật lệ và thủ tục điều tra chống phá giá có thành kiến.
Việc mua sắm của Chính phủ ưu đãi các nhà sản xuất địa phương.
Kiểm soát ngoại hối.
Các quy tắc và kiểm soát tiêu chuẩn sản phẩm được thiết lập nhằm hạn chế nhập khẩu.
Các yêu cầu hải quan và văn bản hạn chế thương mại.
Kiểm soát xuất khẩu được thiết lập để can thiệp các dòng vận động thương mại vì các lý do chính trị hoặc chiến lược.
Các hàng rào phi thuế có lợi thế là ít rõ rệt hơn các hàng rào khác, và tầm quan trọng của nó ngày càng tăng trong khi có sự suy giảm của những hạn chế thương mại thuế quan và hạn ngạch. Đây là một vấn đề quan trọng do nó làm suy giảm tác động và hiệu quả các biện pháp.
Môi trường chính trị
Ngoài những lĩnh vực nhất định có sự tham gia của Chính phủ, thì môi trường chính trị ở hầu hết các quốc gia cũng thường tạo ra sự hỗ trợ chung cho các nỗ lực Marketing của các công ty của họ.
Trên thực tế, các mối quan hệ qua lại được phát triển giữa các nhóm có lợi ít khác nhau trong một quốc gia thường tạo nên các quá trình và sự kiện chính trị. Trong môi trường chính trị này, hầu hết các đất nước, Chính phủ quốc gia đong vai trò quan trọng do có khả năng lập pháp, đánh thuế và tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế, xã hội và chính trị. Nhưng môi trường chính trị ở quốc gia bị ảnh hưởng lớn bởi nhiều biến bản chất hình thành nên khunh cảnh của tất cả các hoạt động chính trị. ý thức hệ, giai cấp, các hệ thống kinh tế đang thịnh hành và chủ nghĩa dân tộc là một số biến trong những biến then chốt trên, chúng đồng thời là mối quan tâm đặc biệt của các công ty kinh doanh quốc tế.
Các hoạt động kinh doanh có thể bị Chính phủ can thiệp hoặc bị ảnh hưởng bởi các sự kiện và đặc điểm của môi trường.
Điều quan trọng nhất là phải phân biệt giữa các sự kiện chính trị và tác động của chúng đến công ty. Những tác động của sự kiện chính trị đến một công ty phụ thuộc vào hai yếu tố: các điều kiện môi trường và các nhân tố đặc trưng của công ty và ngành hàng mà nó kinh doanh. Bên cạnh đó, rủi ro chính trị không phải là giống như sự ổn định về chính trị. Rủi ro chính trị là xác xuất thay đổi của kết quả thực hiện của tập đoàn tạo ra do các sự kiện chính trị.
Khi tiến hành nghiên cứu môi trường chính trị các công ty kinh doanh quốc tế cần phải quan tâm đến các khía cạnh sau:
Môi trường ý thức hệ và các quá trình chính trị.
Chủ nghĩa quốc gia.
Sự can thiệp của Chính phủ .
Sự ổn định về chính trị.
Thông qua công tác nghiên cứu các khía cạnh của môi trường chính trị là cơ sở để các công ty KDQT tiến hành hoạt động đo lường và phản ứng với các rủi ro chính trị.
Thực tế luôn tồn tại rủi ro chính trị ở các quốc gia nhưng mức độ của chúng là không giống nhau. Nhìn chung rủi ro chính trị sẽ thấp nhất ở các quốc gia có một lịch sử phát triển ổn định và nhất quán.
Khi tiến hành đánh giá hiệ`u quả rủi ro chính trị của một công ty KDQT ở cả trong và ngoài nước cần đánh giá theo hai bước riêng biệt:
Bước 1: bao gồm dự báo mội trường chính trị trong quốc gia đang quan tâm ở mức vĩ mô - tổng quát.
Bước 2: đây là bước quan trọng hơn và khó khăn hơn, là việc tiến hành phân tích ở mức vi mô về các vận dụng rủi ro chính trị của dự báo chung được đánh giá cho một công ty KDQT riêng biệt. Công việc này đòi hỏi phải quan tâm đến các đặc điểm, hành động và lịch sử riêng có của công ty trong một thị trường nhất định. Việc phân tích phải tập trung vào nhận biết các cơ hội cũng như các nguy cơ có thể xảy ra.
Công tác đo lường rủi ro chính trị được tiến hành theo hai khía cạnh khác nhau là rủi ro vi mô và rủi ro vĩ mô. Đối với mỗi loại rủi ro các công ty cần phải có những phương pháp đo lường thích hợp từ đó thu được kết quả chính xác và có các biện pháp khắc phục đúng đắn.
Môi trường luật pháp
Một công ty KDQT hoạt động đồng thời phải đối mặt với một môi trường luật pháp. Môi trường luật pháp tác động đến hoạt động của công ty kinh doanh quốc tế bao gồm ba khía cạnh khác biệt: 1-luật pháp nước nhà; 2-các luật pháp ở thị trường nước ngoài; 3-luật pháp quốc tế.
Cũng như môi trường chính trị, môi trường luật pháp đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động Marketing quốc tế . Thậm chí với những kế hoạch kinh doanh tốt nhất có thể bị huỷ hoại do những ảnh hưởng bất ngờ của chính trị và luật pháp, và nếu nhà kinh doanh thất bại trong hoạt động dự báo các nhân tố này có thể không thực hiện được một dự án kinh doanh. Các nhà kinh doanh phải tính đến môi trường luật pháp nước nhà cũng như nước chủ nhà.
Môi trường luật pháp nước nhà:
Không có một nhà kinh doanh nào bỏ qua các chính sách và quy định của quốc gia mà từ đó họ tiến hành các giao dịch Marketing quốc tế của mình. Cho dù công ty KDQT đặt trụ sở của mình ở đâu, nhưng nó sẽ phải chịu tác động của chính phủ và hệ thống luật pháp nước nhà.
Trên tực tế đã có rất nhiều các bộ luật và các quy định của quốc gia được đưa ra không phải nhằm điều chỉnh riêng hoạt động Marketing quốc tế nhưng nó lại có ảnh hưởng đến cơ hội nước ngoài của công ty.
Tuy nhiên, lại có một số các công cụ pháp luật được định hướng rõ ràng với các hoạt động Marketing quốc tế. Một số đưa ra nhằm hỗ trợ nỗ lực quốc tế của các công ty, nếu không thực hiện có thể làm nguy hại đến hoạt động kinh doanh quốc tế.
Hơn nữa, rất nhiều quốc gia có hệ thống kiểm soát xuất khẩu được thiết kế nhằm ngăn cản, làm chậm trễ hoặc loại trừ các đối thủ có thể có được hàng hoá có tầm quan trọng chiến lược .
Ngoài ra, các quốc gia nước nhà có thể thi hành các bộ luật và quy định đặc biệt nhằm đảm bảo rằng các hành vi kinh doanh quốc tế của các công ty của nước nhà được thực hiện trong khuôn khổ luật pháp, đạo đức và đạo lý thích hợp.
Môi trường luật pháp nước chủ nhà:
Các công ty kinh doanh quốc tế cần phải hiểu biết và tuân thủ với các luật lệ có liên quan ở các thị trường nước ngoài. Đặc biệt, đối với các công ty có hoạt động nước ngoài rộng khắp trên thị trường thế giới có một loạt cơ sở luật pháp khác nhau cần phải được xem xét. Tính đa dạng trong các hệ thống luật pháp quốc gia và các luật lệ liên quan là rất cao và gây ra rất nhiều khó khăn cho các công ty kinh doanh quốc tế .
Trước hết, điều cơ bản là phải nhận thức rõ bản chất cốt lõi của hệ thống luật pháp trong các thị trường mà họ quan tâm.Sự phân định quan trọng là giữa hệ thống bộ luật và luật chung. Mặc dù cần phải chú ý phân định giữa hai hệ thông luật này nhưng cần đặc biệt chú ý là những nét tương đồng bề ngoài trong hệ thống luật pháp có thể che dấu những khác biệt quan trọng. Do vậy các chi tiết cụ thể của luật pháp nước chủ nhà là mối quan tâm hàng đầu của ban quản trị. Cụ thể là các công ty thường quan tâm đến lĩnh vực sau của hệ thống luật pháp. Thứ nhất, luật lệ có tác động đến phương thức xâm nhập thị trường được chú ý đến- nhập khẩu, bản quyền, đầu tư nước ngoài trực tiếp, và liên doanh –là quan trọng nhất.Trong một số quốc gia, có vô số các luật lệ có hiệu lực mà công ty nước ngoài phải tính đến.
Ngoài ra, nhưng sự khác biệt trong hoàn cảnh luật pháp quốc gia, các nhu cầu và những ưu thế khác.Đôi khi chúng là kết quả của một chiến lược khác có ý thức. Các khung luật pháp không quen thuộc và những đặc điểm khác thường có liên quan đến tiêu chuẩn sản phẩm sẽ gia tăng tính không ổn định và nâng cao chi phí xâm nhập thị trường. Cuối cùng, điều quan trọng là việc diễn giải môi trường luật pháp của nước chủ nhà không được giao cho những người không chuyên. ý kiến và lời khuyên của các chuyên gia là cần thiết; nhưng nguồn phân tích quan trọng và tốt nhất là các luật sư quen thuộc với sự vận hành của hệ thống luật pháp địa phương và việc vận dụng các luật lệ có liên quan.
Môi trường kinh tế quốc tế
Các công ty hoạt động trên thị trường quốc tế không những chịu những tác động của các xu thế phát triển trọng thương mại quốc tế mà còn bị ảnh hưởng bởi xu thế hội nhập kinh tế vùng và thế giới.
Đặc điểm hội nhập kinh tế vùng có ảnh hưởng quan trọng đối với các công ty đang hoạt động trong các thị trường . Hội nhập kinh tế diễn ra trong nhiều hình thức khác nhau, nhưng đặc biệt bao hàm hợp tác kinh tế, được thiết lập để mang lại sự phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn giữa các quốc gia. Các kế hoạch thông thường nhất được đưa ra để giảm bớt các hàng rào thương mại giữa các thành viên tham gia. Các hình thức hội nhập có nhiều mong muốn hơn là nhằm thúc đẩy các di chuyển trên thị trường quốc tế các nhân tố đầu vào, và phối hợp các chính sách kinh tế, tài chính, và tỷ giá hối đoái.
Khi hình thành các khối kinh tế, cạnh tranh lớn hơn, lợi ích kinh tế theo quy mô do tiếp cận các thị trường lớn hơn, đầu tư và đổi mới nhiều hơn là những thay đổi quan trọng hơn dường như sẽ diễn ra. Những động tác thay đổi của liên minh kinh tế phải dẫn đến việc sử dụng các nguồn lực hữu hiệu hơn và phát triển kinh tế nhanh hơn ở các quốc gia thành viên.
Có 6 giai đoạn phát triển của hội nhập kinh tế vùng:1 - Hiệp định thương mại ưu đãi; 2 - Khu vực mậu dịch tự do; 3 - Liên minh thuế quan; 4 - Thị trường chung; 5 - Liên minh tiền tệ; 6 Liên minh kinh tế.
Môi trường tài chính quốc tế
Do có tác động lớn đến hoạt động ngoài nước của một công ty nên những xắp đặt về tài chính và tiền tệ quốc tế có vai trò rất quan trọng với môi trường hoạt động quốc tế. Sự vận hành của các thị trường ngoại hối là mối quan tâm trực tiếp của hầu hết các công ty KDQT. Như vậy nhận thức các thị trường tài chính quốc tế và những thể chế tài chính hoạt động như thế nào là rất cần thiết.
Các công ty KDQT khi xem xét thị trường tài chính cần phải hiểu rõ quỹ tiền tệ thế giới ( IMF ) và ngân hàng thế giới ( WB ) vì đây là hai thể chế tài chính then chốt ở trên thị trường thế giới.
Ngoài ra, những nhân tố như nhóm các nước công nghiệp phát triển, hệ thống tỷ giá hối đoái, thị trường vốn quốc tế cũng cần phải quan tâm. Chúng đều có sự tác động hai mặt đến hoạt động kinh doanh trên thị trường ngoài nước của các công ty kinh doanh quốc tế .
Mặc dù hiệu quả của thị trường tài chính có gia tăng nhưng vẫn có những hàng rào cản quan trọng đối với tính linh hoạt của vốn. Có ba cản trở chính đó là: Thứ nhất, các kiểm soát hối đoái do Chính phủ đặt ra ở nhiều quốc gia cản trở dòng vào và ra của vốn. Thứ hai, rủi ro về tỷ giá hối đoái là một rào cản quan trọng đối với tính linh hoạt của vốn. Thứ ba, rủi ro về chủ quyền, là khả năng Chính phủ nước ngoài sẽ trả không đúng hạn các khoản vay từ các nhà băng hoặc tổ chức nước ngoài hoặc đề ra các ngăn cấm đối với những khoản nợ tư nhân.
Môi trường thương mại quốc tế
Tình hình giao lưu buôn bán giữa các nước trên thế giới có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của công ty. Cho dù có những lập luận ủng hộ mậu dịch tự do, nhưng các chính sách thương mại của nhiều quốc gia trong chiều dài lịch sử bị ảnh hưởng nhiều bởi mong muốn bảo vệ ngành hàng nội địa đối với cạnh tranh ngoài nước. Những chính sách này rất phổ biến trong những năm 30 của thế kỷ này, và khi sự tấn công của khủng hoảng toàn cầu và các mưc thuế cao được đặt ra ở nước Mỹ đã khởi sự ra một vòng luẩn quẩn các biện pháp bảo vệ trả đũa khắp nơi trên thế giới. Những biện pháp này cùng với sự suy giảm mức thu nhập chung đã làm cho quy mô thương mại quốc tế giảm mạnh.
Hiệp định chung về thuế quan thương mại( GATT )
Hiệp định GATT định ra các nguyên tắc chỉ đạo chung để tiến hành thương mại quốc tế. GATT cũng cung cấp các diễn đàn căn bản để thương lượng về việc hạ bớt đa phương về thuế quan và các hàng rào khác của thương mại quốc tế.
Mục tiêu cơ bản của GATT là nhằm phá bỏ các hàng rào đối với thương mại quốc tế theo một các thức dần dần, gia tăng dựa trên các cuộc thương lượng đa phương. Những thay đổi gần đây nhất của GATT là khuyến khích gia tăng thương mại thế giới. Theo hiệp định mới thì nó được thay thế bởi Tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) được thành lập vào ngày 1/1/1995. WTO mới được thành lập sẽ có nhiều quyền lực hơn để thi hành các quy tắc về tranh chấp thương mại và tạo ra một hệ thống hưu hiệu hơn để theo dõi các chính sách thương mại.
Các hiệp định sản phẩm chủ yếu:
Các hàng hoá chủ yếu là những nguyên liệu thô hoặc thực phẩm chưa được chế biến, thường được sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm khác và bao gồm các sản phẩm như các kim loại, đồ ăn, thuốc lá và da sống. Hầu hết cả thế giới buôn bán trao đổi hàng hoá chủ yếu theo các điều khoản đã được đưa ra ở các thị trường hàng hoá có mức giá dao động theo cung và cầu. Các thị trường này thường tập trung ở Newyork, London, Chicago và chúng ảnh hưởng mạnh đến các giao dịch hàng hoá cho dù nó xảy ra ở đâu đi chăng nữa.
Một đặc điểm của các thị trường loại này là trong một khoảng thời gian ngắn cả cung và cầu có khuynh hướng không co giãn giá. Có rất nhiều hàng hoá thuộc loại này là hàng nhu yếu phẩm không thể dễ dàng gì được thay thế. Chính vì vậy những thay đổi về cầu hoặc về cung đối với hàng hoá chủ yếu gây ra các thay đổi giá đột ngột và gây ra dao động mạnh về các chi phí của người chế biến và phần lợi nhuận thu được của các nhà xuất khẩu hàng hoá.
Các hiệp định về hàng hoá:
Hàng loạt các hiệp định hàng hoá đã nhóm họp các nhà sản xuất và người tiêu dùng quan trọng đã được thiết lập nhằm mục đích giảm sự không ổn định của giá cả. Các bên tham giai hiệp định bao gồm các nhà sản xuất và người tiêu dùng cam kết ổn định hoá giá cả hàng hoá trong một khung định trước. Có hai sáng kiến được đưa ra để củng cố chính sách giá là việc thiết lập một dự trữ đệm và các kiểm soát đối với cung. Hệ thống này thường hoạt động như sau: khi giá hàng hoá tiến tới giới hạn trên, hàng hoá trong kho dự trữ đệm được bán ra và các nhà sản xuất được phép tăng sản lượng và hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế có các vấn đề khó khăn phải đương đầu. Sắp đặt dự trữ đệm không phù hợp với những hàng chóng hỏng, nắm giữ hàng hoá trong kho cao và rất tốn kém trong đầu tư nỗ lực lớn để giữ giá hàng hoá khi nhu cầu thấp.
Các hiệp định sản xuất :
Một hình thức hợp tác khác giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng là việc các nhà xuất khẩu hàng hoá hình thành các catel nhằm kiểm soát đơn phương việc định giá. Nhờ hiệp tác hành động như vậy có thể gia tăng các mức giá và tối đa hoá lợi nhuận của catel. Để có thể thực hiện được điều này các nhà sản xuất phải sẵn sàng hợp tác trong điều chỉnh các mức đầu ra và giá. Thành công của hình thức hiệp định này phụ thuộc vào nhu cầu không co giãn với giá và việc không có sản phẩm thay thế phù hợp.
Lý do thông thường nhất thúc đẩy sự thoả thuận các hiệp định của nhà sản xuất là các điều khoản quốc tế về thương mại có tác động tiêu cực đối với các nhà xuất khẩu hàng hoá đang đương đầu với giá cả không ổn định, mà trong tương lai xa, sẽ gia tăng chậm chạp hơn nhiều so với mức trung bình của các sản phẩm sản xuất. Theo cách nhìn nhận của các nước kém phát triển, các quốc gia tiêu thụ giàu có không thực sự quan tâm làm cho các hiệp định hàng hoá có hiệu lực do đó hợp tác với các nhà xuất khẩu khác là cần thiết.
Môi trường chính trị và luật pháp quốc tế
Các nhân tố về chính trị quốc tế :
Người ta cho rằng tổ chức chính trị quan trọng nhất là Nhà nướcchủ quyền do nó có khả năng phát hành tiền tệ, đánh thuế và định ra luật lệ trong một quốc gia. Do vậy hoàn cảnh chính trị quốc tế ít quan trọng hơn nhiều so với môi trường chính trị quốc gia. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có một số khía cạnh chính trị quan trọng vượt ra ngoài biên giới quốc gia và có những vận dụng quan trọng trong Marketing quốc tế.
Tác động của chính trị đối với Marketing quốc tế được xác định bởi cả mối quan hệ song phương giữa quốc gia nước nhà và quốc gia nước chủ nhà và các hiệp định đa phương điều chỉnh mối quan hệ giữa các nhóm quốc gia.
Mối quan hệ giữa Chính phủ với Chính phủ có thể có những ảnh hưởng sâu rộng, đặc biệt khi mối quan hệ này trở nên thù địch.Ngoài ra mối quan hệ chính trị song phương cũng có thể chặt chẽ cũng có thể dẫn tới thúc đẩy thương mại. Do đó mối quan hệ chính trị quốc tế không phải lúc nào cũng có tác động tiêu cực đối với các nhà làm Marketing quốc tế. Nếu mối quan hệ chính trị song phương được cải thiện thì hoạt động kinh doanh quốc tế của công ty có thể được hưởng lợi.
Các nhà quản trị công ty KDQT cần phải nhận thức được sự thay đổi và sự vận động về chính trị trên thế giới và cố gắng dự đoán những thay đổi trong môi trường chính trị quốc tế để từ đó có kế hoạch đối phó.
Thêm vào đó thì các tổ chức kinh tế như: Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển ( UNCTAC ), Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và vận dụng các chính sách biểu lộ nguyện vọng chính trị của các quốc gia thành viên.
Môi trường pháp luật quốc tế :
Luật pháp quốc tế đóng vai trò quan trọng trong thực tiễn kinh doanh quốc tế. Một số hiệp định và thoả thuận được một loạt các quốc gia tuân thủ có ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh doanh quốc tế.
Mũi nhọn truyền thống của luật pháp quốc tế đã thiết lập một khung luật pháp để điều chỉnh các tương tác giữa các Chính phủ quốc gia. Các vấn đề kinh điển thường bao gồm luật tranh chấp về biển, quốc tịch và đường biên giới. Đối với các vấn đề kinh tế, sự phát triển của luật quốc tế bị ảnh hưởng to lớn bởi các triết lý tư nhân tự do kinh doanh, các luật lệ của hoạt động kinh tế truyền thống được coi như là trách nhiệm của luật quốc gia. Do vậy luật quốc tế kinh điển có những hạn chế đối với kinh doanh quốc tế. Có những hội đồng luật pháp khác với luật pháp quốc tế công cộng có tác động lớn đối với môi trường hoạt động quốc tế. Chúng bao gồm những vận dụng luật pháp của các hiệp định, của hội nghị song và đa phương, và tác đông vượt ra ngoài biên giới quốc gia của một số nước.
Các hiệp định song phương:
Thông thường các hiệp định song phương điều chỉnh các mối quan hệ thương mại giữa hai quốc gia. Các hiệp định đồng thời cũng giải quyết được rất nhiều vấn đề thương mại khác. Anh và Mỹ đã ký một hiệp định nhằm tăng cường hợp tác để điều chỉnh sự biến hoá của các thị trường toàn cầu về hàng hoá và an ninh khác.
Các hiệp định đa phương:
Các hiệp định này cũng có những tác động quan trọng. Hiệp định 1947 GATT thiết lập những luật lệ về tiến hành thương mại quốc tế và cung cấp một quy trình giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
Một lĩnh vực mà các nhà quản trị Marketing quốc tế rất quan tâm đến là sự bảo vệ của luật pháp về tài sản trí tuệ như bằng sáng chế và nhãn thương mại. Các hiệp định đa phương điều chỉnh lĩnh vực này bao gồm Công ước quốc tế về bảo hộ sở hữu công nghiệp và hiệp định Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu thương mại.
Trong kinh doanh quốc tế, sự vận động dẫn tới phát triển các tiêu chuẩn sản phẩm và các luật chống độc quyền đặc biệt được quan tâm. Nó đồng thời là thời cơ và thách thức cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế.
Giải quyết tranh chấp:
Môi trường pháp luật quốc tế cũng tác động đến các nhà làm Marketing tới mức độ mà công ty phải quan tâm đến việc phân sử các xung đột. Do không có một thể chế thi hành luật nào tồn tại, nên các công ty thường giới hạn trong các luật pháp của nước nhà. Nếu có xung đột giữa hai bên ký kết hợp đồng ở hai quốc gia khác nhau, thì vấn đề đặt ra là giải quyết các bất đồng luật pháp của các bên từ các quốc gia khác nhau như thế nào. Thường các công ty kinh doanh quốc tế sẽ lựa chọn để định rõ loại luật và toà án trong nước của họ sẽ được sử dụng để giải quyết tranh chấp. Các bên tham dự ngoại quốc sẽ thường nài ép để có được phạm vi và quyền hạn của luật và toà án địa phương của họ. Vì các lý do trên nên khi các công ty kinh doanh quốc tế tham gia vào hoạt động thương mại cần phải thoả thuận rõ ràng các điều khoản sử lý các tranh chấp khi thực hiện hợp đồng.
Nói tóm lại, môi trường Marketing quốc gia và quốc tế đóng một vai trò quan trọng trong các hoạt động Marketing quốc tế của các công ty. Thậm chí những kế hoạch kinh doanh tốt nhất cũng có thể bị huỷ hoạt do những ảnh hưởng bất ngờ của môi trường Marketing, và nếu các nhà làm Marketing quốc tế bị thất bại trong việc dự báo các nhân tố này có thể không thực hiện được dự án kinh doanh trên thị trường quốc tế.
Các nhóm môi trường Marketing đều tác động nên các hoạt động Marketing quốc tế của một công ty theo nhiều phương cách khác nhau.
Các công ty kinh doanh quốc tế thành công sẽ hiểu thấu đáo môi trường Marketing quốc gia mà công ty đang có hoạt động kinh doanh và do đó có hoạt động kinh doanh trong giới hạn hiện tại và có thể dự đoán và kế hoạch hoá hoạt động nhằm có những ứng sử phù hợp với những thay đổi của môi trường.
Xác định mục tiêu chiến lược
Việc xác định mục tiêu chiến lược là rất quan trọng đối vơí hoạt động kinh doanh quốc tế của công ty. Thực chất là để trả lời câu hỏi “ chúng ta muốn đi tới đâu ? ” . Trên cơ sở hiểu biết được các đặc tính quan trọng của môi trường Marketing hiện tại, các nhà quản trị Marketing có thể xác lập các mục tiêu mà công ty cần đạt tới ở thị trường nước ngoài. Các mục tiêu này phải có thử thách và không được vượt quá khả năng của công ty KDQT.
Thông thường các công ty KDQT xây dựng cho mình mục tiêu trong dài hạn và trong ngắn hạn.
Mục tiêu dài hạn :
Mục tiêu là những trạng thái, những cột mốc, những tiêu đích cụ thể mà công ty muốn đạt được trong một khoảng thời gian nhất định .
Các mục tiêu chiến lược của tổ chức có đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, các mục tiêu chiến lược bao gồm cả các mục tiêu tài chính và phi tài chính. Hệ thống các mục tiêu chiến lược của công ty phải thể hiện được những chỉ dẫn các hoạt động của tổ chức nhằm đáp ứng các nhu cầu và lợi ích của các nhân vật hữu quan của tổ chức. Do đó nó thường bao gồm một hệ thống các mục tiêu cả về số lượng và chất lượng, cả về tài chính và phi tài chính.
Thứ hai, các mục tiêu chiến lược tạo ra thứ tự các ưu tiên và cơ sở cho sự chọn lựa, đánh đổi. Quản trị diễn ra trong điều kiện các nguồn lực bị giới hạn và khan hiếm. Hơn nữa, các mục tiêu không thể đạt được cùng một lúc và các mục tiêu không phải luôn có sự nhất quán và thống nhất với nhau. Vì vậy , cần có sự chọn lựa và đánh đổi trong quá trình đạt đến các mục đích của tổ chức.
Thứ ba, các mục tiêu chiến lược phải hiện thực khi những người lao động đưa ra những nỗ lực cần thiết. Các mục tiêu là cơ sở quan trọng của động viên, vì thế nó phải mang tính thách thức. Các mục tiêu thách thức luôn đòi hỏi những người lao động phải có những nỗ lực cao nhất và đem hết khả năng thực hiện nhiệm vụ. Song, nếu các mục tiêu là quá cao và không thể đạt tới thì người lao động sẽ không nỗ lực vì nó. Vì vậy các mục tiêu thách thức nhưng hiện thực là rất quan trọng trong việc động viên người lao động trong tổ chức đạt đến điều tốt nhất mà họ có thể đạt tới.
Thứ tư , các mục tiêu chiến lược liên quan tới hoạt động và kết hợp các chức năng khác nhau của tổ chức. Sự chuyên môn hoá trong hoạt động của tổ chức có thể tạo ra bệnh cục bộ và sùng bái chức năng, mỗi phòng ban, bộ phận chỉ biết có mình và thực hiện các mục tiêu ngắn hạn của mình mà không quan tâm đến các mục tiêu chiến lược của toàn tổ chức. Việc hình thành và làm cho những người trong tổ chức hiểu rõ những mục tiêu chiến lược của tổ chức sẽ hướng hoạt động của họ vào việc đạt tới các mục tiêu chiến lược, tạo ra sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh và nguồn lực của các phòng ban, bộ phận trong việc đạt tới mục tiêu chiến lược của toàn bộ tổ chức.
Các mục tiêu ngắn hạn:
Việc phát triển các mục tiêu ngắn hạn đúng đắn sẽ xác định sự thành công hay thất bại của một chiến lược. Các mục tiêu ngắn hạn có thể được xem như nền tảng từ đó các mục tiêu chiến lược được thực hiện.
Các mục tiêu ngắn hạn thường có các đặc tính sau: Cụ thể; có thể đo lường được; có thể giao cho mọi người; có tính hiện thực; giới hạn cụ thể về thời gian.
Các mục tiêu ngắn hạn phải đưa ra các chỉ dẫn phù hợp, song nó phải tạo điều kiện cho công ty đủ năng động trong việc thích ứng với những thay đổi của môi trường bên ngoài và bên trong. Mỗi một sự thay đổi xảy ra từ bất kỳ môi trường nào cũng đòi hỏi công ty phải thay đổi, điều chỉnh các mục tiêu ngắn hạn của mình.
Các mục tiêu ngắn hạn phải đảm bảo nhằm đạt tới các mục tiêu dài hạn của chiến lược tổng thể và hội nhập có hiệu quả vào chiến lược chung.
Xác định các loại chiến lược
Trong hoạt động kinh doanh trên thị trường toàn cầu, các công ty thường có một số chiến lược khác nhau để tiến hành các hoạt động kinh doanh quốc tế. Sau khi chiến lược được xác định, nó trở thành nền tảng để công ty phát triển các chương trình Marketing địa phương và toàn cầu.
Có ba chiến lược hạt nhân do Porter đưa ra gồm: 1 - Dẫn đạo về chi phí; 2 - Khác biệt hoá; 3 - Tập trung. Các công ty có thể theo đuổi nhiều chiến lược cùng một lúc và các đơn vị kinh doanh của công ty ở các quốc gia khác nhau có thể không nhất thiết phải theo đuổi cùng một chiến lược.
Dẫn đạo về chi phí:
Chiến lược này dựa trên quy mô và kinh nghiệm. Các công ty triển khai chiến lược dẫn đạo về chi phí theo đổi một tập hợp các chiến lược chức năng – chủ yếu là sản xuất và Marketing – với trọng tâm hướng vào lợi thế kinh tế theo quy mô, tích dồn nhanh chóng kinh nghiệp hoặc cả hai.
Trước tiên, trong các ngành hàng có một phần khá lớn trong tổng chi phí có thể là do hiệu quả kinh nghiệm, ._.số lượng gạo xuất khẩu trong tương lai thông qua các bản hợp đồng đã ký. Điều đó sẽ giúp cho Tổng công ty không phải chuẩn bị gấp rút khi có một hợp đồng mới. Điều đó tránh bị ép giá và quá trình chế biến gạo được chuẩn bị kỹ đảm bảo chất lượng yêu cầu.
Trong khâu thu mua, Tổng công ty cần phải ký kết hợp đồng trực tiếp với từng hộ dân tại ruộng, về lâu dài, thì cần phải nhân rộng hình thức này trên toàn bộ các khu vực trồng lúa xuất khẩu, khi thu mua thực hiện giám định chất lượng hàng ngay từ đầu. Vì đây là yếu tố quyết định đến chất lượng gạo xuất khẩu của Tổng công ty.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng gạo Tổng công ty cần phải tham gia đầu tư cùng với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hỗ trợ cho nông dân về giống lúa mới có chất lượng cao, quy tụ tập trung riêng những vùng trồng lúa chuyên xuất khẩu.
Bên cạnh đó, Tổng công ty cần phải phân phối hợp lý lượng lúa thu mua vào các cơ sở chế biến tránh tình trạng quá tải ở nơi này nhưng lại chưa hết công suất ở nơi khác. Đầu tư nâng cao trang thiết bị cho chế biến như các máy xay xát, máy đánh bóng… Tổng công ty có thể liên doanh liên kết với các công ty nước ngoài để có những dây truyền chế biến hiện đại ngang tầm thế giới bằng các đầu tư hay vay vốn Nhà nước, đồng thời tiến hành thanh lý loại bỏ các công nghệ lạc hậu không cần thiết.
Hiện tại một thực trạng diễn ra là khâu bao bì của Tổng công ty vẫn còn phải đặt các công ty khác. Tổng công ty cần phải có riêng một nhà máy sản xuất và in bao bì vừa đảm bảo theo đúng yêu cầu của khách hàng vì mỗi một thị trường khác nhau có in nhãn mác khác nhau, lại tạo thêm công ăn việc làm cho các công ty trực thuộc và điều này cũng kinh tế hơn sẽ làm cho giá cả mang tính cạnh tranh hơn, tạo thêm nguồn lợi cho Tổng công ty.
Quy hoạch những vùng lúa cao sản dành cho xuất khẩu :
Xây dựng chiến lược sản xuất và chế biến, gắn với thị trường tiêu thụ. Xác lập mô hình thích hợp giải quyết mối quan hệ đầu vào và đầu ra trong sản xuất và xuất khẩu. Có thể quy hoạch vùng sản xuất lúa chất lượng cao để phục vụ xuất khẩu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Đồng bằng sông Hồng quy hoạch 300.000 ha cấy giống lúa phù hợp nhu cầu tiêu dùng của người Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trồng ở ba tỉnh: Hải Dương, Thái Bình, Nam Định. Đồng bằng sông Cửu Long quy hoạch những vùng sản xuất lúa chất lượng cao khoảng 1 triệu ha để xuất khẩu đáp ứng các thị trường Châu Âu, Trung Đông, Bắc Mỹ và một số thị trường Châu á.
Hoàn thiện quyết định giá của Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc.
Xác định tổng mức chi phí
Xem xét nhu cầu của khách hàng
Xác định mục tiêu định giá
Xác định chiến lược định giá
Phương pháp định giá
ấn định giá xuất khẩu
Biểu hình 15 : quy trình định giá xuất khẩu
Trong bốn biến số Marketing – Mix (sản phẩm, giá cả, phân phối, giao tiếp, khuyếch chương) thì giá cả là biến số duy nhất tạo ra thu nhập cho Tổng công ty, còn ba biến số còn lại thì cấu thành nên giá thành của hàng hoá. Hơn thế, giá cả là một biến số rất linh hoạt, nó thay đổi rất nhanh và sự thay đổi của giá cả tác động trực tiếp tới tâm lý, thị hiếu của khách hàng. Do vậy, Tổng công ty cần có một chính sách giá hợp lý với chiến lược và phương pháp định giá phù hợp.
Bước 1: Xác định tổng chi phí
Mức tổng chi phí của hàng hoá chính là mức giá thấp nhất mà Tổng công ty có thể cung ứng cho thị trường xuất khẩu. Nó bao gồm:
Các giá mua hàng hoá ở trong nước.
Các loại chi phí.
Chi phí xuất khẩu hàng hoá: chính là lệ phí hải quan, cước phí chuyên trở, chi phí bảo hiểm, hoa hồng và các khoản chi phí khác đánh vào việc xuất khẩu của Tổng công ty. Các loại chi phí nào được tính vào giá xuất khẩu thấp nhất của Tổng công ty còn tuỳ thuộc điều kiện thương mại quốc tế mà Tổng công ty áp dụng để xuất khẩu.
Chi phí cho hoạt động Marketing: bao gồm các chi phí cho các hoạt động nghiên cứu Marketing và thực thi các quyết định Marketing - Mix và cũng bao gồm cả chi phí phát sinh khác.
Các loại chi phí khác: bao gồm các chi phí cho lao động như tiền lương cho cán bộ công nhân viên, thuế lao động, đào tạo, ... chi phí khấu hao tài sản cố định và tài sản lưu động, trượt giá.
Khi xuất khẩu ở mức giá này, Tổng công ty không hề có lợi nhuận, do vậy, nếu mục tiêu xuất khẩu là lợi nhuận thì Tổng công ty không nên thực hiện hoạt động xuất khẩu. Ngược lại nếu mục tiêu là thế vị, xâm nhập thị trường thì Tổng công ty nên tính tới các yếu tố khác có liên quan.
Bước 2: Xem xét nhu cầu khách hàng.
Như dự báo ở phần trước, thị trường mặt hàng nông sản nói chung và thị trường mặt hàng gạo nói riêng sẽ ngày càng được mở rộng do mặt hàng này là mặt hàng thiết yếu và các hoạt động của Chính phủ như tích cực tham gia hoạt động của ASEAN, APEC, chuẩn bị tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này bảo đảm một điều rằng Tổng công ty có thể áp dụng những bước tiếp theo của quy trình định giá. Bởi vì nếu thị trường mà không có nhu cầu thì Tổng công ty cũng không nên cung ứng và xây dựng kế hoạch cung ứng nữa.
Bước 3: Xác định mục tiêu định giá.
Với mục tiêu chiến lược kinh doanh của Tổng công ty là lợi nhuận và vị thế trong đó mục tiêu lợi nhuận là trước mắt còn mục tiêu vị thế là lâu dài thì Tổng công ty nên chọn mục tiêu định giá là: giành vị thế dẫn đầu về chất lượng để thông qua đó có một lợi nhuận và uy tín trên thị trường. Chất lượng cao cần đi đôi với một mức giá thích hợp bởi lẽ khách hàng thường có thói quen dựa vào giá cả để đánh giá chất lượng.
Đã đến lúc Tổng công ty cần phải có một chiến lược định giá để đạt được mục tiêu của chính mình. Bởi vì, mặt hàng gạo là hàng hoá được sử dụng chủ yếu trong đời sống hàng ngày, nó trực tiếp ảnh hưởng đến sức khoẻ của người tiêu dùng. Trong khi đó, con người ngày nay đòi hỏi rất cao về chất lượng của thực phẩm, về vệ sinh an toàn thực phẩm. Cho nên, về lâu dài, công ty nên định giá trên cơ sở chất lượng hàng hoá.
Bước 4: Xác định chiến lược giá.
Giá cao
Giá trung bình
Giá thấp
Chất lượng cao
Chiến lược siêu giá
Chiến lược giá trị cao
Chiến lược giá trị siêu hạng
Sản phẩm trung bình
Chiến lược lấy giá quá cao.
Chiến lược lấy giá trung bình
Chiến lược giá trị tốt
Chất lượng thấp
Chiến lược lừa đảo
Chiến lược tiết kiệm gian dối
Chiến lược tiết kiệm
Biểu hình 16: chiến lược định giá/ chất lượng
Để đạt được mục tiêu của định giá và cao hơn thế là đạt được mục tiêu của chiến lược kinh doanh, Tổng công ty nên chọn chiến lược số 2: chiến lược giá trị cao. Chiến lược này mang hàm ý: hàng của Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc có chất lượng rất cao như sản phẩm A nào đó trên thị trường nhưng khách hàng chỉ phả trả một lượng tiền ít hơn.
Bước 5: Phương pháp định giá.
Sau khi xác định một chiến lược giá để theo đuổi, Tổng công ty tiến hành xác định phương pháp định giá theo giá trị. Đây là phương pháp “Công ty tính giá thấp” (thấp hơn đối thủ cạnh tranh sử dụng giá cao) cho sản phẩm có chất lượng cao với mong muốn cho khách hàng hiểu được chủ trương của Tổng công ty: đảm bảo có lợi cho khách hàng khi mua sản phẩm và tiêu dùng những sản phẩm này. Đây là một phương pháp cũng rất hấp dẫn đối với các khách hàng.
Bước 6: ấn định giá.
Bước cuối cùng của quy trình định giá chính là ấn định giá. Đây là giá cụ thể cho từng loại sản phẩm. Nói một cách khác, bước này sẽ trả lời câu hỏi: “sản phẩm này giá bao nhiêu?”.
Tuy nhiên có một vấn đề mà Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc nên cân nhắc đó là: có nên định giá cứng hay giá mềm đối với từng loại hàng hoá hay không? Giá cứng ở đây được hiểu là là giá cố định cho sản phẩm, còn giá mềm chính là những mức giá thay đổi tuỳ từng thời kỳ, thời điểm bán hàng xác định.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, thì tình hình cạnh tranh là tương đối khó khăn. Vì vậy, VINAFOOD I nên sử dụng mức giá linh hoạt để thích ứng với tình hình cạnh tranh, kinh doanh trên thị trường. Tuy nhiên, việc ấn định mức giá là bao nhiêu đều nhằm mục tiêu của định giá và mục tiêu chiến lược kinh doanh của Tổng công ty.
Đề xuất hoàn thiện kênh phân phối của Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc.
Hiện tại, Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc đang có hai kênh phân phối: một kênh phân phối trực tiếp đến các quốc gia nhập khẩu thông qua các hiệp định giữa hai Chính phủ, một kênh phân phối tới các trung gian thương mại ở châu âu, và các trung gian này sẽ phân phối tới tận tay người tiêu dùng. Qua đó tôi thấy rằng với loại kênh phân phối đầu tiên, tức là dựa vào hợp đồng được ký kết giữa hai Chính phủ có rất nhiều ưu điểm, đảm bảo một thị trường ổn định và lâu dài cho Tổng công ty, nhưng với loại kênh phân phối thứ hai, Tổng công ty sẽ dễ dàng bị mất các thị trường hiện hữu nếu không ký tiếp được hợp đồng với các trung gian phân phối nữa, bởi hiện tại, Tổng công ty không hề có đại lý, chi nhánh hay văn phòng đại diện tại các thị trường này. Trong tương lai, để hoạt động xuất khẩu được tự chủ và ổn định, Tổng công ty nên cố gắng xây dựng các chi nhánh, đại lý của riêng mình, một mặt tìm hiểu, nghiên cứu, phát triển thị trường, một mặt phân phối trực tiếp sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng. Với mục tiêu như vậy, sơ đồ kênh phân phối của Tổng công ty sẽ như sau:
Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc
Nhà nhập khẩu nước ngoài
Người
tiêu dùng cuối cùng
Đại lý, chi nhánh tại nước ngoài
Cửa hàng,
siêu thị
Người
tiêu dùng cuối cùng
Biểu hình 17 : sơ đồ kênh phân phối.
Hoàn thiện quyết định xúc tiến thương mại.
Trong kinh doanh thương mại, chính sách kích thích tiêu thụ hàng hoá có vai trò yểm trợ và tăng cường cho các chính sách sản phẩm và giá cả phân phối. Với mục tiêu nâng cao khả năng bán hàng và tiêu thụ sản phẩm, chính sách giao tiếp – khuyếch trương của Tổng công ty bao gồm hai khía cạnh chủ yếu đó là quảng cáo và xúc tiến bán.
Đối với hoạt động quảng cáo:
Trong thực tế, Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc chưa có một ngân quỹ nhất định giành cho quảng cáo và xúc tiến bán. Vì vậy Tổng công ty cần chú trọng hơn về vấn đề này. Muốn vậy, VINFOOD I phải xây dựng cho mình một chiến lược quảng cáo hợp lý, đồng thời lập ra cho mình một nội dung quảng cáo, hình thức quảng cáo và ngân quỹ giành cho quảng cáo. Bên cạnh đó, Tổng công ty cần phải chú ý đến hình thức quảng cáo và phương tiện quảng cáo. Tức là, Tổng công ty lựa chọn phương tiện quảng cáo nào và hình thức quảng cáo ra sao? Hiện nay hình thức chào hàng trực tiếp được Tổng công ty sử dụng nhiều nhất. Hình thức này được tiến hành qua thư, điện thoại, fax, hội chợ triển lãm. Nhưng để tăng cường quá trình lưu thông hàng hoá, Tổng công ty còn sử dụng Internet và các mối quan hệ thân quen để tìm kiếm đối tác. Khi tiến hành quảng cáo thì Tổng công ty không nên chỉ quảng cáo về mặt hàng kinh doanh mà còn phải quảng cáo về ưu thế của Tổng công ty trên thị trường như: được phép xuất khẩu trực tiếp, có mối quan hệ tốt với bạn hàng, có nhiều nguồn cung ứng dồi dào, giữ được chữ tín với khách hàng, đặc biệt là sự am hiểu về nhóm hàng kinh doanh để ngày càng nâng cao vị thế của Tổng công ty trên thị trường thế giới. Tổng công ty có thể quảng cáo trên cataloge, bìa lịch. VINAFOOD I cần phải xác định được khán giả mục tiêu của Tổng công ty là các công ty thương mại nước ngoài, người tiêu dùng cuối cùng là những người nội trợ.
Xúc tiến bán hàng:
Bên cạnh việc quảng cáo, trong chính sách giao tiếp khuyếch trương còn có xúc tiến bán hàng và yểm trợ bán hàng. Xúc tiến bán hàng là tập hợp các kỹ thuật nhằm đem lại các kết quả bán hàng mang tính tạm thời không ổn định. Xúc tiến bán hàng bao gồm xúc tiến nhu cầu của người tiêu dùng, xúc tiến khu vực thương mại và kích thích nhân viên bán hàng của Tổng công ty. Công nghệ xúc tiến bán hàng có thể là khi mua một số lô hàng hoá, khuyến khích mua sẽ được tặng thêm một sản phẩm nhất định, tuỳ theo từng danh mục sản phẩm mà sử dụng phương pháp này, và thường tặng các sản phẩm mới của Tổng công ty để quảng cáo hoặc tặng chính sản phẩm đó. Bên cạnh đó có những khoản chiết khấu hợp lý thoả đáng như: giảm giá do trả tiền sớm, giảm giá cho những khách hàng mua đúng thời vụ thu hoạch, giảm giá do mua số lượng lớn, giảm giá tăng thưởng… Đồng thời có các hoạt động giảm giá trong những thời điểm đặc biệt như ngày lễ, tết, ngày thành lập Tổng công ty... Các hình thức này cần được áp dụng có tính thường xuyên.
Khi áp dụng các kỹ thuật này, Tổng công ty cần phải chú ý đặc điểm và tình trạng các mặt hàng, đối tượng mua, mục tiêu để lựa chọn kỹ thuật xúc tiến phù hợp. Việc sử dụng các kỹ thuật mà cần phải được phối hợp kỹ nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Trong công tác xác định về xúc tiến bán giúp cho xây dựng vững chắc hình ảnh của Tổng công ty ở trong tâm trí khách hàng.
Về đào tạo đội ngũ cán bộ
Đội ngũ cán bộ là nguồn nhân lực quan trọng đối với sự thành công của một công ty trong tất cả mọi hoạt động. Có một đội ngũ cán bộ đầy kinh nghiệm, năng động và năng lực sẽ đem về cho Tổng công ty những bản hợp đồng mới, các quá trình thực hiện hợp đồng được thuận lợi và rủi ro ít hơn.
Vì vậy, Tổng công ty cần tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ về nghiệp vụ xuất nhập khẩu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn. Cử các cán bộ có năng lực đi dào tạo tại các nước có kinh nghiệm trong công tác quản lý cũng như các hoạt động kinh doanh cua một công ty.
một số kiến nghị vĩ mô của nhà nước nhằm tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu nói chung và xuất khẩu mặt hàng gạo nói riêng.
Về chính sách tín dụng:
Vốn là yếu tố then chốt trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc nói riêng. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, để tăng lượng vốn kinh doanh là rất khó khăn. Vì vậy, nếu Nhà nước cấp tín dụng sẽ giúp các doanh nghiệp ổn định được nguồn hàng. Nhà nước có thể tạo nguồn vốn cho các doanh nghiệp bằng các biện pháp sau:
Nới lỏng các quy định về bảo lãnh trong việc doanh nghiệp vay vốn nước ngoài để đầu tư cho sản xuất mà tổ chức nước ngoài cho vay này sẽ thanh toán bằng sản phẩm sản xuất từ tiền vay đó.
Cấp giấy sở hữu tài sản cho các doanh nghiệp Nhà nước.
Phát huy tối đa tác dụng của hình thức thuê mua thiết bị.
Đề nghị Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu phương án chỉ áp dụng quy định về mức chênh lệch tối đa giưã lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay, không quy định mức lãi suất tiền như hiện nay để tạo điều kiện có lợi cho người đầu tư và người vay vốn. Ngân hàng Nhà nước nên nghiên cứu bạn hàng, các quy định về việc chiết khấu ngay các L/C mở cho hàng xuất khẩu khi có đủ chứng từ theo quy định của thủ tục mở L/C.
Để khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu những hàng hoá chưa cần thiết, có thể áp dụng lãi suất đối với nguồn cho vay xuất khẩu bằng 50 % mức lãi suất cho vay để nhập khẩu. Trong chính sách lãi suất ưu đãi đối với vốn vay phục vụ xuất khẩu có thể chia ra nhiều mức lãi suất khác nhau để áp dụng cho những ngành hàng, nhóm hàng hay mặt hàng khác nhau nhằm khuyến khích những sản phẩm được sản xuất chế biến từ nguồn nguyên liệu trong nước hay thu hút được nhiều lao động.
Bảo lãnh tín dụng.
Để chiếm lĩnh và giữ khách hàng, các doanh nghiệp không tránh khỏi việc phải chấp nhận trả chậm. Với loại hình thanh toán này sẽ có rất nhiều rủi ro cho doanh nghiệp xuất khẩu. Để các nhà xuất khẩu yên tâm, Nhà nước nên phát huy hiệu quả dịch vụ bảo hiểm để bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp. Nhà nước nên thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng như bảo lãnh chứng từ thương mại.
Kiến nghị về tổ chức hoạt động xuất khẩu gạo trong thời gian tới.
Cải tiến phương thức đầu mối và hạn ngạch xuất khẩu gạo.
Hiện nay, Chính phủ đang áp dụng cơ chế quản lý xuất khẩu gạo bằng hạn ngạch với 33 đơn vị đầu mối xuất khẩu gạo trực tiếp trong cả nước. Nhưng cơ chế này có rất nhiều điểm hạn chế, nó làm cho các doanh nghiệp đầu mối hay bị động trong việc giao dịch xuất khẩu. Các doanh nghiệp chỉ mới chủ yếu ký kết và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu từng chuyến theo mùa vụ với điều kiện giá cả bấp bênh và nhiều rủi ro khác chứ chưa đạt tới những hợp đồng xuất khẩu ổn định cả năm hoặc dài hạn hơn. Vì vậy, Chính phủ nên bỏ cơ chế quản lý xuất khẩu gạo bằng hạn ngạch, chuyển sang điều tiết bằng thuế xuất khẩu.
Điều tiết xuất khẩu gạo bằng công cụ thuế.
Thuế xuất khẩu là công cụ quan trọng hàng đầu để điều tiết hoạt động xuất khẩu gạo. Tham khảo thị trường Thái Lan, thuế xuất khẩu của nước này bao gồm 3 thành tố:
Thuế đánh theo tỷ lệ phần trăm trên giá trị gạo xuất khẩu.
Thuế đánh theo định mức trên đầu tấn gạo xuất khẩu. Định mức này thay đổi theo phẩm cấp gạo và được điều chỉnh lên, xuống tuỳ theo thời giá gạo trong cũng như ngoài nước để tác động ổn định giá gạo nội địa và điều tiết sản lượng gạo xuất khẩu.
Khoản điều động gạo dự trữ bắt buộc có tính chất thuế. Những lúc thị trường gạo có biến động, Chính phủ áp khoản này để bắt buộc các doanh nghiệp phải bán cho Chính phủ một lượng gạo nhất định với giá rẻ hơn thị trường để có thể thiệp bình ổn thị trường lương thực nội địa.
Hiện nay, ở Việt Nam, Chính phủ chỉ áp dụng một khoản thuế xuất khẩu gạo với thuế suất được điều chỉnh từ 0 – 3 %. Để tăng cường mức độ điều tiết của công cụ thuế đối với hoạt động xuất khẩu gạo cho phù hợp với cơ chế thị trường, nước ta cũng nên áp dụng thuế xuất khẩu có nhiều thành phần với công dụng khác nhau.
Điều tiết hoạt động xuất khẩu gạo bằng đòn bẩy giá cả.
Nhà nước nên cải tiến phương thức giá cả cho đồng bộ, góp phần điều tiết hoạt động xuất khẩu gạo hữu hiệu hơn, dựa trên các nguyên tắc sau:
Lúc không có biến động, Chính phủ chỉ thông báo khung gía sàn, giá trần mua lúa và hệ thống giá xuất khẩu gạo mang tính chất hướng dẫn. Nhà xuất khẩu được quyền chủ động quyết định giá mua nguyên liệu và giá xuất khẩu gạo thành phẩm trên căn bản phù hợp với giá thị trường nội địa, thị trường thế giới và bảo đảm hiệu quả của doanh nghiệp.
Những lúc có biến động trên thị trường: Chính phủ sẽ tác động để bình ổn giá trên thị trường nội địa nhằm ổn định sản xuất thông qua công cụ thuế.
Kiểm tra chất lượng gạo xuất khẩu.
Muốn nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu phải giải quyết nhiều vấn đề căn bản từ các khâu sản xuất, xử lý sau thu hoạch và xay xát chế biến. Riêng trong khâu kiểm tra chất lượng gạo xuất khẩu cần phải chú trọng loại trừ tình trạng gian lận, giao hàng không đúng phẩm chất so với hàng mẫu của hợp đồng. Để đảm bảo uy tín chất lượng gạo Việt Nam trên thị trường thế giới, Chính phủ cần có văn bản pháp lý cụ thể về việc kiểm tra chất lượng gạo xuất khẩu ban hành kèm theo bảng tiêu chuẩn gạo Việt Nam quy định rõ những hình thức chế tài, xử lý nghiêm khắc các trường hợp cố ý gian lận làm giảm uy tín chất lượng gạo xuất khẩu Việt Nam ảnh hưởng tới các doanh nghiệp khác. Còn các đơn vị làm nhiệm vụ kiểm phẩm nếu thông đồng, bao che cho sự gian lận về chất lượng gạo xuất khẩu của các doanh nghiệp cũng phải bị xử lý nghiêm khắc như các doanh nghiệp vi phạm.
Tạo điều kiện cấp giấy chứng nhân xuất xứ và đơn giản hoá thủ tục quản lý xuất khẩu gạo.
Để nâng cao chất lượng gạo, Chính phủ và Bộ thương mại cần khảo sát và quy định những công nghệ chế biến nào được sử dụng trong chế biến gạo. Giao cho cục thuế và Bộ NN và Phát Triển Nông Thôn kiểm định, đánh giá toàn bộ dây chuyền công nghệ chế biến. Cho phép đơn vị chế biến đạt tiêu chuẩn đạt chất lượng Việt Nam, cấp giấy chứng nhận cho các lô hàng chế biến để làm căn cứ cho cơ quan giám định chất lượng kiểm định và cho phép xuất.Điều đó giảm bớt việc phải giám định từng lô hàng khi cơ quan giám định được khách hàng uỷ quyền kiểm định có như vậy mới nâng cao được chữ tín của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
Chính phủ cấp hạn ngạch thẳng cho các doanh nghiệp đầu mối và các đơn vị trúng thầu. Việc nhận uỷ thác xuất khẩu gạo để cho doanh nghiệp đầu mối tự quyết định.
Đơn giản hoá hơn nữa các nghiệp vụ kê khai hải quan trong thủ tục quản lý xuất khẩu gạo để các doanh nghiệp nhanh chóng triển khai giao hàng và Hải quan cần tập trung hơn vào việc giải quyết thu thuế xuất khẩu đầy đủ, không để tồn đọng nhiều trường hợp nợ thuế.
Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu gạo.
Nhà nước nên phát triển hệ thống cảng biển, đầu tư nâng công suất bốc dỡ hàng hóa, xây dựng các cảng biển để tầu lớn có thể cập bến dễ dàng, nạo vét luồng lạch.
Phát triển dịch vụ bảo hiểm và vận tải hàng hải phục vụ xuất khẩu gạo.
Công ty Bảo Việt nên tiến hành liên doanh với các hãng bảo hiểm danh tiếng trên thế giới để tạo sự tín nhiệm tốt hơn của khách hàng nước ngoài, nhờ vậy, các nhà xuất khẩu gạo có thể chủ động hơn trong việc chào bán hàng theo điều kiện CIF.
Nâng cao chất lượng công tác tiếp thị để mở rộng thị trường xuất khẩu gạo.
Xét trên bình diện rộng thì quan hệ Việt Nam chưa vững chắc vì chưa đứng vững trên các thị trường cơ bản. Phần lớn nguyên nhân của tình trạng này là do công tác tiếp thị để mở rộng thị trường xuất khẩu gạo chưa được chú trọng đúng mức trong thời gian qua.
Mặt khác, đối với việc theo dõi thông tin giá cả thị trường, hiện nay, trong nước, có nhiều đơn vị thu thập thông tin, theo dõi diễn biến sản xuất, xuất khẩu và giá cả thị trường lúa gạo. Nhưng chất lượng thông tin kém, manh mún, thiếu chính xác, thông tin về giá thường không rõ là giá của loại lúa gạo gì, phẩm cấp nào, giá bán buôn hay bán lẻ? Thiếu thông tin về lượng tồn kho, còn thông tin về thị trường gạo thế giới thì rất thiếu và những tin có được thường đã mất tính thời sự. Việc công bố thường xuyên hệ thống giá tham khảo về các mặt hàng gạo xuất khẩu Việt Nam với thị trường thế giới cũng chưa được thực hiện tốt.
Để nâng cao chất lượng công tác tiếp thị, mở rộng thị trường xuất khẩu gạo nói chung, Chính phủ nên giao cho Uỷ ban Quốc gia Điều hành xuất khẩu gạo , thống nhất tổ chức hoàn thiện công tác này. Trong đó cần chú trọng nhiều hơn vào các mặt sau:
Thiết lập mạng lưới thông tin hiện đại, sử dụng máy vi tính nối mạng từ trung tâm Uỷ ban Quốc gia điều hành xuất khẩu gạo đến các điểm thu thập tin cần thiết trên toàn quốc để thường xuyên nắm chắc thông tin về sản xuất, sản lượng thu hoạch, tồn kho lúa gạo, biến động giá cả, tình hình tiêu thụ gạo nội địa và xuất khẩu. Đồng thời, tổ chức một số điểm thu thập tin trực tiếp ở nước ngoài và trao đổi thông tin với các tổ chức quốc tế liên quan đến mậu dịch gạo để theo dõi kịp thời các diễn biến về cung – cầu, giá cả và các giao dịch đáng chú ý của thị trường gạo thế giới, nhất là thông tin về hoạt động xuất khẩu gạo của những đối thủ cạnh tranh lớn như: Thái Lan, ấn Độ, Hoa Kỳ…Thông tin về nhập khẩu gạo của các khu vực thị trường như Trung Quốc, Đông Bắc á, Srilanka, và Tây á, Indonexia và Đông Nam á, iran và Trung Đông, Pháp, và Tây Âu, Nga và Đông Âu, Châu Phi, Brazil và Châu Mỹ Latin… Trên cơ sở đó, Uỷ ban Quốc gia Điều hành xuất khẩu gạo đưa ra quy định cụ thể về khai thác nguồn thông tin phục vụ hoạt động xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp sao cho có hiệu quả nhất.
Tổ chức một Trung tâm giao dịch xuất khẩu gạo trực thuộc Uỷ ban Quốc gia Điều hành xuất khẩu gạo đặt tại thành phố Hồ Chí Minh. Trung tâm này có nhiệm vụ riêng biệt như: làm địa điểm yết giá gạo xuất khẩu của Việt Nam, tổ chức đấu thầu hạn ngạch xuất khẩu gạo, đấu thầu thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo theo hiệp định của Chính phủ, điều phối các giao dịch cung ứng và xuất khẩu gạo có thanh toán bù trừ để hỗ trợ các doanh nghiệp có khả năng tăng thêm sản lượng giao dịch.
Tổ chức nghiên cứu tiếp cận thị trường gạo thế giới một cách bài bản hơn, thường xuyên thông báo cho các doanh nghiệp về nhu cầu, thị hiếu đối với sản phẩm gạo của khách hàng và những diễn biến giá cả, hướng dẫn các doanh nghiệp trực tiếp đi nghiên cứu tiếp thị ở những thị trường chủ yếu, đi tham gia đấu thầu quốc tế ở các nước nhập khẩu gạo để giành hợp đồng cung cấp gạo ổn định và dài hạn.
Ngoài ra, Hiệp hội xuất nhập khẩu lương thực Việt Nam cũng cần phải đẩy mạnh hoạt động về mặt đối ngoại để trợ giúp tích cực hơn cho hội viên như: thiết lập chi nhánh ở nước ngoài, ký kết các thoả ước trao đổi thông tin với Hiệp hội tương tự ở các nước khác, đại diện hội viên tham dự các hội chợ đấu thầu gạo quốc tế.
Những kiến nghị để đảm bảo tốt nguồn cung ứng :
Sản xuất chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu nông sản thì cần đầu tư mạnh cho phát triển sản xuất hàng nông sản theo chiều sâu, từng bước nâng cao chất lượng hàng nông sản. Các biện pháp tiến hành bao gồm:
Đảm bảo tiêu thụ lúa gạo cho nông dân:
Công tác đảm bảo đầu ra cho nông dân là rất cần thiết để làm được như vậy đòi hỏi phải có sự quan tâm đặc biệt của nhà nước. Có 5 giải pháp tiêu thụ lúa và đẩy mạnh xuất khẩu gạo:
Thứ nhất, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu, gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến công nghiệp ( công nghệ sau thu hoạch để đạt được chất lượng gạo tốt nhất.
Thứ hai, tăng cường mở rộng thị trường xuất khẩu. Đi đôi với việc tăng cường ký kết các hợp đồng Chính phủ, khuyến khích các doanh nghiệp tự tịm kiếm thị trường xuất khẩu.
Thứ ba, thực hiện cơ chế hợp đồng hai chiều giữa doanh nghiệp thương mại với nông dân đảm bảo hai bên cùng có lợi.
Thứ tư, khi giá lúa xuống tới dưới mức 1.300 đ/1kg, Chính phủ giao cho Bộ thương mại tổ chức mua tạm trữ. Cơ chế tạm trữ này do Bộ thương mại xây dựng và báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Cuối cùng, Chính phủ sẽ xây dựng mô hình thí điểm cho nông dân gửi thóc vào kho của Nhà nước chờ giá lên và có thể lấy đó làm cơ sở thế chấp cho nông vay vốn để phục vụ kịp thời sản xuất và bán lúa vào thời điểm có lợi nhất cho nông dân. Đây là chính sách rất khả thi và mong rằng nó sớm được thực hiện để đem lại khả năng đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu ổn định cho các doanh nghiệp và đời sống tốt hơn cho người nông dân.
Tạo nguồn vốn ban đầu cho nông dân.
Đây là việc làm hết sức cần thiết vì để mở rộng được diện tích gieo trồng, thay đổi cơ cấu giống cây trồng, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đòi hỏi phải có những chi phí không nhỏ mà nhiều khi người nông dân không tự trang trải được. Trong thời gian qua, các chương trình trợ giúp vốn cho người dân đã được thực hiện song kết quả thu được còn rất hạn chế. Nguyên nhân của nó là do việc người dân vay vốn với lãi suất ưu đãi diễn ra dàn trải, thiếu tập trung. Điều đó dẫn tới mỗi hộ nông dân chỉ có thể vay được vài trăm nghìn đồng, không đủ đầu tư cho sản xuất. Các hộ nông dân năng động muốn làm ăn lớn đã phải đi vay với lãi suất tín dụng thông thường nhưng lại gặp khó khăn trong vấn đề tài sản thế chấp. Trong khi đó, ngân hàng lại có hiện tượng ứ đọng tiền mặt. Để khắc phục hạn chế này, trong thời gian tới, Nhà nước cần đưa ra những chính sách ưu đãi đối với Ngân hàng phục vụ người sản xuất nông sản, khuyến khích các cơ sở chế biến, các nhà kinh doanh nông sản ứng trước vốn để mua nông sản. Bên cạnh đó cũng cần khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực này.
Tiến hành nghiên cứu, cải tạo giống cây trồng
Nhằm nâng cao chất lượng hàng nông sản. ở Việt Nam thời gian qua, năng suất và sản lượng nông sản đã tăng lên đáng kể, song nó cũng nảy sinh ra một vấn đề là người sản xuất chạy theo những giống cây trồng có năng suất cao mà không chú ý đến chất lượng nông sản. Trong sản xuất lúa gạo, tỷ lệ diện tích lúa đặc sản như tám thơm, nàng hương, nếp cái hoa vàng.. ngày càng thấp. Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, làm cho giá hàng nông sản của ta luôn ở mức thấp hơn so với giá cả trung bình của thế giới. Trong xu hướng chung của xuất khẩu hàng nông sản hiện nay đang chuyển từ cạnh tranh bằng giá cả sang cạnh tranh bằng chất lượng hàng hoá thì đây là bất lợi lớn đối với Việt Nam. Để hạn chế được vấn đề này, Việt Nam không còn con đường nào khác là gieo trồng các giống cây cho sản phẩm chất lượng cao, từng bước hạn chế và dần loại bỏ các giống cây có chất lượng thấp.
Nhà nước cần có chính sách đầu tư hỗ trợ cho công tác nhân giống và hỗ trợ nông dân chăn nuôi và gieo trồng giống mới. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần xây dựng kế hoạch và tổ chức nhân giống cây nông sản cho từng vùng.
Giành cho công tác khuyến khích nông kinh phí thích đáng để xây dựng mô hình trình diễn những loại giống mới, giống chọn lọc, đào tạo huấn luyện kỹ thuật viên, tổ chức thăm quan những mô hình tốt để mở rộng diện tích nông nghiệp, áp dụng những tiến bộ kỹ thuật.
Nhà nước cấp kinh phí thoả đáng cho các Viện, Trường, Trung tâm để làm công tác nghiên cứu thí nghiệm, trồng và chăn nuôi thử nghiệm giống mới, nhằm đáp ứng cho nông dân cung cấp sản phẩm nông sản cho xuất khẩu.
Nhà nước phải đầu tư vốn để cải tạo, mở mang giao thông, thuỷ lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp. Ngăn chặn triệt để nạn phá rừng, cháy rừng. Sản phẩm nông nghiệp tính theo đầu người của chúng ta còn thấp, do đó chúng ta phải tăng cường đầu tư nhân lực, vốn vào sản xuất và từng bước nâng cao chất lượng. Muốn vậy, ta phải quy vùng sản xuất, phải có những vùng chuyên canh.
Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản, từng bước nâng cao tỷ lệ hàng nông sản chế biến trong cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu. Trong thời gian qua, hàng nông sản xuất khẩu của chúng ta chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô nên vừa hạn chế mở rộng thị trường xuất khẩu vừa ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu. Vì thế, trong thời gian tới, Nhà nước cần đẩy mạnh việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và công nghiệp chế biến, tăng cường đầu tư cho công nghiệp chế biến, bao bì, mẫu mã, tạo ra loại sản phẩm nông sản có hàm lượng công nghiệp cao. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên khuyến khích xuất khẩu nông sản chế biến thông qua tăng hạn ngạch cho các loại sản phẩm này, giảm thuế xuất khẩu.
Khuyến khích đầu tư liên doanh vào sản xuất và chế biến nông sản. Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động này sẽ đem đến cho Việt Nam nhiều lợi ích mà trước hết là vốn và công nghệ thích hợp. Bên cạnh đó còn giúp Việt Nam giải quyết các vấn đề khó khăn về giống cây trồng chất lượng cao, kỹ thuật thâm canh, bí quyết trong chế biến sản phẩm, thâm nhập vào thị trường mới. Song song với vấn đề này, Nhà nước cũng cần chú ý nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám định nhằm khắc phục tình trạng liên doanh thì lỗ nhưng bên nước ngoài vẫn lãi do việc tính đội giá trong góp vốn liên doanh, biến Việt Nam thành bãi rác công nghiệp do việc nhập các thiết bị máy móc đã cũ kỹ lạc hậu.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34369.doc