Thực trạng chất lượng thanh toán tín dụng qua phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng thương mại cổ phần XNK HN - Eximbank

Lời mở đầu Trong điều kiện hội nhập của đất nước ta hiện nay, TTQT giữ một vai trò vô cùng quan trọng để thúc đẩy, tạo điều kiện cho nền kinh tế mở cửa, phát triển, dễ dàng hơn trong việc giao lưu kinh tế với các nước khác. Trong các phương thức TTQT thì phương thức L/C luôn được sử dụng nhiều nhất do những ưu điểm vượt trội so với các phương thức khác. Vì thế trong mấy năm gần đây, các ngân hàng luôn tìm các biện pháp để mở rộng, hoàn thiện nghiệp vụ này. Eximbank HN là ngân hàng có thế mạnh

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1480 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng chất lượng thanh toán tín dụng qua phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng thương mại cổ phần XNK HN - Eximbank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu. Trong những năm gần đây, hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng rất phát triển, có uy tín cả trong và ngoài nước, đặc biệt là thanh toán qua L/C. Tuy nhiên, trong thời gian tới, khi thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam xuất hiện thêm những đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ có tiềm lực tài chính cũng như chất lượng dịch vụ hoàn hảo từ các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới thì Eximbank nói riêng cùng với toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn để giữ được khách hàng cũng như có thể tồn tại. Trong điều kiện hội nhập thì ngân hàng nào có được chất lượng dịch vụ tốt hơn sẽ có cơ hội cạnh trạnh cao hơn. Vì thế việc nâng cao chất lượng TTQT qua phương thức TDCT cho theo kịp với trình độ thế giới cũng như thỏa mãn kịp thời những nhu cầu ngày càng cao của khách hàng là vấn đề thiết yếu tại ngân hàng xuất nhập khẩu nói chung và chi nhánh Hà Nội nói riêng. Trong nội dung bài chuyên đề này em xin được trình bày về thực trạng chất lượng TTQT qua phương thức TDCT tại Eximbank HN đồng thời đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng loại hình dịch vụ này. Đề tài ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo gồm 3 chương: - Chương 1: Tổng quan về chất lượng thanh toán quốc tế tín dụng chứng từ tại ngân hàng thương mại (NHTM) - Chương 2: Thực trạng chất lượng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ ở Eximbank Hà Nội -Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Eximbank Hà Nội Chương 1: Tổng quan về chất lượng thanh toán quốc tế tín dụng chứng từ tại ngân hàng thương mại (NHTM) 1.NHTM trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu 1.1.NHTM trong nền kinh tế thị trường Ở các nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, mô hình ngân hàng phổ biến là ngân hàng 2 cấp: ngân hàng Nhà nước làm chức năng phát hành tiền và quản lý vĩ mô các hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng; NHTM và các tổ chức tín dụng khác. NHTM thực chất là một doanh nghiệp được thành lập và hoạt động dưới sự kiểm soát , quản lý, điều tiết của ngân hàng Nhà nước, thực hiện kinh doanh tiền tệ tín dụng, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Tầm quan trọng của NHTM thể hiện qua các hoạt động cơ bản của nó: Một là, huy động tiết kiệm: các NHTM thực hiện một dịch vụ rất quan trọng đối với tất cả các khu vực của nền kinh tế bằng cách cung ứng những điều kiện thuận lợi cho việc gửi tiền tiết kiệm của dân chúng. Người gửi tiết kiệm nhận được một khoản tiền thưởng với danh nghĩa là lãi suất, với mức độ an toàn và hình thức thanh khoản cao. Hai là, mở rộng tín dụng và đầu tư: tín dụng của các NHTM có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế, nó tạo ra khả năng tài trợ cho các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp và thương nghiệp của đất nước. Mặc dù các hoạt động đầu tư của NHTM thường được quan niệm tách rời với tín dụng, nhưng xét về kết quả xã hội và kinh tế, chúng đều giống nhau. Do thu nhập của Nhà nước không phải lúc nào cũng tương xứng với các khoản chi, đòi hỏi phải tạm thời vay nợ tại các NHTM. Hoặc khi các NHTM mua các chứng khoán của chính phủ, doanh nghiệp để tài trợ cho các hoạt động của chính phủ, doanh nghiệp. Ba là, hoạt động thanh toán: việc đưa ra một cơ chế thanh toán hay nói cách khác, sự vận động của vốn là một trong những chức năng quan trọng do các ngân hàng thực hiện và nó càng trở nên quan trọng khi được sự tín nhiệm trong việc sử dụng séc và thẻ tín dụng. Trong những năm gần đây đã có những đổi mới quan trọng do các ngân hàng đã trang bị máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật để đưa vào sử dụng những hình thức chuyển tiền mới như chuyển tiền điện tử, mạng SWIFT và mạng hóa hệ thống máy tính trong ngân hàng… do đó thẻ tín dụng có thể được sử dụng để rút tiền ở nhiều nơi. Ngoài ra, còn có các hoạt động khách như: giao dịch hối đoái, kinh doanh vàng, đá quý, dịch vụ ủy thác, dịch vụ bảo quản an toàn vật có giá,… 1.2.NHTM trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu NHTM tham gia tài trợ ngoại thương: đây là một trong những chức năng quan trọng nhất do các NHTM thực hiện, liên quan trực tiếp đến quan hệ kinh tế đối ngoại. Mặc dù ngoại thương được hình thành và bắt nguồn từ các hoạt động nội thương nhưng có những sự khác biệt đáng kể và chính từ sự khác nhau đó mà các NHTM cần phải cung ứng dịch vụ TTQT nhằm làm cho quá trình này diễn ra một cách suôn sẻ. Sở dĩ như vậy là do mỗi nước có một hệ thống tiền tệ riêng, không đồng nhất, và với năng lực tài chính của người mua và người bán ở các nước khác nhau cũng không giống nhau, ngoài ra còn những hạn chế về ngôn ngữ, môi trường văn hóa , phong tụ tập quán khách nhau, các chế độ kinh tế- chính trị khác nhau, người mua và người bán cách xa nhau về địa lý… Chính vì vậy, các NHTM có vai trò rất quan trọng trong thương mại quốc tế, điều này được thể hiện ở các mặt sau: Một là, cung cấp bảo lãnh tín dụng: bao gồm bảo lãnh tín chấp, bảo lãnh phát hành L/C, cho vay…đối với nhà nhập khẩu và chiết khấu chứng từ, mua lại chứng từ nhờ thu… đối với nhà xuất khẩu. Hai là, trung gian thanh toán: hệ thống ngân hàng cho phép việc thực hiện thanh toán giữa các bên liên quan, đảm bảo an toàn nhanh chóng và chính xác. Ba là, tư vấn: trong bất kỳ trường hợp nào nếu gặp phải những vấn đề liên quan đến thanh toán trong giao dịch ngoại thương, khách hàng liên quan đều có thể nhận được những tư vấn tốt từ cán bộ chuyên môn trong các NHTM. Bốn là, quản lý rủi ro tín dụng: trong thương mại quốc tế, người mua có thể phải giao dịch với một người bán mà họ không hề biết, thậm chí kể cả sau khi đã có công cụ dụng cụ hoạt động mua bán với nhau, người mua cũng không biết về người bán một cách triệt để hoặc tốt hoặc xấu. Như vậy người mua và người bán không thể nắm bắt chắc chắn về khả năng tài chính, uy tín và khả năng thực hiện trách nhiệm thanh toán của nhau, do đó khó lường trước những rủi ro có thể xảy ra. Với sự giúp đỡ của ngân hàng, người mua và người bán sẽ yên tâm và tin tưởng hơn vì sẽ loại trừ được rủi ro. Ví dụ khi ngân hàng phát hành thay thế vai trò của người mua để cam kết với người bán rằng họ sẽ nhận được tiền thanh toán nếu họ chấp nhận đúng và đủ các điều kiện quy định trong L/C. Năm là, quản lý rủi ro về ngoại hối: trong thương mại quốc tế người mua và người bán ở hai nước khách nhau, nhưng chỉ giao dịch với cùng một loại tiền, họ phải đương đầu với những rủi ro dao động về tỷ giá tiền tệ, những rủi ro này sẽ dễ dàng loại trừ khi có sự giúp đỡ của ngân hàng thông qua nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro do ngân hàng thực hiện, hợp đồng mua bán hoặc chuyển đổi ngoại tệ tùy theo sự lựa chọn của khách hàng. Sáu là, cung cấp khả năng lựa chọn các phương thức thanh toán: hiện nay các NHTM có thể cung cấp cho khách hàng nhiều phương thức TTQT khách nhau như: thanh toán trước, thanh toán sau, nhờ thu, mở L/C. Trong tất cả các phương thức nói trên thì quan trọng nhất là phương thức mở L/C. 2.Hoạt động thanh toán quốc tế (TTQT) tại NHTM 2.1.Lịch sử hình thành và khái niệm của TTQT Mỗi quốc gia phải thực hiện nhiều mối quan hệ quốc tế trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, hợp tác khoa học kỹ thuật…Trong quá trình hoạt động các quan hệ này đều liên quan đến công tác tài chính, thanh toán. Thanh toán quốc tế là việc chi trả bằng tiền liên quan đến các dịch vụ mua bán hàng hóa hay cung ứng lao vụ…giữa các tổ chức hay cá nhân nước này với các tổ chức hay cá nhân nước khác, hay giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan. Các quan hệ quốc tế được phân chia thành TTQT mậu dịch và TTQT phi mậu dịch. TTQT phi mậu dịch là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan đến hàng hóa cũng như cung ứng lao vụ, nó không mang tính thương mại. Ví dụ như chi phí của các cơ quan ngoại giao, ngoại thương ở các nước sở tại, các chi phí về vận chuyển và đi lại của các đoàn khách nhà nước, các tổ chức của từng các nhân… TTQT mậu dịch là thanh toán phát sinh trên cơ sở trao đổi hàng hóa và các dịch vụ thương mại, theo giá cả quốc tế. thông thường trong nghiệp vụ TTQT mậu dịch phải có chứng từ hàng hóa kèm theo. Các bên mua bán bị ràng buộc với nhau bởi bởi hợp đồng thương mại hoặc bằng một hình thức cam kết khác ( thư, điện giao dịch). Ta thấy TTQT ra đời từ rất lâu nhưng thật sự nó chỉ phát triển mạnh mẽ từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời và phát triển, khối lượng mua bán, đầu tư quốc tế ngày càng tăng thì khối lượng giao dịch thanh toán qua ngân hàng ngày càng tăng đáng kể. Nếu tổng số khối lượng vốn thanh toán bình quân một ngày qua hệ thống ngân hàng toàn cầu trong những năm 1973-1983 chỉ ở mức 10-20 tỷ USD/ ngày, thì năm 1992 khoảng 880-900 tỷ USD , đến năm 1995 con số này là 1400 tỷ USD và hiện nay lên đến trên 3000 tỷ USD. 2.2.Các phương thức TTQT 2.2.1Phương thức chuyển tiền Đây là phương thức thanh toán đơn giản nhất, trong đó một khách hàng (người trả tiền, người mua, người nhập khẩu…) ủy nhiệm cho nhân hàng phục vụ mình trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định chuyển cho một người khác (người bán, người xuất khẩu, chủ nợ…) ở một địa điểm nhất định và trong một thời gian nhất định. Yêu cầu để sử dụng phương thức này là hai bên mua bán phải có mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau. 2.2.2.Chuyển khoản liên ngân hàng quốc tế Chuyển tiền liên ngân hàng quốc tế là công cụ thanh toán quốc tế được dùng nhiều nhất. Nó xuất phát từ nhà nhập khẩu ra lệnh cho ngân hàng của mình ghi nợ tài khoản để ghi có tài khoản của nhà xuất khẩu. 2.2.3.Phương thức ghi sổ Đây là phương thức thanh toán, mà qua đó tổ chức xuất khẩu khi xuất khẩu hàng hóa dịch vụ thì ghi nợ cho bên nhập khẩu (bên được cung ứng), vào một cuốn sổ riêng của mình, và việc thanh toán các khoản nợ này được thực hiện trong từng thời kỳ nhất định. 2.2.4.Phương thức giao hàng trả tiền ngay Giao hàng trả tiền ngay thường được các nhà xuất khẩu sử dụng dưới ký hiệu COD (cash on delivery) hoặc là giao hàng thanh toán tiền ngay. COD có nghĩa là chỉ giao hàng khi thanh toán tiền. Người vận chuyển hàng cuối cùng ngoài việc vận chuyển còn đảm nhận luôn việc thu tiền hàng. Do đó đây là phương thức tốt cho nhà xuất khẩu. 2.2.5.Phương thức đổi chứng từ trả tiền ngay Phương thức này còn được gọi là CAD (cash against documents). Đây là phương thức thanh toán mà trong đó nhà nhập khẩu yêu cầu ngân hàng mở tài khoản ký thác (trust account) để thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu, khi nhà xuất khẩu xuất trình đầy đủ những chứng từ theo yêu cầu. Nhà xuất khẩu sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng sẽ xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng để nhận tiền thanh toán. 2.2.6.Phương thức thanh toán nhờ thu Theo thông lệ, phương thức thanh toán này được phân ra thành 2 loại: Nhờ thu trơn, nhờ thu kèm chứng từ. Phương thức thanh toán nhờ thu trơn là phương thức thanh toán trong đó bên bán ủy thác cho bên ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua căn cứ vào hối phiếu do chính người bán lập.Các chứng từ thương mại có liên quan đã chuyển giao trực tiếp cho bên mua mà không qua ngân hàng. Phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ là phương thức thanh toán, trong đó bên bán ủy nhiệm cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hóa kèm theo với điều kiện nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền (đối với hối phiếu có kỳ hạn) sẽ trao bộ chứng từ cho người mua nhận hàng. Như vậy trong trường hợp đơn vị nhập khẩu không đồng ý trả tiền, ngân hàng không giao bộ chứng từ , tức là hàng hóa đã cung cấp qua nước nhập khẩu vân thuộc quyền sở hữu của tổ chức xuất khẩu. 2.2.7.Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ Đây là phương thức thanh toán tốt nhất trong tất cả các phương thức TTQT nêu trên. Cụ thể về phương thức này sẽ được trình bày ở phần sau. 2.3. Rủi ro có thể gặp phải trong TTQT Rủi ro trong TTQT là những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế liên quan đến các giao dịch quốc tế, nguyên nhân phát sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia TTQT như: nhà xuất khẩu, nhập khẩu, ngân hàng…hoặc do những nhân tố khách quan khác gây nên như thiên tai, chiến tranh, chính trị. Như vậy, rủi ro là sự việc xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của con người, đem lại những hậu quả mà người ta không thể dự đoán trước được. Đặc biệt trong TTQT, liên quan đến các giao dịch thương mại quốc tế. Rủi ro trong giao dịch thương mại quốc tế cũng giống như rủi ro trong giao dịch thương mại trong nước nhưng khoảng cách về địa lý, những khác biệt về văn hóa, luật pháp…làm cho việc dự báo trước rủi ro cũng như đưa ra những biện pháp phòng ngừa thêm khó khăn. Các phương thức thanh toán đều tiềm ẩn những rủi ro. Ví dụ như: Trong phương thức thanh toán chuyển tiền người mua có thể không nhận được hàng như hợp đồng đã ký trong khi đã trả tiền trước cho người bán, người bán thì có thể không nhận được tiền do người mua chây ì không thanh toán hoặc không chịu thanh toán khi không muốn nhận hàng, còn với ngân hàng phục vụ người mua có thể không thu được nợ trong trường hợp người mua vay tiền để nhập hàng mà người mua lại mất khả năng thanh toán. Trong phương thức nhờ thu trơn: không có sự đảm bảo quyền lợi cho bên bán ( thanh toán không bình đẳng) giữa sự trả tiền và nhận hàng tách rời, không có sự ràng buộc lẫn nhau. Người mua có thể nhận hàng không chịu trả tiền hoặc trì hoãn việc trả tiền. Người bán cũng có thể nhận tiền rồi nhưng không chịu giao hàng, hoặc giao hàng kém phẩm chất (trong trường hợp trả tiền trước) Trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ: Người bán thông qua Ngân hàng giữ bộ hồ sơ hàng hóa mới chỉ đảm bảo được quyền sở hữu hàng hóa của mình, chứ chưa khống chế được việc trả tiền của người mua. Người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hàng hóa ( không nhận hàng), không thanh toán khi thị trường biến động bất lợi cho họ. Người bán tuy vẫn có quyền sở hữu hàng hóa, bán hàng cho người khác nếu người mua không thanh toán, song việc giải tỏa hàng gặp khó khăn và gặp rủi ro trong tiêu thụ hàng. Ngân hàng chỉ đứng vị trí trung gian thu hộ tiền chứ không có trách nhiệm đến việc trả tiền của người mua. Khi phương thức thanh toán tín dụng chứng từ ra đời, với những ưu thế của mình đã giải quyết được phần nào những mặt hạn chế của những phương thức còn lại. 3.Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 3.1.Khái niệm, các bên tham gia và lợi thế của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (TDCT) Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận, mà trong đó có một ngân hàng (ngân hàng phát hành) đáp ứng những yêu cầu của khách hàng (người nhập khẩu) cam kết hay cho phép một nhờ thu khác (ngân hàng ở nước xuất khẩu) chi trả hoặc chấp nhận những yêu cầu của nhà xuất khẩu theo đúng những điều kiện và chững từ thanh toán, phù hợp với thư tín dụng. Như vậy, một thư tín dụng là: -Một phương tiện thanh toán. Một khi đã thỏa thuận thời hạn của hợp đồng thương mại, tín dụng thư kèm chứng từ được chọn như hình thức thanh toán có liên quan đến các nhiệm vụ độc lập với các nhiệm vụ quy định tại hợp đồng nói riêng. -Một hình thức tín dụng bằng chữ ký mà một ngân hàng dành cho một khách hàng mua, trong đó người bán phải xuất trình chứng từ. Ngân hàng gửi thẳng L/C đó cho người xuất khẩu biết là theo yêu cầu của người xuất khẩu, ngân hàng đã mở một L/C cho người nhập khẩu, cam kết trả tiền cho người xuất khẩu, khi người xuất khẩu làm đúng các điều quy định trong L/C và chuyển những chứng từ gửi hàng cho ngân hàng làm đảm bảo. Thực chất L/C là một bức thư được gửi cho người bán, được soạn thảo và ký bởi một ngân hàng hành động thay mặt người mua. Trong bức thư, ngân hàng hứa sẽ trả tiền các hối phiếu được ký phát cho chính nó nếu người bán tuân thủ các điều kiện cụ thể được quy định trong L/C.Thông qua L/C ngân hàng đưa ra những cam kết trả tiền của chính mình thay cho nhà nhập khẩu . Do đó L/C trở thành một hợp đồng tài trợ giữa ngân hàng phát hành và một người thụ hưởng được chỉ định độc lập với giao dịch thương mại. Mục đích của L/C ở đây không phải là không phải là để chuyển tiền từ nước người nhập khẩu sang nước người xuất khẩu mà là để tiến hành việc trả tiền cho người xuất khẩu. Người thụ hưởng L/C đó không phải là người yêu cầu mở L/C mà là bạn hàng của người đó. L/C không giao cho người yêu cầu mở L/C mà trao cho người thụ hưởng. Chữ tín dụng ở đây được dùng theo nghĩa rộng, tức là tín nhiệm chứ không phải để chỉ khoản tiền cho vay theo nghĩa thông thường của từ này. Vì trong trường hợp người nhập khẩu phải ký quỹ 100% số tiền của L/C, thì thực chất là ngân hàng không cấp một khoản tín dụng nào cả mà là cho người nhập khẩu vay sự tín nhiệm của mình. L/C là lời hứa trả tiền của ngân hàng thay cho lời hứa trả tiền của người nhập khẩu, vì ngân hàng có tín nhiệm hơn. Nét đặc trưng của L/C còn thể hiện ở chỗ, việc chi trả có liên quan đến việc thể hiện chứng từ. Ngân hàng không cần nhìn thấy hàng hóa, mà chỉ xét các chứng từ. Trong phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng không chỉ là trung gian thu hộ, chi hộ, mà còn là người đại diện bên nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho bên xuất khẩu, bảo đảm cho bên xuất khẩu nhận được khoản tiền tương ứng với hàng hóa nà họ đã cung ứng, đồng thời bảo đảm cho bên nhập khẩu nhận được số hàng hóa có chất lượng tương ứng với số tiền mà mình phải thanh toán. *Các bên tham gia Người yêu cầu mở L/C: là người mua, người nhập khẩu hàng hóa hoặc là người do người mua ủy thác. Ngân hàng phát hành L/C: là ngân hàng đại diện và cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu. Ngân hàng nhận đơn của nhà nhập khẩu và căn cứ vào yêu cầu trong đơn để mở L/C, sau đó chịu trách nhiệm báo cho nhà xuất khẩu biết. Ngân ahngf phát hành chịu trách nhiệm kiểm trả bộ chứng từ được gửi đến nếu thấy phù hợp thì thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Nếu ngân hàng làm sai sót thì phải chịu trách nhiệm . Sau khi đã trả tiền cho người bán, ngân hàng trao lại bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu và đòi lại khoản tiền thủ tục phí. Ngân hàng phát hành thường là ngân hàng ở nước ngoài, cũng có trường hợp ở nước thứ ba nào đó. Ngân hàng thông báo: là ngân hàng báo tín dụng chứng từ cho người thụ hưởng một cách trực tiếp hoặc thông báo cho một ngân hàng khác. Ngân hàng này thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C tại nước người xuất khẩu. Người thụ hưởng: là người bán hàng xuất khẩu và là bên được hưởng lợi tín dụng chứng từ. Ngoài 4 thành viên trên trong trường hợp đặc biệt còn có các thành viên: ngân hàng xác nhận, ngân hàng chiết khấu, ngân hàng trả tiền. Thực tế không nhất thiết phải có sự tham gia của tất cả các ngân hàng ở trên, thông thường chỉ có 2 thậm chí 1 ngân hàng đứng ra làm tất cả các chức năng nói trên về nghiệp vụ. *Trong thực tế, phương thức thanh toán này đã thể hiện được những lợi thế so với các phương thức khác. Bởi vì phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đã dung hòa, cân bằng với quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng mua bán ngoại thương. Cụ thể: Đối với nhà nhập khẩu, họ có được những lợi ích sau: Chắc chắn nhà xuất khẩu phải đáp ứng các quy định của L/C, người mua chỉ phải thanht oán khi nhận được bộ chững từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của L/C để đi nhận hàng. Người mua được sự trợ giúp của ngân hàng trong việc bảo đảm các điều kiện của L/C được tuân thủ, dễ dàng được ngân hàng tài trợ về vốn. Được các điều khoản của UCP 500 bảo vệ. Tuy nhiên ngân hàng chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ nên buộc phải thanh toán bất kể hàng hóa có tốt hay xấu. Rủi ro thuộc về phía người mua nếu người bán cố ý lập các chứng từ hàng hóa giả tạo để lừa đảo. Đối với nhà xuất khẩu, họ được bảo đảm thanh toán khi tuân thủ các điều khoản và điều kiện của L/C và nhận được thanh toán nhanh nhất, được ngân hàng giúp đỡ và tư vấn, giảm thiểu được các rủi ro. Ngoài ra người bán có thể sử dụng L/C như là một phương thức tài trợ cho xuất khẩu như: chiết khấu bộ chứng từ, bán bộ chững từ cho ngân hàng hay vay vốn ngân hàng bằng cách thế chấp bộ chứng từ… Tuy nhiên chi phí để thực hiện phương thức thanh toán qua L/C rất cao, quy định phức tạp, đôi khi không đáp ứng được nên việc thanh toán có thể bị trì hoãn, thậm chí bị từ chối thanh toán. Đối với ngân hàng, họ cũng thu được lợi ích khá lớn từ các khoản thu phí dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng tín dụng, bảo lãnh quốc tế kinh doanh ngoại tệ… Tuy nhiên ngân hàng cũng bị ràng buộc bởi trách nhiệm của mình đối với người mua và người bán với tư cách là một thành viên tham gia vào phương thức thanh toán. Qua đó, ta thấy những nghĩa vụ và trách nhiệm được đan xen, ràng buộc lẫn nhau tạo nên một sự đảm bảo và chắc chắn hơn cho cả việc thanh toán tiền hàng, nâng cao quyền bình đẳng trong quan hệ thanh toán giữa người mua và người bán. Hơn nữa trong phương thức này các ngân hàng tham gia không chỉ đơn thuần là những trung gian thanh toán mà chính là những thành viên thực sự của quá trình thanh toán, là người cam kết trả tiền cho người bán thay cho người mua vì vậy đôi khi cũng phải chịu những rủi ro trong quá trình thực hiện nghiệp vụ này. 3.2. Mối quan hệ pháp lý giữa các bên tham gia Giữa ngân hàng phát hành và người yêu cầu mở L/C: Bằng cách gửi thẳng yêu cầu mở L/C đến ngân hàng phục vụ mình, người yêu cầu đã chính thức đề nghị ngân hàng mở thư tín dụng để thực hiện việc thanh toán cho hợp đồng kinh doanh. Thông qua việc chấp nhận thư yêu cầu mở L/C và thực hiện mở L/C, ngân hàng mở L/C và người yêu cầu đã có mối quan hệ pháp lý người ta gọi là hợp đồng thực hiện dịch vụ (hợp đồng B). Một bộ phận cơ bản của thư yêu cầu mở L/C là điều kiện chung của các ngân hàng . Trong đó quy định rằng việc thực hiện L/C phải tuân theo nội dung cơ bản của UCP 500. Khi L/C được mở và ngân hàng đòi hỏi người mua phải ký quỹ một tỷ lệ nhất định nào đó thì mối quan hệ này trở thành mối quan hệ tín dụng. Giữa ngân hàng phát hành và người hưởng lợi: Với việc mở L/C cho người mua, ngân hàng phát hành đã cam kết việc thanh toán cho người hưởng lợi, điều đó có nghĩa là ngân hàng phát hành sẽ trả tiền cho người thụ hưởng thực hiện đầy đủ các điều kiện hay khi người mở không trả hay không muốn trả theo L/C. Rủi ro này thuộc về mối quan hệ tín dụng cho nên khi nhận được thư yêu cầu mở L/C, ngân hàng cần xem xét kỹ tình hình tài chính của khách hàng để có thể phán quyết chính xác trước khi mở L/C. Giữa ngân hàng thông báo và người hưởng lợi: Khi ngân hàng thông báo chỉ thực hiện việc thông báo tín dụng chứng từ mà không có cam kết nào về thanh toán với L/C thì quan hệ với người hưởng lợi của ngân hàng thông báo chỉ là vai trò người đưa thư. Giữa ngân hàng xác nhận và người hưởng lợi: Ngân hàng xác nhận và người hưởng lợi đã cam kết việc thanh toán cho người hưởng lợi. Đồng thời ngân hàng xác nhận đã đồng ý chịu trách nhiệm với ngân hàng phát hành về nghĩa vụ trả tiền L/C. Giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng xác nhận: Ngân hàng phát hành và ngân hàng xác nhận đã đồng ý chịu trách nhiệm về một khoản nợ . Một khi ngân hàng xác nhận không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình đã cam kết, người hưởng lợi có quyền đòi tiền ngân hàng xác nhận. Khi ngân hàng xác nhận đòi tiền ngân hàng phát hành mở ký quỹ một khoản tiền nhất định thì quan hệ này trở thành quan hệ tín dụng. Giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng thông báo: Mối quan hệ đồng nghiệp và ngân hàng thông báo không bị bất cứ một ràng buộc pháp lý nào. 3.3.Nội dung chủ yếu của L/C Số hiệu: Số hiệu dùng để trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện L/C. Tất cả các L/C đều phải có số hiệu riêng. Số hiệu của L/C còn được dùng để ghi vào các chứng từ có liên quan như hối phiếu, các chứng tờ cần thiết khác. Địa điểm mở L/C: là nơi ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho người xuất khẩu . Địa điểm này có ý nghĩa trong việc chọn pháp luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp nếu có xung đột pháp luật về L/C đó. Ngày mở L/C: là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở L/C với người nhập khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C. Tên, địa chỉ của những người có liên quan: người nhập khẩu, người xuất khẩu, ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo, ngân hàng xác nhận, ngân hàng trả tiền, và các ngân hàng khác nếu có. Số tiền của L/C: Vừa được ghi bằng chữ, vừa được ghi bằng số và thống nhất với nhau, đơn vị tiền tệ rõ ràng. Không nên ghi số tiền tuyệt đối mà hi theo một số giới hạn mà người xuất khẩu có thể đạt dược hoặc là một giới hạn chênh lệch hơn kem % của tổng số tiền. Thời hạn hiệu lực: là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu, nếu người này xuất trình bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với những điều quy định trong L/C.Thời hạn này được tính từ ngày mở L/C đến ngày hết hiệu lực . Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng một thời gian hợp lý, không trùng với ngày giao hàng. Ngày hết hiệu lực phải sau ngày giao hàng một thời gian hợp lý. Thời hạn trả tiền của L/C: là thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền về sau, tùy thuộc quy định trong hợp đồng. Thời hạn giao hàng: được ghi trong L/C và do hợp đồng mua bán quy định. Thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C. Những nội dung về hàng hóa: bao gồm tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, mã ký hiệu… Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hóa: bao gồm điều kiện cơ sở giao hàng ( FOB,CIF,CFR…), nơi gửi, nơi giao hàng, cách vận chuyển, cách giao hàng.. Những chứng từ người xuất khẩu phải xuất trình: bản gốc L/C, hóa đơn thương mại, giấy tờ bảo hiểm, vận đơn, giấy chứng nhận kiểm định, giấy chứng nhận xuất xứ, bản kê khai hàng hóa và một số giấy tờ khác theo yêu cầu của nhà nhập khẩu. Cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C. Những điều khoản đặc biệt. Chữ ký của ngân hàng mở L/C. 3.4. Một số loại L/C và quy trình nghiệp vụ 3.4.1.Phân loại theo công cụ của thư tín dụng 3.4.1.1.L/C có thể hủy ngang (Revocable L/C) : Đây là loại L/C có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ mà không cần thông báo cho người thụ hưởng. Nó chứa đựng những rủi ro đối với người bán vì việc sửa đổi hoặc hủy L/C có thể xảy ra khi hàng hóa đang trên đường vận chuyển hoặc trước khi thanh toán. L/C hủy ngang tạo cho người mua sự chủ động tối đa. L/C có thể hủy ngang chỉ được sử dụng trong trường hợp: việc giao hàng được thực hiện giữa công ty mẹ và công ty con, giữa người mua và người bán có quan hệ tín dụng rất tốt. 3.4.1.2.L/C không thể hủy ngang (Irrevocable L/C): Là loại L/C sau khi đã được ngân hàng mở thì không thể sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ trong thời gian hiệu lực của nó nếu chưa có sự thỏa thuận của các bên tham gia. L/C không thể hủy ngang bảo đảm quyền lợi cho các bên tham gia nên nó được sử dụng rộng rãi. Quy trình nghiệp vụ L/C không thể hủy ngang Nhà xuất khẩu Nhà nhập khẩu Ngân hàng phát hành Ngân hàng thông báo/NH trả tiền Hợp đồng ngoại thương 3.hàng hóa 9.thanh 4.BCT 6.Bộ 7.thanh toán +HP 2.L/C 1.đơn CT toán xin mở 2.L/C L/C 5.BCT+HP+thư đòi tiền 8.thanh toán 3.4.1.3.L/C xác nhận (confirming L/C) Là loại L/C không thể hủy ngang , được một ngân hàng khác xác nhận, nghĩa là ngoài cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành , L/C còn có thêm sự cam kết thanh toán của ngân hàng xác nhận. . Ngân hàng xác nhận có thể là ngân hàng thông báo hoặc là một ngân hàng thứ ba khác.Khi người thụ hưởng nghi ngờ về tình hình tài chính cũng như khả năng thanh toán của người nhập khẩu hay lo lắng về những biến động về kinh tế, chính trị ở nước người nhập khẩu, họ sẽ yêu cầu đến sự phục vụ của ngân hàng xác nhận. Sau khi ngân hàng xác nhận thanh toán cho người thụ hưởng theo đúng quy định nó có quyền truy đòi lại số tiền đã thanh toán từ ngân hàng phát hành. Quy trình nghiệp vụ của L/C xác nhận Nhà xuất khẩu Nhà nhập khẩu Ngân hàng phát hành Ngân hàng thông báo xác nhận Hợp đồng ngoại thương 4.hàng hóa 10. 5.BCT 3.L/C 1.đơn 7. 8.Thanh toán TT +HP đã được xin mở BCT xác nhận L/C 2.L/C 6.BCT+HP 9.Thanh toán 3.4.2.Phân loại theo thời hạn thanh toán của L/C 3.4.2.1. L/C trả ngay (L/c payable by draf at sight) Là loại L/C không thể hủy ngang và phải thanh toán ngay khi hối phiếu được xuất trình. Rủi ro trong loại L/C này thường phải thanh toán trước khi nhận hàng, vì hối phiếu và bộ chứng từ thường đến trước khi hàng cập cảng. 3.4.2.2. L/C trả chậm (L/C available by deffered payment) Là loại L/C trong đó ngân hàng phát hành cam kết thanh toán cho người thụ hưởng số tiền của L/C một số ngày sau khi bộ chứng từ hoàn hảo được xuất trình hoặc sau ngày giao hàng. Loại L/C này có 2 dạng: L/C có kỳ hạn, L/C trả dần 3.4.2.3. L/C chấp nhận (L/C available by acceptance) Là loại L/C trong đó ngân hàng phát hành thực hiện chấp nhận hối phiếu hoặc chỉ định bên thứ ba chấp nhận hối phiếu , với điều kiện người thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ theo quy định của L/C. Ngân hàng phát hành trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải thanh toán hối phiếu đã chấp nhận, khi các điều kiện của L/C được đáp ứng đầy đủ. 3.4.3.Theo quan hệ đối tác 3.4.3.1. L/C trực tiếp (Straight L/C) là loại L/C trong đó nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng phát hành chỉ giới hạn duy nhất đối với người thụ hưởng của L/C. Dạng L/C này thường yêu cầu người thụ hưởng xuất trình chứng từ trực tiếp cho ngân ahngf phát hành (hết hạn hiệu lực tại điểm giao dịch của ngân hàng phát hành) 3.4.3.2. L/C cho phép chiết khấu (L/C available by negotiation) Là loại L/C trong đó ngân hàng phát hành ủy quyền cho một ngân hàng nhất định hoặc cho phép bất kỳ ngân hàng nào mua lại bộ chứng từ hoàn hảo do người thụ hưởng xuất trình. L/C có thể chiết khấu có thể được xác nhận hoặc không. Thông thường ngân hàng được ủy quyền sẽ chỉ mua chững từ với điều kiện bảo lưu, nghĩa là ngân hàng chiết khấu giành quyền truy đòi lại từ người thụ hưởng số tiền chiết khấu nếu không thu được từ ngân hàng phát hành L/C. 3.4.4.Một số loại L/C đặc biệt *L/C có điều khoản đỏ (red clause L/C) Là loại L/C, trong đó có một điều khoản đặc biệt ngân hàng phát hành sẽ chuyển số tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng thông báo (hay ngân hàng xác nhận, chiết khấu) để thực hiện ứng trước cho người thụ hưởng một số tiền nhất định trước khi giao hàng. *L/C tuần hoàn (revolving L/C) Là loại L._./C không thể hủy ngang mà sau khi sử dụng xong hoặc sau khi hết hạn hiệu lực L/C thì sẽ tự động khôi phục lại giá trị như cũ mà không cần mở L/C mới. *L/C chuyển nhượng (transferable L/C) Là loại L/C mà người thụ hưởng đầu tiên có thể yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần giá trị gốc cho một hoặc nhiều người hưởng lợi thứ hai. *Nhượng tiền thu được Khi người hưởng lợi L/C là người trung gian, phải mua hàng hóa của người cung cấp và họ muốn chuyển thẳng một phần tiền thu được từ L/C cho nhà cung cấp này thì họ chỉ thị cho ngân hàng phục vụ mình thực hiện việc chuyển nhượng trên. *L/C giáp lưng Khi người hưởng lợi nhận được một L/C không phải L/C chuyển nhượng được song không thể tự mình cung cấp hàng hóa, khi đó họ có thể thỏa thuận với ngân hàng của mình phát hành một L/C thứ hai(L/C giáp lưng) với nộ dung tương tự cho người cung cấp hàng hóa. 3.5.Những tham chiếu áp dụng khi sử dụng phương thức thanh toán TDCT Hoạt động ngoại thương là việc thực hiện buôn bán giữa các chủ thể hoặc những nước khác nhau, mỗi nước có những luật lệ khác nhau, chính vì vậy để tránh những tranh chấp do hiểu lầm hay cố ý vi phạm trong TTQT, phòng thương mại quốc tế (ICC) ban hành các qui tắc để hướng dẫn các bên khi tham gia thực hiện TTQT như: ULC 1931 (Uniform law for check), ULB (Uniform customs for bill of exchange), UCP (Uniform customs and practice for D/C), URC (Uniform rules collection),… Đối với phương thức L/C thì cần phải quan tâm nhất đến UCP. UCP mang tính chất pháp lý tùy ý, do vậy các bên sử dụng có quyền lựa chọn. UCP được sửa đổi nhiều lần, đến nay là UCP 600, sẽ có hiệu lực thi hành vào 1/7/2007. UCP 600 có một số thay đổi cơ bản so với bản UCP 500 như sau: (i) Thứ nhất, UCP 600 đã bổ sung nhiều định nghĩa và giải thích thuật ngữ mới dể làm rõ nghĩa của các thuật ngữ còn gây tranh cãi trong bản UCP 500; (ii) Thứ hai, thuật ngữ “thời gian hợp lý” (reasonable time) cho việc từ chối hoặc chấp nhận các tài liệu đã được thay thế bằng khoảng thời gian cố định là “05 ngày làm việc ngân hàng”; (iii) Thứ ba, UCP 600 bổ sung thêm các quy định mới cho phép chiết khấu tín dụng thư chậm trả; và (iv) Thứ tư, theo UCP 600, các ngân hàng có thể chấp nhận tài liệu bảo hiểm có các nội dung dẫn chiếu đến các điều khoản miễn trừ (exclusion clause). Để có thể hiểu và thực hiện chính xác, có hiệu quả các quy định của UCP 600, trong khoảng thời gian 07 tháng còn lại, các ngân hàng và doanh nghiệp được khuyến cáo là phải nghiên cứu kỹ lưỡng các quy định mới của UCP 600. 4.Quan niệm về nâng cao chất lượng TTQT theo phương thức TDCT 4.1.Khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng TTQT theo phương thức TDCT TTQT là một loại hình dịch vụ do ngân hàng cung cấp tới những khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức…Bất kì sản phẩm hay dịch vụ nào đều được đánh giá trên cơ sở chất lượng của chúng. Chất lượng thông thường được sử dụng để nhấn mạnh vào sự “ tuyệt hảo” của một sản phẩm hoặc dịch vụ. Chất lượng đơn giản là đáp ứng được nhu cầu của khách hàng trong hiện tại và tương lai. Có thể nói nhu cầu của khách hàng đối với dịch vụ TTQT là sự an toàn tuyệt đối, nhanh chóng, không quá rườm rà, phức tạp, được các nhân viên ngân hàng tôn trọng, giúp đỡ tận tình… Tóm lại, chất lượng TTQT qua phương thức TDCT là việc đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng đối với loại hình dịch vụ này. Để đánh giá chất lượng TTQT người ta thường áp dụng những chỉ tiêu cụ thể làm cơ sở. Qua nghiên cứu thực tiễn, có thể nêu lên một số chỉ tiêu vừa có tính chất định tính vừa có tính chất định lượng: Thứ nhất, quan trọng nhất là sự thoả mãn sự hài lòng của khách hàng. Dịch vụ ngân hàng do ngân hàng cung ứng là để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nếu như chất lượng của dịch vụ ngày càng hoàn hảo, có chất lượng cao thì khách hàng sẽ gắn bó lâu dài và chấp nhận ngân hàng. Không những vậy, những lời khen, sự chấp nhận, thoả mãn về chất lượng của khách hàng hiện hữu họ sẽ thông tin tới những người khác có nhu cầu TTQT tìm đến ngân hàng để giao dịch. Thứ hai, sự hoàn hảo của việc cung cấp phương thức TTQT qua L/C. Nó được hiểu là giảm thiểu các sai sót trong giao dịch với khách hàng và rủi ro trong việc cung cấp dịch vụ TTQT qua L/C của ngân hàng. Chất lượng dịch vụ của ngân hàng ngày càng hoàn hảo, giảm các sai sót trong giao dịch của ngân hàng với khách hàng, giảm thiểu những lời phàn nàn và khiếu kiện, khiếu nại của khách hàng đối với ngân hàng. Bên cạnh đó là những rủi ro trong kinh doanh dịch vụ của ngân hàng này càng giảm thiểu và đến mức không còn rủi ro. Ngoài ra sự hoàn hảo này cũng được thể hiện ở tốc độ thanh toán. Hoạt động TTQT là hoạt động thanh toán tiền hàng giữa các bên mua bán ở các nước cách xa nhau về địa lý nên việc thanh toán thường bị chậm trễ. Kéo dài thời gian thanh toán làm cho các nhà xuất khẩu bị đọng vốn, hoạt động kinh doanh kém hiệu quả. Thứ ba, quy mô và tỷ trọng thu nhập từ lĩnh vực TTQT qua L/C của ngân hàng không ngừng tăng lên. Đây là kết quả tổng hợp của sự đa dạng dịch vụ, sự phát triển dịch vụ và đương nhiên là cả chất lượng dịch vụ của ngân hàng tăng lên. Song, chất lượng dịch vụ có tính nổi trội hơn cả. Bởi vì nếu như chất lượng dịch vụ không đảm bảo, không được nâng cao, thì sự đa dạng các dịch vụ và phát triển các dịch vụ sẽ không có ý nghĩa vì không được khách hàng chấp nhận. 4.2.Khái niệm về nâng cao chất lượng TTQT theo phương thức TDCT Các NHTM là những người cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp. Dịch vụ ngân hàng được hiểu là các nghiệp vụ ngân hàng về vốn, tiền tệ, thanh toán,… mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng đáp ứng nhu cầu kinh doanh, sinh lời, sinh hoạt cuộc sống, cất trữ tài sản,… và ngân hàng thu chênh lệch lãi suất, tỷ giá hay thu phí thông qua dịch vụ ấy. Trong xu hướng phát triển ngân hàng tại các nền kinh tế phát triển hiện nay, ngân hàng được coi như một siêu thị dịch vụ, một bách hoá tài chính với hàng trăm, thậm chí hàng nghìn dịch vụ khác nhau tuỳ theo cách phân loại và tuỳ theo trình độ phát triển của ngân hàng. Trong đó việc cung cấp dịch vụ TTQT đặc biệt là phương thức thanh toán qua L/C ngày càng nắm vai trò quan trọng. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán ngày càng được sử dụng rộng rãi, được nhiều nhà kinh doanh xuất nhập khẩu tin tưởng lực chọn do những ưu thế của nó. Trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, các ngân hàng xuất hiện ngày càng nhiều và mỗi ngân hàng đều phải nỗ lực chạy đua với nhau trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ mà mình cung cấp để cạnh tranh, tạo chỗ đứng trên thị trường. Dịch vụ thanh toán quốc tế qua L/C là một trong số đó. Như vậy việc nâng cao chất lượng TTQT qua phương thức TDCT là làm sao để ngày càng thỏa mãn nhiều hơn nhu cầu ngày càng gia tăng của khách hàng trong cả hiện tại và tương lai. 4.3.Những nhân tố ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng TTQT theo phương thức TDCT 4.3.1.Nhân tố chủ quan Quy trình thanh toán L/C: Đây là toàn bộ trình tự thực hiện được quy định một cách chi tiết và cụ thể do ngân hàng lập ra. Đây là một trong những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thanh toán qua L/C. Vì thế, quy trình thanh toán phải được chuẩn hóa, thống nhất và linh hoạt; các điều khoản quy định phải chặt chẽ, hợp lý, giảm thiểu những rủi ro xảy ra. Dựa trên UCP 500 và tới đây là UCP 600, mỗi hệ thống ngân hàng đều lập quy trình thanh toán riêng cho hệ thống của mình. Các nhà xuất nhập khẩu có thể xem xét quy trình này để đánh giá và lựa chọn ngân hàng cung cấp dịch vụ. Chính vì vậy, với quy trình thực hiện vừa đơn giản, rõ ràng, vừa đảm bảo tính chi tiết, chặt chẽ, phù hợp sẽ nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán, đẩy nhanh tiến độ công việc, rút ngắn thời gian thanh toán và giảm rủi ro xảy ra. Công nghệ và trang thiết bị: Dựa vào công nghệ ngân hàng trang bị và sử dụng, khách hàng có thể đánh giá được chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Công nghệ tiên tiến, hiện đại sẽ giúp nâng cao tốc độ thanh toán, rút ngắn thời gian xử lý công việc, giảm các sai sót do các thao tác thủ công gây ra. Hiện nay hầu hết ngân hàng sử dụng mạng SWIFT để thanh toán bởi sự an toàn, nhanh chóng, đơn giản, giá rẻ. Trình độ nghiệp vụ của nhân viên TTQT: Phương thức TTQT qua L/C là phương thức chặt chẽ và phức tạp, yêu cầu độ chính xác, tỉ mỉ cao. Vì vậy, năng lực và trình độ của cán bộ nhân viên có ảnh hưởng lớn đến chất lượng dịch vụ. Cán bộ nhân viên TTQT phải có kiến thức sâu rộng, khả năng ngoại ngữ đặc biệt là Anh văn phải tốt thì mới có thể thực hiện, xử lý, kiểm tra, kiểm soát giấy tờ, cũng như có thể tư vấn hỗ trợ cho khách hàng, tránh những nhầm lẫn do sự khác biệt về ngôn ngữ. Các dịch vụ hỗ trợ khách hàng: Trong hoạt động ngoại thương, nhà nhập khẩu có thể gặp phải vấn đề về vốn cũng như việc lựa chọn loại L/C hay việc hoàn thành các giấy tờ. Vì thế ngân hàng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ như: cho vay kí quỹ L/C, chiết khấu bộ chững từ, bảo lãnh nhận hàng, bảo lãnh mở L/C trả chậm, tư vấn… Các dịch vụ hỗ trợ là cách thức để thu hút khách hàng, đáp ứng nhuc cầu của khách hàng, nâng cao tốc độ thanh toán, giảm rủi ro xảy ra do khách hàng không hiểu rõ các thủ tục, chứng từ. Có thể nói đây là yếu tố quan trọng giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng TTQT theo phương thức TDCT. 4.3.2.Nhân tố khách quan Tham gia trong quá trình thanh toán bằng phương thức TDCT có rất nhiều đối tượng. Có thể nói một nghiệp vụ TTQT qua L/C là một chuỗi các hoạt động mà ở đó các mắt xích phải kết hợp nhuần nhuyễn, khoa học. Nếu một mắt xích không thực hiện tốt sẽ kéo theo cả dây chuyền thất bại. *Từ khách hàng: trình độ của khách hàng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng thanh toán. Quá trình thanh toán sẽ diễn ra nhanh hơn nếu các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu có những hiểu biết cần thiết về phương thức thanh toán, những chứng từ phải xuất trình , thực hiện đúng quy trình, làm đúng các quy định về nội dung các loại giấy tờ. làm giảm khoảng thời gian giấy tờ phải giữ lại để bổ sung. Đồng thời rủi ro cũng tăng lên nếu các chứng từ , giấy tờ do khách hàng lập thiếu hoặc sai sót. Năng lực kinh doanh của khách hàng là yếu tố quan trọng hỗ trợ quá trình cung ứng của ngân hàng được trọn vẹn. Điều này được thể hiện ở khả năng tài chính cũng như uy tín của khách hàng . Khách hàng làm ăn có hiệu quả , có tiềm lực về tài chính mới đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay ký quỹ mở L/C, thanh toán tiền hàng …Hơn nữa, với khách hàng có uy tín cao thì sẽ đảm bảo chắc chắn việc thanh toán sẽ được thực hiện. Đạo đức của khách hàng cũng là vấn đề thiết yếu ảnh hưởng đến chất lượng thanh toán. Trong hợp đồng, nhà nhập khẩu phải có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ, đúng thời gian cho phía nhà xuất khẩu ; còn nhà xuất khẩu phải giao hàng theo số lượng, chất lượng và thời gian đã thỏa thuận trước trong hợp đồng trước đó. Tuy nhiên trong một số trường hợp. một trong hai bên không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình như: không thanh toán tiền hàng hoặc không thanh toán đúng thời hạn, hàng hóa không đầy đủ về số lượng và không đảm bảo về chất lượng…Điều này sẽ gây ảnh hưởng đến ngân hàng, làm trì hoãn quá trình thanh toán. Ngân hàng có thể gặp phải rủi ro do phía nhà nhập khẩu bị phá sản, vỡ nợ…, không thanh toán được tiền hàng và ngân hàng của người nhập khẩu không thu hồi được tiền. Ngoài ra khách hàng có thể giả mạo giấy tờ, đòi ngân hàng thanh toán. *Từ phía ngân hàng đại lý: Ngân hàng đại lý là ngân hàng góp phần quan trọng cho quá trình thanh toán có thể diễn ra nhanh chóng và hiệu quả. Mối quan hệ của ngân hàng với các ngân hàng đại lý càng rộng khắp trên thế giới thì việc thanh toán trở nên đơn giản và nhanh chóng hơndo không phải qua nhiều ngân hàng khác nhau. Tuy nhiên, ngân hàng đại lý không chỉ cần phải rộng khắp mà còn phải có uy tín và có thiện chí, dung hòa lợi ích của cả hai bên. Có như vậy, hoạt động thanh toán mới diễn ra một cách suôn sẻ và có chất lượng cao. *Từ môi trường khách quan: Với đặc trưng của hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa những quốc gia khác nhau. Do đó các yếu tố như pháp luật, môi trường kinh tế, xã hội của các nước có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng TTQT nói chung và thanh toán qua L/C nói riêng. Chương 2: Thực trạng chất lượng nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ ở Eximbank Hà Nội 1.Giới thiệu ngân hàng Eximbank chi nhánh Hà Nội 1.1.Lịch sử hình thành Eximbank Hà Nội Eximbank được thành lập vào ngày 24/05/1989 theo quyết định số 140/CT của Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng với tên gọi đầu tiên là Ngân Hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Bank), là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam. Ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động ngày 17/01/1990. Ngày 06/04/1992, Thống Đốc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam ký giấy phép số 11/NH-GP cho phép Ngân hàng hoạt động trong thời hạn 50 năm với số vốn điều lệ đăng ký là 50 tỷ đồng VN với tên mới là Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam, gọi tắt là Vietnam Eximbank. Eximbank Việt Nam ngày càng lớn mạnh lên cả về quy mô và chất lượng hoạt động. Từ khi thành lập đến nay Eximbank đã 6 lần tăng vốn điều lệ (VĐL). Và mới đây nhất đến tháng 12 năm 2006 VĐL của Eximbank VN đã là 1.212.371.000.000 đồng . Eximbank Hà Nội là chi nhánh ngân hàng cấp I của Eximbank Việt Nam, được thành lập theo quyết định số 195/EIB/VP ngày 10/8/1992 của Chủ tịch hội đồng quản trị Eximbank Việt Nam. Với văn bản số 002/GCT được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông qua ngay 22/9/1992 theo giấy phép đặt văn phòng chi nhánh số 0503/GP UBND thành phố Hà Nội, Eximbank chi nhánh Hà Nội chính thức đi vào hoạt động (27/11/1992). Hiện nay trụ sở chính của chi nhánh được đặt tại 19 Trần Hưng Đạo quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.Trong 15 năm hoạt động chi nhánh đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tổng nguồn vốn đến ngày 31/12/2006 đạt 1.731.093,14 triệu đồng và con số cán bộ nhân viên là 139 người. 1.2.Chức năng và nhiệm vụ của Eximbank HN: Với vai trò là một NHTM, về bản chất Eximbank HN là một định chế tài chính kinh doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ ngân hàng nhằm mục tiêu lợi nhuận. Mục đích thành lập của chi nhánh là nhằm mở rộng phạm vi hoạt động của Eximbank VN tại các tỉnh miền Bắc cụ thể là phục vụ các chương trình kinh tế-xã hội và đẩy mạnh công cuộc đầu tư cho lĩnh vực sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu. Là một đơn vị hoạt động độc lập nhưng Eximbank HN vẫn thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ, trách nhiệm với Hội sở chính như: Chấp hành thống nhất các quy tắc về mặt nghiệp vụ kinh doanh cũng như chế độ kế toán. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ điều lệ ngân hàng, chỉ thị của Ban Giám đốc và Hội đồng quản trị Eximbank. Tiến hành kinh doanh đúng chiến lược và kế hoạch, bảo toàn và phát triển nguồn vốn, mang lại lợi nhuận ngày càng cao cho cổ đông. Kết quả kinh doanh sau khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước và trích lập các quỹ theo quy định, tất cả lợi nhuận phải được chuyển về Hội sở chính. Để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình Eximbank HN có những nghiệp vụ sau: +Huy động tiền gởi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán của cá nhân và đơn vị bằng VND, ngoại tệ và vàng. Tiền gửi của khách hàng được bảo hiểm theo quy định của..Nhà..nước. +Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn; cho vay đồng tài trợ; cho vay thấu chi; cho vay sinh hoạt, tiêu dùng; cho vay theo hạn mức tín dụng bằng VND, ngoại tệ và vàng..với..các..điều..kiện..thuận..lợi..và..thủ..tục..đơn..giản. +Mua bán các loại ngoại tệ theo phương thức giao ngay (Spot), hoán đổi (Swap), kỳ..hạn(Forward)..và..quyền..lựa..chọn..tiền..tệ(CurrencyOption). +Thanh toán, tài trợ xuất nhập khẩu hàng hóa, chiết khấu chứng từ hàng hóa và thực hiện chuyển tiền qua hệ thống SWIFT bảo đảm nhanh chóng, chi phí hợp lý, an toàn với các hình thức thanh toán bằng L/C, D/A, D/P, T/T, P/O, Cheque. +Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng nội địa và quốc tế: Thẻ Eximbank MasterCard, thẻ Eximbank Visa, thẻ nội địa Eximbank Card. Chấp nhận thanh toán thẻ quốc tế Visa, MasterCard, JCB...thanh toán qua mạng bằng Thẻ. +Thực hiện giao dịch ngân quỹ, chi lương, thu chi hộ, thu chi tại chỗ, thu đổi ngoại tệ, nhận và chi trả kiều hối, chuyển tiền trong và ngoài nước. +Các nghiệp vụ bảo lãnh trong và ngoài nước (bảo lãnh thanh toán, thanh toán thuế, thực hiện hợp đồng, dự thầu, chào giá, bảo hành, ứng trước...) +Dịch vụ tài chính trọn gói hỗ trợ du học. Tư vấn đầu tư - tài chính - tiền tệ +Dịch..vụ..đa..dạng..về..Địa..ốc;..Home-Banking;..Telephone-Banking. +Các dịch vụ khác: Bồi hoàn chi phiếu bị mất cắp đối với trường hợp Thomas Cook Traveller' Cheques, thu tiền làm thủ tục xuất cảnh (I.O.M), cùng với những dịch vụ và tiện ích ngân hàng khác đáp ứng yêu cầu của khách hàng. 1.3.Cơ cấu tổ chức của Eximbank HN: Bộ máy hoạt động của Eximbank HN được tổ chức gọn nhẹ, hợp lý, bảo đảm hiệu quả cao và phù hợp với quy mô và đặc điểm địa bàn hoạt động. Sơ đồ tổ chức bộ máy Giám đốc Phó giám đốc Phó Giám đốc P. tín dụng P. dịch vụ khách hàng P.Thanh toán quốc tế P.Ngân quỹ P.Kinh doanh tổng hợp P.Hành chính nhân sự Tổ pháp chế công nợ - thẩm định giá Tổ kiểm tra nội bộ Tổ xử lý thông tin P.Giao dich Bạch Mai P.Giao dich Hàng Than Ban giám đốc Ban giám đốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Eximbank HN có nhiệm vụ và quyền hạn điều hành mọi hoạt động của chi nhánh, quản lý tài sản và nhân sự của chi nhánh theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước VN và theo ủy quyền của Tổng giám đốc Eximbank VN; chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc và trước pháp luật về kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Phòng tín dụng Nhiệm vụ chung của phòng là: Thực hiện công tác tín dụng theo đúng quy chế tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và Eximbank và theo phương thức đa dạng hóa các loại hình tín dụng. Thực hiện cho vay bằng VND, ngoại tệ và vàng đối với các đối tượng cho vay phù hợp với luật các tổ chức tín dụng. Thẩm định hồ sơ vay của khách hàng Bám sát, theo dõi tình hình sản xuất, kinh doanh, xuất nhập kho hàng hóa, năng lực tài chính, tài sản đảm bảo của khách hàng để tránh rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Đề xuất và xây dựng các chiến lược khách hàng theo từng thời kỳ Tổ chức quản lý các tài sản và giấy tờ sở hữu các tài sản thế chấp, cầm cố Thực hiện nghiên cứu và quản lý các dự án đầu tư, liên doanh khi được Tổng giám đốc ủy quyền. Phòng thanh toán quốc tế Nhiệm vụ chung của phòng là: Tổ chức thực hiện nghiệp vụ thanh toán hàng hóa xuất nhập khẩu có chứng từ của khách hàng theo đúng quy định. Thực hiện việc phát hành, tiếp nhận, tu chỉnh, thanh toán L/C; nghiên cứu kỹ các điều khoản, kịp thời phát hiện những điểm không hợp lý để lưu ý các đơn vị xuất nhập khẩu tu chỉnh. Hướng dẫn đơn vị xuất nhập khẩu lập chứng từ thanh toán cho chính xác, nghiên cứu, tư vấn cho đơn vị xuất nhập khẩu, áp dụng linh hoạt phương thức thanh toán có lợi nhất Thực hiện nghiệp vụ chiết khấu hàng cho daonh nghiệp theo đúng quy định. Thực hiện lệnh thanh toán cho ngân hàng nước ngoài liên quan đến nghiệp vụ thanh toán L/C và nhờ thu của các chi nhánh trong hệ thống Eximbank theo đề nghị của chi nhánh Thực hiện các thủ tục đòi tiền hàng xuất với ngân hàng nước ngoài và đối với khách hàng xuất khẩu liên quan đến nghiệp vụ thanh toán xuất khẩu. Chuyển tiền thanh toán của ngân hàng nước ngoài cho các chi nhánh theo L/C, nhờ thu hàng xuất. Thu các khoản thủ tục phí, điện phí đối với ngân hàng và khách hàng xuất khẩu Kiểm soát lại các nghiệp vụ liên quan trong khâu đối ngoại trước khi chuyển tiền ra nước ngoài. Cập nhật và theo dõi lượng nghiệp vụ giao dịch của từng khách hàng để kịp thời đề ra phương án tiếp thị từng thời điểm, từng tháng, quý, năm. Theo sự chỉ đạo ủy quyền và cho phép của hội sở chính, thiết lập quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài Làm đầu mối về quan hệ đối ngoại với các định chế tài chính quốc tế. Phối hợp với tổ xử lý thông tin để xử lý các vấn đề liên quan đến SWIFT Lưu giữ hồ sơ các ngân hàng, các mã khóa điện, chữ ký hữu quyền của ngân hàng đại lý, các thỏa ước được ký kết với ngân hàng nước ngoài, giải quyết các vướng mắc về quan hệ đại lý Báo cáo và xin ý kiến giải quyết của hội sở đối với các tranh chấp trong giao dịch quốc tế. Phòng Ngân quỹ Tiếp nhận, kiểm đếm, thu chi tiền mặt và chững từ có giá bằng ngoại tệ chính xác, đầy đủ theo đúng quy định của thống đốc Ngân hàng nhà nước và hội đồng quản trị Eximbank Tổ chức quản lý các hoạt động ngân quỹ bao gồm các mặt:công nhận, kiểm đếm, quản lý kho, thu chi tiền mặt và các chững từ có chính xác, đầy đủ, đảm bảo an toàn tuyệt đối theo đúng quy định hiện hành Thực hiện nhiệm vụ mua bán ngoại tệ tiền mặt tại quầy theo quy định. Cân đối, tính toán nguồn ngoại tệ mặt để điều hòa vốn, phục vụ yêu cầu giao dịch chi trả cho khách hàng Thực hiện việc điều chuyển tiền về hội sở, chi trả các khoản chuyển tiền từ các chi nhánh và ngoài hệ thống cho khách hàng Thực hiện việc mở sổ tiết kiệm cho khách hàng, thu chi tiền gửi tiết kiệm. Tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định, quy trình về nghiệp vụ kho quỹ theo các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước. Phòng kinh doanh tổng hợp Định hướng và xây dựng kế hoạch hoạt động kinh doanh của chi nhánh trong từng thời kỳ (ngắn hạn và dài hạn), đề xuất những biện pháp để thực hiện kế hoạch kinh doanh theo chỉ đạo của Giám đốc. Lập kế hoạch cân đối nguồn vốn và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ (trong và ngoài nước) theo đúng trình tự nghiệp vụ tại các văn bản của ngân hàng Nhà nước và Hội sở chính quy định. Quản lý, kiểm tra các bàn thu đổi ngoại tệ để đảm bảo hoạt động theo đúng quy định. 1.4. Hoạt động của Eximbank HN trong 3 năm gần đây và kế hoạch phát triển trong tương lai Kết quả kinh doanh của Eximbank HN trong 3 năm gần đây tương đối khả quan, lợi nhuận mỗi năm đều tăng vượt bậc so với năm trước đó và vượt mức kế hoạch đề ra. Nếu như năm 2004 lợi nhuận trước thuế và trích lập dự phòng là 17,54 tỉ đồng thì năm 2005 con số này là 26,7 tỉ đồng, tăng 52,2% ; năm 2006 là 28,73 tỉ đồng, tăng 7,6%. Có được kết quả như vậy là thành tựu về các mặt hoạt động của Eximbank HN, cụ thể : Hoạt động huy động vốn của Eximbank HN Với chính sách lãi suất linh hoạt, đa dạng hóa hình thức huy động vốn, tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động của Eximbank HN trong những năm gần đây khá cao. Bảng 2: Tình hình huy động vốn tại Eximbank HN trong 3 năm 2004-2006 (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Tổng nguồn vốn 1.208.960 1.501.262,35 1.730.286,59 Vốn huy động 819.450 1.421.782,56 1.663.006,86 Tăng vốn huy động so với năm trước 73,5% 17% (nguồn:phòng tín dụng-đầu tư Eximbank HN) Hoạt động sử dụng vốn Bảng 3: Tình hình sử dụng vốn của Eximbank HN (triệu đồng) Chỉ tiêu 2004 2005 % tăng giảm 2006 % tăng giảm Tổng TS có 1.208.960 1.501.262,35 24,18% 1.730.286,59 15,26% Tồn quỹ 6.755,75 97.140,94 1.337,90% Tiền gửi NHNN và TCTD 590.098,15 837.884,24 41,99% Dư nợ cho vay 720.883,61 763.539,40 -Trong hạn 707.945,19 752.478,22 6,29% -Quá hạn 12.938,41 11.061,18 -14,51% Trong đó dư nợ cầm cố 3.276,31 29.494,50 800,24% Điều chuyển vốn TSCĐ 15.473,85 16.112,35 4,13% Sử dụng khác 17.083,87 15.609,67 -8,63% (nguồn: phòng kinh doanh tổng hợp) Tổng sử dụng vốn năm 2006 đạt 1.730.286,59 triệu đồng, tăng 229.024,25 triệu đồng (15,26%) sơ với năm 2005, trong đó: +Tiền gửi tại các TCTD và NHNN đạt 837.884,24 triệu đồng, tăng 247.786,09 triệu đồng (41,99%). +Dư nợ cho vay đạt 763.539,40 triệu đồng, tăng 42.655,79 triệu đồng (5,92%). Năm 2006 chi nhánh tập trung cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty cổ phần, các khách hàng có uy tín, có quan hệ tốt với ngân hàng, có tài sản đảm bảo, vay trả đúng hạn. Trong tổng số dư nợ 763.539,40 triệu đồng, dư nợ của các doanh nghiệp, công ty cổ phần là 667.812,90 triệu đồng, chiếm 87,46%. Còn lại là dư nợ cho vay cá nhân. Chi nhánh tập trung vào củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng, rà soát lại các hồ sơ vay vốn đặc biệt là các hồ sơ còn nợ quá hạn, nợ khó đòi. Theo dõi sát các khoản nợ để đôn đốc khách hàng trả nợ gốc, lãi đúng hạn, hạn chế nợ quá hạn phát sinh. Năm 2006 chi nhánh đã thu được 1.784 triệu đồng nợ tồn đọng đã xử lý dợ phòng rủi ro, nợ quá hạn còn lại là 11.061,18 triệu đồng (chủ yếu là nợ quá hạn từ các năm trước tồn lại). Hoạt động thanh toán quốc tế Thanh toán quốc tế vừa là thế mạnh vừa là nghiệp vụ truyền thống của Eximban. So với các ngân hàng khác trên địa bàn, Eximbank HN chiếm tỉ trọng thanh toán quốc tế khá lớn và là một trong những ngân hàng rất có uy tín. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ Kinh doanh ngoại tệ cũng là một trong những thế mạnh của Eximbank Hà Nội, hoạt động này cũng liên quan mật thiết với hoạt động thanh toán quốc tế. Trong những năm qua, chi nhánh luôn chủ động khai thác được những nguồn ngoại tệ phục vụ hoạt động của ngân hàng và khách hàng. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ đáp ứng cho cả nhu cầu của khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp với những nghiệp vụ hết sức mới mẻ và hiệu quả như: Spot, forward, option…Đây là những công cụ rất hữu hiệu trong việc phòng chống rủi ro hối đoái cho khách hàng. Hiện nay chi nhánh cũng cung cấp miễn phí cho khách hàng bản tin dự báo tỷ giá ngoại tệ, vàng và áp dụng cơ chế mua bán linh hoạt, trực tiếp với khách hàng có nhu cầu theo diễn biến cung cầu của thị trường. Bảng 4: Tình hình hoạt động kinh doanh ngoại tệ (triệu USD) Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Tổng số M-B ngoại tệ 244,55 324,27 406.86 % tăng giảm 32,6% 25,47% (nguồn: phòng kinh doanh tổng hợp) Hoạt động thẻ Trong những năm gần đây, Eximbank HN đã đầu tư công nghệ, con người… để phát triển hệ thống thanh toán và phát hành các loại thẻ ngân hàng: thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ quốc tế và nội địa. Năm 2005, doanh số phát hành thẻ Eximbank Master Card và Visa Card đạt 19,52 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2004; doanh số thanh toán thẻ đạt 1,21 triệu USD. Năm 2006, doanh số thanh toán thẻ quốc tế là 1,390.83 ngàn USD. Cũng trong năm này, Eximbank HN phát hành 671 thẻ quốc tế trong đó 71 thẻ Visa, 68 thẻ Master, 532 thẻ Visa-Debit; 1721 thẻ nội địa. Công tác kế toán Chi nhánh đã chấp hành nghiêm chỉnh, đầy đủ các quy định, chế độ kế toán của Ngân hàng Nhà nước và Hội sở chính. Công tác kế toán đạt kết quả tốt: Doanh số thanh toán trong nước tăng, không có sai sót, nhầm lẫn, thực hiện nộp thuế đầy đủ, chi tiêu tiết kiệm… Phân tích kết quả kinh doanh Bảng 5: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005-2996 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Trị giá 2005 Trị giá 2006 Lũy kế tăng giảm so với cùng kỳ năm trước Tháng 12 Tích lũy từ đầu năm +/- +/- (%) Tổng thu nhập 108.861,64 12.938,02 134.956,44 26.094,80 23,97% +Thu lãi cho vay 52450,06 6.083,02 58.868,82 6.418,76 12,24% +Thu lãi tiền gửi, ĐT 38454,65 5.742,09 62.463,91 24.009,26 62,44% +Thu phí dịch vụ ngân hàng 7247,29 612,68 7.415,63 168,34 2,32% +Lãi gộp KDNT(thu>chi) 1423,48 433,42 2.360,91 937,43 65,85% +Thu khác 9286,15 66,81 3.847,17 -5.438,98 -58,57% Tổng chi phí 143.694,76 13.951,48 111.761,88 -31.932,88 -22,22% +Chi trả lãi huy động 71.659.61 9.465,72 91.857,71 20.198,10 28,19% +Chi dịch vụ ngân hàng 1.086,15 124,45 1.002,45 -83,70 -7,71% +Chi phí quản lý chung 10.864,44 1.560,97 12.482,17 1.617,73 14,89% +Chi khác 60084,56 2.800,35 6.419,55 -53.665,01 -89,32% Lợi nhuận trước thuế -34.833,11 -1.013,46 23.194,56 58.027,67 166,59% Năm 2006, lợi nhuận trước thuế của chi nhánh đạt 23.194,56 triệu đồng, nếu tính cả số tiền trích dự phòng rủi ro 5.535,48 triệu đồng thì đạt 28.730,04 triệu đồng (trong đó có 1.784,55 là thu từ nợ đã được trích dự phòng rủi ro). Phân tích chi phí Chi trả lãi luôn là khoản chi lớn nhất của ngân hàng và có xu hướng gia tăng do gia tăng quy mô cũng như kì hạn huy động. Trong năm 2005 tỷ trọng của chi trả lãi là 49.87% tổng chi phí. Năm 2006 tỷ trọng chi trả lãi trong tổng chi là 82,19%. Vì tiền gửi chiếm tỉ trọng cao nên lãi trả tiền gửi là bộ phận chủ yếu trong chi trả lãi.Tuy nhiên ta thấy trong năm 2005, khoản mục chi khác là rất lớn, chiếm 41,81%. Chi khác gồm chi lương, bảo hiểm, các khoản phí (điện, nước, bưu điện…), chi phí văn phòng, khấu hao, trích lập dự phòng tổn thất, tiền thuê, quảng cáo, đào tạo…Trong khi năm 2006,chi khác chỉ chiếm 5,7%. Các chi phí như chi lương, bảo hiểm, điện nước…là những khoản có biến động không lớn qua các năm, như vậy nguyên nhân của sự chênh lệch này có lẽ là do trong năm 2005,chi nhánh phải trích lập dự phòng tổn thất lớn. Điều này cũng cho thấy công tác phòng ngừa rủi ro của ngân hàng cũng như chất lượng tín dụng của ngân hàng đã tăng lên đáng kể. Phân tích thu nhập Thu lãi từ cho vay của ngân hàng và thu lãi từ tiền gửi là nguồn thu chính của ngân hàng. Năm 2005, thu lãi từ cho vay chiếm 48,18%, thu lãi từ tiền gửi chiếm 35,32%. Đến năm 2006, thu lãi từ cho vay của ngân hàng tương đối ổn định so với năm 2005. Nhưng thu lãi từ tiền gửi tăng mạnh (+62,44%) và còn vượt thu lãi từ hoạt động cho vay. Tỉ trọng thu lãi từ cho vay năm 2006 là 43,62%, thu lãi từ tiền gửi là 46,28%. Sở dĩ như vậy là do trong năm 2006 ngân hàng đã tăng số vốn gửi ở Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác lên 837.884,24 triệu đồng, tăng 41,99% so với năm 2005. Trong khi dư nợ tín dụng là 763.539,40 chỉ tăng 5,92% so với năm 2005. Có thể thấy rõ chiến lược sử dụng vốn của ngân hàng đã có bước thay đổi,đó là tập trung gửi ở các tổ chức tín dụng khác trong và ngoài nước. Điều này đã mở ra cho Eximbank HN con đường kinh doanh các loại hình dịch vụ ngân hàng rộng mở hơn, an toàn hơn. Trong khi tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro và cứng nhắc hơn thì ngân hàng tập trung vốn ở các tổ chức tài chính lớn, có uy tín để tạo cơ sở cho việc thực hiện các nghiệp vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế đồng thời cũng tạo được thu nhập lớn cho ngân hàng. Khoản thu từ phí của chi nhánh cũng khá đáng kể, chiếm 5,94%. Các khoản phí này bao gồm phí bảo lãnh, phí mở L/C, phí thanh toán, phí chuyển tiền… Tuy nhiên khoản thu này cũng tăng không đáng kể so với năm 2005. Phân tích khả năng sinh lời Lợi nhuận trước thuế của chi nhánh năm 2005 là –34.833,11 triệu đồng. Đến năm 2006 lợi nhuận của ngân hàng đã tă._.sót rất lớn của ngân hàng. Mặc dù dịch vụ TTQT của Eximbank đã tạo được nhiều thành quả cũng như chỗ đứng trên thị trường nhưng ta không thể vì thế mà chững lại, yên tâm với những gì đã đạt được. Phải luôn tìm tòi, nghiên cứu thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, biết được mình đang ở vị trí nào trên thị trường để có thể đưa ra những quyết sách thích hợp. Vấn đề muôn thưở trong tất cả các ngành hàng của nền kinh tế chính là cạnh tranh. Một miếng đất màu mỡ nhưng lại có quá nhiều người khai thác thì phải làm thế nào để giữ được phần đất của mình và mở rộng hơn nữa. Công tác marketing chính là để tìm ra hướng đi, cách làm đúng đắn, phù hợp. Thế nhưng Eximbank HN chưa chú trọng đến vấn đề này. Thậm chí, việc cơ bản nhất, cốt lõi nhất là đánh giá xem mình đang đững ở vị trí nào trên thị trường, dịch vụ TTQT qua L/C của mình chiếm lĩnh bao nhiêu % thị phần, phần lớn cán bộ trong ngân hàng cũng không nắm được. Khi cạnh tranh mạnh xảy ra thì biện pháp đưa ra cũng chỉ dừng lại ở việc giảm giá thì về lâu dài sẽ không có lợi cho ngân hàng. Công nghệ kỹ thuật không có những cải tiến mới, theo kịp với trình độ chung. Mặc dù Eximbank là hệ thống tham gia SWIFT gần như là sớm nhất Việt Nam (từ năm 1995) và trong thời điểm đấy, ngân hàng đã lợi dụng được lợi thế đó và tạo được danh tiếng. Thế nhưng từ thời gian đó đến nay, tất cả các ngân hàng ở Việt Nam đều đã tham gia vào hệ thống này, thậm chí máy móc, phần mềm của họ còn mới hơn, hiện đại hơn.Điều này làm Eximbank mất dần đi lợi thế về công nghệ. Các nhân viên chưa có sự chủ động, sáng tạo trong công việc, vẫn tuân thủ những quy trình cứng nhắc. Nói chung, trong các công sở ở Việt Nam hiện nay, khi được hỏi thì đa phần các nhân viên trả lời rằng mặc dù qua quá trình làm việc họ có nhận thấy những bất cập trong quản lý, cũng như quy trình nhưng do độ ỳ quá lớn họ không làm gì để cải thiện tình hình đó. Cấp trên bảo làm gì thì nhân viên thực hiện theo. Trong quản lý không có sự tiếp cận, trao đổi thẳng thắn giữa nhân viên và cấp trên. Ở Eximbank HN cũng diễn ra tình trạng tương tự như vậy. Đây là một nhức nhối không chỉ của Eximbank HN mà là của cả hệ thống quản lý ở nước ta. Từ những thành tựu cũng như những hạn chế nêu trên, tôi xin đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng TTQT qua phương thức TDCT tại Eximbank HN. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Eximbank Hà Nội 1.Định hướng chung cho các NHTM trong điều kiện gia nhập WTO Nước ta đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới, điều này đã có tác động lớn đến nền kinh tế của nước ta, đặc biệt là đối với lĩnh vực ngân hàng. Có câu “Biết người, biết ta trăm trận trăm thắng” vì thế để phân tích tác động đó cần phải đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu của các NHTM nước ta cũng như cơ hội thách thức phát sinh. *Những điểm mạnh của ngân hàng Việt Nam: Các NHTM Việt Nam có được sự tin tưởng đông đảo của người dân. Ngoài ra với mạng lưới chi nhánh rộng lớn nên các ngân hàng tiếp cận được với hầu hết người dân cũng như doanh nghiệp. Năm 2006 là năm đánh dấu bước tiến bộ vượt bậc của ngành ngân hàng trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái, tăng nhanh dự trữ ngoại tệ (thêm 2,5 tỷ USD), tích cực cải cách thể chế và hiện đại hoá công nghệ phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt, hệ thống các ngân hàng thương mại, nhất là ngân hàng thương mại cổ phần đã có những bước tiến lớn về quy mô hoạt động, mạng lưới và năng lực cạnh tranh.... Tổng tài sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam đã đạt xấp xỉ gần 1.200 nghìn tỷ đồng, tăng 33% so cuối năm 2005 và lần đầu tiên vượt mức GDP (gần bằng 120% GDP). Vốn tự có đạt 83.000 tỷ đồng, tăng 36% so cuối năm 2005 và về cơ bản đã chuyển toàn bộ các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn thành ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng có vốn điều lệ thấp nhất cũng đạt đến 250 tỷ đồng. Nhờ đó đã nâng tỷ lệ an toàn vốn bình quân toàn ngành đạt xấp xỉ tiêu chuẩn quốc tế tối thiểu (8%). Chất lượng tài sản đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ nợ tồn đọng tính trên cùng một chuẩn mực kế toán đã giảm từ khoảng 5% cuối năm 2005 xuống còn 3,5% cuối năm 2006. Hàng loạt sản phẩm ngân hàng mới dựa trên nền tảng công nghệ thông tin đã được áp dụng và hoạt động kinh doanh bán lẻ, dịch vụ ngân hàng điện tử, thanh toán và chuyển tiền... Năm 2006 là năm các ngân hàng thương mại đạt mức sinh lời rất cao: tỷ lệ lãi ròng trên vốn tự có bình quân 17%- 18%. Một số ngân hàng thương mại cổ phần đạt trên mức 30%. *Bên cạnh đó các NHTM Việt Nam còn có rất nhiều điểm yếu cần phải khắc phục. Các ngân hàng thương mại về cơ bản vẫn là ngân hàng quy mô nhỏ, chưa hình thành được những tập đoàn tài chính hùng mạnh làm trụ cột cho hệ thống tài chính. Chất lượng tín dụng (thể hiện qua tỷ lệ nợ xấu) đã được cải thiện nhưng vẫn cao và tiềm ẩn rủi ro đối với an toàn hệ thống. Một điểm yếu đặc biệt của các ngân hàng thương mại Việt Nam so khu vực và quốc tế là trình độ quản trị rủi ro và quản trị doanh nghiệp... Có thể nói, xuất phát điểm và trình độ phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam còn thấp, cả về công nghệ, trình độ tổ chức, quản lý và chuyên môn nghiệp vụ, tốc độ mở cửa của nền kinh tế còn chậm, khả năng huy động vốn trong nội bộ nền kinh tế thấp, nhất là vốn trung dài hạn và tiết kiệm nội địa, hầu hết các NHTM chưa có chiến lược kinh doanh hợp lý để có thể vươn ra thị trường quốc tế. *Cơ hội khi gia nhập WTO Việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ mang lại nhiều cơ hội cho lĩnh vực tài chính ngân hàng một cách trực tiếp cũng như gián tiếp.  Về mặt trực tiếp, việc này sẽ tạo thêm cơ hội cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng trong nước tiếp cận thị trường tài chính quốc tế đã phát triển ở mức cao hơn. Ðây là cơ hội để học tập và nâng cao trình độ quản trị và cung cấp dịch vụ, phát triển các loại hình và kỹ năng kinh doanh mới mà các ngân hàng trong nước chưa có hoặc có ít kinh nghiệm, như kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử, quản lý quỹ, môi giới tiền tệ, quản lý rủi ro, v.v.  Các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam cho phép các ngân hàng nước ngoài được đầu tư mua cổ phần của các ngân hàng trong nước. Do đó, đây cũng là cơ hội cho các ngân hàng trong nước tăng vốn, tiếp thụ kiến thức, kinh nghiệm và công nghệ hiện đại về quản lý và hoạt động ngân hàng, vì các ngân hàng nước ngoài được lựa chọn làm đối tác chiến lược đều là các ngân hàng lớn có danh tiếng. Xét ở góc độ gián tiếp, là tạo cơ hội và thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước tích cực cạnh tranh thị trường để tồn tại và phát triển, không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng hoạt động ra khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp này (cả trong nước và nước ngoài) sẽ trở thành các khách hàng tiềm năng của ngân hàng. Ngân hàng là nhà cung cấp dịch vụ. Vì vậy, ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng sẽ có điều kiện phát triển tốt khi khách hàng - những người sử dụng dịch vụ của họ làm ăn tốt và phát triển. *Thách thức khi gia nhập WTO Khi mở cửa thị trường tài chính ngân hàng sẽ đặt ra nhiều thách thức về cạnh tranh, khi hệ thống ngân hàng trong nước vốn còn quá nhỏ bé so với các ngân hàng nước ngoài. Hiện nay, số lượng các ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam đã khá nhiều, hơn 30 ngân hàng. Tuy nhiên, quy mô về vốn và hoạt động vẫn còn nhỏ bé, do đó hạn chế khả năng mở rộng mạng lưới trong nước và quốc tế, đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng hiện đại để đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng như mở rộng đối tượng khách hàng. Các ngân hàng trong nước vẫn chỉ tập trung vào các dịch vụ huy động và cho vay truyền thống, chất lượng dịch vụ chưa cao. Trong khi đó, trước sự tham gia thị trường ngày càng sâu rộng của các ngân hàng nước ngoài, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng tăng, các ngân hàng trong nước sẽ đối mặt với nguy cơ mất dần lợi thế về dịch vụ ngân hàng bán lẻ với mạng lưới các kênh phân phối và cơ sở khách hàng đã có sẵn. Ngoài ra, mở cửa thị trường tài chính ngân hàng không chỉ buộc các ngân hàng trong nước cạnh tranh thị trường với các ngân hàng nước ngoài mà còn phải cạnh tranh thị trường với các định chế tài chính phi ngân hàng. Nhiều quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính nước ngoài đang nghiên cứu thị trường Việt Nam, một thị trường được đánh giá là rất nhiều tiềm năng, với tốc độ tăng trưởng nhanh trong khi mức độ và trình độ cung cấp dịch vụ tài chính còn ở giai đoạn phát triển ban đầu. Các tổ chức này sẽ cạnh tranh thị trường mạnh với ngân hàng về các hoạt động huy động vốn cũng như đầu tư.  Thêm vào đó, với việc mở cửa thị trường tài chính, các ngân hàng trong nước phải đối mặt với nhiều rủi ro thị trường. Chẳng hạn rủi ro về giá, tỷ giá và lãi suất và các rủi ro hệ thống, bắt nguồn từ sự lan truyền của các cuộc khủng hoảng, các cú sốc kinh tế tài chính khu vực và trên thế giới. Rủi ro cũng có thể đến từ các doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng do làm ăn thua lỗ, thất bại trong cạnh tranh. Khi có bất cứ một biến động tài chính nào thì những ngân hàng quy mô nhỏ dễ bị tổn thương hơn cả. *Định hướng chung của toàn ngành ngân hàng nhằm tận dụng những điểm mạnh, giảm bớt những điểm yếu để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức: Trước tiên, các ngân hàng cần tăng cường cải cách một cách triệt để, nâng cao năng lực tài chính và hoạt động, thông qua huy động các nguồn đầu tư trong nước, tạo sự liên kết giữa các ngân hàng để hình thành các ngân hàng lớn hơn, lựa chọn các đối tác chiến lược lớn có uy tín để tranh thủ vốn, công nghệ và mạng lưới hoạt động toàn cầu của các ngân hàng này. Các ngân hàng cũng cần đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, và mở rộng khách hàng. Dịch vụ ngân hàng là loại hình dịch vụ có tính đặc thù, đòi hỏi uy tín cao. Vì vậy, mỗi ngân hàng cần xây dựng cho mình một hình ảnh đẹp, một thương hiệu mạnh, tin cậy. Thực tế hiện nay, các ngân hàng chưa chú trọng công tác quản lý rủi ro, kể cả các ngân hàng thương mại nhà nước lẫn các ngân hàng thương mại cổ phần. Do vậy, các ngân hàng nước ta cần từng bước xây dựng cho mình cơ chế quản lý rủi ro hiệu quả hơn. 2.Định hướng nâng cao chất lượng TTQT qua phương thức TDCT tại Eximbank HN Trước hết cần hết sức quan tâm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và có chiến lược lâu dài phát triển nguồn nhân lự có chất lượng cao. Bởi vì, theo nguyên lý con người là yếu tố quyết định. Để nâng cao chất lượng dịch vụ trước yêu cầu hội nhập thì phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, nhân viên trong ngân hàng, trong toàn bộ các chi nhánh. Có chính sách thu hút người giỏi, người có tài, người có năng lực về hoạt động dịch vụ ngân hàng từ các ngân hàng khác, các ngành khác và các trường đại học trong và ngoài nước về. Chính sách thu hút chủ yếu là chính sách đãi ngộ, bố trí và sử dụng, việc tạo điều kiện phát huy tốt chuyên môn và không khí làm việc trong chi nhánh. Mạnh dạn áp dụng mô hình thuê chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng làm việc tại ngân hàng. Thứ hai là không ngừng nâng cao mức độ hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Một mặt phù hợp với tiềm lực tài chính của ngân hàng, phù hợp với mặt bằng chung về công nghệ của đất nước, nhưng phải đảm bảo xu thế chung của khu vực và quốc tế. Cần nhận thức rằng, chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào yếu tố quan trọng thứ hai này đó là trình độ công nghệ. Có cán bộ giỏi chuyên môn, nhưng hệ thống máy móc thiết bị không hiện đại, trình độ công nghệ không tiên tiến, không thể làm nên hệ thống các dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao, uy tín để cung cấp cho khách hàng. Thứ ba là không ngừng nâng cao chất lượng công tác quản trị điều hành và kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Công tác này phải thường xuyên được nâng lên ngang tầm với trình độ hiện đại của công nghệ. Đồng thời cần thường xuyên rà soát lại các quy trình, quy định nội bộ trong chi nhánh để hoàn thiện, bổ sung, nâng cấp và tránh sơ hở dễ bị lợi dụng. Bốn là, thu thập thông tin phản hồi từ khách hàng. Đánh giá kịp thời các thông tin ngược chiều, các ý kiến của khách hàng cần được ngân hàng trân trọng, tốt nhất là có thư cảm ơn, có chính sách khuyến khích khách hàng. Các ý kiến có giá trị, có ý nghĩa thiết thực nên có phần thưởng cho khách hàng. Năm là, cố gắng đạt được hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000. Khi gia nhập WTO cạnh tranh giữa các ngân hàng trong và ngoài nước sẽ rất khốc liệt, ngân hàng nào có được chứng nhận trên sẽ rất thuận lợi. Bộ ISO 9001 nêu ra những hướng dẫn để xây dựng một hệ thống 08 nguyên tắc quản lý chất lượng ( QMS) và 21 điều khoản của mỗi tổ chức tuỳ thuộc vào tầm nhìn, văn hoá, cách quản lý tạo sản phẩm hay dịch vụ có chất lượng phù hợp, thoả mãn với nhu cầu của khách hàng ( bên thứ hai, thứ ba và cả bên thứ nhất) . Ngoài ra để tạo hệ thống mua bán tin cậy, trong thương mại thế giới các cơ quan đánh giá chất lượng có uy tín trên thế giới ( bên thứ 3) sẽ đánh giá và cấp giấy chứng nhận phù hợp với ISO và các hệ thống quản lý khác cho tổ chức. Đây là chứng thư chất lượng “Một người chứng nhận đề nhiều người thừa nhận”. Khi áp dụng mô hình quản lý theo các yêu cầu ISO 9001 ngân hàng có thể thực hiện các yêu cầu về chất lượng dịch vụ một cách hiệu quả và tiết kiệm, nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Và nhờ có hệ thống hồ sơ tài liệu chất lượng, ngân hàng có thể đưa ra các biện pháp làm việc đúng ngay từ đầu, có thể xác định đúng nhiệm vụ và chỉ ra cách thức thực hiện để đạt được kết quả đã định; Hệ thống hồ sơ có thể làm tài liệu để đào tạo huấn luyện nhân viên trong nội bộ mình và các bộ phận biết, để trao đổi, học được kinh nghiệm của nhau. Trong giao dịch thương mại dịch vụ gần đây, đa số khách hàng lựa chọn dịch vụ hàng hoá có chất lượng, tức nhanh chóng thuận tiện, chính xác và hiện đại mà các yêu cầu này đã được thiết lập và kiểm soát khi áp dụng QMS; trong nhiều trường hợp đứng trước nhiều NH, khách hàng sẽ chỉ lựa chọn ngân hàng nào có chất lượng cao. 3. Giải pháp nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Eximbank Hà Nội Để nâng cao chất lượng TTQT qua phương thức TDCT thì Eximbank HN cần phải phát huy những thành tựu mà mình đã đạt được, cũng như phải triệt tiêu, giải quyết tận gốc những khó khăn, vướng mắc mà ngân hàng còn gặp phải. Cụ thể, với những khó khăn đó thì ta có những giải pháp sau đây: Bảng18: Giải pháp cho từng khó khăn Khó khăn Giải pháp cụ thể Chưa khai thác được tiềm năng rộng lớn từ những khách hàng là doanh nghiệp nhỏ, khả năng giữ khách còn yếu -Phải tăng cường, đẩy mạnh công tác marketing, nghiên cứu thị trường. Thực hiện chiến lược marketing mix bao gồm các chiến lược về thị trường, khách hàng, sản phẩm,phân phối. Vẫn còn tồn tại khá nhiều tình trạng sai sót, nhầm lẫn làm kéo dài thời gian thanh toán, gây thiệt hại đến uy tín, tài chính của ngân hàng và khách hàng - Hiện đại hóa bộ máy tổ chức và tăng cường công tác đào tạo cán bộ nhân viên có đủ trình độ nghiệp vụ và đạo đức đáp ứng yêu cầu của thanh toán. -Đầu tư công nghệ tiên tiến - Kết hợp nghiệp vụ TTQT với các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ như mua bán kỳ hạn, SWAP, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai… -Đẩy mạnh công tác tư vấn khách hàng -Marketing mix Loại hình L/C cung cấp còn kém đa dạng - Nghiên cứu và đưa vào sử dụng đa dạng các loại L/C Thu nhập từ hoạt động TTQT qua L/C có xu hướng giảm xuống qua các năm -Phân tích chi phí, giá cả hợp lý nhằm đưa ra mức giá cạnh tranh nhưng vẫn bù đắp được chi phí và đảm bảo có lãi. -Marketing mix 3.1.Hiện đại hóa bộ máy tổ chức và tăng cường công tác đào tạo cán bộ nhân viên có đủ trình độ nghiệp vụ và đạo đức đáp ứng yêu cầu của thanh toán. Tổ chức bộ máy cần phải được điều chỉnh nhằm phù hợp với tính chất kinh doanh tinh, gọn, đủ điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế. Làm được điều này thì không chỉ có lợi cho việc nâng cao chất lượng TTQT qua phương thức TDCT mà còn cho việc xây dựng mô hình hiện đại nhằm nâng cao chất lượng hoạt động trong tất cả các lĩnh vực hoạt động ngân hàng nó chung. Trong bất kỳ một tổ chức nào yếu tố con người luôn phải được đặt lên hàng đầu. Đặc biệt với những ngành đòi hỏi trình độ cao, sự chính xác, tỉ mỉ cũng như trung thực như ngân hàng tài chính. Ngân hàng luôn phải đặc biệt coi trọng công tác cán bộ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ngân hàng nên mở các buổi huấn luyện, khóa học nâng cao về nghiệp vụ TTQT qua TDCT. Đặc biệt để phát huy tinh thần ham học hỏi cũng như tự khẳng định mình của cán bộ nhân viên bằng cách phát động các cuộc thi viết sáng kiến, ý tưởng hay về các chủ đề như giải pháp giảm rủi ro, nâng cao chất lượng,… Ngoài ra, chính sách thưởng phạt cũng vô cùng quan trọng để tạo động lực cho nhân viên làm việc hăng say, có trách nhiệm. 3.2.Đầu tư công nghệ tiên tiến: Sự áp dụng các công nghệ hiện đại sớm nhất luôn là chìa khóa để mọi lĩnh vực có được thành công, ngành ngân hàng cũng không ngoại lệ. Eximbank nói chung và Eximbank HN nói riêng cần tăng cường việc hoàn thiện, củng cố, xây dựng hệ thống máy móc kỹ thuật, phần mềm vi tính, công nghệ hiện đại hướng tới tự động hóa, đạt chuẩn thế giới. Không chỉ có vậy, ngân hàng cũng phải quan tâm tới việc nâng cao trình độ áp dụng, sử dụng, khai thác công nghệ cho các cán bộ, nhân viên. Ngân hàng cũng cần phải đảm bảo được tính an toàn, bảo mật trong trong việc sử dụng công nghệ thông tin, tránh tình trạng bị các hacker xâm nhập gây bất lợi cho hoạt động chung của ngân hàng cũng như khách hàng. 3.3.Nghiên cứu và đưa vào sử dụng đa dạng các loại L/C: Hiện nay trên thế giới, có rất nhiều loại L/C được áp dụng nhằm tạo thuận lợi cao nhất cho người sử dụng. Nhu cầu của khách hàng ngày càng đa dạng, và khi khách hàng hiểu rõ hơn về phương thức thanh toán TDCT họ sẽ đòi hỏi các ngân hàng phải cung cấp loại L/C có lợi cho họ nhất.Nếu Eximbank HN không đáp ứng được, họ sẽ tìm tới các ngân hàng khác. Tuy nhiên việc đưa những L/C đặc biệt vào sử dụng đòi hỏi rất nhiều khía cạnh, như tiềm lực ngân hàng phải mạnh, việc liên kết giữa các phòng ban trôi chảy, những khách hàng phải có độ tin cậy cao… Để làm được điều này, ngân hàng phải phối kết hợp chặt chẽ các bộ phận khác trong ngân hàng như tín dụng, kinh doanh ngoại tệ với bộ phận TTQT, nhằm đưa ra những quy trình mới cho việc áp dụng các loại L/C đặc biệt. Ví dụ như: ở Eximbank HN cũng từng có trường hợp khách hàng làm đơn xin mở L/C standby, phòng TTQT đã duyệt và quyết định sẽ thông qua nhưng khi gửi hồ sơ lên phòng tín dụng thì lại không được chấp nhận, khiến cho việc mở L/C này thất bại. Ngoài ra, các cán bộ, nhân viên TTQT phải nắm vững kiến thức chuyên môn để không bị hiểu sai, cũng như gây nhầm lẫn trong quá trình thực hiện những loại L/C phức tạp này. Chi nhánh cũng cần phải nghiên cứu tình hình kinh doanh của khách hàng để có thể quyết định sử dụng loại L/C nào là tốt nhất. Việc áp dụng các L/C đặc biệt, bên cạnh tác dụng tạo thêm cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn, mặt khác còn là sự đa dạng hóa loại hình tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu, do đó càng có tác dụng thu hút khách hàng sử dụng các loại L/C này. 3.4.Kết hợp nghiệp vụ TTQT với các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ : Ngân hàng có thể áp dụng các nghiệp vụ như mua bán kỳ hạn, SWAP, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai… để hạn chế những rủi ro hối đoái, đảm bảo quyền lợi cho ngân hàng và khách hàng. 3.5.Chiến lược Marketing Mix 3.5.1.Chiến lược thị trường Tiến hành nghiên cứu, phân đoạn thị trường để xác định rõ thị trường mục tiêu, thị trường tiềm năng. Đây là công việc đầu tiên cần phải thực hiện để có được những hướng đi cho các bước tiếp theo. Đây là công việc đòi hỏi phải có kiến thức chuyên môn về marketing, trong khi tại Eximbank HN chưa có bộ phận, phòng ban nào chịu trách nhiệm về lĩnh vực này. Vì thế, đòi hỏi cấp bách là ngân hàng phải thiết lập bộ phận chuyên trách về Marketing ngân hàng. Trong thời đại mới, ngân hàng phải là người chủ động đi tìm kiếm khách hàng, rồi lôi kéo khách hàng sử dụng dịch vụ của mình, duy trì mối quan hệ với những khách hàng đó. Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của ngân hàng: Khả năng này được thể hiện ở các mặt: vốn của ngân hàng, uy tín của ngân hàng trên thị trường quốc tế và trong nước, sự khang trang bề thế của ngân hàng, mức độ an toàn trong kinh doanh, trình độ của đội ngũ cán bộ nghiệp vụ của ngân hàng,… 3.5.2.Chiến lược khách hàng *Áp dụng tỉ lệ kí quỹ phù hợp để thu hút khách hàng: Ký quỹ là một biện pháp nhằm giảm khả năng xảy ra rủi ro đặc biệt là những rủi ro từ phía khách hàng như khách hàng bị vỡ nợ hay không muốn trả tiền. Tuy nhiên nên có những mức ký quỹ khách nhau cho từng đối tượng khách hàng khác nhau. Cần phải nghiên cứu mức ký quỹ phù hợp để giảm rủi ro, giảm đọng vốn cho những đối tượng khách hàng có uy tín và quan hệ lâu năm với ngân hàng. Cần phải tiến hành đánh giá, phân loại khách hàng chính xác, chi tiết, cụ thể. Để phân loại, ngân hàng có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau: -Mức độ quan hệ của khách hàng với chi nhánh: với nhưng khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu năm, uy tín với khách hàng thì sẽ được ưu đãi hơn. -Uy tín trong các lần giao dịch trước. -Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh: dựa vào các báo cáo tài chính. -Những khoản nợ mà khách hàng trì hoãn trả, không trả tại các ngân hàng khác. -Tài sản thế chấp của doanh nghiệp. *Áp dụng các hình thức quảng cáo, khuyến mãi, PR… để mở rộng thị trường, xây dựng mối quan hệ bền vững với khách hàng. Việc tạo dựng một thương hiệu lớn, uy tín trong lĩnh vực TTQT không những đòi hỏi ngân hàng phải thực sự hoạt động có hiệu quả mà còn ở việc đầu tư, thực hiện các hoạt động quảng bá nhằm nâng cao vị thế của ngân hàng mình. *Phát triển các dịch vụ hỗ trợ khách hàng trong TTTDCT: trong phương thức TTQT TDCT cả nhà xuất khẩu lẫn nhà nhập khẩu đều chịu áp lực về tài chính. Nhà nhập khẩu thì phải ký quỹ còn nhà xuất khẩu thì phải chờ ngân hàng thanh toán sau khi xem xét bộ chứng từ. Do đó, một trong những khó khăn chính của khách hàng là khó khăn về vốn.Eximbank cũng đã có những dịch vụ đi kèm nhằm hỗ trợ khách hàng như: cho vay ký quỹ, chiết khấu bộ chứng từ, bảo lãnh mở L/C, mở L/C trả chậm, L/C có thể chuyển nhượng. Tuy nhiên thủ tục để thực hiện các dịch vụ này còn rườm rà, gây trở ngại cho khách hàng. Ngân hàng cần nghiên cứu để đơn giản hóa thủ tục nhưng cũng phải đảm bảo tính phù hợp và chặt chẽ. Mặt khác việc cấp tín dụng cho khách hàng dưới bất ký hình thức nào như chiết khấu, hay bảo lãnh… đều chưa đựng rủi ro. Ngân hàng cũng cần phải thực hiện tốt công tác thẩm định khách hàng cũng như xây dựng một quy trình thực hiện hợp lý, cụ thể. *Đẩy mạnh công tác tư vấn khách hàng: +Đối với khách hàng là đơn vị nhập khẩu: doanh nghiệp nhập khẩu gây rủi ro cho ngân hàng khi họ bị mắt khả năng thanh toán hoặc cố tình vi phạm nghĩa vụ thanh toán của mình trong khi ngân hàng không yêu cầu ký quỹ 100%. Để vừa có thể đảm bảo quyền lợi cho ngân hàng vừa đem lại lợi ích cho nhf nhập khẩu thì cần tư vấn những vấn đề sau: -Loại L/C nên mở -Những điều khoản nên đưa vào trong L/C -Thời gian nên mở L/C: nếu quá sớm sẽ gây đọng vốn, còn muộn thì sẽ gây khó khăn về thời gian nhận hàng. +Đối với đơn vị xuất khẩu: Tư vấn cho nhà xuất khẩu yêu cầu bên nhập khẩu thực hiện ,mở một L/C đảm bảo quyền lợi của mình nhất. Chẳng hạn khi nhà xuất khẩu thực hiện hợp đồng ngoại thương đối với những mặt hàng quý hiếm, giá trị cao hoặc khi có sự nghi ngờ khả năng thanh toán của ngân hàng phát hành thì việc sử dụng L/C không hủy ngang có xác nhận và miễn truy đòi là có lợi nhất. Lựa chọn ngân hàng phát hành L/C Tư vấn trong quá trình lập bộ chứng từ để yêu cầu thanh toán. Xem xét kỹ những lý do mà ngân hàng phát hành đưa ra để từ chối thanh toán có hợp lý hay không. 3.5.3.Chính sách giá cả Đây là một chính sách quan trọng để thu hút khách hàng vì ngày nay khách hàng không chỉ muốn sử dụng những dịch vụ có chất lượng tốt mà còn đòi hỏi giá thấp. Trong hoạt động TTQT, ngoài độ an toàn cho các giao dịch thanh toán thì phí dịch vụ cao hay thấp cũng được khách hàng quan tâm rất nhiều. Tuy nhiên, mức giá đặt ra vẫn phải đảm bảo được lợi nhuận của ngân hàng. Vì thế, không chỉ dựa vào ý muốn chủ quan mà đưa ra những mức phí mà phải tiến hành định giá, đồng thời cũng phải dựa vào chiến lược cạnh tranh từng thời kỳ. 3.5.4.Chính sách phân phối Để mở rộng mạng lưới kinh doanh nhằm đảm bảo phục vụ khách hàng một cách tốt nhất thì các ngân hàng cần phải mở thêm các quầy giao dịch bán lẻ sản phẩm ở những nơi có nhiều hoạt động kinh tế thương mại. Hiện nay Eximbank HN mới mở 2 phòng giao dịch ở phố Bạch Mai và Hàng Than. Khi thực hiện việc này cần tính đến các yếu tố như: Địa điểm đó có thuận lợi cho khách hàng giao dịch không? Có gần khu dân cư đông đúc không? Chi phí thành lập có cao không? Thu về dịch vụ có bù đắp được các chi phí không? Nơi đó có an toàn không? Tuy nhiên trong hoạt động TTQT, chính sách phân phối sản phẩm và đieaj điểm giao dịch trong chiến lược Marketing không được chú trọng và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường thực hiện TTQT tại các ngân hàng lớn hoặc các chi nhánh lớn để đảm bảo an toàn và tốc độ thực hiện. 4.Những kiến nghị 4.1. Đối với hội sở chính Eximbank Việt Nam cần phải đảy mạnh việc thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý và tiến tới thiết lập mối quan hệ đại lý rộng rãi hơn nữa. Ngoài ra, hội sở chính cũng nên tạo điều kiện để các chi nhánh chủ đông tìm kiếm, thiết lập quan hệ với ngân hàng đại lý, đặc biệt với các nước có quan hệ thương mại lớn với nước ta như: Nhật Bản, Trung quốc, các nước trong khối ASEAN… Thêm vào đó, hội sở chính cần thường xuyên theo dõi hoạt động của các ngân hàng đại lý nhằm tránh rủi ro do họ hoạt động không hiệu quả. 4.2. Đối với ngân hàng Nhà nước (NHNN) NHNN Việt Nam cần phải không ngừng nghiên cứu, soạn thảo và đưa ra các chính sách liên quan đến lĩnh vực TTQT, để phát triển hoạt động này phù hợp với tình hình kinh tế trong nước cũng như xu hướng phát triển của thế giới. Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo trong toàn hệ thống NHTM tại Việt Nam (kể cả các chi nhánh, văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam) nhằm giao lưu, trao đổi kinh nghiệm cũng như phát hiện ra những khó khăn gặp phải trong qua trình thực hiện nghiệp vụ TTQT, đặc biệt là phương thức TDCT để có hướng khắc phục kịp thời. Quan tâm đến công tác phát triển thị trường hối đoái vì đây là một tiền đề tốt nhất để cho hoạt động TTQT nói riêng và hoạt động chung của các ngân hàng diễn ra một cách hiệu quả. Thông qua thị trường này NHNN có thể điều hành tỷ giá một cách chính xác, linh hoạt nhất, từ đó có thể điều tiết một cách hoàn hảo hoạt động TTQT. Tại Việt Nam thị trường hối đoái chưa thực sự hoạt động và vẫn bị thị trường chợ đen lấn át. 4.3. Đối với chính phủ Chính phủ cần nhanh chóng ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp quy về hoạt động TTQT, trong đó có hoạt động TTQT qua phương thức TDCT. Ví dụ như các điều luật và quy định thực hiện hoạt động TTQT, các văn bản quy định tạo sự thông thoáng hơn cho hoạt động ngân hàng và các doanh nghiệp… Các văn bản này phải phù hợp với đường lối phát triển của đất nước, thúc đẩy sự tham gia hoạt động TTQT của các thành phần kinh tế, đặc biệt phải đảm bảo quyền lợi của các chủ thể này, tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính hoạt động có hiệu quả hơn. Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu phát triển, đồng thời đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm thay thế nhập khẩu. Hàng xuất khẩu phải có chất lượng, hàm lượng công nghệ cao để tạo được vị thế trên thị trường quốc tế. Kết luận TTQT theo phương thức TDCT là phương thức được các nhà xuất nhập khẩu sử dụng nhiều nhất do những lợi thế của nó so với các phương thức khác. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta phát triển vượt bậc đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại thương kéo theo sự phát triển ngày càng rộng rãi của phương thức thanh toán này tại các NHTM trong nước. Tuy nhiên, có thể nói với trình độ về kiến thức, ngoại ngữ, cũng như công nghệ đã làm cho phương thức TTQT qua TDCT do các NHTM Việt Nam cung cấp chưa đáp ứng được những nhu cầu, đòi hỏi của khách hàng đặc biệt là với những bạn hàng nước ngoài. Vì chất lượng của một sản phẩm đặc biệt là một sản phẩm dịch vụ luôn không có giới hạn, đã tốt nhưng lại còn cần phải làm sao để nó trở nên tốt hơn, tốt hơn nữa. Đây cũng chính là mục tiêu mà Eximbank HN cần phải hướng tới để tồn tại được trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm không bao giờ là vấn đề cũ, không cần quan tâm mà ngược lại nó luôn làm đau đầu các nhà quản trị,đặc biệt là các giám đốc ngân hàng _nới cung cấp các dịch vụ vô hình phức tạp. Trong phạm vi bài này, em chưa thể giải quyết được tất cả các vấn đề nhưng có lẽ cũng phần nào gợi ý được cho ngân hàng những hướng đi có thể xem xét, thực hiện. Xin chân thành cảm ơn PGS-TS Nguyễn Thị Thu Thảo, cũng như các cô chú, anh chị ở phòng TTQT ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu chi nhánh Hà Nội đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em thực hiện được đề tài này! Danh mục các tài liệu tham khảo 1. Bài viết “Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2000 cho các ngân hàng Việt Nam” website: www.sbv.gov.vn, mục nghiên cứu trao đổi 2. Bài viết: “Nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng trong xu thế hội nhập” website: www.sbv.gov.vn, mục nghiên cứu trao đổi 3. Bài viết: “Ngân hàng trong nước trước thềm hội nhập” website: www.mof.gov.vn. 4. Bài viết: “UCP 600 đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/7/2007” website: www.sbv.gov.vn ,mục nghiên cứu trao đổi. 5. Giáo trình Nghiệp vụ Thanh toán quốc tế Chủ biên: PGS-TS Nguyễn Thị Thu Thảo 6. Kỷ yếu hội thảo khoa học: Chiến lược phát triển dịch vụ Ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 7. Luận văn tốt nghiệp số 43-134 NH/TC “Giải pháp nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam” 8. Nghiệp vụ hối đoái và thanh toán quốc tế PGS-PTS Lê Văn Tề 9. Quản lý chất lượng toàn diện: con đường cải tiến và thành công Nguyễn Song Bình, Trần Thị Thu Hà 10. Thanh toán quốc tế và hối đoái: các nguyên tắc và thực hành Dương Hữu Hạnh 11. website: www.vcb.com.vn 12. website: www.eximbank.com.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31829.doc
Tài liệu liên quan