Thực trạng chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội thành phố Việt Trì - Tỉnh Phú Thọ

Lời mở đầu Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khả năng lao động, hoặc bị mất việc làm. Bảo hiểm xã hội còn là một chính sách xã hội cần thiết của nhà nước đối với người lao động và các thành viên trong gia đình họ. Bởi vậy, bảo hiểm xã hội tồn tại khách quan và là nhu cầu cần thiết đối với người lao động, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. Điều kiện để Bảo hiểm xã hội tồn tại và phát triển là

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội thành phố Việt Trì - Tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cần phải có một nguồn quỹ độc lập, hoạt động theo nguyên tắc của một quỹ tài chính. Quỹ này được hình thành chủ yếu trên cơ sở đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự giúp đỡ của Nhà nước. Nguồn hình thành quỹ và vấn đề sử dụng có hiệu quả nguồn quỹ bảo hiểm xã hội có ý nghĩa sống còn đối với ngành Bảo hiểm xã hội hiện nay. Đặc biệt, công tác chi trả là một vấn đề mới rất quan trọng đối với hoạt động Bảo hiểm xã hội vì nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi và đời sống người của các đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội , xuất phát từ nhận thức trên, cho nên trong quá trình thực tập làm luận văn tốt nghiệp tại Bảo hiểm xã hội thành phố Việt Trì- tỉnh Phú Thọ em đã chọn đề tài: "Thực trạng chi trả các chế độ BHXH tại BHXH thành phố Việt Trì - Tỉnh Phú Thọ". Để nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu ở đây là: nhằm tìm ra được một số tồn tại và nguyên nhân của nó, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội để hoạt động Bảo hiểm xã hội ở nước ta nói chung và ở thành phố Việt Trì- tỉnh Phú Thọ nói riêng ngày càng có hiệu quả tốt hơn. Nội dung đề tài nghiên cứu ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 03 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về BHXH và chế độ BHXH Chương II: Thực trạng chi trả các chế độ BHXH tại BHXH thành phố Việt Trì - tỉnh Phú Thọ. Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chi trả các chế độ BHXH. Chương I Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội và chế độ bảo hiểm xã hội i- Sự cần thiết khách quan và vai trò của Bảo hiểm xã hội: 1-Bản chất của bảo hiểm xã hội : BHXH là sản phẩm tất yếu của một xã hội phát triển đến một trình độ nhất định về kinh tế và tổ chức xã hội.Bản chất của BHXH được thể hiện ra trên một số mặt cơ bản sau: + Về phương diện cá nhân,BHXH là một nhu cầu của con người. BHXH nhằm đảm bảo an toàn tính mạng con người, giữ cho cuộc sống ổn định , an toàn ,tránh được nghèo đói sa sút, khi bị mất những nguồn thu nhập trong cuộc sống . Đó chính là các nhu cầu về BHXH , và cũng là những nhu cầu tự nhiên trong hệ thống các nhu cầu về cuộc sống của con người . Điều này xuất phát từ nhu cầu cần thiết để đảm bảo các tiêu chuẩn hay giá trị cho một cuộc sống tối thiểu . Theo nhà nghiên cứu tâm lý và hành vi của con người (Abraham Maslow) nhu cầu BHXH nằm trong nhóm các nhu cầu ở bậc thiết yếu cùng với các nhu cầu về điều kiện sinh tồn khác là cơm ăn , áo mặc và các điều kiện sinh hoạt khác như nhà ở ,đi lại ở mức tối thiểu .Và BHXH cần phải được đảm bảo trước khi thoả mãn các nhu cầu xã hội khác rộng hơn trong đời sống của con người như các nhu cầu về quan hệ trong xã hội , về địa vị xã hội.. BHXH thực sự là một trong những nhu cầu bức thiết . Các Mác đã từng viết “Vì nhiều rủi ro khác nhau nên phải giành một số thặng dư nhất định cho quĩ bảo hiểm xã hội để baỏ đảm mở rộng theo kiểu luỹ tiến quá trình tái sản xuất ở mức độ cần thiết ,phù hợp với sự phát triển của nhu cầu và tình hình tăng dân số “. BHXH thoả mãn nhu các cầu về bảo đảm cuộc sống như đã trình bày ở trên còn là cần thiết để tái sản xuất sức lao động , một trong những tiền đề quan trọng nhất cho quá trình tái sản xuất xã hội. +Dưới góc độ kinh tế: BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp.Trong đó :đối với những người hưởng các chế độ của BHXH, thì đó là sự bảo đảm thu nhập , bảo đảm cuộc sống khi họ ở trong điều kiện khó khăn do bị giảm hay mất khả năng lao động mà bị giảm hay mất thu nhập .Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân,hoạt động của BHXH mang nội dung của quá trình phân phối và quá trình phân phối lại một phần thu nhập trong dân cư thông qua việc hình thành và sử dụng quĩ BHXH, một quỹ tiền tệ tập trung có quy mô rất lớn và ngày càng tăng lên. Khi có sự phát triển của thị trường tài chính và nếu được quản lí và sử dụng tốt, quỹ BHXH còn có khả năng sinh lợi qua các hoạt động đầu tư hợp pháp khác nhau .Việc sử dụng quỹ BHXH để đầu tư sinh lời được thấy rất rõ trong các nước có nền kinh tế và thị trường phát triển .Hiện tại BHXH Việt nam đã bắt đầu thực hiện hoạt động này như dùng quỹ BHXH để mua trái phiếu kho bạc nhà nước .Trong tương lai việc sử dụng quỹ này vào các hoạt động đầu tư cũng sẽ được mở rộng ra với nhiều hình thức khác nhau . +Về phương diện chính trị: BHXH là sự liên kết giữa những người lao động khác nhau trong xã hội cùng vì lợi ích chung của cộng đồng, trong đó có các cá nhân tham gia BHXH.BHXH cũng phản ánh bản chất của một chế độ xã hội nhất định .Đối với quốc gia đây còn là những hoạt động thể hiện thái độ trách nhiệm của chính phủ đối với người dân trong xã hội.Trong rất nhiều nước, sự không ổn định hay khủng hoảng của hệ thống BHXH đều có tác động rất mạnh đến hệ thống chính trị của các nước đó.Chính vì vậy mà các chính sách BHXH nằm trong hệ thống chung của các chính sách về kinh tế , xã hội, và là một trong những bộ phận hữu cơ trong hệ thống các chính sách quản lý đất nước của các quốc gia. + Về mặt xã hội : BHXH được xem như là một loạt các hoạt động mang tính xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người dân và làm lành mạnh xã hội .Thông qua đó mà bảo vệ và phát triển nguồn lao động , xã hội , mở rộng sản xuất , phát triển kinh tế , ổn định trật tự xã hội nói chung .BHXH mang tính nhân văn , nhân đạo sâu sắc vì lợi ích của con người trong những hoàn cảnh gặp khó khăn ,vì an sinh xã hội và có ý nghĩa xã hội rất lâu dài. Như vậy , tổ chức và vận hành một hệ thống BHXH phải đứng trên quan điểm tổng thể toàn diện .BHXH không thể tách khỏi một thể chế chính trị nhất định và chỉ dựa trên những cơ sở nền tảng kinh tế cụ thể .BHXH không phải là loại hình bảo hiểm cá nhân hay cá nhân tự bảo hiểm mà đó là sự bảo hiểm đặt trong những ràng buộc giữa những con người với nhau trong những mối quan hệ nhất định trong cộng đồng , mặc dù xuất phát điểm bao giờ cũng là các nhu cầu của mỗi con người. 2- Sự cần thiết khách quan và vai trò của Bảo hiểm xã hội: 2.1-Sự cần thiết khách quan : Như chúng ta đã biết, con người muốn tồn tại và phát triển được, trước hết phải ăn, mặc, ở, đi lại... để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải làm ra những sản phẩm để phục vụ những nhu cầu đó. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng hoàn thiện và văn minh hơn. Nghĩa là, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào khả năng lao động của chính họ. Nhưng con người, ai cũng có quá trình sinh ra, trưởng thành, già rồi chết. Khi còn nhỏ chưa thể lao động được thì chắc chắn phải dựa vào người đã trưởng thành nuôi dưỡng. Khi trưởng thành thì phải lao động để tự nuôi sống mình và những người phụ thuộc. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn, bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác như bất ngờ bị ốm đau, tai nạn lao động mất khả năng nuôi dưỡng hoặc khi tuổi già khả năng lao động và khả năng phục vụ đều suy giảm. Khi lâm vào hoàn cảnh đó, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm trí có thể xuất hiện thêm nhu cầu mới, như khi ốm đau cần phải chữa bệnh, khi sinh đẻ có nhu cầu bồi dưỡng cho người mẹ hoặc đứa con... và hàng loạt các nhu cầu khác. Bởi vậy muốn tồn tại con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau, một trong những cách đó là “Bảo hiểm xã hội”. Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khả năng lao động hay bị mất việc làm. Bảo hiểm xã hội còn là một chính sách xã hội cần thiết của Nhà nước đối với người lao động và các thành viên trong gia đình họ. Bởi vậy, Bảo hiểm xã hội tồn tại khách quan và là nhu cầu cần thiết đối với người lao động, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. ở nước ta, hiện nay Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Với chức năng thông qua việc huy động các nguồn đóng góp của các thành viên để trợ cấp lại cho họ nhằm khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập gây ra khi họ bị mất sức lao động tạm thời hay vĩnh viễn góp phần đảm bảo an toàn xã hội, tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị. Hoạt động Bảo hiểm xã hội mang ý nghĩa nhân văn là nét đẹp tổng hoà về đạo lý và văn hoá của cộng đồng trên cơ sở bắt buộc hoặc tự nguyện hợp tác vì sự tiến bộ của xã hội. Thế giới hoạt động bảo hiểm xã hội có lịch sử hình thành và phát triển gần 200 năm, đã trải qua các hình thái kinh tế- xã hội khác nhau, mỗi hình thái có một cách giải quyết đặc thù nhất định. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do chưa có tư hữu tư liệu sản xuất, mọi người cùng nhau hái lượm, săn bắn, sản phẩm thu nhập phân bố bình quân nên khó khăn, bất lợi của mỗi người được cả cộng đồng san sẻ, gánh chịu. Trong xã hội phong kiến, quan lại thì dựa vào chế độ bổng lộc của Nhà Vua, dân cư thì dựa vào sự đùm bọc lẫn nhau trong họ tộc, cộng đồng làng xã hoặc sự cứu giúp của những người hảo tâm và của Nhà nước. Ngoài ra, họ còn có thể đi vay hoặc đi xin... Với những cách này, người gặp khó khăn hoàn toàn thụ động trông chờ vào sự hảo tâm của phía giúp đỡ. Do đó, sự giúp đỡ mới chỉ là khả năng, có thể có hoặc không, có thể nhiều hoặc ít, không hoàn toàn chắc chắn. Từ khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá phát triển, xuất hiện việc thuê mướn nhân công, lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, dần dần về sau phải cam kết các việc đảm bảo cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu sống thiết yếu khi họ ốm đau, tai nạn, thai sản, tuổi già... Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra nên người chủ không phải chi một đồng tiền nào. Nhưng cũng có khi lại xảy ra dồn dập, buộc người chủ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, giới thợ phải liên kết với nhau để đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện những cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn đã tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Dần dần trong cơ chế thị trường đã xuất hiện một bên thứ ba đóng vai trò trung gian giúp thực hiện những cam kết giữa giới chủ và giới thợ bằng hoạt động thích hợp của nó. Nhờ vậy, thay vì cho việc phải chi trực tiếp những khoản tiền lớn khi người lao động làm thuê bị ốm đau, tai nạn... giới chủ có thể trích ra hàng tháng một khoản tiền nhỏ được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất những biến cố của tập hợp những người lao động làm thuê. Số tiền này được giao cho bên thứ ba tồn tích dần thành một quỹ tiền tệ. Khi người lao động bị ốm đau, tai nạn thì cứ theo các cam kết giữa giới chủ và giới thợ bên thứ ba chi trả, không phụ thuộc vào giới chủ có muốn hay không. Như vậy, một mặt giới chủ đỡ bị thiệt hại về kinh tế bởi một lúc không phải chi ra một khoản tiền lớn, mặt khác người lao động làm thuê lại được đảm bảo chắc chắn phần thu nhập khi bị ốm đau, tai nạn lao động, thai sản... Trong lĩnh vực kinh tế- xã hội, không ai có thể dự tính hết được mọi khía cạnh, nhiều trường hợp rủi ro xảy ra vượt quá khả năng khắc phục của một ông chủ. Để tồn tại, các ông chủ cũng phải liên kết với nhau trong việc chống lại áp lực đấu tranh của giới thợ, đồng thời cũng để san sẻ gánh nặng rủi ro với nhau. Song trong thực tế, vấn đề lợi ích luôn luôn vận động với tất cả những khía cạnh phức tạp của nó. Giới thợ luôn luôn mong muốn được bảo đảm nhiều hơn trước, còn giới chủ luôn luôn mong muốn phải chi ít hơn, do vậy việc tranh chấp chủ- thợ lại tiếp diễn. Trước tình hình đó, Nhà nước buộc phải can thiệp vào; sự can thiệp này, một mặt làm tăng vai trò của Nhà nước, giới chủ buộc phải đóng góp thêm khi tình hình kinh tế xã hội của phát triển, đồng thời giới thợ cũng phải đóng góp một phần vào sự đảm bảo cho chính mình, cả giới chủ và giới thợ đều thấy có lợi và được bảo vệ. Song chính là nhờ những mối quan hệ ràng buộc như vậy mà rủi ro, bất lợi của người lao động được giàn trải theo nhiều chiều, một quỹ tiền tệ tập chung trên phạm vi quốc gia nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già ... được thiết lập. Nhờ vậy đã tạo ra những khả năng giải quyết các phát sinh của rủi ro của cả tập thể người lao động trong phạm vi bao quát của quỹ. Toàn bộ những hoạt động và những mối quan hệ chặt chẽ đó được thế giới quan niệm là Bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Vì vậy, ta có thể hiểu bảo hiểm xã hội chính là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích dần do sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động dưới sự bảo trợ và điều tiết của Nhà nước nhằm đảm bảo thu nhập để thoả mãn nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình họ khi gặp những biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập lao động. Những biến cố, rủi ro này xảy ra ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan gắn với quá trình lao động và được nhìn nhận không chỉ trên cơ sở quan hệ lao động mà còn trên quan điểm xã hội. Nó bao gồm những trường hợp bị mất việc làm, mất hoặc giảm khả năng làm việc trong quá trình lao động như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, và cả những trường hợp liên quan diễn ra ngoài quá trình đó như mất người nuôi dưỡng, tàn tật không do tai nạn lao động, đồng thời bảo hiểm xã hội cũng đảm nhiệm những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản, làm tăng chi tiêu đột ngột. Vì xét cho cùng thì việc tăng chi tiêu đột ngột trong những trường hợp như thế sẽ làm tụt ngân sách gia đình trên đầu người và làm giảm khả năng thanh toán của người lao động đối với những nhu cầu sinh sống thiết yếu từ thu nhập theo lao động. Vì vậy quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội luôn là một tất yếu khách quan trong đời sống kinh tế xã hội trên mọi quốc gia nhằm đảm bảo cho cuộc sống của người lao động khi họ gặp rủi ro, làm cho họ yên tâm công tác, lao động sản xuất cống hiến cho xã hội. Ngày nay mọi người lao động trong xã hội đều thấy cần thiết phải tham gia bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội đã trở thành nhu cầu, quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên trong xã hội và có quyền hưởng Bảo hiểm xã hội”. 2.2- Vai trò của Bảo hiểm xã hội: Quá trình hình thành và sự phát triển bảo hiểm xã hội cho chúng ta thấy rõ bảo hiểm xã hội không chỉ có vai trò to lớn đối với đời sống của người lao động, đảm bảo được thu nhập của người lao động khi họ mất việc làm, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà thông qua đó trật tự xã hội được đảm bảo, tạo điều kiện thúc đẩy xã hội phát triển công bằng và văn minh hơn. Trong điều kiện kinh tế thị trường với nhiều biến động không ngừng, bảo hiểm xã hội tồn tại, hoạt động và phát triển dựa trên mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa người sử dụng lao động với người lao động thông qua bên thứ ba- Tổ chức bảo hiểm xã hội chuyên trách dưới sự bảo trợ đặc biệt của Nhà nước. Trong mối quan hệ đó: - Về phía người sử dụng lao động: Mặc dù phải đóng một phần vào quỹ bảo hiểm xã hội nhưng họ không phải chi ra những khoản tiền lớn khi những người lao động gặp những rủi ro nêu trên. - Về phía người lao động: Bảo hiểm xã hội đặt chỗ dựa về mặt tâm lý cho họ, giúp họ yên tâm trong công tác từ đó nâng cao hiệu quả công việc, hạn chế được tình hình ngừng trệ sản xuất kinh doanh, giảm thiệt hại cho người sử dụng lao động. Đồng thời thực hiện sinh đẻ có kế hoạch vì khi tuổi già có quỹ bảo hiểm xã hội nuôi dưỡng không cần đẻ nhiều con. - Đối với Nhà nước: Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của mỗi quốc gia. Vì thực hiện bảo hiểm xã hội góp phần ổn định xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Thực hiện bảo hiểm xã hội sẽ hình thành quỹ tiền tệ tập trung có thể đầu tư một phần vào các hoạt động kinh tế để sinh lời, tăng thêm nguồn thu cho quỹ bảo hiểm xã hội. Do việc chi trả không phải lúc nào cũng diễn ra thường xuyên, cho nên Nhà nước có thể đầu tư trở lại để bảo toàn quỹ. Mặt khác, bảo hiểm xã hội giúp cho Nhà nước điều tiết và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội. Như vậy, tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội đưa lại lợi ích cho cả ba bên: + Người lao động. + Người sử dụng lao động. + Nhà nước và xã hội. Do đó cả ba bên đều có mối quan hệ với bảo hiểm xã hội. Cùng với tiến trình phát triển của xã hội, bảo hiểm xã hội ngày càng trở thành một nhu cầu thường xuyên, tự nhiên, chính đáng của người lao động. Nó cần phải được đáp ứng như hàng loạt nhu cầu thiết yếu khác của con người, nó là một bộ phận cấu thành trong hệ thống chính sách kinh tế- xã hội của quốc gia. Bảo hiểm xã hội không những đóng một vai trò thiết yếu về mặt xã hội mà còn mang một ý nghĩa kinh tế- chính trị to lớn. Tính kinh tế được thể hiện: Bảo hiểm xã hội phải tính toán thu- chi và hiệu quả hoạt động (nhưng khác với kinh doanh kiếm lời). Bảo hiểm xã hội có ý nghĩa chính trị bởi thông qua đó tính ưu việt, trình độ văn minh của một thể chế chính trị của một quốc gia, của một Nhà nước được thể hiện. Ngoài những ý nghĩa trên bảo hiểm xã hội còn mang tính nhân đạo, tính nhân văn cao cả, nó thực hiện theo quy luật “lấy số đông bù cho số ít” tức là lấy sự đóng góp nhỏ của số đông chu cấp cho số ít mà vì lý do nào đó (bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp...) họ bị giảm đi hoặc mất thu nhập hay rủi ro trong cuộc sống bình thường. Vai trò của bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế xã hội nói chung còn được thể hiện: - Tạo tâm lý ổn định, yên tâm hơn trong sản xuất làm cho năng suất lao động cá nhân và xã hội không ngừng tăng lên. - Đối với giới chủ mạnh dạn mở rộng quy mô sản xuất, thuê mướn nhân công từ đó làm cho sản xuất của họ phát triển... - Bảo hiểm xã hội góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế cho đất nước trên cơ sở quỹ bảo hiểm xã hội khi ở thời kỳ nhàn rỗi có thể đầu tư cho sản xuất tức là để góp một phần đáng kể cho việc phát triển nền kinh tế. Từ những vấn đề đã được trình bày ở trên chúng ta có thể khẳng định rằng bảo hiểm xã hội là một vấn đề rất cần thiết khách quan của tất cả các quốc gia trên thế giới hiện nay. Đồng thời bảo hiểm xã hội cũng có vai trò hết sức quan trọng trong tất cả các lĩnh vực Kinh tế- Chính trị- Xã hội. II- Nội dung bảo hiểm xã hội. 1- Bảo hiểm xã hội trên thế giới. Cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội, bảo hiểm xã hội đã có những bước tiến đáng khích lệ và ngày càng trở nên thiết yếu đối với người lao động, nhu cầu đó phải được đáp ứng như nhu cầu cơm áo, áo mặc hàng ngày của hầu hết người lao động nói chung trong xã hội. Hơn nữa sự phát triển của bảo hiểm xã hội gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất trên thế giới. Những nước có nền sản xuất phát triển, khoa học công nghệ đã dần dần đi vào đời sống sản xuất, cụ thể là các nước tư bản chủ nghĩa ở châu Âu và châu Mỹ, bảo hiểm xã hội ra đời sớm và nổi rõ nhất từ thời kỳ bắt đầu công nghiệp hoá, trong xã hội xuất hiện tầng lớp làm công ăn lương. Hệ thống bảo hiểm xã hội đầu tiên ra đời tại Cộng hoà Liên bang Đức (1850) bằng việc chính quyền nhiều bang ở Cộng hoà Liên bang Đức bắt tay trực tiếp với giới thợ thuyền thiết lập quỹ ốm đau do chính những người thợ phải đóng góp bắt buộc được đề ra từ năm 1883 được giao cho Hội đồng quản lý, đến năm 1884 mở tiếp bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp do các Hiệp hội giới chủ quản lý và năm 1889 phát triển thêm bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật do các tỉnh quản lý. Như vậy ba đối tác xã hội là giới thợ, giới chủ, Nhà nước đã đóng vai trò quan trọng và có trọng lượng trong việc quản lý hệ thống. Các trợ cấp xã hội như các tên của nó chỉ ra được chi trả từ các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội. Các loại trợ cấp này là bắt buộc đối với người làm công ăn lương có trình độ hoặc không, bắt buộc đối với người già cũng như đối với người trẻ, đàn ông cũng như đàn bà và hoàn toàn độc lập với tình trạng sức khoẻ của họ. Từ bây giờ trở đi, những người không có gì ngoài khoản tương trợ của Nhà nước còn được một hệ thống trợ cấp mới bảo vệ mà không phải lo, phải khai báo về tình trạng khốn khó và lo vào sống ở trại tế bần dành cho người nghèo. Nguyên tắc bảo hiểm là sự thể hiện tình đoàn kết của giai cấp công nhân, bởi vì họ thường xuyên đóng góp để dự phòng cho đồng nghiệp của mình trong trường hợp rủi ro bị rơi vào cảnh khốn khó, đồng thời thể hiện mối quan tâm chung giữa người lao động và người sử dụng lao động cùng chi trả cho một chế độ mà hiệu quả của nó không chỉ mang lại lợi ích cho người lao động mà còn cho cả người sử dụng lao động. Tiếp theo nước Cộng hoà Liên bang Đức là một loạt các nước châu Âu và các nơi khác. Trong những năm 30, bảo hiểm xã hội đã tìm thấy đất của mình ở châu Mỹ la tinh, nước Mỹ và Canađa. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II và sau ngày đăng quang độc lập rất nhiều nước châu Phi, châu á và vùng Caribê cũng xây dựng cho mình một hệ thống bảo hiểm xã hội, và cùng trong giai đoạn đó khái niệm “Bảo hiểm xã hội” được sử dụng chính thức đầu tiên trong tiêu đề của một điều luật của nước Mỹ: Luật năm 1935 về bảo hiểm xã hội, Luật này chỉ mới đề cập đến hưu trí, tử tuất, tàn tật và thất nghiệp. Khái niệm này lại được tái xuất hiện vào năm 1938 trong một Đạo luật của Tây Ban Nha, Đạo luật này được tập hợp một số hình thức trợ cấp đang tồn tại và các hình thức trợ cấp mới. Năm 1944, khái niệm này được sử dụng trong một tài liệu chiến tranh được biết đến dưới tên “Hiến chương Đại Tây Dương”, tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã không chậm trễ trong việc chấp nhận khái niệm này, đây là khái niệm được diễn đạt một cách rành mạch và phổ cập nhất của toàn bộ nhân loại trên thế giới. Khi đi vào thực hiện bảo hiểm xã hội, một số nước bước đầu mới chỉ thực hiện từng phần với một số chế độ, sau đó tuỳ theo điều kiện kinh tế- xã hội và nhu cầu thực tế phát sinh mà mở thêm các chế độ bảo hiểm khác. Chính vì vậy mà mỗi nước có điều kiện khác nhau sẽ có các chế độ bảo hiểm xã hội khác nhau, không nước nào có thể ngay từ đầu thực hiện tất cả các chế độ bảo hiểm xã hội khi xét thấy chế độ này phù hợp nhất sẽ ưu tiên thực hiện trước. Có nước chọn trợ cấp ốm đau, thai sản, với chế độ này đòi hỏi thời gian đóng góp ngắn hạn, lại đảm bảo trợ cấp nhanh, hơn nữa nó phù hợp với tâm lý người lao động trẻ họ thường lo lắng đến những khó khăn trước mắt, đồng thời nó mang lại sự tín nhiệm đối với bảo hiểm xã hội. Trái lại, có những nước bắt đầu thực hiện bảo hiểm xã hội bằng các chế độ trợ cấp tuổi già, tàn tật, tử tuất. Ưu điểm của việc thực hiện các chế độ này là khi bắt đầu với những chế độ bảo hiểm xã hội ít phải chi trả trợ cấp ngay và thường xuyên, do đó có thời gian tích luỹ quỹ bảo hiểm xã hội nên có thể đem đầu tư sinh lợi tăng trưởng thêm thu nhập cho bảo hiểm xã hội nói riêng và cho quốc gia nói chung. Nhưng không phải mọi quốc gia đều thiết lập một cơ chế bảo hiểm xã hội một cách hoàn thiện, mà bằng cách này hay cách khác tuỳ thuộc vào điều kiện cho phép của đất nước việc thiết lập còn phải dựa trên cơ sở cố gắng nỗ lực của Nhà nước. Đến nay đã trải qua trên 100 năm ra đời và phát triển, Bảo hiểm xã hội trở nên rất phong phú, đa dạng được áp dụng rộng rãi trên 160 nước trên thế giới. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế- xã hội ở mỗi quốc gia có sự khác nhau, do đó Bảo hiểm xã hội cũng có những điểm khác nhau. Nhưng vấn đề duy nhất cơ bản mà nước nào cũng phải giải quyết khi xây dựng hệ thống Bảo hiểm xã hội của mình đó là: 1.1- Phạm vi đối tượng. Theo Hội nghị quốc tế về an toàn lao động của tổ chức lao động quốc tế (ILO) quy định bảo hiểm xã hội là một hệ thống gồm 3 tầng: + Tầng 1: Là tầng cơ sở để áp dụng cho một thành viên trong xã hội, trong đó chủ yếu là cho những người nghèo và người có thu nhập thấp. Vì vậy, tầng lớp này gọi là “Tầng lưới an toàn” + Tầng 2: Dành cho các đối tượng có công ăn việc làm, đây là đối tượng bắt buộc gồm công chức viên chức Nhà nước, người lao động ở các thành phần kinh tế. + Tầng 3: Là tầng bảo hiểm xã hội tự nguyện hay còn gọi là bổ xung. Tất cả các nước thực hiện bảo hiểm xã hội đều được xác định phạm vi đối tượng bảo hiểm xã hội dựa vào thu nhập của người lao động làm công ăn lương. Ban đầu tập trung vào công nhân viên chức Nhà nước, tiếp đến cho người lao động ở các thành phần kinh tế khác. Hiện nay, một số nước ban hành chế độ bảo hiểm xã hội cho tất cả mọi tầng người tham gia, một số nước khác lại có chế độ bảo hiểm xã hội riêng cho đối tượng viên chức Nhà nước. 1.2- Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội. Tháng 8 năm 1952 Hội nghị hàng năm của (ILO) đã thông qua Công ước 102 về quy định phạm vi tối thiểu về đảm bảo xã hội gồm 9 chế độ: + Chăm sóc y tế + Trợ cấp thất nghiệp + Trợ cấp gia đình + Trợ cấp khi sinh đẻ + Trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp + Trợ cấp ốm đau + Trợ cấp tuổi già + Trợ cấp khi tàn phế + Trợ cấp cho người còn sống Trong đó (ILO) đã khuyến cáo mỗi nước tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội phải thực hiện ít nhất 1 trong 5 chế độ sau: + Trợ cấp thất nghiệp + Trợ cấp gia đình + Trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp + Trợ cấp tuổi già + Trợ cấp cho người còn sống Số liệu sau đây cho biết các chế độ mà các nước đã thực hiện qua một số năm như sau: Bảng 1: Tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội ở một số nước trên thế giới Năm 1940 1949 1958 1967 1981 1993 Số nước thực hiện BHXH nói chung 57 58 80 120 139 163 - Số nước thực hiện chế độ: Tai nạn L.động- Bệnh nghề nghiệp 24 57 77 117 136 155 - Số nước thực hiện chế độ: Hưu trí, tàn tật, tử tuất 33 44 56 92 127 155 - Số nước thực hiện chế độ: ốm đau, thai sản 57 36 59 65 79 102 - Số nước thực hiện chế độ: Trợ cấp gia đình 7 27 38 62 67 82 - Số nước thực hiện chế độ: Trợ cấp thất nghiệp 21 22 26 34 37 63 Qua số liệu bảng 1 chúng ta thấy được ngày càng có nhiều nước thực hiện hoạt động bảo hiểm xã hội với số lượng các chế độ ngày càng tăng trong đó số nước thực hiện chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cũng như chế độ hưu trí, tử tuất phát triển khá nhanh dù dưới hình thức này hay hình thức khác trong hệ thống bảo hiểm xã hội hầu như tất cả các nước đều trang bị cho mình dạng trợ cấp này. Hơn nữa số nước đã thiết lập chế độ bảo trợ cho người lao động trong trường hợp ốm đau, thai sản. Song chỉ có được 1/4 số nước thực hiện chế độ trợ cấp thất nghiệp, chế độ này thường chỉ thấy ở những nước công nghiệp phát triển và có nền kinh tế thị trường. 1.3- Điều kiện hưởng- Mức hưởng bảo hiểm xã hội: Điều kiện chung để hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội ở các nước là phải tham gia đóng phí bảo hiểm xã hội, với chế độ hưu trí thời gian đóng góp bắt buộc của các nước lao động từ 15 năm đến 37,5 năm, ngoài ra còn kèm theo điều kiện tuổi đời và tuổi thọ bình quân của quốc gia. Mức hưởng bảo hiểm xã hội nói chung là thấp hơn mức lương đang làm việc. 1.4- Quỹ bảo hiểm xã hội: Phần lớn các nước đều quy định cả giới thợ, giới chủ đều phải đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội. Tỷ lệ đóng góp có thể là một tỷ lệ theo tiền lương hoặc một tỷ lệ theo một khoản thu nhập nhất định nào đó. Một số nước còn quy định có thêm sự hỗ trợ của Nhà nước. * Nguồn thu: Nguồn thu để hình thành quỹ bảo hiểm xã hội, đại đa số các nước đều thống nhất như sau: + Tiền đóng (phí bảo hiểm xã hội) của chủ và người thợ. + Tiền trợ cấp từ ngân sách Nhà nước + Tiền sinh lời từ các hoạt động đầu tư + Tiền phạt do đóng bảo hiểm xã hội chậm + Tiền thu từ các khoản thuế do Nhà nước quy định Tỷ lệ và phương thức đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội phụ thuộc vào việc xây dựng các chế độ bảo hiểm xã hội của từng Nhà nước, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước bao gồm các dạng: + Mức đóng theo phần trăm (%) mức lương của người lao động + Theo một mức quyđịnh (Quy định cứng) + Theo mức thu nhập thực tế của người lao động + Theo mức tối đa. * Các khoản chi: - Các khoản chi về bảo hiểm xã hội của các nước thường bao gồm: + Chi trả trợ cấp bảo hiểm xã hội ngắn hạn: Y tế, ốm đau, thai sản + Chi trả trợ cấp bảo hiểm xã hội dài hạn: Hưu trí, mất sức lao động, tử tuất... + Trợ cấp thương tật lao động, mất sức lao động tạm thời hay vĩnh viễn, trợ cấp người ăn theo. + Chi để đầu tư sinh lời và chi phí quản lý. 1.5- Quản lý quỹ bảo hiểm xã hội: Hầu hết các nước đều giao cho Bộ Lao động và xã hội quản lý, Nhà nước thống nhất đối với hệ thống bảo hiểm xã hội. Bộ Tài chính giám sát về hoạt động tài chính, Bộ Y tế giám sát phần chăm sóc y tế trong hệ thống đó, hoạt động nghiệp vụ về bảo hiểm xã hội thường có một hệ thống riêng. Quỹ bảo hiểm xã hội đều do một hội đồng quản lý điều hành, một số nước lập ra hệ thống cơ quan bảo hiểm xã hội quốc gia thuộc bộ chủ quản. Các nước Tây Âu và Bắc Mỹ ngoài phần bảo hiểm xã hội bắt buộc theo luật định, Chính phủ còn cho phép thành lập các công ty tư nhân của các tổ chức xã hội làm phần bảo hiểm xã hội mà Nhà nước không làm. Trên đây là một số nét chung về bảo hiểm xã hội trên thế giới được các nước đã và đang thực hiện. 2- Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Thực tế Bảo hiểm xã hội Việt Nam ra đời trong thời kỳ Pháp thuộc. Một trong những chính sách nổi bật nhằm duy trì bộ máy cai trị của chính quyền Thực dân là chính sách bảo hiểm xã hội cho đội ngũ công chức, quân nhân Việt Nam và lực lượng vũ trang của Pháp ở Đông Dương (gồm các chế độ hưu bổng, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, ốm đau...) mặc dù đây là chế độ bảo hiểm xã hội đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam nhưng phạm vi thực hiện còn trong hạn hẹp. Sau cách mạng tháng 8- 1945, Đảng và Nhà nước đã sớm quan tâm đến vấn đề bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội thực sự là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động và cộng đồng. Điều đó được thể hiện ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội. Sắc lệnh 54/SL ngày 01 tháng 11 năm 1945 ấn định những điều kiện cho công chức về hưu. Sắc lệnh số 105/SL ngày 14 tháng 6 năm 1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức. Hai sắc lệnh này ._.đã quy định công chức phải đóng hưu liễm vào trong quỹ hưu bổng có phần đóng thêm của Nhà nước. Sắc lệnh số: 76/SL ngày 20 tháng 05 năm 1950 ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn lao động và tiền tuất đối với viên chức. Trong khu vực sản xuất lúc này chưa thành lập quỹ bảo hiểm xã hội, nhưng sắc lệnh số 29/SL ngày 12 tháng 03 năm 1947 và sắc lệnh số 77/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 đã ấn định cụ thể các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân. Sau khi hoà bình lập lại ở Miền Bắc, thực hiện Hiến pháp năm 1959, Hội đồng Chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nước kèm theo Nghị định số 218/CP ngày 27 tháng 11 năm 1961. Các chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm 6 loại trợ cấp: + Chế độ trợ cấp ốm đau + Chế độ trợ cấp hưu trí + Chế độ trợ cấp tử tuất + Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp + Chế độ trợ cấp thai sản + Chế độ trợ cấp mất sức lao động Đáng chú ý là đến lúc này quỹ bảo hiểm xã hội được chính thức thành lập, là quỹ thuộc ngân sách Nhà nước. Các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước chỉ nộp một tỷ lệ phần trăm (%) so với tổng quỹ lương của công nhân viên chức và công nhân viên chức không phải đóng góp phí bảo hiểm xã hội. Điều lệ tạm thời này được thực hiện trong suốt thời gian gần 32 năm. Trong quá trình này có một số điểm bổ sung, sửa đổi nhưng chỉ là về tỷ lệ nộp của các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, điều kiện và mức hưởng trợ cấp, cách tính thời gian công tác, tiền lương làm căn cứ tính mức trợ cấp, cơ quan quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. Cái mới ở giai đoạn này là đã có thêm cơ chế bảo hiểm xã hội đối với khu vực ngoài quốc doanh trong khu vực tiểu thủ công nghiệp. Liên hiệp xã, Trung ương ban hành điều lệ tạm thời về chế độ bảo hiểm xã hội đối với các xã viên hợp tác xã và các tổ hợp sản xuất tiểu thủ công nghiệp (theo Quyết định 292/BCH- LĐ ngày 15 tháng 02 năm 1982). Về cơ bản, điều lệ này mô phỏng theo mô hình các chế độ bảo hiểm xã hội trong khu vực Nhà nước, tuy có tính đến một số đặc điểm của ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Đặc điểm khác quan trọng hơn là nguồn thu dựa trên cơ sở tiền đóng góp của người lao động nhưng do sản xuất tiêủ thủ công nghiệp không ổn định nên người lao động đóng góp không thường xuyên, quỹ bảo hiểm xã hội lại không có sự bảo hộ của Nhà nước. Vì vậy, điều lệ chỉ được thực hiện trong thời gian ngắn ngủi đến năm 1989 phải chấm dứt. ở giai đoạn này, trong khu vực nông nghiệp tuy chưa có bảo hiểm xã hội chính thống, nhưng do nhu cầu cuộc sống một số nơi đã tự phát lập ra chế độ bảo hiểm tuổi già trong phạm vi thôn xã là chính. Quỹ bảo hiểm tuổi già được hình thành chủ yếu bằng số thóc nộp của những người tham gia, trợ cấp tuổi già cũng bằng thóc cho nên điều này chỉ là hình thức sơ khai có tính chất bảo hiểm xã hội, phạm vi tác dụng còn nhiều hạn chế. Như vậy trải qua 30 năm thực hiện cho đến gần đây các chế độ bảo hiểm xã hội như đã nêu phần trên đã được nhiều lần sửa đổi bổ sung theo sự thay đổi của tình hình kinh tế- xã hội của đất nước. Trong các lần đó, lần sửa đổi bổ xung quan trọng nhất là vào tháng 8- 1985 bằng Nghị định 236/HĐBT khi Nhà nước thực hiện tổng điều chỉnh Giá- Lương- Tiền để phù hợp với chính sách kinh tế- xã hội trong giai đoạn mới ở nước ta hiện nay, khi công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước ngày càng đi vào chiều sâu. Trong các chính sách xã hội thì việc cải cách đổi mới chế độ bảo hiểm xã hội có một yêu cầu cấp bách. Ngày 22 tháng 6 năm 1993 Chính phủ ban hành Nghị định số 43/CP quy định cụ thể về chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động ở các thành phần kinh tế. Đây là sự cải cách toàn diện về bảo hiểm xã hội nhằm xoá bỏ tư duy bao cấp, ỷ nại trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, mở ra loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện; thực hiện cơ chế đóng góp phí bảo hiểm xã hội đối với những người được bảo hiểm xã hội. Trong loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc thì người sử dụng lao động cũng phải đóng góp phí bảo hiểm xã hội nhân danh những người lao động sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà nước hỗ trợ thêm; quy định lại 5 chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội là: ốm đau (ngoài bảo hiểm y tế), tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí và tử tuất. Xoá bỏ chế độ trợ cấp mất sức lao động vốn đã bộc lộ nhiều biểu hiện tiêu cực và bất hợp lý; thống nhất hoá hệ thống bảo hiểm xã hội trong cả nước. Tỷ lệ trích nộp phí bảo hiểm xã hội, cách tính thời gian tham gia bảo hiểm xã hội, điều kiện hưởng trợ cấp, tiền lương làm căn cứ và mức hưởng trợ cấp đều được sửa đổi căn bản. Tuy vậy đối với loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện vẫn chưa có những quy định chi tiết và cụ thể. Trên cơ sở thực tiễn thực hiện bảo hiểm xã hội từ trước đến nay, nhất là dựa vào những kinh nghiệm thực hiện Nghị định 43/CP cơ chế bảo hiểm xã hội đã được chế định thành một chương trong Bộ luật Lao động được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 23 tháng 6 năm 1994 và đã được cụ thể hoá trong Điều lệ bảo hiểm xã hội mới ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995 và Nghị định 19/CP ngày 11 tháng 02 năm 1995 về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Chương Bảo hiểm xã hội trong Bộ luật lao động bao gồm những quy phạm có tính nguyên tắc. Điều lệ bảo hiểm xã hội mới có sửa đổi một vài quy định cụ thể, chủ yếu là một số điều kiện và mức hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội, so với quy định theo Nghị định 43/CP. Điều lệ bảo hiểm xã hội mới được ban hành căn cứ vào Bộ luật Lao động đã mở ra một trang lịch sử ra đời và phát triển của chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta, với cơ chế kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.1- Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam. Bảo hiểm xã hội là một chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người lao động và cộng đồng. Sự ra đời và phát triển của các chế độ bảo hiểm xã hội gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà trước đây và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay. Chính sách bảo hiểm xã hội và việc tổ chức thực hiện nó trong những năm trước đây đã thực sự là nguồn động viên cổ vũ công nhân viên chức yên tâm phấn khởi lao động sản xuất góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Tuy nhiên cùng với sự phát triển, đổi mới đi lên của đất nước các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội trước đây không còn phù hợp với tình hình đổi mới theo các Nghị quyết Đại hội Đảng VI- VII- VIII đã đề ra. Đặc biệt là trong việc hình thành quỹ Bảo hiểm xã hội. Chúng ta có thể tóm tắt sơ lược nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam qua các giai đoạn sau: a- Giai đoạn 1945- 1961: Như đã nêu ở phần trên sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Chính phủ ta đã có Sắc lệnh 27/SL ngày 12 tháng 3 năm 1947, Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 ban hành một số chính sách về bảo hiểm xã hội nhằm ổn định tình hình chính trị- xã hội lúc bấy giờ, đảm bảo các quyền lợi của cán bộ công nhân viên chức và công chức- viên chức trong chính quyền Pháp thuộc tiếp tục làm việc cho Nhà nước ta. Do điều kiện nguồn tài chính hạn hẹp nên Chính phủ ta chỉ quy định hai chính sách bảo hiểm xã hội đó là: Chính sách trợ cấp hưu trí và trợ cấp tử tuất. Đồng thời Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã quy định mức đóng góp để có nguồn chi cho các chế độ nêu trên cụ thể là: + Những người thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội phải nộp từ 6% - 7% tiền lương được hưởng hàng tháng. + Cơ quan, đơn vị có người tham gia bảo hiểm xã hội phải trích nộp 7% - 10% tổng quỹ lương để nộp vào quỹ bảo hiểm xã hội. Như vậy thời kỳ này người lao động và người sử dụng lao động đã phải đóng phí bảo hiểm xã hội từ 13% đến 17% tiền lương. Nhận xét về chế độ bảo hiểm xã hội lúc bấy giờ các nhà hoạch định chính sách phát triển kinh tế và xã hội cũng như các nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng Chính phủ ta đã sớm tiếp thu những chính sách kinh tế- xã hội trong đó có chính sách bảo hiểm xã hội đang áp dụng hiện hành tại nước Pháp, ở các nước thuộc địa bàn mà đang được vận dụng thực hiện tại Việt Nam đối với công chức, viên chức làm việc cho chính quyền Pháp trước đây. Chính cách này tuy sơ khai nhưng đã phản ảnh được những mặt tiến bộ nhất định về việc hình thành một quỹ bảo hiểm xã hội. Nguồn quỹ này chủ yếu dựa vào sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Điều đó cho thấy tư tưởng chỉ đạo của Chính phủ ta ngày từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà muốn đảm bảo cân đối tài chính về hoạt động bảo hiểm xã hội và ổn định cuộc sống cho công chức- viên chức Nhà nước nhằm động viên khuyến khích họ yên tâm phục vụ. Ngay từ thời gian đầu hình thành các hoạt động về bảo hiểm xã hội, Nhà nước ta đã khẳng định rằng chỉ nên hỗ trợ một phần cho hoạt động bảo hiểm xã hội khi cần thiết chứ không bao cấp. b- Giai đoạn 1961- 1987: Sau khi hoà bình lập lại, ở Miền Bắc thi hành điều 32 Hiến pháp năm 1959, Chính phủ ta đã ban hành điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội đối với công chức, viên chức Nhà nước (theo Nghị định 218/CP ngày 27 tháng 12 năm 1961) và được áp dụng từ năm 1962, theo đó các chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm 6 chế độ như đã nêu phần trên. Để có nguồn chi cho các chính sách bảo hiểm xã hội đã được ban hành Chính phủ ta đã quy định chế độ trích lập quỹ bảo hiểm xã hội là 4,7% tổng quỹ lương của công nhân viên chức Nhà nước do các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước trích nộp hàng tháng. b- Giai đoạn 1988- 1992: Trước tình hình quỹ bảo hiểm xã hội trong thời kỳ 1976- 1987 có nhiều tồn tại và chưa phù hợp với tình hình thực tế của nền kinh tế xã hội. Sang đầu thập kỷ 80 Nhà nước ta đã có quyết định đột phá trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội. Theo quyết định số 181/HĐBT ngày 30 tháng 10 năm 1986 của Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định nâng mức đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam quản lý từ 3,7% quỹ lương lên 5%. Năm 1988 Chính phủ quy định mức thu bảo hiểm xã hội cho các chế độ bảo hiểm xã hội do Bộ Lao động thương binh và xã hội quản lý là 10% quỹ tiền lương do cơ quan, xí nghiệp Nhà nước trích nộp, nhưng sau đó do cuộc sống của công nhân viên chức Nhà nước có nhiều khó khăn nên trích lại 2% trong tổng số 10% từ tổng quỹ lương để chi trợ cấp khó khăn cho cán bộ công nhân viên chức Nhà nước. Như vậy thu bảo hiểm xã hội để chi trả 6 chế độ bảo hiểm xã hội do cơ quan quản lý từ năm 1988 là 13% tổng quỹ tiền lương. Mục đích của việc nâng tỷ lệ đóng góp là nhằm giảm bớt một phần trợ giúp của ngân sách Nhà nước cho quỹ bảo hiểm xã hội trong việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội. c- Giai đoạn từ 1993 đến nay: Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới nền kinh tế đất nước theo hướng kinh tế thị trường, chuyển từ hình thức “Đơn sở hữu” sang hình thức “Đa sở hữu” từ nền kinh tế với sự độc quyền của thành phần kinh tế Nhà nước sang nền kinh tế nhiều thành phần nhằm khuyến khích, tận dụng, phát huy mọi năng lực sản xuất trong xã hội. Cho đến giai đoạn này công cuộc đổi mới của đất nước đã thu được rất nhiều kết quả tốt đẹp và ngày càng đi vào chiều sâu, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển và thu hút lao động vào làm việc ngày càng đông. Trong khu vực quốc doanh, Nhà nước chủ trương xoá bỏ dần chế độ bao cấp với các thành phần kinh tế quốc doanh và thực hiện cơ chế hạch toán kinh doanh trên nguyên tắc “Lời ăn lỗ chịu”, mở rộng thế chủ động trong kinh doanh cho các doanh nghiệp và buộc các doanh nghiệp phải hoàn thành đầy đủ các chỉ tiêu chất lượng với Nhà nước trên cơ sở đảm bảo đời sống cho người lao động, nếu không đáp ứng được các yêu cầu trên buộc phải giải thể hoặc chuyển hướng kinh doanh. Đối với các quỹ ngân sách, Nhà nước chủ trương chỉ tiếp tục bao cấp với các quỹ có ý nghĩa sống còn về an ninh quốc gia, giảm dần trợ cấp các quỹ danh cho y tế, giáo dục. Các quỹ thuộc ngân sách Nhà nước buộc phải tách ra thực hiện chế độ tự đảm bảo thu- chi và Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần khi gặp khó khăn không thể khắc phục được hoặc để giải quyết những vấn đề là hậu quả của quá khứ. Quỹ bảo hiểm xã hội thuộc diện này. Trước yêu cầu phải đổi mới các chính sách bảo hiểm xã hội cho phù hợp với tình hình kinh tế- xã hội trong điều kiện mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngày 22 tháng 6 năm 1993 quy định tạm thời các chế độ bảo hiểm xã hội, sau đó là Nghị định 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995 về việc ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội, Nghị định 19/CP ngày 16 tháng 02 năm 1995 về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Theo điều lệ bảo hiểm xã hội mới này thì các chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm: Chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ trợ cấp tử tuất. Như vậy là đã bỏ đi chế độ trợ cấp mất sức lao động vốn đã bộc lộ nhiều tiêu cực và không còn giữ được mục đích ý nghĩa ban đầu của nó nữa. Về đối tượng bảo hiểm xã hội điều lệ quy định gồm có: - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên, hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên. - Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế khác tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. - Người lao động làm việc trong các tổ chức liên doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc các lực lượng vũ trang. - Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện. - Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện. - Những đối tượng trên được gọi chung là người lao động. Điều lệ cũng quy định quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp, ngân sách Nhà nước đóng và hỗ trợ, lãi hoạt động bảo tồn tăng trưởng quỹ và thu khác. Mức đóng góp của các bên vào quỹ bảo hiểm xã hội và việc sử dụng quỹ được quy định như sau: - người lao động hàng tháng đóng 5% tiền lương vào quỹ bảo hiểm xã hội để thực hiện chế độ hưu trí, tử tuất. - Người sử dụng lao động hàng tháng đóng 15% tổng quỹ tiền lương vào quỹ bảo hiểm xã hội. Trong đó: 10% để thực hiện các chế độ hưu trí, tử tuất; 5% để thực hiện chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. 2.2- Hệ thống tổ chức quản lý quỹ bảo hiểm xã hội qua các thời kỳ: Hệ thống chính sách chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam được hình thành và phát triển từ năm 1962 với mục đích hỗ trợ cho người lao động (những người tham gia bảo hiểm xã hội) khi họ gặp những rủi ro bất khả kháng. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau mà bảo hiểm xã hội mới chỉ thu hút được một bộ phận nhỏ người lao động gồm những người làm việc trong các khu vực Nhà nước và lực lượng vũ trang. Về bộ máy quản lý và thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam có thể chia làm 02 thời kỳ lớn: - Giai đoạn trước khi có Nghị định 12/CP và 19/CP năm 1995. - Giai đoạn sau khi có Nghị định 12/CP và 19/CP của Chính phủ cho đến nay. a- Giai đoạn trước khi có Nghị định 12/CP và 19/CP năm 1995. Hệ thống tổ chức làm công tác bảo hiểm xã hội và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội phân tán ở ba cơ quan khác nhau như: - Bộ Tài chính thu phần quỹ bảo hiểm xã hội dành để chi trợ cấp hưu trí. - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam có trách nhiệm thu và chi trả các chế độ trợ cấp thường xuyên như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. - Bộ Lao động Thương binh và xã hội giải quyết những vấn đề liên quan đến chế độ hưu trí, tử tuất, mất sức lao động... Nhìn chung với sự hỗ trợ khá lớn của ngân sách Nhà nước những cơ quan trên đã thực hiện được chức năng của mình về thu và chi các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của Nhà nước và cũng tuỳ theo từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội mà Nhà nước quy định tỷ lệ thu phí bảo hiểm xã hội và tỷ lệ do các ngành thu và quản lý khác nhau. Điều đó được thể hiện qua giai đoạn 1961 đến 1987 với mức thu 4,7% tổng quỹ lương. Trong đó: 1% do Bộ Lao động thương binh và xã hội thu và quản lý để chi trả cho các chế độ hưu trí, mất sức lao động và tử tuất. Còn 3,7% để chi cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam thu và quản lý chi. Có thể thấy ở giai đoạn này nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam chỉ bao gồm nguồn thu từ người sử dụng lao động và nguồn tài trợ của ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà nước xác định là hạch toán riêng biệt tuy một phần quỹ vẫn nằm trong hệ thống ngân sách Nhà nước, vẫn được ngân sách Nhà nước hỗ trợ khi không đảm bảo được cân đối thu chi. Trong giai đoạn này quỹ bảo hiểm xã hội cũng không được đem đầu tư phát triển và tăng trưởng nhằm mục đích bảo toàn quỹ... Với cách tính toán đơn giản về mức đóng góp của các cơ quan, xí nghiệp vào quỹ bảo hiểm xã hội nhìn bề ngoài có vẻ hợp lý nhưng lại không tính đến những yếu tố khách quan lâu dài, không dự đoán được nhu cầu phát sinh để có biện pháp dự phòng, tích luỹ. Vì vậy Nhà nước đã định ra mức đóng góp quá thấp như vậy thu không đủ chi làm cho quỹ bảo hiểm xã hội bị bội chi trong những năm sau đó, có thể nói việc định ra mức phí nộp vào quỹ bảo hiểm xã hội mang nặng tính bao cấp của nền kinh tế kế hoạch. Đồng thời hệ thống bảo hiểm xã hội do hai cơ quan quản lý (Bộ Lao động thương binh và xã hội và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam) cho nên việc tổ chức thu, chi bảo hiểm xã hội và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội cũng do hai cơ quan trên tiến hành. Phần quỹ do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam quản lý do có phương thức tổ chức thu phù hợp nên đạt được kết quả khá cao. Trong khi đó phần thu quỹ bảo hiểm xã hội do Bộ Lao động thương binh và xã hội quản lý thì thu bảo hiểm xã hội rất nhỏ so với chi do vậy ngân sách Nhà nước luôn phải hỗ trợ rất lớn lên tới 95%. Nói chung sự phân chia quản lý quỹ bảo hiểm xã hội như vậy mang tính phân tán, các nguồn thu không hỗ trợ được cho nhau và tạo thêm những mối quan hệ không đáng có giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và làm cho sự điều hành quỹ kém linh hoạt dẫn đến sự thừa thiếu giữa hai ngành. Cụ thể là nguồn quỹ do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam thu và quản lý chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ngắn hạn thì luôn bội thu, còn nguồn quỹ bảo hiểm xã hội do Bộ Lao động thương binh và xã hội thu và quản lý chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn lại luôn luôn bị bội chi. Do vậy ngân sách Nhà nước luôn phải hỗ trợ rất lớn, do đó chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn thời kỳ 1961- 1987 luôn là một gánh nặng của ngân sách Nhà nước. Trước tình hình đó, Nhà nước ta quyết định đột phá trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội. Theo Nghị định số 181/HĐBT ngày 30- 10- 1986 của Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định nâng mức đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội do Bộ Lao động thương binh và xã hội và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam quản lý từ 4,7% lên 15% quỹ tiền lương do các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước trích nộp nhưng phương thức quản lý thì vẫn không thay đổi, có nghĩa là: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam thu và quản lý chi 5% còn Bộ Lao động thương binh và xã hội thu và quản lý chi 10%. Nhưng sau đó do cuộc sống của công nhân viên chức Nhà nước có nhiều khó khăn nên Nhà nước đã trích 2% trong tổng số 10% từ tổng quỹ lương để chi trợ cấp khó khăn có cán bộ công nhân viên chức Nhà nước. Như vậy thu bảo hiểm xã hội để chi trả 6 chế độ bảo hiểm xã hội do hai cơ quan quản lý từ năm 1988 là 13% tổng quỹ lương. Mục đích của Nhà nước trong việc nâng tỷ lệ đóng góp là nhằm giảm bớt phần hỗ trợ của ngân sách Nhà nước cho quỹ bảo hiểm xã hội trong việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội. Nhưng do không thống nhất được phương thức quản lý do đó việc cân đối thu- chi vẫn không có gì thay đổi, cụ thể là: nguồn quỹ 5% do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam thu và quản lý chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ngắn hạn luôn bội thu và được sử dụng vào các mục đích khác như tổ chức cho cán bộ công nhân viên chức ở các cơ quan, xí nghiệp đi tham quan, nghỉ mát... dẫn đến người lao động coi đây như là một chế độ bảo hiểm xã hội và có ảnh hưởng lớn đến nhận thức sau này khi hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam ra đời thì chế độ này không còn nữa. Đồng thời một phần quỹ bảo hiểm xã hội bội thu được Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam dùng để xây dựng cơ sở vật chất của ngành như: Nhà nghỉ công đoàn... Đối với 8% do Bộ Lao động thương binh và xã hội thu và quản lý chi các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn luôn mất cân đối giữa thu và chi, nghĩa là luôn bội chi, ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ trên 71%. Do đó, chi bảo hiểm xã hội vẫn luôn là gánh nặng đối với ngân sách Nhà nước. Bảng 2: sơ đồ tổ chức quản lý- thực hiện của các chế độ bảo hiểm xã hội thuộc hệ thống lao động thương binh và xã hội. (Giai đoạn trước Nghị định 12/CP và 19/CP) Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Bộ Lao động thương binh và xã hội phòng Lao động thương binh và xã hội Uỷ ban nhân dân quận huyện, thị xã, thành phố Sở Lao động thương binh và xã hội 1)Thực hiện quản lý hành chính ( ) (2) Quản lý, hướng dẫn và thực hiện về chính sách- chế độ bảo hiểm xã hội như: Hưu trí, tử tuất. ( ) Một số đánh giá sơ bộ về thu nộp và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội trong giai đoạn trước Nghị định 12/CP và 19/CP vẫn chỉ bao gồm nguồn thu từ cơ quan, xí nghiệp Nhà nước và nguồn tài trợ lớn từ ngân sách Nhà nước. Tỷ lệ đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội có thay đổi tăng từ 4,7% lên 13% so với tổng quỹ lương. Nó làm cho thu bảo hiểm xã hội cũng tăng lên, song số đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội trong giai đoạn này cũng tăng lên nhanh đặc biệt là các năm 1990- 1993. Nên quỹ bảo hiểm xã hội vẫn là gánh nặng đối với ngân sách Nhà nước (đặc biệt là phần quỹ do Bộ Lao động thương binh và xã hội quản lý). Bảng 3: sơ đồ tổ chức quản lý- thực hiện của các chế độ bảo hiểm xã hội thuộc hệ thống công đoàn Ban Bảo hiểm xã hội (Giai đoạn trước nghị định12/CP và 19CP) Bộ phận Bảo hiểm xã hội Liên đoàn lao động quận, huyện, thị xã, thành phố Ban Bảo hiểm xã hội Liên đoàn lao động tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương Tổng liên đoàn lao động việt nam (1)Thực hiện quản lý hành chính ( ) (2) Quản lý, hướng dẫn và thực hiện về chính sách- chế độ bảo hiểm xã hội như:ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.( ) - Đối tượng bảo hiểm xã hội chỉ giới hạn ở những người làm việc trong khu vực Nhà nước và các lực lượng vũ trang, vì vậy số người tham gia bảo hiểm xã hội thấp và tăng chậm. Một mặt nó ảnh hưởng đến nguồn thu của quỹ bảo hiểm xã hội, không đảm bảo cho quỹ hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít”. Mặt khác, còn gây nên sự bất bình đẳng giữa những người lao động trong xã hội. Người lao động trong khu vực Nhà nước thì được bao cấp toàn bộ từ chi phí sinh hoạt, ăn ở, ốm đau, bệnh tật... cho tới lúc qua đời. Còn người lao động ở các khu vực khác mặc dù vẫn phải lao động, kiếm sống trên chính sức lao động của mình, có đóng góp cho xã hội và thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước nhưng lại không được hưởng quyền lợi gì về bảo hiểm xã hội. Vì thế, người lao động nảy sinh tâm lý phải vào làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp của Nhà nước để được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, đặc biệt là chế độ hưu trí khi hết tuổi lao động. Việc ban hành các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội còn nhiều bất hợp lý nhất là trong việc tính toán mức hưởng bảo hiểm xã hội. Nghị định 236/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng cho phép quy đổi thời gian công tác theo hệ số: 1 năm công tác được tính thành 1 năm 2 tháng, 1 năm 4 tháng hoặc 1 năm 6 tháng. Vì vậy, thời gian tính mức hưởng bảo hiểm xã hội đã tăng lên so với thời gian công tác thực tế từ 1,17 đến 1,5 lần. Trong giải quyết chính sách bảo hiểm xã hội đã tồn tại hai khái niệm: thời gian công tác thực tế và thời gian công tác quy đổi, nên đã có các trường hợp người lao động chỉ cần 8 năm công tác ở chiến trường, những nơi có điều kiện khó khăn, gian khổ là được nghỉ mất sức với mức trợ cấp 40% mức tiền lương và phụ cấp thâm niên trong khi vẫn còn đủ sức để làm việc tiếp. Nam giới chỉ cần 30 năm công tác quy đổi, nữ giới chỉ cần 25 năm công tác quy đổi là được nghỉ hưu và hưởng 75% mức lương trước khi nghỉ hưu... Và cũng từ vấn đề này mà người nghỉ hưu được hưởng tới mức tối đa là 95% mức lương đang công tác năm cuối cùng. Quy định này là không hợp lý đối với quỹ bảo hiểm xã hội do việc tính toán dựa vào một khoảng thời gian không có thực (đó là khoảng thời gian mà thực chất đối tượng không có đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội nhưng lại được coi là có). Do vậy, việc chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. - Việc quản lý quỹ bảo hiểm xã hội luôn được 2 cơ quan quản lý (Tổng Liên đoàn lao động và Bộ Lao động thương binh và xã hội) thiếu sự điều hành chung dẫn đến sự mất cân đối thu- chi khi có sự thừa thiếu ở mỗi ngành. Do vậy Nhà nước đã chủ trương tăng mức đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội để bù đắp thêm cho chi, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, đồng thời thay đổi hệ thống quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. b/ Giai đoạn sau Nghị định 12/CP và 19/CP đến nay. Trước yêu cầu phải đổi mới các chính sách bảo hiểm xã hội cho phù hợp với tình hình kinh tế- xã hội trong điều kiện mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngày 22- 6- 1993 quy định tạm thời các chế độ bảo hiểm xã hội và có quy định: Chính phủ thành lập hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam để quản lý thống nhất quỹ và sự nghiệp bảo hiểm xã hội trên cơ sở thống nhất tổ chức bảo hiểm xã hội thuộc Bộ Lao động thương binh và xã hội và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Nhưng trong suốt thời kỳ 1993- 1995, quản lý quỹ bảo hiểm xã hội vẫn do 2 cơ quan (Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và Bộ Lao động thương binh và xã hội) thực hiện cho nên mọi tồn tại như đã nêu trên hầu như chưa có gì thay đổi. Có chăng sự thay đổi chỉ là sự thay đổi về chế đội hưởng bảo hiểm xã hội của người lao động. Một số đánh giá sơ bộ về thu nộp và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội trong giai đoạn này có các đặc trưng sau: Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội vẫn chủ yếu từ ba nguồn tiền đóng góp của người lao động (5% tiền lương), đóng góp của chủ sử dụng lao động (15% tổng quỹ lương) và nguồn đóng, hỗ trợ của ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, quỹ còn có nguồn bổ sung là lợi nhuận từ việc sử dụng một phần vốn tạm thời nhàn rỗi được đầu tư vào hoạt động kinh doanh sinh lời nhằm bảo toàn và phát triển giá trị của quỹ. Trên cơ sở của Nghị định 19/CP ngày 16- 02- 1995, bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập. Cơ quan này có các quyền hạn và nhiệm vụ cơ bản như sau: - Tổ chức thu quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ. - Quản lý quỹ bảo hiểm xã hội và tổ chức chi trả các khoản trợ cấp về bảo hiểm xã hội. - Bảo tồn và tăng giá trị quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ. - Quản lý về mặt tài chính và hành chính bảo hiểm xã hội. - Kiến nghị chính sách bảo hiểm xã hội. - Thực hiện hợp tác quốc tế về nghiệp vụ bảo hiểm xã hội… Như vậy, kể từ 01- 10- 1995, quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam đã chính thức là một quỹ tài chính độc lập nằm ngoài ngân sách Nhà nước và nó được quản lý theo một hệ thống riêng, đó là hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương với cơ cấu sau: - ở Trung ương là Bảo hiểm xã hội Việt Nam - Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - Bảo hiểm xã hội huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Bảng 4: Sơ đồ tổ chức bộ máy bảo hiểm xã hội việt nam (Giai đoạn sau nghị định 12/CP và 19/CP) Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội việt nam bảo hiểm xã hội quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bảo hiểm xã hội việt nam Dựa trên các kết quả đạt được trong việc thực hiện Nghị định 43/CP và căn cứ theo Bộ luật Lao động đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 23- 06- 1994. Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/CP vào ngày 26 tháng 01 năm 1995 và Điều lệ bảo hiểm xã hội kèm theo. Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị định 19/CP ngày 16- 02- 1995 về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức Bảo hiểm xã hội hiện có ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống Lao động thương binh và xã hội và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Tuy nhiên, do tác động của một số yếu tố khách quan như nhân sự, tổ chức, hành chính... cho nên toàn bộ hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam mới chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01- 10- 1995. Nhưng việc thu bảo hiểm xã hội đã được tiến hành từ ngày 01- 7- 1995 (quy định tại Thông tư 58/TC HCSN ngày 24- 7- 1995 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn tạm thời phương thức thu nộp bảo hiểm xã hội). Việc bảo hiểm xã hội Việt Nam ra đời đã đánh dấu một trang mới trong lịch sử phát triển Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam. Chương II Thực trạng chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội thành phố việt trì tỉnh phú thọ I- vài nét về bảo hiểm xã hội thành phố việt trì. Việt Trì là một thành phố công nghiệp được thành lập ngày 04- 6- 1962. Cho đến nay, Việt Trì có diện tích 65,12 km2 và dân số 132.697 người, trong đó 2/3 là dân cư thành thị; gồm 17 phường, xã là đơn vị hành chính cấp cơ sở trực thuộc. Ngoài ra, Việt Trì con là Trung tâm kinh tế- chính trị- văn hoá của tỉnh Vĩnh Phú trước đây và tỉnh Phú Thọ hiện nay. Do vậy, Việt Trì luôn là nơi tập trung số lượng lớn các đối tượng hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội hàng tháng. Tính đến ngày 31- 12- 2002, có 14.385 đối tượng hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Trong đó: Hưu quân đội 857 có đối tượng; hưu viên chức có 9.228 đối tượng; hưởng trợ cấp mất sức lao động có 3.018 đối tượng; hưởng trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp có 372 đối tượng; hưởng trợ cấp tuất viên chức có 910 đối tượn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0017.doc
Tài liệu liên quan