Thực trạng chất lượng sản phẩm dệt may của các Doanh nghiệp Tập đoàn Dệt May Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Trong môi trường phát triển kinh tế hội nhập hiện nay, môi trường kinh doanh đầy biến động không ngừng, diễn biến phức tạp và đầy rủi ro, áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt. Đó là thách thức to lớn cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói riêng. Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước với sự tham gia của nhiều thành phần kin

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1600 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng chất lượng sản phẩm dệt may của các Doanh nghiệp Tập đoàn Dệt May Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế khác nhau. Tuy vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, ngành dệt may đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Pakixtan, Hàn Quốc.... Đặc biệt, từ 1/1/2006, thuế xuất nhập khẩu hàng dệt may từ các nước Asean vào Việt Nam sẽ giảm từ 40-50% như hiện nay xuống tối đa còn 5% nên hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập từ các nước trong khu vực. Vũ khí cạnh tranh của các doanh nghiệp Dệt may hiện nay là: chất lượng, giá cả, và thời gian. Trong đó, chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Cần phải khẳng định chất lượng được coi là vũ khí cạnh tranh của các doanh nghiệp trong xu thế toàn cầu hoá. Chất lượng đem lại thương hiệu và giúp thương hiệu Việt Nam thâm nhập và khẳng định được mình trên thị trường thế giới. Chất lượng hiện nay không đơn giản chỉ là một sản phẩm hoàn thiện, đầy đủ chức năng, đẹp, đáp ứng được mọi yêu cầu kỹ thuật, mà là độ thoả mãn của khách hàng. Vì thế chất lượng được coi trọng ở tất cả các khâu từ thiết kế, sản xuất đến phân phối. Từ những lý do trên, em xin chọn đề tài: “Thực trạng chất lượng sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp Tập đoàn Dệt May Việt Nam” làm đề tài đề án của mình. NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM 1.1. Khái niệm chất lượng sản phẩm Khái niệm chất lượng sản phẩm đã xuất hiện từ lâu, ngày nay được sử dụng phổ biến và thông dụng hằng ngày trong ngày cuộc sống cũng như trong sách báo. Và cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau, mỗi cách tiếp cận hình thành một cách hiểu về chất lượng sản phẩm - Quan niệm siêu việt: Chất lượng là sự tuyệt vời, hoàn hảo nhất về sản phẩm; - Quan niệm xuất phát từ sản phẩm: Chất lượng là tập hợp các thuộc tính vốn có, phản ánh giá trị sử dụng của sản phẩm; - Quan niệm xuất phát từ sản xuất: Chất lượng là sự phù hợp của một sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu, tiêu chuẩn, quy cách được xác định trước; - Quan điểm xuất phát từ giá trị: Chất lượng là cung cấp những sản phẩm với mức giá có thể chấp nhận được; - Quan điểm xuất phát từ người tiêu dùng: Chất lượng là sự đáp ứng (và vượt) yêu cầu của khách hàng; - Để giúp cho hoạt động quản lý chất lượng trong các Doanh nghiệp được thống nhất, dễ dàng, Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO) trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000 đã đưa ra định nghĩa chất lượng: “Chất lượng là mức độ thoả mãn của một tập hợp các thuộc tính đối với các yêu cầu”. Yêu cầu có nghĩa là những nhu cầu hay mong đợi được nêu ra hay tiềm ẩn. Định nghĩa chất lượng trong ISO 9000 là thể hiện sự thống nhất giữa các thuộc tính nội tại khách quan của sản phẩm với đáp ứng nhu cầu chủ quan của khách hàng; Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chất lượng sản phẩm nhưng tựu chung lại thì chúng phải bao gồm những khía cạnh sau: - Chất lượng sản phẩm phải là một tập hợp các chỉ tiêu, những đặc trưng thể hiện tính năng kỹ thuật nói lên tính hữu ích của sản phẩm; - Chất lượng sản phẩm phải thể hiện trong tiêu dùng và cần xem xét sản phẩm thoả mãn tới mức nào yêu cầu của thị trường; - Chất lượng sản phẩm phải gắn liền với điều kiện cụ thể của nhu cầu thij trường về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội và phong tục. Phong tục tập quán của một cộng đồng có thể phủ nhận hoàn toàn những thứ mà thông thường ta cho là “có chất lượng”, có tính hữu ích cao. 1.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm được đánh giá thông qua các chỉ tiêu, các thông số kinh tế- kỹ thuật cụ thể. Với mỗi sản phẩm cụ thể vai trò của các nhóm chỉ tiêu trong đánh giá chất lượng là khác nhau. Vì vậy đánh giá chất lượng phải sử dụng phạm trù sức nặng để phân biệt vai trò của từng chỉ tiêu đối với chất lượng sản phẩm Những chỉ tiêu chung nhất phản ánh chất lượng sản phẩm gồm: - Các thuộc tính kỹ thuật: phản ánh công dụng chức năng của sản phẩm. Nhóm này đặc trưng cho các thuộc tính xác định chức năng tác dụng chủ yếu của sản phẩm được quy định bởi các chỉ tiêu kết cấu vật chất, thành phần cấu tạo về đặc tính cơ, lý, hoá của sản phẩm. Các yếu tố này được thiết kế theo những tổ hợp khác nhau tạo ra chức năng đặc trưng cho sản phẩm và hiệu quả của quá trình sử dụng sản phẩm đó; - Các yếu tố thẩm mỹ: đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hợp lý về hình thức, dáng vẻ, kết cấu, kích thước, sự hoàn thiện tính cân đối, màu sắc, trang tri, tính thời trang; -Tuổi thọ của sản phẩm: Đây là yếu tố đặc trưng cho tính chất của sản phẩm giữ được khả năng làm việc bình thường theo đúng tiêu chuẩn thiết kế trong một thời gian nhất định trên cơ sở đảm bảo đúng các yêu cầu về mục đích, điều kiện sử dụng và chế độ bảo dưỡng quy định. Tuổi thọ là một yếu tố quan trọng trong quyết định lựa chọn mua hàng của người tiêu dùng; - Độ tin cậy của sản phẩm: Độ tin cậy được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất phản ánh chất lượng của một sản phẩm và đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng duy trì và phát triển thị trường mình; - Độ an toàn của sản phẩm: những chỉ tiêu an toàn trong sử dụng, vận hành sản phẩm, an toàn đối với sức khoẻ người tiêu dùng và môi trường là yếu tố tất yếu, bắt buộc phải có đối với mỗi yếu tố sản phẩm trong điều kiện tiêu dùng hiện nay. Khi thiết kế sản phẩm phải luôn coi đây là tiêu chí cơ bản không thể thiếu được của sản phẩm; - Mức độ gây ô nhiễm của sản phẩm: cũng giống như độ can toàn, mức độ gây ô nhiễm được coi là một yếu tố bắt buộc các nhà sản xuất phải tuân thủ khi đưa sản phẩm của mình ra thị trường; - Tính tiện dụng: phản ánh những đòi hỏi về tính sẵn có, tính dễ vận chuyển, bảo quản, dễ sử dụng của sản phẩm và khả năng thay thế khi có những bộ phận bị hỏng; - Tính kinh tế của sản phẩm: đây là yếu tố quan trọng đối với những sản phẩm khi sử dụng có tiêu hao nguyên liệu, năng lượng. Tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng trong sử dụng trở thành một trong những yếu tố quan trọng phản ánh chất lượng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường; Ngoài ra những dịch vụ đi kèm sản phẩm, đặc biệt là dịch vụ sau khi bán đang trở thành một trong những tiêu chí quan trọng trong thành phần chất lượng sản phẩm. Trong nhiều trường hợp chúng đóng vai trò cơ bản cho sự thành công của doanh nghiệp trên thị trường. Tên, nhãn hiệu, danh tiếng, uy tín của sản phẩm cũng được coi như yếu tố chất lượng vô hình tác động lên tâm lý lựa chọn của khách hàng, thu hút sự chú ý và kích thích ham muốn mua hàng của họ. 1.3. Các yêu cầu và đặc điếm của chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm chính là kết quả của sự phối hợp thống nhất giữa lao động với các yếu tố công nghệ, kỹ thuật, kinh tế và văn hoá xã hội. Bao hàm trong chất lượng là một tập hợp các thuộc tính thể hiện thông qua các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật đặc trưng phù hợp với môi trường xã hội và trình độ phát triển trong từng thời kỳ; Sản phẩm khi đưa ra thị trường, trở thành hàng hoá phải thoả mãn được khách hàng về cả hai mặt giá trị sử dụng và giá trị. Xuất phát từ bản chất sản phẩm luôn có hai đặc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng phản ánh công dụng cụ thể của sản phẩm và chính công dụng này làm nên tính hữu ích của nó. Và khi nói đến chất lượng sản phẩm không thể chỉ nói đến giá trị sử dụng của sản phẩm mà phải đề cập đến cả mặt giá trị và các dịch vụ khác có liên quan trực tiếp đến sản phẩm, thoả mãn được yêu cầu của khách hàng về mặt kinh tế; Chất lượng sản phẩm phải được hình thành trong tất cả mọi hoạt động, mọi quá trình tạo ra sản phẩm. Chất lượng sản phẩm phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ , thống nhất giữa các quá trình trước, trong và sau sản xuất: nghiên cứu thiết kế, chuẩn bị sản xuất, sản xuất và sử dụng sản phẩm. Phải đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và công nghệ liên quan đến mọi hoạt động trong toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất- kinh doanh. Các yếu tố tác động đến chất lượng mang tính nhiều vẻ, có yếu tố bên trong và bên ngoài, có yếu tố trực tiếp và yếu tố gián tiếp, nguyên nhân và kết quả; Chất lượng sản phẩm có tính tương đối cần được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với thời gian và không gian. Chất lượng sản phẩm không ở trạng thái cố định, mà thay đổi theo từng thời kì phụ thuộc vào sự biến động của các yếu tố sản xuất của khoa học- công nghê, tiến bộ kỹ thuật và yêu cầu của từng thị trường. Trên những thị trường khác nhau có những yêu cầu chất lượng khác nhau đối với cùng một loại sản phẩm. Chất lượng sản phẩm cần phải xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với điều kiện và môi trường kinh doanh, tình hình và khả năng phát triển kinh tế xã hội và công nghệ trong mỗi thời kỳ và của từng nước, từng khu vực thị trường cụ thể; Chất lượng được đánh giá trên cả hai mặt chủ quan và khách quan. Tính chủ quan của chất lượng thể hiện thông qua chất lượng trong sự phù hợp hay còn gọi chất lượng thiết kế. Đó là mức độ phù hợp của thiết kế đối với nhu cầu của khách hàng. Nó phản ánh nhận thức của khách hàng về chất lượng sản phẩm. Nâng cao loại chất lượng này có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ của sản phẩm. Tính khách quan thể hiện thông qua các thuộc tính vốn có trong từng sản phẩm. Nhờ tính khách quan này chất lượng có thể đánh giá thông qua các tiêu chuẩn, chỉ tiêu cụ thể. Tính khách quan của chất lượng thông qua chất lượng tuân thủ thiết kế. Đó là mức độ phù hợp của các đặc tính chất lượng sản phẩm so với tiêu chuẩn thiết kế đặt ra. Loại chất lượng này phụ thuộc chặt chẽ vào tính chất đặc điểm và trình độ công nghệ và trình độ tổ chức quản lý, sản xuất của các doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng loại này giúp các doanh nghiệp giảm chi phí chất lượng; Chất lượng sản phẩm chỉ thể hiện đúng trông những điều kiện tiêu dùng xác định phù hợp với mục đích tiêu dùng cụ thể. Không thể có chất lượng chung cho tất cả mọi điều kiện, mọi đối tượng. Đặc điểm này đòi hỏi việc cung cấp những thông tin cần thiết về sản phẩm cho người tiêu dùng là một trong những yêu cầu không thể thiếu được đối với các nhà sản xuất. 1.4. Vai trò của chất lượng sản phẩm Trong môi trường phát triển kinh tế hội nhập ngày nay, cạnh tranh trở thành một yếu tố mang tính quốc tế đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của mỗi doanh nghiệp. Tình hình đó đặt ra những thách thức to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tham gia thị trường thế giới. Chất lượng sản phẩm sẽ là yếu tố đầu tiên quan trọng nhất cho sự tham gia của sản phẩm Việt Nam vào thị trường quốc tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta; Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nâng cao đời sống và phát triển sản xuất kinh doanh. Chất lượng sản phẩm tạo ra sức hấp dẫn thu hút người mua. Mỗi sản phẩm có rất nhiều thuộc tính khác nhau. Khách hàng quyết định lựa chọn mua những sản phẩm có thuộc tính phù hợp với nhu cầu và khả năng, điều kiện sử dụng của mình. Họ so sánh các sản phẩm cùng loại và lựa chọn loại hàng nào có tính kinh tế- kỹ thuật thoả mãn những mong đợi của họ ở mức cao hơn; Khi sản phẩm có chất lượng cao, ổn định, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng sẽ tạo ra một biểu tượng tốt, tạo ra niềm tin cho khách hàng vào nhãn mác của sản phẩm. Nhờ đó uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp được nâng cao có tác động lớn đến quyết định lựa chọn mua hàng của khách hàng. Nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường nhờ chất lượng cao là cơ sở cho khả năng duy trì và mở rộng thị trường, tạo sự phát triển lâu dài cho doanh nghiệp; Chất lượng sản phẩm là chỉ tiêu tổng hợp và đánh giá năng lực của tiến bộ khoa học- công nghệ, năng suất lao động, tổ chức quản lý. Trong nhiều trường hợp nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa tương đương với tăng năng suất lao động xã hội. Giá trị sử dụng, lợi ích kinh tế- xã hội trên một đơn vị chi phí đầu vào tăng lên, tiết kiệm các nguồn lực cho sản xuất, tăng doanh thu và lợi nhuận, trên cơ sở đó đảm bảo kết hợp thống nhất các loại lợi ích trong doanh nghiệp và xã hội, tạo động lực phát triển cho mỗi doanh nghiệp; Nâng cao chất lượng còn giúp cho người tiêu dùng tiết kiệm được thời gian và sức lực khi sử dụng sản phẩm do các doanh nghiệp cung cấp. Nó tạo cho người tiêu dùng những tiện lợi hơn và đáp ứng nhanh hơn, đầy đủ hơn. Suy cho cùng đó là những lợi ích mà mục tiêu của việc sản xuất và cung cấp sản phẩm đưa lại cho con người. Bởi vậy, chất lượng đã và luôn là yếu tố quan trọng số một đối với các doanh nghiệp và người tiêu dùng; Nâng cao chất lượng là giải pháp quan trọng tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận, trên cơ sở đó đảm bảo kết hợp thống nhất các loại lợi ích trong doanh nghiệp và xã hội, tạo động lực phát triển cho mỗi doanh nghiệp. Nhờ đảm bảo, duy trì và nâng cao chất lượng, các doanh nghiệp, chủ sở hữu, người lao động, người tiêu dùng và toàn xã hôị đều thu được những lợi ích thiết thực. Doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh, phát triển thị trường, mở rộng sản xuất, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động, người tiêu dùng thoả mãn nhu cầu với chi phí hợp lý, chủ sở hữu có nguồn thu tăng và cuối cùng là Nhà nước tăng ngân sách và giải quyế những vấn đề xã hội; Tóm lại nâng cao chất lượng sản phẩm là cơ sở quan trọng cho việc đảy mạnh quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế và mở rộng trao đổi thương mại quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam. Chất lượng sản phẩm có ý nghĩa đến nâng cao khả năng cạnh tranh, khẳng định vị thế của sản phẩm hàng hoá Việt Nam và sức mạnh kinh tế của đất nước trên thị trường thế giới. 1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm được tạo ra trong toàn bộ chu kỳ của sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, bắt đầu từ khâu thiết kế sản phẩm tới các khâu tổ chức mua sắm nguyên vật liệu triển khai quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm chịu tác động của rất nhiều các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh bên ngoài và những nhân tố bên trong của doanh nghiệp. Các nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ ràng buộc với nhau, tạo ra tác động tổng hợp đến chất lượng sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra 1.5.1. Những nhân tố môi trường bên ngoài 1.5.1.1. Tình hình phát triển kinh tế thế giới Xu hướng toàn cầu hoá với sự tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới của mọi quốc gia- đẩy mạnh tự do thương mại quốc tế; Sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học- công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin đã thay đổi nhiều cách tư duy cũ và đòi hỏi các doanh nghiệp phải có khả năng thích ứng; Cạnh tranh gay gắt cùng với sự bão hoà của thị trường. Vai trò của các lợi thế về năng suất chất lượng đang trở thành hàng đầu. 1.5.1.2. Tình hình thị trường Đây là nhân tố quan trọng nhất, là xuất phát điểm, tạo lực hút định hướng cho sự phát triển chất lượng sản phẩm. Sản phẩm chỉ có thể tồn tại khi nó đáp ứng được những mong đợi của khách hàng. Xu hướng phát triển và hoàn thiện chất lượng sản phẩm phụ thuộc chủ yếu vào đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu trên thị trường. Nhu cầu càng phong phú đa dạng và thay đổi nhanh càng cần hoàn thiện chất lượng để thích ứng kịp thời đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng. 1.5.1.3. Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ Tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra khả năng không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Tác động của tiến bộ khoa học công nghệ là không giới hạn, nhờ đó mà sản phẩm sản xuất ra luôn có các thuộc tính chất lượng với những chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật ngày càng hoàn thiện, mức thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng ngày càng tốt hơn. 1.5.1.4. Cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của các quốc gia Cơ chế quản lý kinh tế tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư nghiên cứu nhu cầu, thiết kế sản phẩm. Nó cũng tạo ra sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua cơ chế khuyến khích cạnh tranh, bắt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao tính tự chủ sáng tạo trong cải tiến chất lượng. Mặt khác cơ chế quản lý kinh tế còn là môi trường lành mạnh, công bằng, đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp sản xuất đầu tư, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực đảm bảo chất lượng sản phẩm. 1.5.1.5. Các yêu cầu về văn hoá, xã hội Những yêu cầu về văn hoá, đạo đức, xã hội và tập tục truyền thống, thói quen tiêu dùng có ảnh hưởng trực tiếp tới các thuộc tính chất lượng của sản phẩm, đồng thời có ảnh hưởng gián tiếp thông qua các quy định bắt buộc mỗi sản phẩm phải thoả mãn những đòi hỏi phù hợp với truyền thống, văn hoá, đạo đức, xã hội của cộng đồng xã hội. Những đặc tính chất lượng sản phẩm chỉ thoả mãn toàn bộ những nhu cầu các nhân nếu nó không ảnh hưởng tới lợi ích của xã hội. 1.5.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp 1.5.2.1. Lực lượng lao động trong doanh nghiệp Chất lượng không chỉ thoả mãn nhu cầu khách hàng bên ngoài mà còn phải thoả mãn nhu cầu khách hàng bên trong doanh nghiệp. Con người là nhân tố trực tiếp tạo ra và quyết định đến chất lượng sản phẩm. Cùng với công nghệ con người giúp doanh nghiệp đạt chất lượng cao trên cơ sở giảm chi phí. Chất lượng phụ thuộc lớn vào trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm và tinh thần hiệp tác phối hợp giữa mọi thành viên và bộ phận trong doanh nghiệp. Năng lực và tinh thần của đội ngũ lao động, những giá trị chính sách nhân sự đặt ra trong mỗi doanh nghiệp có tác động sâu sắc toàn diện đến hình thành chất lượng sản phẩm tạo ra. 1.5.2.2. Khả năng về máy móc thiết bị, công nghệ hiện có của doanh nghiệp Mỗi doanh nghiệp tiến hành hoạt động trong những điều kiện xác định về công nghệ. Trình độ hiện đại về máy móc thiết bị và quy trình công nghệ của doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm, đặc biệt những doanh nghiệp tự động hoá cao, có dây chuyền sản xuất hàng loạt. Cơ cấu công nghệ, thiết bị của doanh nghiệp và khả năng bố trí phối hợp máy móc thiết bị, phương tiện sản xuất ảnh hưởng lớn đến chất lượng các hoạt động, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. 1.5.2.3. Nguyên vật liệu và hệ thống cung ứng nguyên vật liệu của doanh nghiệp Nguyên vật liệu là một trong những yếu tố đầu vào cấu thành sản phẩm và hình thành các thuộc tính chất lượng. Đặc điểm và chất lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm.Mỗi loại nguyên vật liệu khác nhau sẽ hình thành những đặc tính chất lượng khác nhau. Tính đồng nhất và tiêu chuẩn hoá của nguyên liệu là cơ sở quan trọng cho ổn định chất lượng sản phẩm. 1.5.2.4. Trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp Chất lượng của hoạt động quản lý phản ánh chất lượng hoạt động của doanh nghiệp.Sự phối hợp, khai thác hợp lý giữa các nguồn lực hiện có để tạo ra sản phẩm lại phụ thuộc vào nhận thức, sự hiểu biết về chất lượng và quản lý chất lượng, trình độ xây dựng và chỉ đạo tổ chức thực hiện chương trình, chính sách mục tiêu kê hoạch chất lượng của các bộ phận quản lý doanh nghiệp. 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM DỆT MAY CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC TẬP ĐOÀN DỆT MAY VIỆT NAM LÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM 2.1. Thực trạng chất lượng sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam 2.1.1. Đánh giá khái quát thực trạng chất lượng sản phẩm 2.1.1.1. Vài nét khái quát về Tập đoàn Dệt May Việt Nam Tên công ty : Tập đoàn Dệt-May Việt Nam Tên công ty viết tắt : Vinatex Điện thoại : 84-04-8257700 Fax : 84-04-8262269 Email : vinatexhn@vinatex.com.vn Website : www.vinatex.com.vn Địa chỉ : 25 Bà Triệu, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam Tỉnh/Thành phố : Hà Nội Ngành nghề : DệtMay-ThờiTrang » Dệt may-Thời trang Loại hình thương mại: - Công nghiệp dệt may: sản xuất kinh doanh từ nguyên liệu, vật tư, thiết bị, phụ tùng, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm và các sản phẩm cuối cùng của ngành dệt may; sản xuất kinh doanh hàng dệt may gồm các chủng loại xơ, sợi, vải, hàng may mặc, dệt kim, chỉ khâu, khăn bông, len, thảm, đay tơ, tơ tằm. - Xuất nhập khẩu - Dịch vụ - Kinh doanh thương mại - Kinh doanh siêu thị các sản phẩm dệt may và các sản phẩm tiêu dùng khác - Kinh doanh tài chính: hoạt động trung gian tài chính, đầu tư tài chính, dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm,... - Đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp và đô thị - Các ngành nghề khác theo quy định của pháp luật. Thông tin công ty : Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam (Vinatex ) được thành lập là một khối liên kết giữa các xí nghiệp trung ương của Nhà Nước trong lĩnh vực dệt may . Vinatex đóng nhiều vai trò khác nhau như : sảnxuất , xuất nhập khẩu và là một mạng lưới tiêu thụ bán buôn hay bán lẻ hàng dệt Nhiệm vụ chính - Ðầu tư, sản xuất, cung cấp, phân phối, nhập khẩu xuất khẩu trên lĩnh vực dệt may. Thành lập liên doanh và hợp đồng thương mại với các công ty trong và ngoài nước; - Phát triển và mở rộng thị trường trong và ngoài nước cũng như phân công các công ty thành viên thâm nhập các thị trường tiềm năng; -Nghiên cứu, chỉ đạo và áp dụng công nghệ phát triễn mới nhất, cải tiến thiết bị theo chiến lược phát triển; - Ðào tạo và mở các lớp chuyên sâu cho cán bộ quản lý,cán bộ kỹ thuật cũng như đào tạo tay nghề cho công nhân. 2.1.1.2. Các tiêu chuẩn sản phẩm dệt may Việt Nam theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 - Yêu cầu về sử dụng: phù hợp với mục đích và thời hạn sử dụng cả về hao mòn vật lý và hao mòn vô hình. Để thoả mãn yêu cầu này cần phải lựa chọn nguyên vật liệu may các vật liệu lót, đệm, chỉ, phụ liệu cho phù hợp. - Yêu cầu về vệ sinh: đòi hỏi các sp phải đảm bảo được sự hoạt động bình thường của cơ thể trong quá trình sử dụng, quần áo phải có khả năng bảo vệ được cơ thể, chống lại được các tác động của môi trường. Đồng thời không được gây độc hại cho cơ thể do những hoá chất được sử dụng trong quá trình giặt, tẩy… - Yêu cầu đối với gia công: yêu cầu về kích cỡ, đường may, mũi chỉ… - Yêu cầu về chỉnh lý: các chế độ giặt, ủi, hoàn chỉnh, bao gói, nhãn hiệu, bảo quản. - Yêu cầu về thẩm mỹ: mức độ phong phú về kiểu dáng, màu sắc, tính thời trang, độc đáo của sản phẩm, kỹ năng sáng tạo của các nhà thiết kế mốt thời trang. - Yêu cầu về tính kinh tế của sản phẩm: các loại chi phí cần thiết, giá thành sản phẩm, khả năng cạnh tranh về giá trên thị trường. - Yêu cầu về dịch vụ: hoạt động giới thiệu sản phẩm, trình diễn sản phẩm mới, hướng dẫn thị hiếu tiêu dùng, các dịch vụ bán và sau bán hàng. - Yêu cầu về cơ lý hoá đối với nguyên phụ liệu (NPL): để đảm bảo chất lượng sản phẩm, việc kiểm soát chất lượng NPL là khâu quan trọng và phải đặt ngay từ khâu đặt hàng, khi giao nhận, bảo quản. Các chỉ tiêu chính cần kiểm tra là những chỉ tiêu về độ bền, bền màu, chỉ số sợi các vật liệu dùng làm bao bì sản phẩm, thành phần các loại thuốc nhuộm, chất tẩy…được sử dụng trong suốt chu kì sống và sau khi thải bỏ sản phẩm. 2.1.1.3. Thực trạng chất lượng sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam Nhu cầu về sản phẩm Dệt may ngày càng tăng lên theo mức độ tăng thu nhập của người dân. Khi thu nhập đủ cao để đáp ứng mọi nhu cầu thiết yếu của con người thì hàng Dệt may không chỉ đơn thuần để đáp ứng nhu cầu mặc, mà còn để đáp ứng nhu cầu về thời trang, nhu cầu được mặc đẹp của mọi người. Như vậy, khi đời sống của cư dân ngày càng được nâng cao thì nhu cầu về sản phẩm dệt may càng nhiều, đặc biệt là sản phẩm có chất lượng cao. Điều đó đòi hỏi ngành Dệt may phải không ngừng đổi mới, đồng thời thúc đẩy ngành phát triển không ngừng. Chất lượng là tổng hợp của nhiều yếu tố, nhiều thành phần, nhiều bộ phận hợp thành, chất lượng được hình thành trong tất cả các công đoạn của quá trình. Vì vậy, nó cần phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ giữa quá trình trước, trong và sau sản xuất. Bán thành phẩm ở phân xưởng cắt là công đoạn đầu tiên trong toàn bộ chu trình may, chất lượng của nó đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng tới tiến độ, chất lượng của các công đoạn sau này. Vì vậy, tại phân xưởng cắt phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng thành phẩm tại phân xưởng may. Quy trình này hằng năm đều được đánh giá lại. Nhờ đó mà chất lượng của bán thành phẩm của phân xưởng cắt nói riêng và chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp nói chung có những thay đổi đáng kể. Những sai hỏng bao gồm ở các chi tiết, các lỗi sai chủ yếu như cắt sai, lấm vải, phai màu, rơi vãi chi tiết,…Sản phẩm sai hỏng đem sửa chữa được chiếm tỷ lệ lớn, phế phẩm vẫn tồn tại nhưng chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng số bán thành phẩm sản xuất ra trong năm. Bảng số 1: Tình hình chất lượng bán thành phẩm ở phân xưởng cắt Đơn vị: nghìn sản phẩm Năm Sửa chữa được Phế phẩm Tỷ lệ phế phẩm/Tổng số sản phẩm sản xuất ra (%) 2005 775 40 0.12 2006 570 26 0.08 2007 436 11 0.03 2008 402 10 0.022 2009 386 5 0.012 (Nguồn: ??????????????????????????????????????? Phân xưởng may là nơi sản xuất chính của công ty. Tại đây sản phẩm hoàn chỉnh sẽ được tạo ra. Mỗi sản phẩm tạo ra là kết quả của nhiều công đoạn, chất lượng của công đoạn trước ảnh hưởng tới chất lượng của công đoạn sau, người công nhân làm không đúng yêu cầu kỹ thuật thì buộc phải tháo ra làm lại cho đến khi đúng mới được chuyển sang công đoạn tiếp theo để tránh xảy ra tình trạng lọt sản phẩm lỗi, sai hỏng tới tay khách hàng. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ tái chế đã giảm đáng kể qua các năm. Tỉ lệ phế phẩm trên tổng số sản phẩm sản xuất ra năm 2005 là 0.12% thì đến năm 2009 tỷ lệ này chỉ còn 0.012%, phế phẩm cũng giảm đáng kể với năm 2008 là 10 thì đến năm 2009 tỉ lệ này chỉ còn một nửa là 5 phế phẩm. Điều đó cho thấy chất lượng thành phẩm tại phân xưởng may đã có những bước tiến lớn trong quản lý, trình độ công nhân và có sự đầu tư máy móc có hiệu quả, đặc biệt là nhận thức về chất lượng. Tình hình chất lượng thành phẩm ở phân xưởng may Năm Tỷ lệ tái chế nội bộ (%) 2005 5.4 2006 4.9 2007 4.2 2008 3.8 2009 3.1 (Nguồn:?????????????????????????????????? Chất lượng thành phẩm ở phân xưởng may còn được đánh giá thông qua ý kiến phản hồi của khách hàng như yêu cầu sửa chữa lại. Trong các năm qua thì tỷ lệ sản phẩm lỗi bị khách hàng trả lại đã giảm đáng kể (giảm gần 2 lần từ năm 2005 là 5.4% đến năm 2009 là 3.1%) làm tăng uy tín của các doanh nghiệp, thể hiện ngày càng có nhiều đơn hàng được ký kết và có nhiều khách hàng mới. Hàng dệt may Việt Nam khá đa dạng, phong phú từ sản phẩm dành cho quý ông như sơ mi, áo thun, quần âu, quần kaki, quần jeans… đến các nhóm hàng của quý cô, quý bà: hàng công sở, đồ mặc nhà… và nhất là nhóm của trẻ em từ tuổi teen đến sơ sinh… tạo nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng. Một số doanh nghiệp hàng đầu ngành dệt may như Việt Tiến, may 19, Nhà Bè, Phương Đông, Dệt may Hà Nội, May 10, Phong Phú, Sài Gòn 2, Sanding, Legafashion... đều đang tập trung mạnh mẽ cho công tác thiết kế mẫu, với việc mỗi doanh nghiệp thu hút hàng chục nhà thiết kế mẫu vào làm việc với những điều kiện khá ưu đãi. Nhờ đó chất lượng sản phẩm trong từng doanh nghiệp liên tục được nâng cao hơn và cụ thể như: Kết quả về chất lượng sản phẩm công ty cổ phần may 19 Thực trạng chất lượng bán thành phẩm ở phân xưởng cắt Công đoạn cắt đóng vai trò quyết định tiến độ, chất lượng sản phẩm ở các công đoạn tiếp theo. Ở phân xưởng này có các sai hỏng thường gặp như cắt sai, lầm vải, phai màu….. Qua bảng số liệu dưới ta thấy: chất lượng bán thành phẩm ở khâu cắt ngày càng được nâng cao thể hiện qua các năm số lượng bán thành phẩm sai hỏng giảm rõ rệt. Trong đó sản phẩm hỏng sửa chữa được chiếm tỷ lệ lớn, phế phẩm vẫn tồn tại nhưng chiếm tỷ lệ không đáng kể. Năm 2005 có 11387 bán thành phẩm sai hỏng trong đó 10267 chi tiết sửa chữa được và 1120 phế phẩm (chiếm 0.1% trên tổng số bán thành phẩm sản xuất ra trong năm). Đến năm 2007 có 3769 sản phẩm hỏng nhưng chỉ có 82 phế phẩm chiếm 0.003% tổng số bán thành phẩm sản xuất ra trong năm. Dưới đây là bảng số liệu về tình hình chất lượng sản phẩm ở xí nghiệp cắt trong một vài năm gần đây: (nguồn xí nghiệp cắt) Năm Chỉ tiêu S/P hỏng S/P hỏng sửa được phế phẩm tỷ lệ phế phẩm/ tổng số bán thành phẩm sản xuất ra 2005 11387 10267 1120 0.1 2006 9628 8631 997 0.05 2007 6213 5824 389 0.025 2008 4862 4679 183 0.008 2009 3769 3687 82 0.003 %2005/2005 84.55 84.07 89.02 - %2006/2006 64.53 67.48 39.02 - %2008/2007 78.26 80.34 47.04 - %2009/2008 77.52 78.8 44.81 - Như vậy, nhờ áp dụng hệ thống quản trị chất lượng, công tác kiểm tra thường được tiến hành một cách thường xuyên và ngay từ những công đoạn đầu cho nên chất lượng bán thành phẩm tăng lên rõ rệtgóp phần tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, giảm chi phí phế phẩm. Bên cạnh đó vẫn tồn tại bán thành phẩm không đạt yêu cầu được chuyển đến xí nghiệp maylàm mất thời gian và chi phí không đáng có để xử lý. Vì vậy công tác kiểm tra chất lượng và tự kiểm tra chất lượng cần được nâng cao hơn nữa. Thực trạng chất lượng sản phẩm ở xí nghiệp may Xí nghiệp may là nơi sản xuất chính của công ty, tại đây sản phẩm hoàn chỉnh sẽ được tạo ra và mỗi sản phẩm là kết quả của nhiều công đoạn, chất lượng của công đoạn trước sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của công đoạn sau, người công nhân làm đúng yêu cầu kĩ thuật thì buộc phải làm lại cho đến khi đúng thì mới chuyển sang công đoạn kế tiếp tránh tình trạng lọt sản phẩm lỗi, sai hỏng tới tay khách hàng Chất lượng sản phẩm còn được phản ánh thông qua ý kiến phản hồi của khách hàng như yêu cầu sửa chữa lại, sản phẩm bị trả lại. Sản phẩm lỗi bị khách hàng trả lại năm tỷ lệ sản phẩm lỗi bị khách hàng trả lại 2005 0.25 2006 0.2 2007 0.15 2008 0.1 2009 0.05 (nguồn phòng kinh doanh) Theo bảng trên ta thấy, những năm qua tỷ lệ sản phẩm lỗi bị khách hàng trả lại liên tục giảm, năm 2009 giảm 5 lần so với năm 2005 . Điều này đã làm tăng uy tín của công ty, ngày càng có nhiều đơn đặt hàng được ký kết và có nhiều khách hàng mới tìm đến với công ty Kết quả chất lượng sản phẩm ở công ty cổ phần may 10 Bảng số 1: Tình hình chất lượng bán thành phẩm ở phân xưởng cắt Đơn vị: nghìn sản phẩm Năm Sửa chữa được Phế phẩm Tỷ lệ phế phẩm/Tổng số sản phẩm sản xuất ra (%) 2005 800 64 0.08 2006 590 36 0.06 2007 433 22 0.05 2008 374 7 0.018 2009 369 5 0.013 Nguồn :???????????????????????????????????????????? Ban đầu, sản phẩm của May 10 chỉ là những sản phẩm quân trang, phục vụ cho quân đội v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26469.doc